Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Chức năng kinh tế của nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.15 MB, 103 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
*




TRỊNH THỊ TUYẾT MAI




CHỨC NĂNG KINH TẾ CỦA NHÀ NƯỚC
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY


Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số : 60 38 01




LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Bùi Xuân Đức




Hà Nội – 2009

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
*




Trịnh Thị Tuyết Mai





CHỨC NĂNG KINH TẾ CỦA NHÀ NƯỚC
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY






LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC








Hà Nội - 2009

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




Trịnh Thị Tuyết Mai




CHỨC NĂNG KINH TẾ CỦA NHÀ NƯỚC
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY





Chuyên ngành: Lý luận và Lịch sử Nhà nước và pháp luật
Mã số : 60 38 01






TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ





Hà Nội - 2009

1
MỞ ĐẦU


1. Tính cấp thiết của đề tài.
Phát triển kinh tế hàng hóa theo cơ chế thị trường là xu thế tất yếu của
quá trình đổi mới kinh tế - xã hội. Thực tế cho thấy không có nền kinh tế của
quốc gia nào được phát triển mà không có sự quản lý, điều tiết và can thiệp từ
phía Nhà nước. Chính vì vậy, vị trí, vai trò của Nhà nước ngày càng trở nên
quan trọng và không thể thay thế trong sự phát triển của xã hội, đặc biệt là từ
sau nhận thức về Nhà nước trong điều kiện của nền kinh tế thị trường.
Ở nước ta, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (tháng 12/1986) đã tạo ra
những bước ngoặt quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất
nước. Với tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự
thật”, Đảng ta đã nghiêm khắc kiểm điểm quá trình lãnh đạo, khẳng định
những ưu, khuyết điểm, chỉ ra nguyên nhân của sai lầm và đề ra đường lối đổi
mới toàn diện đất nước. Đường lối đổi mới của Đảng đã thừa nhận sự tồn tại
của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa đi đôi với tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý
của Nhà nước.
Thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà nước đã ban hành hàng loạt các
chính sách, hệ thống các văn bản pháp luật để dần dần hoàn thiện cơ chế quản

lý nền kinh tế trong thời kỳ quá độ. Đó là nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa. Trên cơ sở Hiến pháp 1992, Nhà nước đã có những chính
sách và thể chế hóa bằng hàng loạt bộ luật, luật, pháp lệnh và các văn bản
dưới luật khác nhằm hướng vào việc đảm bảo quyền tài sản của công dân,
quyền tự chủ của các chủ thể kinh doanh, đảm bảo giá cả chủ yếu do thị
trường định đoạt, đảm bảo lấy các tín hiệu thị trường làm căn cứ quan trọng
để phân bổ các nguồn lực cho sản xuất kinh doanh, đảm bảo sự bình đẳng

2
giữa các thành phần kinh tế, khuyến khích các chủ thể kinh doanh tự do tìm
kiếm lợi nhuận hợp pháp.
Quá trình đổi mới thể chế nền kinh tế đã mang lại những thành công to
lớn, Nhà nước đã tác động mạnh mẽ làm chuyển biến về chất đối với nền kinh
tế. Đó là : Tốc độ tăng trưởng kinh tế của đất nước trong những năm đổi mới
luôn có xu hướng gia tăng; cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng hiệu quả
hơn; nền kinh tế đất nước thoát khỏi khủng hoảng; việc làm và đời sống của
nhân dân ngày càng được cải thiện Đường lối đổi mới đó đã được thực hiện,
bổ sung và hoàn thiện dần qua các kỳ Đại hội lần thứ VII (6/1991), VIII
(6/1996), IX (4/2001), X (4/2006) của Đảng. Tuy nhiên, quản lý Nhà nước
trong nền kinh tế nước ta đang nổi lên không ít những vấn đề bức xúc như:
chất lượng tăng trưởng, sức cạnh tranh và quy mô của nền kinh tế còn thấp,
các tiền đề cho phát triển kinh tế xã hội còn thiếu đồng bộ và yếu kém, việc
phát triển kinh tế gắn với việc giải quyết các vấn đề xã hội còn nhiều hạn
chế Tình hình đó đặt ra yêu cầu cần nghiên cứu một cách hệ thống, toàn
diện và đầy đủ về chức năng kinh tế của Nhà nước; xác định một cách có căn
cứ khoa học về nội dung, chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước, các phương
pháp, công cụ quản lý về kinh tế trong mối quan hệ nội tại, khách quan giữa
Nhà nước, thị trường, doanh nghiệp trong tiến trình phát triển kinh tế của đất
nước; nghiên cứu chức năng của Nhà nước trong công cuộc cải cách bộ máy
nhà nước hiện nay để đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu

quả chức năng kinh tế của Nhà nước, tạo điều kiện cho nền kinh tế thị trường
phát triển theo đúng những quy luật vốn có của nó và đáp ứng các mục tiêu
kinh tế, xã hội đã đề ra.
Xuất phát từ nhận thức của bản thân và trước những yêu cầu, đòi hỏi
của lý luận và thực tiễn, tác giả chọn đề tài : “Chức năng kinh tế của Nhà
nƣớc trong nền kinh tế thị trƣờng ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận
văn Thạc sỹ luật học của mình.

3

2. Tình hình nghiên cứu.
Về đề tài liên quan đến chức năng kinh tế của Nhà nước trong nền kinh
tế thị trường đã có nhiều tác giả quan tâm, nghiên cứu. Bằng các cách tiếp cận
khác nhau, các tác giả đã đề cập đến nhiều vấn đề như: “Kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay” - GS.TS Mai Ngọc
Cường, Nxb Chính trị quốc gia, 2001; Đề tài “Quản lý nhà nước trong nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam” do GS.TSKH Lương Xuân
Quỳ chủ nhiệm; “Chức năng kinh tế của Nhà nước - Lý luận và thực tiễn ở
Việt Nam hiện nay” - TS.Trần Thái Dương, Nxb Công an nhân dân, 2003; Đề
tài Luận án Tiến sỹ của nghiên cứu sinh Lê Thu Hằng về “Chức năng xã hội
của Nhà nước CHXHCN Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”; Các tác giả Dư
Văn Việt - Lưu Hướng Dương với đề tài: “Sáu đặc trưng lớn của Chủ nghĩa
xã hội thị trường đương đại”, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh,
2001; PGS.TS Lê Hồng Hạnh và các tác giả với đề tài “Những nền tảng pháp
lý cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam”, Nxb Tư
pháp, 2002; Và một số bài viết trên các tạp chí như: Lê Nguyễn Hương Trinh
- Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường - Tạp chí Triết học, 2003;
TS. Trần Du Lịch - Ưu tiên hoàn thiện pháp luật phù hợp với chức năng quản
lý Nhà nước về kinh tế trong điều kiện vận hành của cơ chế kinh tế thị trường
- Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 15/2008; Vũ Minh Phong - Thế giới đang

biến đổi và tư duy mới về “Bàn tay nhà nước”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp
tháng 1/2009; Phạm Ngọc Quang - Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay - Tạp chí cộng sản
số 8/2009.
Các công trình và bài viết nói trên đã đề cập đến những khía cạnh,
những vấn đề nhất định liên quan đến chức năng của Nhà nước và nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Luận văn sẽ tập trung nghiên cứu

4
một cách hệ thống chức năng kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị
trường ở Việt nam hiện nay. Trong quá trình nghiên cứu, luận văn kế thừa có
chọn lọc kết quả nghiên cứu của các công trình, tài liệu khoa học nói trên và
các tài liệu khác có liên quan.
3. Mục đích nghiên cứu.
Việc nghiên cứu đề tài nhằm mục đích nhận thức rõ hơn về chức năng
kinh tế của Nhà nước; đánh giá thực trạng chức năng kinh tế của Nhà nước
trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, đồng thời đưa
ra những phương hướng, giải pháp góp phần hoàn thiện chức năng kinh tế của
Nhà nước trong giai đoạn hiện nay.
4. Phạm vi nghiên cứu.
Chức năng của Nhà nước là một vấn đề rộng lớn, phức tạp, đòi hỏi
nghiên cứu một cách toàn diện trong cả quá trình phát triển của Nhà nước và
có liên quan đến các phạm trù bản chất, vai trò, nhiệm vụ của Nhà nước trong
lịch sử. Trong khuôn khổ của luận văn thạc sỹ luật học, tác giả tập trung
nghiên cứu về chức năng kinh tế của Nhà nước trong bối cảnh nền kinh tế thị
trường ở Việt Nam hiện nay.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu.
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa
Mác- Lênin, vận dụng tổng hợp các phương pháp duy vật biện chứng, duy vật
lịch sử. Trong quá trình nghiên cứu, luận văn đồng thời sử dụng những

phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Phân tích, tổng hợp, so sánh, tổng kết
thực tiễn, tiếp cận hệ thống, thống kê số liệu
6. Nội dung nghiên cứu.
Luận văn làm sáng tỏ 3 nội dung sau:
- Nghiên cứu khái niệm, nội dung và quá trình phát triển chức năng
kinh tế của Nhà nước.

5
- Đánh giá thực trạng về chức năng kinh tế của Nhà nước trong nền
kinh tế thị trường.
- Đề xuất những phương hướng, giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện chức
năng kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay.
7. Những điểm mới của luận văn.
- Qua phân tích những quan niệm về vai trò kinh tế của Nhà nước,
Luận văn đưa ra khái niệm chức năng kinh tế của Nhà nước; nêu và phân tích
những nội dung chức năng kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường;
trên cơ sở thực trạng thực hiện chức năng kinh tế của Nhà nước, Luận văn đưa
ra những phương hướng, giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện chức năng kinh tế
của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam hiện nay.
- Những kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần vào quá trình
nhận thức và hoạch định các chính sách phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước, đồng thời Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc học
tập và giảng dạy về nhà nước và pháp luật tại các cơ sở đào tạo.
8. Kết cấu của luận văn.
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn gồm có ba chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về chức năng kinh tế của Nhà
nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Chương 2: Thực trạng chức năng kinh tế của Nhà nước trong nền kinh

tế thị trường ở Việt Nam.
Chương 3: Phương hướng, giải pháp hoàn thiện chức năng kinh tế của
Nhà nước trong nền kinh tế thị trường hiện nay.




6
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CHỨC NĂNG KINH TẾ
CỦA NHÀ NƢỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG
ĐỊNH HƢỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA


1.1. Khái niệm chức năng kinh tế của Nhà nƣớc.
1.1.1 Những quan niệm về vai trò kinh tế của Nhà nƣớc.
Nhà nước là một thiết chế đặc biệt của xã hội, có vai trò to lớn trong
việc duy trì và phát triển xã hội loài người. Nhân loại đã và đang tiếp tục
nghiên cứu, tìm hiểu nhằm phát huy hơn nữa vai trò to lớn của Nhà nước
nhằm hướng tới xây dựng một Nhà nước ngày càng phục vụ tốt hơn cho cuộc
sống của con người.
Trong quá trình phát triển nhận thức chung của các quốc gia trên thế
giới về nền kinh tế thị trường hiện đại là nền kinh tế hỗn hợp, trong đó có vai
trò to lớn của Nhà nước. Nhưng để đi đến nhận thức đó, con người đã phải
trải qua bao bước phát triển thăng trầm. Thực tế là Nhà nước trong lịch sử và
ở mỗi quốc gia có quá trình phát triển khác nhau, vì thế vai trò kinh tế của các
Nhà nước ở các nền văn hóa cũng khác nhau. Việc lựa chọn mô hình hợp lý
để thể hiện vai trò đích thực của Nhà nước trong nền kinh tế vẫn luôn là vấn
đề của mọi thời đại và của mọi quốc gia. Trong lịch sử đã từng có hai quan
điểm về vai trò của Nhà nước: Nhà nước có can thiệp vào kinh tế hay không?

Nhà nước can thiệp đến mức độ nào, nghệ thuật sử dụng các công cụ và biện
pháp điều tiết ra sao?
Từ thời cổ đại, vai trò kinh tế của Nhà nước đã được nghiên cứu dưới
nhiều góc độ khác nhau như chính trị học, triết học, luật học thể hiện qua các
quan điểm của các nhà triết học Hy Lạp, La Mã, Trung Quốc như Aritxtốt,
Platôn, Mạnh Tử, Khổng Tử

7
Khi chủ nghĩa tư bản phát triển đến giai đoạn cách mạng tư sản lật đổ
chế độ phong kiến, nhiều lý thuyết kinh tế học chính trị đã đi sâu tìm hiểu về
cơ chế tác dụng của Nhà nước đối với nền kinh tế. Trong đó phải kể đến các
lý thuyết tiểu biểu như: A.Smith về nền kinh tế tự do, lý thuyết của Keynes về
nền kinh tế có sự điều tiết của Nhà nước, lý thuyết của A.Samuelson về nền
kinh tế hỗn hợp.
Đại diện cho trường phái tự do kinh tế, A.Smith (1723 - 1790) chống
lại quan điểm sự can thiệp của Nhà nước vào các quan hệ kinh tế thông qua
biểu tượng “bàn tay vô hình”. Trong tác phẩm “Nghiên cứu về nguyên nhân
và bản chất sự giàu có của dân tộc”, ông cho rằng hoạt động kinh tế của con
người là hoạt động tự do, do “bàn tay vô hình” hay quy luật kinh tế khách
quan chi phối. Nhà nước không can thiệp vào kinh tế mà chỉ có vai trò bảo vệ
quyền sở hữu tư bản, đảm bảo an ninh đối nội, đối ngoại, đồng thời chính
sách kinh tế tốt nhất mà xã hội và Nhà nước cần có là chính sách tự do cạnh
tranh. Tuy nhiên, đôi khi Nhà nước cũng có nhiệm vụ kinh tế nhất định khi
nhiệm vụ đó vượt qua khả năng của các chủ thể tư nhân như làm đường sá,
cải tạo sông ngòi để phát triển kết cấu kinh tế hạ tầng cơ sở. [13]
Chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền, các nhà kinh tế học
trường phái cổ điển mới đều thấy một thực tế là theo đà phát triển của sản
xuất, vai trò của Nhà nước ngày càng mở rộng, đặc biệt trong lĩnh vực ngoại
thương với sự xuất hiện của các tổ chức độc quyền và tái sản xuất sức lao
động thì Nhà nước tư sản càng phải tăng cường sự can thiệp của Nhà nước

vào kinh tế. Tuy nhiên sự điều tiết thụ động của “bàn tay vô hình” trong quá trình
tái sản xuất vẫn đảm bảo được tỷ lệ cân đối và duy trì sự phát triển bình thường.
Vào những thập kỷ đầu của thế kỷ XX, các cuộc khủng hoảng kinh tế
của Chủ nghĩa tư bản nổ ra thường xuyên và có tính chu kỳ đã chứng tỏ “bàn
tay vô hình” không thể đảm bảo cho nền kinh tế tư bản chủ nghĩa phát triển
bình thường. Các nhà kinh tế học tư sản thấy rằng cần phải có một lực lượng

8
nhân danh xã hội can thiệp vào quá trình kinh tế. Từ đó, lý thuyết “chủ nghĩa
tư bản được điều tiết” xuất hiện với sự sáng lập của nhà kinh tế học người
Anh J.M.Keynes (1883 - 1946).
Theo Keynes, Nhà nước cần can thiệp vào kinh tế cả ở mức vi mô lẫn
vĩ mô. Trong tác phẩm “Lý thuyết chung về việc làm, lãi suất và tiền tệ”,
Keynes cho rằng cơ chế thị trường không thể tự đảm bảo cho việc sử dụng
đầy đủ các nhân tố sản xuất. Mọi tệ nạn của chủ nghĩa tư bản như khủng
hoảng, thất nghiệp đều bắt nguồn từ sự không can thiệp của Nhà nước vào
kinh tế. Vì vậy Keynes chủ trương đưa ra chính sách điều chỉnh kinh tế: Nhà
nước phải can thiệp vào quá trình sản xuất, Nhà nước cần nắm vững những
công cụ điều chỉnh vĩ mô quan trọng như tài chính, tín dụng, lưu thông tiền tệ,
thực hiện lạm phát có mức độ, xây dựng hệ thống thuế khóa
Yêu cầu phát triển của sản xuất xã hội hóa cao đòi hỏi Nhà nước phải
can thiệp vào kinh tế. Và sự can thiệp đó sẽ khắc phục được khủng hoảng,
thất nghiệp, tạo môi trường cho sự phát triển kinh tế, xã hội ổn định. Song, sự
can thiệp “quá mạnh” của nhà nước tư sản vào nền kinh tế cũng chỉ làm cho
nền kinh tế ổn định trong một thời gian ngắn. Sau đó những chấn động lớn
vẫn diễn ra và tình trạng thất nghiệp, lạm phát, khủng hoảng kinh tế vẫn lại
càng thêm trầm trọng. Lý thuyết của J.M.Keynes có một hạn chế đó là ông
chưa đánh giá đầy đủ vai trò của cơ chế thị trường. Từ đó đặt ra yêu cầu là
phối hợp sức mạnh của Nhà nước với sức mạnh của cơ chế thị trường để điều
tiết nền kinh tế. Một trong các lý thuyết tư sản phát triển theo hướng này là

chủ nghĩa tự do kinh tế mới ra đời. Nội dung cơ bản của tư tưởng này là sử
dụng cơ chế thị trường có sự can thiệp của Nhà nước ở mức độ nhất định.
Theo họ các vấn đề kinh tế cần phải được giải quyết thông qua hệ thống kinh
tế thị trường là chính, sự can thiệp của Nhà nước chỉ trong chừng mực nào đó
mà thôi và họ đưa ra khẩu hiệu “cạnh tranh thị trường nhiều hơn, Nhà nước
can thiệp ít hơn”.

9
Chủ nghĩa tự do kinh tế mới được thể hiện tập trung ở một số trường
phái như: Chủ nghĩa trọng tiền hiện đại, Trường phái trọng cung, Trường phái
dự kiến hợp lý, Kinh tế thị trường xã hội v v. Chủ nghĩa trọng tiền hiện đại
ủng hộ quan điểm truyền thống của chủ nghĩa tự do. Đó là hệ thống tự điều
chỉnh hoạt động theo các quy luật kinh tế vốn có của nó. Còn các nhà kinh tế
trường phái kinh tế thị trường xã hội lại cho rằng nền kinh tế chủ nghĩa tư bản
phải được phát triển theo nguyên tắc tự do cạnh tranh. Cạnh tranh là hình thức
hoàn thiện nhất của quan hệ thị trường đảm bảo sự phát triển kinh tế tự điều
tiết. Tuy nhiên, kinh tế thị trường không thể hoạt động tự phát, mà Nhà nước
có vai trò nhất định đảm bảo cho sự phát triển hài hòa, duy trì tự do và các
điều kiện cần thiết cho hoạt động kinh tế.
Nền kinh tế càng phát triển thì cơ chế thị trường ngày càng bộc lộ
những hạn chế rất dễ nhận thấy. Đó là khủng hoảng, thất nghiệp, lạm phát, bất
bình đẳng trong xã hội và sự hủy hoại môi trường thiên nhiên. Để khắc phục
điều đó, các nền kinh tế hiện đại với sự kết hợp giữa thị trường và “bàn tay
hữu hình” của Nhà nước sẽ đảm bảo cho sự phát triển kinh tế một cách hiệu
quả. Đại diện cho lý thuyết về nền kinh tế hỗn hợp là P.A.Samuelson - Nhà
kinh tế học người Mỹ. Ông cho rằng: “Cả thị trường và Nhà nước đều cần
thiết cho một nền kinh tế vận hành lành mạnh. Thiếu một trong hai điều này
thì hoạt động của nền kinh tế hiện đại chẳng khác gì vỗ tay bằng một bàn
tay” [94, 38]. Học thuyết về nền kinh tế hỗn hợp của Samuelson đã thể hiện
một nhận thức mới, đó là cần phải kết hợp vai trò điều tiết của Nhà nước và

tôn trọng quy luật kinh tế khách quan trong phát triển kinh tế - xã hội.
Nhưng đến nay, trước xu thế hội nhập và toàn cầu hóa nền kinh tế đang
diễn ra mạnh mẽ thì lý thuyết về sự can thiệp tối thiểu của Nhà nước vào các
quan hệ kinh tế không còn phù hợp nữa và trường phái mới đã ra đời với quan
niệm là cần phải có chính quyền nhà nước đủ mạnh và khả năng can thiệp sâu
vào nền kinh tế. [103, 39]

10
Lịch sử đã chứng minh các nền kinh tế thị trường thành công đều
không phát triển một cách tự phát mà cần có sự can thiệp và hỗ trợ từ phía
Nhà nước. Vì vậy vai trò “bàn tay hữu hình” của Nhà nước ngày càng thể
hiện rõ và trở thành yếu tố không thể thiếu trong nền kinh tế của nhiều nước.
Tuy nhiên vai trò kinh tế của Nhà nước ở mỗi giai đoạn phát triển nhất định
có sự khác nhau về phương thức và mức độ tác động. Chẳng hạn, sự phát
triển sản xuất tư bản chủ nghĩa cho thấy lúc đầu Nhà nước có vai trò như “bà
đỡ”, dùng bạo lực hoặc các chính sách kinh tế có liên quan đến bạo lực tác
động vào kinh tế; tiếp đó Nhà nước có vai trò như “người canh gác” để các
chủ thể tự do cạnh tranh; rồi đến Nhà nước phải can thiệp trực tiếp vào kinh tế
cả ở cấp vĩ mô và vi mô; và cho tới ngày nay, người ta cho rằng cần sử dụng
tác động “hỗn hợp” vừa có thị trường, vừa có sự quản lý của Nhà nước. Bức
tranh về lịch sử kinh tế thế giới hiện đại còn có mảng hiện thực xã hội và lý
thuyết quan trọng khác đó là sự ra đời và phát triển của nền kinh tế xã hội chủ
nghĩa. Sự chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế
thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa cũng thể hiện quá trình nhận thức
về vai trò của Nhà nước đối với các quan hệ kinh tế. Các nhà kinh điển của
chủ nghĩa Mác - Lênin đã xây dựng học thuyết về chủ nghĩa xã hội dựa trên
cơ sở chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Trong đó, Nhà nước thực hiện chức
năng điều khiển nền sản xuất theo kế hoạch, thực hiện nguyên tắc làm theo
năng lực, phân phối theo lao động. Nhà nước xã hội chủ nghĩa có vai trò kinh
tế vô cùng to lớn ở chỗ Nhà nước không theo nghĩa là bộ máy trấn áp của giai

cấp thống trị trong xã hội mà là “nửa” Nhà nước đóng vai trò tổ chức quản lý
kinh tế - xã hội đặc thù của kiểu Nhà nước sau cùng trong lịch sử. V.I.Lênin
đã cụ thể hóa về mô hình Nhà nước xã hội chủ nghĩa khi áp dụng vào nước
Nga và đề ra chính sách kinh tế mới (NEP) thay cho chính sách cộng sản thời
chiến. NEP đã kết hợp vai trò của các quá trình kinh tế hàng hóa khách quan

11
với vai trò chủ động, tích cực của Nhà nước Xô Viết trong việc phát triển nền
kinh tế phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể.
Sau đại chiến thế giới lần thứ hai, hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa
được hình thành. Quan điểm lý luận của chủ nghĩa xã hội về vai trò kinh tế
của Nhà nước cho rằng Nhà nước là đại diện cho sở hữu toàn dân, nắm giữ
hầu hết các tư liệu sản xuất chủ yếu và điều hành hoạt động sản xuất kinh
doanh theo kế hoạch. Vào những năm cuối thập kỷ 80 của thế kỷ XX, trước
cuộc khủng hoảng về kinh tế - xã hội, các nước xã hội chủ nghĩa đã chuyển
đổi từ kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường. Dù với những
phương thức chuyển đổi khác nhau, những bước đi và mức độ thành công
khác nhau, nhưng thực tế đã cho thấy nền kinh tế các nước đã có kết quả tốt
hơn so với trước khi chuyển đổi. Đó là sự ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế
lạm phát, nền kinh tế phục hồi và bước đầu tăng trưởng. Tuy không phải tất
cả các nước chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế
thị trường đều giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa nhưng từ thực tiễn của
công cuộc chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường ở các nước có thể rút ra
những vấn đề chung. Một là, không thể vận dụng một mô thức đồng nhất và
đơn giản cho mọi quốc gia trong chuyển đổi nền kinh tế [24, 36]. Hai là, Nhà
nước đóng vai trò rất quan trọng và tích cực trong quá trình cải cách và
chuyển đổi. Có thể khẳng định rằng chất lượng chính sách cũng như sự điều
tiết có hiệu quả của Nhà nước mới có ý nghĩa quyết định sự thành công của
công cuộc chuyển đổi [49-50, 36). Ba là, quá trình chuyển đổi sang nền kinh
tế thị trường đòi hỏi sự đồng bộ không phải chỉ trong chính sách kinh tế mà

còn cả hệ thống thể chế, cơ cấu xã hội, những thiết chế nhà nước và hệ thống
pháp luật. [66, 15]
Như vậy, với những quan niệm về vai trò kinh tế của Nhà nước trên thế
giới như đã trình bày ở trên, có thể thấy việc vận dụng mô hình kinh tế hợp lý
cũng như xác định rõ vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế hiện đại

12
có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình đổi mới Nhà nước ta, đặc biệt là
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó cũng chính là cơ
sở lý luận và thực tiễn quốc tế cho quá trình nhận thức về chức năng kinh tế
của Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
1.1.2. Khái niệm về chức năng kinh tế của Nhà nƣớc.
Quá trình phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia luôn đặt ra yêu
cầu có tính xác định cụ thể hơn đối với bộ máy nhà nước và cần phải có nhận
thức đúng đắn và đầy đủ hơn về chức năng của Nhà nước. Đặc biệt đối với
các nước xã hội chủ nghĩa đang xây dựng kinh tế thị trường như ở nước ta thì
tính tất yếu và cấp bách của vấn đề chuyển đổi chức năng kinh tế của Nhà
nước phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế hiện nay lại càng quan trọng hơn
bao giờ hết. Ngay cả đối với những quốc gia có nền kinh tế phát triển cũng đã
nhận định cần phải liên tục đổi mới hoạt động của Nhà nước để đương đầu
với nền kinh tế hiện đại. Xuất phát từ quan niệm là “nếu không có Nhà nước
hiệu quả thì không thể có phát triển kinh tế - xã hội được” và “Thế giới đang
thay đổi và cùng với đó, những ý tưởng về vai trò Nhà nước trong phát triển
kinh tế - xã hội cũng phải thay đổi”[10]. Như vậy, vấn đề vai trò, chức năng
của Nhà nước trong các mô hình kinh tế có ý nghĩa quan trọng trước những
thay đổi lớn lao của đời sống quốc tế hiện nay. Đối với sự nghiệp đổi mới sâu
sắc và toàn diện ở nước ta, việc nhận thức vai trò, chức năng của Nhà nước sẽ
nhằm đặt Nhà nước vào đúng vị trí, đảm đương đúng chức năng của mình đối
với sự phát triển kinh tế - xã hội, góp phần làm sáng tỏ cơ sở khoa học cho
việc hoạch định đường lối, chính sách phục vụ sự nghiệp xây dựng Nhà nước

pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam như Đảng cộng sản Việt Nam đã nêu
rõ: “Cần tập trung nghiên cứu, xác định đúng vai trò, chức năng, nhiệm vụ
của Nhà nước trong cơ chế mới. Trên cơ sở đó chấn chỉnh, đổi mới tổ chức và
cơ chế hoạt động của bộ máy nhà nước, làm cho bộ máy gọn nhẹ, trong sạch,
cán bộ tinh thông nghiệp vụ, tận tụy công việc, làm việc có hiệu quả” .[30, 2].

13
Chức năng của Nhà nước là một trong những vấn đề cơ bản của lý luận
Nhà nước và pháp luật, là khái niệm phức tạp, luôn gắn với những phạm trù
như bản chất, nhiệm vụ, các hình thức và phương pháp hoạt động của Nhà
nước Theo từ điển tiếng Việt, “chức năng” là từ gốc Hán bao gồm hai thành
tố “chức” và “năng”. Thành tố “chức” trong các từ “chức phận”, “chức trách”,
“chức vụ”. Thành tố “năng” trong các từ “bản năng”, “năng lực”, “khả năng”.
Chức năng được hiểu với hai sắc thái nghĩa là “hoạt động, tác dụng bình
thường ” và “vai trò bình thường hoặc đặc trưng” [191, 12]. Như vậy, chức
năng nhà nước được hiểu như là hoạt động, khả năng vốn có của Nhà nước.
Trong khoa học pháp lý nước ta đã xuất hiện nhiều quan điểm về chức
năng của Nhà nước. Theo cách hiểu truyền thống, phổ biến nhất từ trước đến
nay thì chức năng của Nhà nước là những phương diện (những phương
hướng, mặt, dạng, loại) hoạt động chủ yếu của Nhà nước nhằm thực hiện
những nhiệm vụ đặt ra trước Nhà nước. Mỗi chức năng cụ thể của Nhà nước
thể hiện sự thống nhất của nội dung, hình thức và biện pháp thực hiện quyền
lực nhà nước trong lĩnh vực hoạt động nhất định, gắn với việc thực hiện các
nhiệm vụ của Nhà nước. Quan điểm thứ hai xuất phát từ bản chất nhà nước
cho rằng chức năng của Nhà nước được xem xét như thuộc tính cơ bản bên
trong của Nhà nước là tổ chức thống trị giai cấp và tổ chức đại diện chính
thức cho xã hội; khẳng định sự tồn tại khách quan của chức năng nhà nước
với hai tính chất là tính giai cấp và tính xã hội và mối liên hệ giữa bản chất
với chức năng của Nhà nước. Quan điểm thứ ba xác định chức năng nhà nước
là sự thể hiện vai trò của Nhà nước đối với xã hội, là biểu hiện cụ thể năng lực

của Nhà nước và đưa ra kết luận rằng cần nhận thức khái niệm chức năng nhà
nước trên ba góc độ thống nhất hữu cơ: Chức năng nhà nước là cái mà xã hội
cần Nhà nước và Nhà nước cần phải làm; là cái mà Nhà nước có thể làm
được; là cái Nhà nước được làm [41]. Quan điểm khác cho rằng chức năng
của Nhà nước chính là những nhiệm vụ cơ bản của Nhà nước trong từng giai

14
đoạn phát triển cụ thể hoặc đưa vào khái niệm chức năng nhà nước những
phương pháp, cách thức Nhà nước thực hiện chức năng của mình trong thực
tiễn, là các hình thức hoạt động của Nhà nước đối với môi trường xung
quanh, đối với xã hội và với các quốc gia khác. Có quan điểm lại cho rằng
chức năng của Nhà nước không chỉ là những phương hướng hoạt động chủ
yếu của Nhà nước mà còn là cơ chế tác động của Nhà nước lên các quá trình
xã hội, bởi khi thực hiện những chức năng nhất định trong các lĩnh vực của
đời sống xã hội, Nhà nước bằng các cuộc cải cách, bằng sự điều chỉnh pháp
luật, bằng các cách thức tổ chức và quản lý các quan hệ xã hội mà tác động
lên trạng thái của các quá trình xã hội Nói chung từ những khác biệt nhất
định trong mỗi cách hiểu về chức năng của Nhà nước, các quan điểm trên đều
xuất phát trên cơ sở chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử
của triết học Mác - Lênin về nguồn gốc, bản chất, vị trí, vai trò của Nhà nước
trong đời sống xã hội, đặt hiện tượng Nhà nước trong quá trình vận động và
phát triển của xã hội theo các quy luật khách quan của nó.
Trong điều kiện hiện nay, để góp phần xác định đầy đủ khái niệm về
chức năng của Nhà nước, theo chúng tôi cần tiếp cận phạm trù chức năng nhà
nước gắn liền với bản chất nhà nước và vai trò của Nhà nước đối với đời sống
xã hội. Nhận thức bản chất, vai trò của Nhà nước, có thể khẳng định rằng Nhà
nước có chức năng duy trì sự tồn tại và phát triển của toàn xã hội; và điều tiết
các quan hệ xã hội, tổ chức đời sống cộng đồng phù hợp với ý chí của giai cấp
cầm quyền. Như vậy, những điều kiện kinh tế, xã hội quyết định sự ra đời và
tồn tại của Nhà nước. Bản chất, vai trò của Nhà nước có liên quan mật thiết

đến chức năng nhà nước. Khi bản chất nhà nước thay đổi thì chức năng nhà
nước cũng thay đổi cho phù hợp với bản chất nhà nước mới. Vì vậy, các chức
năng nhà nước và nội dung của nó luôn có sự vận động, biến đổi làm xuất
hiện những chức năng mới hoặc mất đi những chức năng nào đó hoặc có
những chức năng nhà nước tồn tại qua nhiều chế độ xã hội khác nhau nhưng

15
nội dung và phương pháp thực hiện chúng lại khác nhau tùy thuộc vào điều
kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể, vào bản chất của Nhà nước đó. Từ bản chất,
vai trò nhà nước có thể xác định chức năng nhà nước, ngược lại vai trò và
chức năng nhà nước lại là những biểu hiện sinh động cho bản chất nhà nước.
Vai trò của Nhà nước là nền tảng để xác định, cụ thể hóa các chức năng của
Nhà nước, đồng thời các chức năng nhà nước cũng chính là những biểu hiện
cho vai trò nhà nước. Trên cơ cở nhà nước thực hiện các chức năng của mình
cũng đồng thời là lúc Nhà nước thực hiện vai trò quản lý và điều hành các
hoạt động xã hội, làm cho các quan hệ xã hội có những bước chuyển phù hợp
với bối cảnh trong nước và quốc tế.
Theo từ điển bách khoa Việt Nam, chức năng của Nhà nước nói chung
là hoạt động của Nhà nước thể hiện vai trò của Nhà nước đối với xã hội. Có
nhiều cách phân loại khác nhau về chức năng của Nhà nước. Trong khoa học
pháp lý, chức năng của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện
nay được phân loại thành chức năng đối nội và chức năng đối ngoại. Chức
năng đối nội bao gồm: chức năng tổ chức và quản lý kinh tế; chức năng giữ
gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; chức năng tổ chức và quản lý văn
hóa, giáo dục khoa học và công nghệ Các chức năng đối ngoại bao gồm :
chức năng bảo vệ tổ quốc XHCN, chức năng mở rộng quan hệ hợp tác với các
nước, các tổ chức quốc tế và khu vực Qua phân loại có thể thấy chức năng
của Nhà nước bao trùm tất cả mọi lĩnh vực trong đời sống chính trị, kinh tế,
xã hội của đất nước. Các chức năng đó chính là những mặt hoạt động cụ thể
của Nhà nước thể hiện vai trò của Nhà nước đối với xã hội. Nhà nước thực

hiện các chức năng của mình để giải quyết vấn đề lợi ích mà trước hết là lợi
ích kinh tế nhằm phục vụ nhu cầu thiết yếu của con người là ăn, mặc, ở trước
khi tham gia các hoạt động chính trị, xã hội. Như vậy, từ phạm trù chức năng
của Nhà nước thể hiện vai trò của Nhà nước đối với đời sống xã hội có thể
hình thành nên khái niệm chức năng kinh tế của Nhà nước như là một bộ phận

16
của khái niệm chức năng nhà nước, cũng như chức năng xã hội, chức năng
chính trị của Nhà nước. Từ đó có thể định nghĩa: Chức năng kinh tế của Nhà
nước là hoạt động của Nhà nước thể hiện vai trò của Nhà nước đối với sự
phát triển kinh tế. Trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, có thể xác định chức năng kinh tế của Nhà nước là
hoạt động cơ bản của Nhà nước trong sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam.
Chức năng kinh tế của Nhà nước không tồn tại biệt lập, tách rời với các
chức năng khác của Nhà nước. Trong mọi chức năng của Nhà nước đều bao
hàm những nội dung kinh tế và trong chức năng kinh tế cũng không có mục
đích nào khác là vì sự phát triển đẩy đủ và toàn diện của con người. Do vậy,
chức năng kinh tế của Nhà nước có mối quan hệ chặt chẽ với các chức năng
khác của Nhà nước.
Trước hết là mối quan hệ giữa chức năng kinh tế với chức năng xã hội
của Nhà nước thể hiện ở mối liên hệ giữa lĩnh vực kinh tế và lĩnh vực xã hội
là hai lĩnh vực có mối liên hệ chặt chẽ đến mức có thể nói chính sách kinh tế
của Nhà nước là chính sách xã hội trên lĩnh vực kinh tế. Chức năng kinh tế
của Nhà nước nhằm mục tiêu trực tiếp là tạo ra các điều kiện vật chất, sự tăng
trưởng và phát triển bền vững đất nước. Còn chức năng xã hội của Nhà nước
có mục tiêu trực tiếp là đảm bảo sự ổn định, công bằng, sự phát triển hài hòa
và an toàn xã hội. Xã hội càng phát triển càng nảy sinh những vấn đề xã hội
phức tạp, không chỉ của riêng một quốc gia nào mà còn trở thành vấn đề cần
quan tâm của toàn nhân loại. Vì vậy, việc tăng cường thực hiện các chức năng

xã hội của Nhà nước trở thành nội dung quan trọng trong hoạt động của các
nhà nước trên thế giới. Nhưng Nhà nước không thể thực hiện được chức năng
xã hội của mình nếu không thực hiện tốt chức năng kinh tế. Nói cách khác,
chức năng kinh tế là tiền đề để Nhà nước thực hiện chức năng xã hội vì chức
năng xã hội của Nhà nước không thể triển khai được nếu trong tay Nhà nước

17
không có tiềm lực vật chất. Tuy nhiên chức năng kinh tế và chức năng xã hội
của Nhà nước cũng có ranh giới nhất định. Bởi lẽ Nhà nước muốn thực hiện
vai trò to lớn trong việc ổn định xã hội, phát huy mạnh mẽ các nguồn lực của
đất nước mà trong đó yếu tố con người là quan trọng nhất thì trước hết Nhà
nước cần phải tôn trọng các quy luật kinh tế khách quan. Hoạt động của Nhà
nước trong giải quyết các vấn đề xã hội không phải là những hoạt động mang
tính chủ quan, duy ý chí mà phải tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển của nền
kinh tế và trên cơ sở khả năng kinh tế của đất nước.
Mặt khác, chức năng kinh tế của Nhà nước có mối quan hệ mật thiết
với chức năng chính trị của Nhà nước thể hiện ở bản chất giai cấp, chế độ
chính trị tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của nền kinh tế. Chức năng kinh
tế của Nhà nước có mục tiêu trực tiếp là tăng trưởng kinh tế, còn chức năng
chính trị của Nhà nước có mục tiêu trực tiếp là tạo ra nền tảng chính trị ổn
định, giữ vững định hướng phát triển cũng như bản chất của nền kinh tế. Nhà
nước không thể không coi trọng những nội dung kinh tế trong các chính sách,
đường lối chính trị của mình và với mỗi quốc gia, đường lối phát triển kinh tế
trở thành nội dung quan trọng nhất của đường lối, chính sách chính trị của
giai cấp cầm quyền, của Nhà nước. Trong thời đại ngày nay, nhất là khi toàn
cầu hóa đang trở thành xu thế tất yếu, các quốc gia ngày càng mở rộng hợp
tác và quan hệ chặt chẽ với nhau về kinh tế thì vấn đề chính trị trong mỗi
quốc gia cũng như trên phạm vi thế giới không nằm ngoài lợi ích kinh tế. Do
vậy, chức năng kinh tế là phương thức thể hiện đặc thù của chức năng chính
trị, còn chức năng chính trị định hướng, mở đường và tạo điều kiện cho chức

năng kinh tế phát triển. Việc chăm lo phát triển nền dân chủ và mở rộng quan
hệ ngoại giao theo chính sách đa dạng hóa, đa phương hóa đã tạo điều kiện
chính trị quan trọng quyết định sự thành công của sự nghiệp phát triển kinh tế
đất nước.

18
Chức năng kinh tế của Nhà nước Việt Nam tương ứng với vai trò kinh
tế của Nhà nước trong mỗi mô hình kinh tế. Do vậy, khi vai trò kinh tế của
Nhà nước chuyển đổi thì chức năng kinh tế của Nhà nước cũng phải được xác
định cho phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế mới.
1.2. Nội dung chức năng kinh tế của Nhà nƣớc Việt Nam trong nền
kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa.
Chức năng kinh tế của Nhà nước là hoạt động cơ bản của Nhà nước đối
với sự phát triển kinh tế của Nhà nước ta đã được nhận thức và xác định rõ
hơn qua các Đại hội Đảng toàn quốc, đặc biệt là quá trình đổi mới cơ chế kinh
tế từ kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa. Đại hội lần thứ IX của Đảng đã nhấn mạnh: “Nhà nước tạo môi
trường pháp lý thuận lợi, bình đẳng cho các doanh nghiệp cạnh tranh và hợp
tác để phát triển; bằng chiến lược quy hoạch, kế hoạch và chính sách, kết hợp
với sử dụng lực lượng vật chất của nhà nước để định hướng phát triển kinh tế
xã hội, khai thác hợp lý các nguồn lực của đất nước, đảm bảo cân đối vĩ mô
nền kinh tế, điều tiết thu nhập; kiểm tra, kiểm soát, thanh tra mọi hoạt động
kinh doanh theo quy định của pháp luật”. [102, 4]. Từ quan điểm tiếp cận
những hoạt động cơ bản của Nhà nước trong sự nghiệp phát triển kinh tế xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam, chức năng kinh tế của Nhà nước bao gồm những
nội dung sau:
1.2.1. Xây dựng chiến lƣợc, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế.
Trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung, các chỉ tiêu kế hoạch pháp lệnh,
các mệnh lệnh hành chính là công cụ quản lý kinh tế chủ yếu của Nhà nước.
Chuyển sang cơ chế thị trường, Nhà nước sử dụng phương pháp kinh tế, vận

dụng các quy luật kinh tế để quản lý, đảm bảo hiệu quả quản lý thông qua các
công cụ vĩ mô như pháp luật, kế hoạch, chính sách Đại hội lần thứ VII của
Đảng đã nêu rõ: Nhà nước quản lý nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận động theo cơ chế thị trường bằng pháp

19
luật, bằng kế hoạch và các công cụ chính sách kinh tế, trong đó kế hoạch hóa
vẫn là khâu trung tâm. Nội dung của kế hoạch vĩ mô trong nền kinh tế thị
trường là sự cụ thể hóa những quyết định chiến lược, đảm bảo hiện thực hóa
mục tiêu đề ra trong chính sách của Nhà nước. Trước đây, trong cơ chế cũ kế
hoạch hóa là kế hoạch với hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh chi tiết và cụ thể. Nhà
nước là người vạch ra và tổ chức thực hiện toàn bộ các khâu của quá trình tái
sản xuất xã hội thông qua công cụ kế hoạch, xác định mọi vấn đề từ giá cả,
cung cấp vật tư, tiêu thụ sản phẩm của các xí nghiệp, đồng thời xác định các
tỷ lệ, các cân đối lớn trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Kế hoạch hóa trong
nền kinh tế thị trường chủ yếu là kế hoạch gián tiếp, hướng dẫn và tổng quát
thể hiện tính năng động gắn với hiệu quả và lợi ích kinh tế. Với tính định
hướng, kế hoạch nhà nước chỉ tập trung vào việc thiết lập các cân đối lớn của
nền kinh tế như giữa tích lũy và tiêu dùng, giữa công nghiệp và nông nghiệp,
giữa xuất và nhập khẩu Trong nền kinh tế hàng hóa các đơn vị kinh tế trực
tiếp giáp mặt với thị trường, họ có quyền tự chủ sản xuất kinh doanh nên họ
hiểu phải làm gì và làm như thế nào để phù hợp với phương hướng, mục tiêu
của kế hoạch nhà nước và đáp ứng nhu cầu của thị trường. Nhà nước là người
đưa ra dự kiến về khả năng phát triển kinh tế thông qua các định hướng chiến
lược, các chính sách cụ thể. Và trong quá trình thực hiện, Nhà nước sẽ điều
chỉnh và thay đổi chính sách, biện pháp nhằm hướng dẫn hành vi của các đơn
vị kinh tế trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Còn bản thân các đơn vị kinh
tế phải chủ động tiếp cận thị trường để vạch ra chiến lược kinh doanh và tự
điều chỉnh hoạt động của mình trên cơ sở chiến lược và chính sách cụ thể của
Nhà nước. Như vậy, kế hoạch hóa trong nền kinh tế thị trường đã xóa bỏ mọi

hình thức áp đặt trong giao nhiệm vụ kế hoạch sản xuất kinh doanh, đảm bảo
quyền tự chủ kế hoạch cho các chủ thể, kích thích các nhà kinh doanh cạnh
tranh, cải tiến kỹ thuật công nghệ để đứng vững trên thị trường. Kế hoạch vừa

20
là môi trường, vừa là hành lang hoạt động của các đơn vị kinh tế, có tác dụng
thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của sản xuất kinh doanh.
1.2.2. Xây dựng hệ thống pháp luật và đổi mới công cụ, chính sách
kinh tế vĩ mô.
Nhà nước tạo khuôn khổ pháp lý cho nền kinh tế thị trường hoạt động.
Bằng sự điều chỉnh của pháp luật, Nhà nước tạo ra môi trường thuận lợi cho
sự hình thành và phát triển các quan hệ kinh tế. Có thể xem pháp luật như hai
bờ của một dòng chảy, bờ có nhiệm vụ đi theo dòng chảy chứ không thể sản
sinh hay thay thế dòng chảy, nhưng có thể hạn chế hay tăng tốc cho dòng
chảy và giữ cho dòng chảy đúng hướng. Nền kinh tế thị trường là hệ thống
phức tạp và đầy biến động, các hoạt động kinh tế đều hướng tới lợi ích cục
bộ, vì vậy sự bất ổn, rủi ro và sự xâm phạm lợi ích lẫn nhau có thể xảy ra bất
cứ lúc nào nếu không có những quy tắc đủ mạnh để điều chỉnh. Từ nhu cầu
khách quan đó mà pháp luật trở thành công cụ không thể thay thế để đảm bảo
cho các quan hệ kinh tế diễn ra theo trật tự nhất định.[35, 49]
Trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, Nhà nước đóng vai trò lãnh
đạo thống nhất toàn bộ nền kinh tế quốc dân đồng thời cũng vừa là người điều
hành, người tổ chức các hoạt động kinh tế. Do vậy, không phân biệt được đâu
là Nhà nước, đâu là đơn vị kinh tế. Nhà nước hòa lẫn trong mình hai tư cách
chủ thể: Chủ thể quản lý nền kinh tế quốc dân và chủ thể trực tiếp thực hiện
hành vi sản xuất kinh doanh. Chuyển sang nền kinh tế thị trường, yêu cầu đặt
ra là Nhà nước cần phải xác định rõ tư cách là chủ thể quản lý nền kinh tế
quốc dân. Nhà nước tác động, điều chỉnh các hoạt động kinh tế với tư cách là
cơ quan công quyền mà không can thiệp trực tiếp vào các quan hệ thị trường.
Hoạt động sản xuất kinh doanh là quyền của các chủ thể hoạt động kinh tế. Vì

vậy, bằng cách gián tiếp, Nhà nước tạo ra khung pháp lý cho các chủ thể tự do
hoạt động, tuy nhiên các quan hệ đó vẫn diễn ra dưới sự quản lý vĩ mô của
Nhà nước.

21
Cơ chế kinh tế cũ với sự thừa nhận hai thành phần kinh tế là toàn dân
và tập thể, vai trò cũng như nội dung căn bản của pháp luật là công cụ bảo vệ
chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa, bảo vệ trật tự quản lý nền kinh tế xã hội chủ
nghĩa theo kế hoạch thống nhất. Chuyển sang nền kinh tế nhiều thành phần
hoạt động theo cơ chế thị trường, với cơ cấu chủ thể kinh tế đa dạng, quan hệ
kinh tế của các chủ thể là quan hệ bình đẳng, tự do, Nhà nước bằng pháp luật
quy định tư cách chủ thể; ngăn ngừa các yếu tố tác động xấu đến hoạt động
sản xuất kinh doanh, tạo môi trường để vận hành các quan hệ kinh tế một
cách thuận lợi, thông thoáng, an toàn, đồng thời định ra các phương thức
nhằm duy trì và đảm bảo trật tự kinh tế diễn ra theo đúng mục tiêu đã định.
Tác động quản lý và điều tiết của pháp luật còn được thể hiện thông
qua việc thể chế hóa chiến lược, chính sách và kế hoạch phát triển kinh tế của
đất nước trong từng giai đoạn để triển khai thực hiện.
* Nhà nước thực hiện vai trò điều chỉnh, ổn định nền kinh tế thông qua
các công cụ quản lý kinh tế vĩ mô như chính sách tài chính, tiền tệ, tín dụng là
những đòn bẩy tác động đến nền kinh tế nhằm kiểm soát và hạn chế hậu quả
trước các biến động bất lợi của thị trường. Trong cơ chế kế hoạch hóa tập
trung, tài chính đóng vai trò thụ động, thứ yếu vì các mục tiêu kế hoạch và
năng lực vật chất được tính theo hiện vật. Chuyển sang nền kinh tế thị trường
nền tài chính đất nước phải chuyển từ cơ chế tài chính vi mô sang cơ chế tự
chủ về tài chính, từ tài chính đơn nhất về sở hữu sang tài chính đa sở hữu.
Chính sách tài chính đối với doanh nghiệp là phân biệt rõ quyền sở hữu nhà
nước với quyền sử dụng tài sản của doanh nghiệp. Nhà nước quản lý vĩ mô về
tài chính đối với các doanh nghiệp thông qua các công cụ như thuế, lãi suất, tỉ
giá Trong việc sử dụng các công cụ tiền tệ, tín dụng để điều tiết nền kinh tế

thị trường, Nhà nước tập trung vào các khâu như ổn định tỷ giá hối đoái, xác
định lãi suất trần; quản lý ngoại hối, tăng sức mua của đồng tiền trong nước
đồng thời đảm bảo chế độ tự do hóa thương mại, giá cả. Nhà nước tiến hành

22
đổi mới chính sách tiền tệ, giá cả cho phù hợp với cơ chế thị trường, kiềm chế
lạm phát ở mức thấp nhất, ổn định sức mua đồng tiền Việt Nam, nâng cao
hiệu quả sử dụng các nguồn vốn.
Các công cụ tài chính, tiền tệ, tín dụng phát huy vai trò trong việc tạo ra
các yếu tố kích thích hay kìm hãm sự phát triển của các quan hệ kinh tế theo
hướng nhất định. Thông qua các loại công cụ có tính đòn bẩy này, Nhà nước
có thể kìm chế lạm phát, khắc phục tính chu kỳ, tạo ra được tính ổn định và
phát triển bình thường cho nền kinh tế thị trường. Nhà nước can thiệp vào thị
trường trong phạm vi, giới hạn cần thiết và tôn trọng quy luật khách quan của
nền kinh tế thị trường khi sử dụng công cụ tài chính, tiền tệ, tín dụng nhằm
khống chế sự biến động bất thường của thị trường và ngăn ngừa những rủi ro,
thiệt hại cho nền kinh tế quốc dân.
1.2.3. Xây dựng kết cấu hạ tầng cho nền kinh tế.
Xây dựng kết cấu hạ tầng, cung ứng dịch vụ công cộng hỗ trợ cho nền
kinh tế được xem là nội dung quan trọng trong chức năng kinh tế của Nhà
nước. Kết cấu hạ tầng là toàn bộ hệ thống cơ sở vật chất - kỹ thuật nền tảng
bảo đảm cho sự phát triển kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường sinh thái.
Trong nền kinh tế thị trường, Nhà nước xây dựng Chiến lược phát
triển kết cấu hạ tầng và Quy hoạch phát triển kết cấu hạ tầng cho nền kinh
tế, trong đó chiến lược phát triển bao gồm hệ thống những mục tiêu, chính
sách và giải pháp cơ bản, có tính chất dài hạn về phát triển mạng lưới kết
cấu hạ tầng (gồm cả kết cấu hạ tầng kinh tế và kết cấu hạ tầng xã hội), bảo đảm
thực thi những mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Quy hoạch phát triển kết cấu hạ tầng là cụ thể hóa chiến lược phát
triển kết cấu hạ tầng: luận chứng, lựa chọn phương án phát triển và phân bố

mạng lưới kết cấu hạ tầng trên các vùng lãnh thổ trong giai đoạn từ 10 đến
20 năm trở lên; cân đối tổng thể giữa các mục tiêu và các điều kiện thực
hiện để làm cơ sở cho việc lập các kế hoạch bao gồm: luận chứng về nhu

×