Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Thở oxy nguyên chất, hại hơn lợi pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (111.28 KB, 5 trang )

Thở oxy nguyên chất, hại hơn lợi
Oxy nguyên chất được xem là một dạng
thuốc, ngoài tác dụng tốt, nó cũng có mặt
trái, nên cũng có chỉ định và chống chỉ định.

Lợi thì có lợi…
Nhiều gia đình ở thành phố lớn sinh “mốt” mua
bình oxy (túi oxy) nguyên chất về nhà thở, với
quan niệm thở oxy nguyên chất rất tốt cho sức
khỏe. Thời gian đầu khi thở oxy nguyên chất,
hầu hết người dùng đều thấy dễ chịu, da hồng
hào, tinh thần phấn chấn, giảm mệt mỏi…
Tất cả những thay đổi trên, một phần do tác
dụng của oxy, một phần do tâm lý của người
dùng. Thực tế thì hiện chưa có nghiên cứu nào
khẳng định dùng bình oxy nguyên chất là sẽ tốt
hơn cho sức khỏe.
Trong y tế, những đối tượng sử dụng oxy
nguyên chất và liều lượng đều phải do bác sĩ chỉ
định dựa trên các xét nghiệm lâm sàng. Đối với
những người không bị suy hô hấp thì không có
chỉ định dùng oxy.
Nhiều ảnh hưởng
Bình thường trong không khí có 21,6% là oxy,
còn lại là khí ni tơ (78%) và một số khí khác.
Người bình thường thở oxy nguyên chất với lưu
lượng thấp (vài lít/phút) thì không có ảnh hưởng
gì đáng kể. Nhưng nếu thở oxy nguyên chất với
hàm lượng cao kéo dài thì sẽ gây biến chứng
sau:
- Ở những trẻ sơ sinh thiếu tháng, bị suy hô hấp


cấp nặng nên phải thở oxy nguyên chất trong
lồng kính. Việc phải thở oxy nguyên chất liều
cao kéo dài này ảnh hưởng đến mắt, làm tổn
thương thần kinh thị giác, có thể dẫn tới bị mù
do sau khi ngừng oxy sẽ có hiện tượng tăng sinh
mạch máu để lấy thêm oxy, các mạch máu này
về sau hóa sợi gây mù.
- Nồng độ oxy bình thường trong máu sẽ kích
thích các trung khu hô hấp ở hành tủy, não. Còn
nồng độ cao sẽ ức chế các trung khu nói trên,
gây ngừng thở. Chẳng hạn, ở người mắc bệnh
phổi mạn tính, cơ thể đã quen với tình trạng
thiếu oxy; và chính tình trạng này luôn kích
thích phản xạ hô hấp. Nếu thở oxy nồng độ cao,
cơ thể mất yếu tố kích thích và bệnh nhân sẽ
không thở được nữa. Vì thế, những bệnh nhân
này chỉ được thở oxy với hàm lượng không quá
40% (trong 3 giờ đầu: 2-3 lít/phút, cứ 12 giờ sau
tăng 0,5 lít, đến tối đa là 4 lít/phút).
- Các gốc oxy tự do có trong oxy nồng độ cao
gây tổn thương màng tế bào và ty lạp thể, nhiều
enzym trong nguyên sinh chất bị ức chế hoạt
động dẫn tới tổn thương tế bào và càng đẩy
nhanh quá trình lão hóa hơn.
Bên cạnh là một số hội chứng lâm sàng do thở
oxy nồng độ cao:
- Loạn sản phế nang cấp: Là kết quả cuối cùng
của hội chứng suy hô hấp cấp ở trẻ mới sinh,
nguyên nhân là do trẻ được thở oxy quá thừa
sau khi sinh (trẻ bị ngạt, đẻ non, cuộc đẻ diễn ra

lâu).
- Viêm phế quản: Xảy ra sau 6 giờ thở oxy 90-
95%, do hoạt động của thảm lông rụng và chất
nhầy phế quản giảm.
- Xẹp phổi hấp thụ: Xảy ra sau 6-24 giờ thở oxy
90-95%. Các biến đổi tùy thuộc vào liều lượng
oxy, thời gian thở hít.
Ngoài ra, nguy cơ cháy nổ khi sử dụng bình oxy
cũng luôn tiềm ẩn và gây nguy hiểm.
Oxy nguyên chất được sử dụng cho những
đối tượng sau:
- Thứ nhất là những ngư
ời bị suy hô hấp cấp do
nhiều lý do, như bị cơn hen phế quản cấp, đợt
cấp bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính, viêm phổi,
sặc dị vật đường thở , hoặc một số trư
ờng hợp
khác như tai biến mạch máu não dẫn đến trung
tâm hô hấp hoạt động không bình thư
ờng, hoặc
khi gây mê để mổ, hay một số trường hợp ngộ
độc cấp làm giảm khả năng vận chuyển oxy
của máu
- Thứ hai là một số trường hợp mãn tính (như
bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính, xơ phổi), phải
dùng oxy lâu dài tại nhà sau khi được điều trị
qua đợt cấp. Thời gian dùng ít nhất là 15
giờ/ngày, hoặc 24/24 giờ trong những trường
hợp suy hô hấp mãn tính nặng


×