Tải bản đầy đủ (.doc) (50 trang)

vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng theo BLHS việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (282.01 KB, 50 trang )

1
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam là một trong số mười nước trồng rừng nhiều nhất thế
giới.Nằm ở vùng Đông Nam Á, với diện tích 330.922,5 km
2
, khí hậu nhiệt
đới gió mùa, cây cối quanh năm xanh tốt, vậy nên, Việt Nam có thế mạnh
về phát triển nông nghiệp, có diện tích rừng và đất rừng chiếm khoảng 30%
diện tích lãnh thổ. Rừng là loại tài nguyên thiên nhiên vô cùng quý giá có
khả năng tái sinh và có vai trò quan trọng trong sự tồn tại và phát triển của
con người. Do vậy, khai thác rừng một cách bền vững cũng như bảo vệ
rừng ở Việt Nam trở thành một vấn đề cấp thiết hơn bao giờ hết.
Trong khi đó, có một thực tế đáng lo ngại là hiện nay cùng với quá
trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, rừng đã trở thành đối tượng
khai thác của nhiều cá nhân, tổ chức với mục đích vụ lợi. Tội phạm vi
phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng đã gây ra cho xã hội những
hậu quả nghiêm trọng đồng thời trở thành một nguy cơ, thách thức to lớn,
cản trở việc thực hiện đường lối, chủ trương phát triển kinh tế mà Đảng,
Nhà nước đã đề ra và đe doạ nghiêm trọng đến sự cân bằng môi trường
sinh thái.
Tuy nhiên, việc xử lý tội phạm này bằng pháp luật hình sự vẫn chưa
hiệu quả. Số vụ án bị xét xử về tội phạm này còn rất nhỏ so với thực trạng
hoạt động khai thác rừng trái pháp luật. Việc áp dụng quy định của luật
hình sự trong thực tiễn xét xử tội phạm này còn tồn tại những hạn chế.
Nguyên nhân một phần của tình trạng này là do các quy định có liên quan
của BLHS hiện hành còn có những bất cập, thiếu sự thống nhất. Vì thế các
quy định này cần được nghiên cứu để hoàn thiện.
Với việc thực hiện đề tài khóa luận tốt nghiệp về tội “Vi phạm các
quy định về khai thác và bảo vệ rừng theo BLHS Việt Nam”, tác giả
2


mong muốn tìm hiểu sâu hơn về tội phạm này, cụ thể là để nâng cao nhận
thức về quy định của pháp luật hình sự và những hạn chế khi áp dụng pháp
luật hình sự đối với tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng.
Qua đó, tác giả có cơ sở đưa ra một số ý kiến đề xuất cá nhân nhằm góp
phần nâng cao hơn nữa hiệu quả của công tác xét xử tội phạm này.
2. Tình hình nghiên cứu
Cho đến nay đã có không ít các công trình nghiên cứu khoa học, các
bài viết đề cập và nghiên cứu những vấn đề liên quan đến tội “vi phạm các
quy định về khai thác và bảo rừng” theo bộ luật hình sự Việt Nam như:
giáo trình Luật hình sự Việt Nam của trường Đại học Luật Hà Nội năm
2008 đã nêu ra các quy định của BLHS về tội phạm trên và phân tích một
cách khái quát, cơ bản nhất về các quy định này; giáo trình luật hình sự
Việt Nam – phần các tội phạm của khoa luật trường Đại học Quốc gia Hà
Nội cũng đưa ra các dấu hiệu pháp lý và nêu ra những quy định của BLHS
1999 cũng như phân tích, đánh giá về tội phạm này một cách tương đối kỹ
lưỡng. Bình luận khoa học BLHS phần các tội phạm – tập I các tội xâm
phạm trật tự quản lý kinh tếcủa tác giả Đinh Văn Quế năm 2006 phân tích
chuyên sâu các dấu hiệu pháp lý của tội và đưa ra các ý kiến đánh giá, bình
luận các quy định đó.
Bên cạnh một số giáo trình và sách chuyên khảo nêu trên, còn một số
bài viết có liên quan tới tội phạm này được đăng trên các tạp chí chuyên
ngành luật như: Bài viết: “Về tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo
vệ rừng tại Điều 175 Bộ luật Hình sự” của tác giả Phạm Văn Beo đăng trên
tạp chí Tòa án nhân dân số 1 năm 2011 đã nêu lên các vấn đề về dấu hiệu
cấu thành tội phạm này; bài viết: “Một số khó khăn, vướng mắc khi áp
dụng các quy định về quản lý, khai thác và bảo vệ rừng” của tác giả Cao
Anh Đức được đăng trên Tạp chí Kiểm sát – VKSNDTC số 22 năm 2010
đã đưa ra các khó khăn, vướng mắc cũng như các bất cập của việc áp dụng
các quy định của pháp luật đối với tội phạm vi phạm các quy định về khai
thác và bảo vệ rừng theo bộ luật hình sự Việt Nam; bài viết của tác giả Đỗ

3
Đức Hồng Hà: “Tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng-
những tồn tại và vướng mắc cần tháo gỡ”, tạp chí Toà án nhân dân số 14
năm 2005, về những tồn tại và vướng mắc khi áp dụng quy định của BLHS
Việt Nam để xét xử các vụ án liên quan đến tội phạm này.
Ngoài ra, có một số nghiên cứu chuyên sâu về tội phạm này như: luận
văn thạc sỹ luật học của tác giả Lê Văn Hà: Trách nhiệm hình sự đối với tội
vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng và đấu tranh phòng
ngừa tội phạm này trên địa bàn tỉnh Gia Lai, Trường Đại học Luật Hà Nội,
Hà Nội, 2002 dưới góc độ tội phạm học; luận án tiến sỹ luật học của tác giả
Phạm Đình Xinh: “Hoạt động điều tra tội phạm vi phạm các quy định về
khai thác và bảo vệ rừng của cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự quản lý
và chức vụ” dưới góc độ điều tra tội phạm.
Như vậy, trong các công trình nghiên cứu trên, có công trình đã
nghiên cứu một cách khái quát về tội phạm này, có công trình thì dừng lại ở
từng vấn đề, từng khía cạnh cụ thể hoặc có công trình thì đi sâu nghiên cứu
hoạt động đấu tranh, phòng chống tội phạm nói chung. Vì thế, với việc
thực hiện đề tài “Tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng
theo luật hình sự Việt Nam” tác giả mong muốn góp phần làm phong phú
hệ thống lý luận về tội phạm này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở những vấn đề lý luận và pháp lý về tội phạm vi phạm các
quy định về khai thác và bảo vệ rừng theo quy định của bộ luật hình sự
Việt Nam, khóa luận đi sâu vào phân tích những vấn đề lý luận cũng như
những dấu hiệu pháp lý của tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo
vệ rừng, làm rõ bản chất, mức độ nguy hiểm và những ảnh hưởng tiêu cực
của những hành vi vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng đối
với nền kinh tế thị trường Việt Nam cũng như đối với môi trường sinh thái.
4

Từ đó đưa ra các kiến nghị về hướng hoàn thiện quy định của Bộ luật hình
sự Việt Nam về tội phạm này trong giai đoạn hiện nay để đáp ứng yêu cầu
đấu tranh phòng chống tội phạm này.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nói trên, Khóa luận đặt ra các nhiệm vụ nghiên
cứu sau đây:
Thứ nhất, nghiên cứu lịch sử các quy định về tội vi phạm các quy định
về khai thác và bảo vệ rừng trước khi có Bộ luật hình sự năm 1999.
Thứ hai, nghiên cứu lý luận xung quanh khái niệm tội vi phạm các
quy định về khai thác và bảo vệ rừng;
Thứ ba, nghiên cứu, phân tích các dấu hiệu pháp lý của tội vi phạm
các quy định về khai thác và bảo vệ rừng.
Thứ tư, nghiên cứu những bất cập của việc áp dụng luật hình sự hiện hành
và đưa ra kiến nghị cá nhân góp phần hoàn thiện pháp luật hình sự về tội phạm
này.
4. Phạm vi nghiên cứu
Tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng đã được nghiên
cứu ở nhiều góc độ khác nhau như nghiên cứu dưới góc độ của luật hình
sự, tội phạm học, dưới góc độ của luật tố tụng hình sự và dưới góc độ điều
tra tội phạm. Trong khuôn khổ của một khóa luận tốt nghiệp, tác giả muốn
trình bày về các đặc điểm, nghiên cứu và đánh giá, phân tích các vấn đề của
tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng dưới góc độ của luật
hình sự theo các quy định của pháp luật Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu,tác giả sử dụng các phương pháp nghiên
cứu của ngành khoa học xã hội nói chung và của ngành luật học nói riêng
5
như: phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương pháp lịch sử và
phương pháp tổng hợp.
6. Bố cục đề tài

Ngoài lời mở đầu và kết luận, khóa gồm 2 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về tội vi phạm các quy định về khai
thác và bảo vệ rừng.
Chương 2: Dấu hiệu pháp lý của tội vi phạm các quy định về khai thác
và bảo vệ rừng và hình phạt đối với người phạm tội.
6
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI VI PHẠM CÁC QUY ĐỊNH VỀ
KHAI THÁC VÀ BẢO VỆ RỪNG
1.1. Một số vấn đề lý luận về tội vi phạm các quy định về khai thác
và bảo vệ rừng
Vấn đề lý luận được quan tâm đầu tiên là khái niệm tội vi phạm các
quy định về khai thác và bảo vệ rừng.
Trên cơ sở Điều 8 BLHS về khái niệm tội phạm và Điều 175 BLHS,
có thể định nghĩa khái quát tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ
rừng như sau: “Tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng là
hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định tại Điều 175 BLHS, do người
có năng lực TNHS thực hiện do cố ý hoặc vô ý, xâm phạm những quy định
của Nhà nước về khai thác và bảo vệ rừng”.
Xung quanh khái niệm tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo
vệ rừng, các quan điểm đưa ra dường như khá thống nhất. Ví dụ, tác giả -
Thạc sĩ Đinh Văn Quế cho rằng: “Vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ
rừng là hành vi khai thác trái phép cây rừng hoặc có hành vi khác vi phạm các
quy định của Nhà nước về khai thác và bảo vệ rừng hoặc vận chuyển, buôn bán
gỗ trái phép”.[24, tr.321]
Tương tự như vậy, Thạc sĩ Nguyễn Mai Bộ định nghĩa tội phạm này như
sau: “Vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng là hành vi khai thác trái
phép cây rừng, vận chuyển, buôn bán gỗ trái phép hoặc có hành vi khác vi phạm
các quy định của Nhà nước về khai thác và bảo vệ rừng (nếu không thuộc các
trường hợp quy định tại các Điều 153, Điều 154 và Điều 189 BLHS) gây hậu

quảnghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này, hoặc đã bị kết
án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm”.[20, tr.227]
7
Những định nghĩa trên đã nêu ra được các hành vi nguy hiểm cho xã hội
của tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng, chỉ ra tính trái pháp
luật của các hành vi đó. Tuy nhiên, các định nghĩa đó vẫn còn những hạn chế
nhất định. Những hạn chế này sẽ được chỉ ra sau khi chúng ta xem xét những
yêu cầu đối với một khái niệm về tội phạm cụ thể.
Khi đưa ra một khái niệm về tội phạm, khái niệm đó phải vừa thể hiện
được đặc điểm chung của tội phạm, có nghĩa là nó phải thể hiện được bốn
dấu hiệu: Tính nguy hiểm cho xã hội, tính có lỗi, tính trái pháp luật hình sự
và tính phải chịu hình phạt; đồng thời khái niệm đó cũng phải thể hiện
được những đặc điểm riêng biệt, đặc trưng của tội phạm này (đây là yếu tố
quan trọng nhất) để khi đọc lên khái niệm về một tội phạm cụ thể người
đọc có thể phân biệt các tội phạm với nhau. Về vấn đề xây dựng khái niệm
của một tội phạm, TSKH.PGS Lê Cảm đã cho rằng: “Khi đưa ra khái niệm
về một tội phạm phải thể hiện ba bình diện với năm đặc điểm của nó, đó là:
a/ bình diện khách quan – tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội; b/
bình diện pháp lý – tội phạm là hành vi trái pháp luật hình sự; c/ bình diện
chủ quan – tội phạm là hành vi do người có năng lực TNHS và đủ độ tuổi
chịu TNHS thực hiện một cách có lỗi”.
Như vậy, các khái niệm được các tác giả đưa ra chưa được rõ ràng.
Bởi các định nghĩa trên mới chỉ dừng lại ở bình diện khách quan với việc
nêu lên hành vi nguy hiểm cho xã hội là hành vi gì và ở bình diện pháp lý:
tội phạm là hành vi trái pháp luật hình sự. Chưa tác giả nào đề cập tới bình
diện chủ quan của tội phạm này. Bên cạnh đó, định nghĩa được tác giả
Đinh Văn Quế đưa ra còn chưa thể hiện rõ ranh giới của hành vi vi phạm
các quy định về khai thác và bảo vệ rừng được coi là tội phạm với hành vi
chỉ cấu thành vi phạm pháp luật hành chính.
Dựa trên các phân tích và khái niệm đã nêu có thể đưa ra một khái

niệm tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng như sau:
8
Tội vi phạm các qui định về khai thác và bảo vệ rừng là tội phạm vi
phạm pháp luật hình sự có các hành vi như khai thác trái phép cây rừng,
vận chuyển, buôn bán gỗ trái phép hoặc có hành vi khác vi phạm các quy
định của Nhà nước về khai thác và bảo vệ rừng (nếu không thuộc các
trường hợp quy định tại các Điều 153, Điều 154 và Điều 189 BLHS 1999)
gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này,
hoặc đã bị kết án về tội này chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, do
người có năng lực TNHS và đủ độ tuổi chịu TNHS thực hiện dưới hình
thức lỗi cố ý, vi phạm những quy định của Nhà nước về khai thác và bảo vệ
rừng nói riêng cũng như xâm phạm các quy định của Nhà nước trong lĩnh
vực quản lý kinh tế nói chung.
Vấn đề lý luận tiếp theo mà tác giả muốn đề cập đến là khách thể của
tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng.
Khách thể của tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng là
sự xâm phạm chế độ quản lý về khai thác và bảo vệ rừng. Nói đến rừng là
nói đến thiên nhiên, môi trường. Vậy nên, một câu hỏi được đặt ra là tại sao
khi xây dựng lên điều luật về tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo
vệ rừng, các nhà làm luật lại xếp tội phạm này ở chương XVI: các tội xâm
phạm trật tự quản lý kinh tế mà không để ở chương XVII: các tội phạm về
môi trường ?
Theo hiểu biết của tác giả, rừng có nhiều lợi ích không chỉ đối với môi
trường sống của con người mà rừng còn mang lại lợi ích kinh tế khổng lồ
từ những cây gỗ quý, hiếm như: đinh, lim, sến, táu, trầm, hương v.v…
Những loại gỗ quý, hiếm này có giá trị rất cao trên thị trường. Không chỉ
dừng lại ở các loại gỗ quý hiếm, các loài động vật quý hiếm trong rừng như
báo, voi, hổ, tê giác v.v cũng là mục đích mà tội phạm hướng tới để thu
về lợi nhuận cao. Chính vì vậy mà tội phạm giàu lên nhanh chóng nhờ việc
9

khai thác và buôn bán các loại gỗ quý này, và cũng chính vì những “lợi ích
béo bở” đó mà tội phạm đã không từ bỏ một thủ đoạn nào để có thể đạt
được mục đích làm giàu từ những hành động phạm pháp. Rừng là nguồn tài
nguyên do thiên nhiên ban tặng cho loài người. Thế nhưng, nếu bị khai thác
một cách bừa bãi, trái phép sẽ nhanh chóng cạn kiệt gây thiệt hại cho lợi
ích của nhà nước, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân và qua đó gây ảnh
hưởng rất lớn đến nền kinh tế đất nước. Nhận thức rõ vai trò kinh tế của
rừng, các nhà làm luật đã quy định tội vi phạm các quy định về khai thác và
bảo vệ rừng ở Chương XVI – các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, góp
phần vào việc quản lý kinh tế ổn định và bền vững hơn.
Một vấn đề lý luận nữa mà tác giả muốn trình bày đó là tính nguy
hiểm cho xã hội của hành vi vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ
rừng.
Một sự thật không thể phủ nhận đó là rừng có nhiều vai trò quan trọng
trong đời sống con người như: là nguồn cung cấp oxy cho khi quyển – nhân
tố đặc biệt quan trong cho sự tồn tại của loài người và các loại sinh vật. Kế
đến, rừng chính là màng lọc không khí trong lành như: cản khói bụi, hạn
chế nhiều loại vi khuẩn, siêu vi khuẩn gây hại. Rừng còn là nhân tố quan
trọng trong điều hòa khí hậu trái đất hay nói cách khác rừng chính là lá
phổi xanh của trái đất. Bên cạnh đó, rừng cung cấp nguyên liệu, hợp chất
hóa học, lương thực, thực phẩm cho con người. Rừng không những có giá
trị kinh tế cao mà còn có vai trò quan trọng trong quốc phòng an ninh. Đặc
biệt, rừng tạo ra sự ổn định và cân bằng về môi trường sinh thái, hạn chế
các tác hại của thiên nhiên như mưa gió, lũ lụt, hạn hán, phục vụ đời sống
kinh tế, văn hóa, xã hội, du lịch cho con người.
Nhưng ngày nay, do nhu cầu và mục đích vụ lợi của con người mà
rừng ngày càng bị tàn phá nặng nề. Tội vi phạm các quy định về khai thác
10
và bảo vệ rừng là một loại tội phạm nguy hiểm, đe dọa đến tài nguyên thiên
nhiên rừng, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của con người. Hậu

quả của việc khai thác rừng trái phép là khôn lường. Việc đốt nương làm
rẫy đã thu hẹp rất nhiều diện tích rừng. Nguy hại nhất là việc làm đó đã phá
hủy vành đai rừng phòng hộ, dẫn đến hiểm họa sạt núi, lở đất và những cơn
lũ lớn không thể nào ngăn chặn được đang là mối đe dọa đối với chúng ta.
Kèm theo đó là sự nóng lên của trái đất, khí hậu thay đổi, thiên tai xảy ra
liên tục là những gì mà hành vi khai thác rừng bừa bãi đem lại.
Thực tế cho thấy, tội phạm vi phạm các quy định về khai thác và bảo
vệ rừng ngày càng gia tăng. Bọn lâm tặc săn lùng gỗ ở khắp nơi. Muốn lấy
gỗ quý chúng chẳng ngại phá hại hàng trăm cây cối to nhỏ xung quanh. Vì
tiền, chúng bẫy hổ, săn gấu, bò tót, hươu, nai, lợn rừng… ngay cả trong
mùa sinh sản làm cho các loại thú quý hiếm có nguy cơ tuyệt chủng, giảm
đi sự phong phú đa dạng của hệ sinh thái rừng.
Tài nguyên rừng nước ta trước đây bị đe dọa bởi những cuộc chiến
tranh kéo dài, ngày nay bị phá hoại bởi những hoạt động vô ý thức, vô
trách nhiệm, tùy tiện và thiếu kế hoạch trong việc khai thác và sử dụng
nguồn tài nguyên này. Với những hậu quả không thể lường trước đó mà
việc đưa hành vi vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng từ chỗ
chưa là đối tượng của TNHS trở thành hành vi bị coi là tội phạm trong luật
hình sự là cần thiết.
Hình phạt đối với người phạm tội là vấn đề lý luận cuối cùng mà tác
giả muốn đề cập đến.
Với tính chất của tội phạm là loại tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế,
mục đích mà tội phạm hướng tới là mục đích lợi nhuận và sự nguy hiểm
của tội phạm này, theo tác giả, luật nên quy định hình phạt phạt tiền là hình
11
phạt chính trong khung hình phạt cơ bản của tội vi phạm các quy định về
khai thác và bảo vệ rừng.
Phạt tiền là hình phạt tước của người phạm tội khoản tiền nhất định
sung công quỹ nhà nước, tước đi những quyền lợi vật chất của người bị kết
án, tác động đến tình trạng tài sản của họ và thông qua đó tác động đến ý

thức của người phạm tội. Phạt tiền nên được quy định trong khung hình
phạt cơ bản của tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng là
hình phạt chính, được áp dụng đối với người phạm tội ít nghiêm trọng xâm
phạm trật tự quản lý kinh tế do BLHS quy định. Và với tư cách là hình phạt
chínhngoài điều kiện áp dụng là những tội phạm ít nghiêm trọng, phạt tiền
còn được quy định trong chế tài lựa chọn cùng với các hình phạt chính
khác như cảnh cáo, cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn. Chế tài lựa chọn
này mở ra khả năng pháp lý cho việc tòa án quyết định hình phạt chính
thích hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm, nhân
thân người phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS, hoàn cảnh
kinh tế của người phạm tội cũng như khả năng thi hành án.
Để phù hợp và tương xứng với tính chất và sự nguy hiểm của tội
phạm này, mức phạt tiền được áp dụng cho người phạm tội là từ một trăm
triệu đồng đến năm trăm triệu đồng.
Thực tế cho thấy, lợi nhuận mà tội phạm thu được từ hành vi phạm tội
rất cao, khi đó hình phạt tiền trở nên “vô hại” với chúng. Và khi phạt tiền
không đủ sức răn đe và ngăn chặn được hành vi phạm tội vi phạm các quy
định về khai thác và bảo vệ rừng thì phạt tù là hình phạt rất cần thiết để áp
dụng cho tội phạm này bởi tính nguy hiểm của hành vi phạm tội. Hình phạt
tù sẽ tạo được sự răn đe đối với tội phạm và sự nghiêm khắc của pháp luật
đối với tội phạm. Khi áp dụng hình phạt tù, tội phạm sẽ bị cách ly khỏi xã
12
hội và khi đó họ không còn khả năng phạm tội gây thiệt hại cho lợi ích của
nhà nước, của tổ chức và công dân.
Ngoài các hình phạt chính nêu trên, một số hình phạt bổ sung cũng sẽ
là lựa chọn phù hợp với loại tội phạm này.
Bởi tính chất của tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng
liên quan đến kinh tế nên phạt tiền là hình phạt bổ sung phù hợp cho tội
phạm này,qua đó sẽ tác động phần nào đến ý thức phạm tội của tội phạm.
Bên cạnh đó, một hình phạt hình phạt bổ sung phù hợp với tội vi phạm

các quy định về khai thác và bảo vệ rừng đó là hình phạt cấm đảm nhiệm
chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định. Khi áp dụng là hình
phạt bổ sung đối với tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng,
hình phạt cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất
định sẽ được áp dụng cho những cán bộ làm công tác bảo vệ rừng khi họ có
hành vi vi phạm.Bởi nếu để người bị kết án tiếp tục đảm nhiệm những chức
vụ, làm những công việc đó thì có thể gây nguy hại cho xã hội. Họ có thể
tiếp tục lợi dụng chức vụ và quyền hạn của mình để phạm tội.
Một hình phạt bổ sung nữa mà luật nên quy định trong khung hình
phạt của tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng đó là hình
phạt tịch thu tài sản. Tịch thu tài sản sẽ áp dụng đối với người phạm tội rất
nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. Bởi tính chất của tội phạm là tội
liên quan đến kinh tế, tài sản mà người phạm tội có được rất có thể là do
phạm tội mà có. Và khi đó, để khối tài sản khổng lồ hơn nữa, tội phạm tiếp
tục dùng tài sản đó để đầu tư máy móc, công cụ v.v… để tiếp tục phạm tội.
Vậy nên tịch thu tài sản sẽ ngăn chặn được phần nào hành vi phạm tội của
tội phạm.
13
1.2. Khái quát lịch sử lập pháp hình sự về tội vi phạm các quy
định về khai thác và bảo vệ rừng
Sau thành công của Cách mạng tháng Tám năm 1945 cùng với việc
giải quyết các nhiệm vụ của cách mạng, Nhà nước ta đã quan tâm tới việc
bảo vệ các quan hệ xâm hại đến trật tự quản lý kinh tế bằng việc ban hành
các văn bản hình sự quy định tội phạm và hình phạt trừng trị người có hành
vi phạm tội xâm hại trật tự quản lý kinh tế nói chung, tội vi phạm các quy
định về khai thác và bảo vệ rừng nói riêng.
Ý thức được giá trị nhiều mặt của rừng, trong số những văn bản pháp
luật ban hành từ rất sớm như: Sắc lệnh số 26/SL ngày 25/02/1946 về các tội
phá hoại công sản; Sắc lệnh số 267/SL ngày 15/6/1956 về các âm mưu và
hành động phá hoại tài sản của Nhà nước, của Hợp tác xã và của nhân dân

làm cản trở việc thực hiện chính sách, kế hoạch Nhà nước; Sắc lệnh số
142/SL ngày 21/12/1949 quy định việc lập biên bản các hành vi vi phạm
pháp luật bảo vệ rừng có Thông tư số1303 BCN ngày 28/6/10946 của Liên
bộ Nội vụ - Công nghiệp đã quy định điều chỉnh những hành vi xâm hại
đến rừng. Thông tư nêu rõ: “Sẽ truy tố và trừng phạt đối với những hành vi
sau:
1. Những ai chặt cây hay lấy bất cứ sản vật gì trong rừng mà không có
giấy phép của Sở Lâm chính và trốn tránh không trả những món tiền khoán
(thuế kiểm lâm).
2. Những ai dù có giấy phép mà chặt những cây không đúng phân tấc đã
định.
3. Những ai chặt cây cấm.
4. Những ai làm than, củi, không có giấy phép hay có mà không tra
tiền bán khoán.
5. Những ai mang lâm sản đi mà không có giấy tờ hợp lệ.
14
6. Những ai khai thác nhựa cây khi cây ấy chưa đủ kích thước đã
định, dù họ đã có giấy phép khai thác (giấy chỉ cho khai thác cây đủ kích
thước).
7. Những ai đặt những doanh nghiệp, hay chế tạo lâm sản, lò than,
vôi, gạch, xưởng củi…trong rừng hay cách rừng từ hai cây số trở lên mà
không có giấy phép.
8. Những ai đốt nương không có giấy phép hay đốt những miền mà
tập tục ấy bị cấm ngặt…
9. Những ai đốt rừng hay gây những vụ cháy rừng.
Dù chỉ mang tính chất sơ khai nhưng Thông tư 1303/BCN đã quy định
nhiều loại hành vi gây thiệt hại cho rừng, thể hiện sự đánh giá cao về nguồn
tài nguyên rừng và đặt ra nhiệm vụ phải bảo vệ chúng. Trong tình hình đất
nước ta giai đoạn 1945 – 1946, việc quy định phải bảo vệ rừng có ý nghĩa
rất quan trọng. Nó là cơ sở nền móng để tiếp tục xây dựng và hoàn thiện

các quy định pháp luật điều chỉnh những QHXH trong lĩnh vực bảo vệ
rừng.
Tuy ra đời từ rất sớm nhưng Thông tư 1303/BCN không được thực
hiện trong thực tiễn do bối cảnh toàn quốc kháng chiến chống thực dân
Pháp. Tuy vậy chúng ta cũng nhận thức được rằng việc bảo vệ tài nguyên
rừng luôn là vấn đề cấp thiết trong mọi thời kỳ và luôn được sự quan tâm
của Nhà nước ta.
Trong công cuộc kháng chiến, rừng càng tỏ rõ vai trò quan trọng đối
với an ninh quốc phòng. Vì vậy ngày 8/7/1952 Thủ tướng Chính phủ đã ra
Nghị định số 181/TTg về việc nghiêm cấm đốt phá rừng để bảo vệ đường
giao thông, trong đó quy định rõ “cấm không được đốt phá rừng trên
những sườn núi ở sát cạnh đường”. Ngay sau khi hoàn thành cuộc kháng
chiến chống Pháp, ngày 3/10/1955 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Nghị
định 596/TTg quy định về các Điều lệ khai thác gỗ củi. Trong Nghị định
này tại mục B – cách xử lý đối với việc vi phạm điều lệ, Điều 13 điểm c
quy định: “những vụ phạm pháp có tính chất phá hoại sẽ do Tòa án xét xử
theo hình luật”.
15
Như vậy, việc điều chỉnh những QHXH liên quan đến lĩnh vực bảo vệ
rừng bằng chế tài hình sự được hình thành rất sớm trong các văn bản pháp
luật do Nhà nước ta ban hành và được phát triển qua từng thời kỳ.
Điều 12 Hiến pháp 1959 đã quy định: “các hầm mỏ, sông ngòi và
những rừng cây, đất hoang, tài nguyên khác mà pháp luật quy định là của
Nhà nước, đều thuộc sở hữu toàn dân”.
Như vậy, từ những quy định riêng lẻ chủ yếu phục vụ an ninh quốc
phòng, vai trò của rừng đã được chính thức ghi nhận trong Hiến pháp. Điều
này có ý nghĩa to lớn bởi nó là cơ sở pháp lý quan trọng nhất để ban hành
các văn bản pháp luật, điều chỉnh cụ thể các QHXH liên quan đến lĩnh vực
bảo vệ rừng.
Các nhà lập pháp ngày càng đánh giá cao vai trò quan trọng của rừng

trong các lĩnh vực của đời sống xã hội và an ninh quốc phòng. Và để kiên
quyết hơn, nhằm bảo vệ hiệu quả nguồn tài nguyên rừng, phát triển một
bước trong lập pháp, ngày 6/9/1972, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã thông
qua Pháp lệnh quy định về việc bảo vệ rừng. Pháp lệnh gồm V chương; 26
Điều. Trong đó Chương II gồm 13 Điều quy định về những biện pháp bảo
vệ rừng bao gồm những hành vi cấm không được làm và cả những hành vi
được phép làm đối với dân cư vùng có rừng phù hợp với tập quán sinh
hoạt. Những hành vi bị cấm gồm: Cấm phá rừng, cấm chặt cây rừng trái
với các điều quy định của Nhà nước, cấm săn bắt chim muông, thú rừng,
cấm phát rừng, đốt rừng để làm nương rẫy, cấm đốt lửa trong rừng, v.v…
(1)
Như vậy, lần đầu tiên những quy định về việc bảo vệ rừng đã được
hình thành một cách có hệ thống, cụ thể, phù hợp với những điều kiện
1(1)
Viện nghiên cứu khoa học pháp lý 1999 – 2000, Vietnam Laws – cơ sở dữ liệu văn bản quy phạm pháp luật Việt
Nam, phiên bản quý 1 năm 2000).
16
khách quan, tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc áp dụng pháp luật, bảo
vệ có hiệu quả hơn nguồn tài nguyên rừng.
Pháp lệnh cũng quy định cụ thể việc thưởng phạt bằng các chế tài từ
Điều 19 đến Điều 24. Trong đó Điều 22 nói rõ những trường hợp phải truy
cứu TNHS: “Kẻ nào vi phạm một trong những điều ghi ở chương II của
Pháp lệnh này hoặc tàng trữ, mua bán, vận chuyển trái phép lâm sản, gây
thiệt hại lớn đến tài nguyên rừng hoặc đã bị xử phạt mà còn vi phạm thì sẽ
bị truy tố trước TAND và có thể bị phạt tù từ 3 tháng đến 2 năm và phạt
tiền từ 200 đến 2000 đồng, hoặc một trong hai hình phạt đó.
Cố ý hủy hoại tài nguyên rừng hoặc cố ý làm trái nguyên tắc, chính
sách, chế độ thể lệ về bảo vệ rừng, gây thiệt hại đến tài nguyên rừng; thiếu
tinh thần hoặc vô ý làm cháy rừng hay có những hành động khác gây thiệt
hại nghiêm trọng đến tài nguyên rừng thì bị xử phạt theo Pháp lệnh trừng

trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa ngày 21/10/1970
Cố ý phá hoại tài nguyên rừng vì mục đích phản cách mạng thì bị xử
phạt theo Pháp lệnh trừng trị các tội phản cách mạng ngày 30/10/1967”.
(1)
Có thể thấy,pháp lệnh đã quy định rõ các dấu hiệu pháp lý của tội
phạm như hành vi và hậu quả, các chế tài cũng đã từng bước được ban
hành ngày càng có mức độ nghiêm khắc cao hơn. Tuy đã có Pháp lệnh làm
cơ sở pháp lý nhưng thực tiễn đây là giai đoạn cả nước ta đang dồn sức
người sức của cho công cuộc giải phóng miền nam, thống nhất đất nước.
Do vậy, những quy định của Pháp lệnh chưa được cụ thể hóa và chưa được
thực hiện sâu rộng trên phạm vi cả nước.
Năm 1975 đất nước thống nhất, trong không khí khẩn trương xây
dựng lại đất nước sau chiến tranh, lĩnh vực bảo vệ rừng cũng được đặc biệt
trú trọng. Nhiều văn bản pháp luật đã được ban hành quy định về việc quản
lý và bảo vệ rừng. Đáng chú ý nhất là Thông tư số 3984 – LN/KL ngày
15/10/1977 của Bộ lâm nghiệp hướng dẫn việc xử phạt hành chính đối với
các vi phạm luật lệ về bảo vệ rừng. Đây là thông tư hướng dẫn cụ thể Pháp
1
()
Viện nghiên cứu khoa học pháp lý 1999 – 2000, Vietnam Laws – cơ sở dữ liệu văn bản quy phạm pháp luật Việt
Nam, phiên bản quý 1 năm 2000).
17
lệnh quy định về việc bảo vệ rừng cả về phân hóa nhóm hành vi vi phạm và
định lượng xử lý hành chính, xác định ranh giới xử lý hành chính và truy
cứu TNHS. Thông tư chia làm IV phần, phần I về mục đích, yêu cầu của
việc xử phạt hành chính; phần II về nội dung của việc xử phạt hành chính;
phần III về các hành động vi phạm và mức độ xử phạt hành chính; phần IV
về việc thi hành xử phạt hành chính.
Trong toàn bộ nội dung của Thông tư 3984 /LN-KL, phần thứ III là
phần được xây dựng chi tiết, nêu cụ thể nhóm hành vi và định lượng tương

ứng cùng mức phạt. Phần thứ III điều chỉnh những loại hành vi sau:
“1. Phá rừng trái phép;
2. Khai thác, chặt cây rừng trái phép;
3. Phá, đốt rừng để làm nương rẫy;
4. Gây cháy rừng;
5. Chăn, thả gia súc trái phép vào rừng;
6. Săn bắn trái phép chim, muông, thú hoang dã;
7. Vi phạm chế độ phòng, trừ sâu, bệnh hại rừng;
8. Tàng trữ, mua bán, vận chuyển và sử dụng trái phép lâm sản”.
Như vậy, một đặc điểm dễ nhận ra là Thông tư 3984/LN – KL tuy
điều chỉnh tám nhóm hành vi song mỗi nhóm có sự phân hóa nhỏ thêm dựa
vào đối tượng tác động của hành vi. Tương ứng với từng hành vi, Thông tư
đã quy định mức định lượng cụ thể từ tối thiểu đến tối đa để xử phạt hành
chính. Ví dụ: với hành vi “khai thác không chuẩn bị rừng, vượt sản lượng
thiết kế, không đảm bảo các quy định về bảo vệ rừng trong chặt hạ, không
dọn vệ sinh rừng, v.v…trên diện tích từ 10 đến 20 hécta trở xuống, tùy theo
mức độ tác hại đến rừng có thể phạt tiền từ 11 đồng đến 200 đồng và đơn
vị khai thác phải có biện pháp sửa chữa theo quy trình”.
Thông tư 3984/LN-KL tại khoản 3 mục IX, phần III cũng quy định
đường lối xử lý đối với các hành vi vi phạm có mức độ tác hại đã gây ra
vượt quá mức độ xử phạt hành chính đã hướng dẫn trên đây thì sẽ khởi tố
về hình sự.
Dựa vào Thông tư 3984/LN-KL nhiều hành vi vi phạm đã bị xử lý,
hạn chế được phần nào tình trạng khai thác bừa bãi trái phép cây rừng. Tuy
nhiên, Thông tư vẫn còn bộc lộ những hạn chế, không theo kịp với diễn
18
biến của tình hình tội phạm. Nhiều hành vi nguy hiểm khác không chỉ xâm
phạm đến cây rừng mà cả đến đất rừng và các yếu tố có liên quan. Đào đãi
vàng, thải chất độc hại v.v… là những hành vi xâm hại nghiêm trọng đến
rừng, ảnh hưởng rất xấu đến tình hình an ninh trật tự xã hội chưa được đề

cập đến.
Nhìn chung, trong giai đoạn này việc xử lý hành vi vi phạm không
được quy định trong một điều luật độc lập mà việc xử lý thường viện dẫn
các tội danh khác trên cơ sở xác định mục đích là yếu tố quan trọng để xác
định tội danh.
Bộ luật hình sự năm 1985 được Quốc hội thông qua ngày 27/6/1985
và có hiệu lực từ ngày 01/11/1986 là Bộ luật hình sự đầu tiên của Nhà nước
ta. Trong bộ luật này lần đầu tiên tội vi phạm các quy định về quản lý và
bảo vệ rừng đã được quy đinh tại một điều độc lập: Điều 181 chương VII-
Các tội phạm về kinh tế - Bộ luật hình sự năm 1985. Cụ thể Điều 181
BLHS năm 1985 quy định như sau: “Người nào khai thác trái phép cây
rừng, săn bắn trái phép chim thú, hoặc có hành vi khác vi phạm các quy
định của Nhà nước về quản lý và bảo vệ rừng gây hậu quả nghiêm trọng
hoặc đã bị xử lý hành chính mà còn vi phạm thì bị phạt cải tạo không giam
giữ đến một năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến ba năm”.
Điều 181 BLHS năm 1985 quy định những loại hành vi sau:
- Khai thác trái phép cây rừng
- Săn bắt trái phép chim thú
- Có hành vi khác vi phạm các quy định của Nhà nước về quản lý và
bảo vệ rừng. Hành vi khác ở đây được quy định theo các văn bản hướng
dẫn dưới luật. Đó có thể là hành vi vi phạm các quy định về phòng cháy
chữa cháy, về phòng trừ sâu bệnh v.v…
Như vậy, lần đầu tiên trong BLHS hành vi khai thác trái phép cây
rừng và vi phạm các quy định về bảo vệ rừng đã được quy định là một tội
phạm độc lập bằng một điều luật cụ thể. Khái niệm về một tội phạm khi có
hành vi xâm phạm đến tài nguyên rừng đã được định hình một cách khái
quát nhất.
19
Sau Bộ luật hình sự năm 1985, nhiều văn bản luật quan trọng điều
chỉnh các quan hệ trong lĩnh vực bảo vệ rừng đã được ban hành nhằm tạo

cơ sở pháp lý vững chắc để bảo vệ nguồn tài nguyên này.Phải kể đến là
Luật bảo vệ và phát triển rừng vơi IX chương, 54 điều được ban hành vào
ngày 19/8/1991 là cơ sở quan trọng để tạo ra khung pháp lý nhằm cụ thể
hóa việc điều chỉnh các QHXH trong lĩnh vực này. Ngoài Luật bảo vệ và
phát triển rừng còn có hai văn bản khác đóng vai trò quan trọng trong việc
ngăn chặn nạn phá rừng, cụ thể hóa các hành vi, định lượng để xử lý có
phân biệt giữa xử phạt hành chính và truy cứu TNHS. Đó là chỉ thị số
90/CT ngày 19/3/1992 của Chủ tịch Hội Đồng Bộ Trưởng về thực hiện
những biện pháp cấp bách để chặn đứng nạn phá rừng và Nghị định số
14/CP ngày 05/12/1992 của Chính phủ ban hành quy định về xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng.
Trong Chỉ thị số 90/CT của Chủ tịch Hội Đồng Bộ Trưởng quy định:
“Đình chỉ ngay việc cấp giấy phép xuất khẩu các loại gỗ tròn, gỗ xẻ thu
hôi ngay các giấy phép đã cấp” [19, tr.49] và quyết định cho Bộ Lâm
nghiệp ra lệnh đóng cửa rừng ở những khu vực cần thiết. Chỉ thị này là một
quyết định đúng đắn, ngăn chặn nạn phá rừng trên diện rộng với số lượng
lớn vì lợi dụng vào sự hợp pháp của giấy phép khai thác. Bên cạnh đó Nghị
định số 14/CP ngày 05/12/1992 cùng với Thông tư số 09/LN-KL ngày
01/6/1993 của Bộ Lâm Nghiệp hướng dẫn thực hiện Nghị định số 14/CP đã
cụ thể hóa các hành vi vi phạm trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng.
Trong đó 13 loại hành vi vi phạm đã được xác định. Từ phá rừng trái phép,
khai thác rừng trái phép đến săn bắt động vật rừng, gây thiệt hại cho đất
rừng v.v…được quy định gắn liền với mức định lượng cụ thể để xử phạt
hành chính. Ví dụ: Khai thác rừng trái phép gỗ nhóm I hoặc gỗ quý hiếm
có khối lượng từ 0,5 đến 1m
3
sẽ bị phạt tiền từ 500.000đ đến 2.000.000đ.
Tại Điều 6 của Thông tư số 09/LN-KL quy định: đối với những vụ vi
phạm có nhiều tình tiết tăng nặng gây hậu quả nghiêm trọng vượt phạm vi
20

xử phạt vi phạm hành chính hoặc đương sự hành hung người thi hành công
vụ, thì tùy từng trường hợp cụ thể, cơ quan Kiểm lâm chuyển sang tiến
hành khởi tố, điều tra vụ án theo thẩm quyền pháp luật quy định, hoặc lập
hồ sơ chuyển sang Viện kiểm sát hoặc Cơ quan điều tra cùng cấp để đề
nghị truy cứu TNHS.
Đây chính là những quy định cụ thể để vận dụng Điều 181 BLHS năm
1985 xử lý các hành vi vi phạm. Thực tế Điều 181 đã góp phần rất lớn
trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm vi phạm các quy định về
khai thác và bảo vệ rừng.
Như vậy, Điều 181 BLHS năm 1985 không những điều chỉnh các
hành vi vi phạm quy định về khai thác và bảo vệ rừng mà còn điều chỉnh
các hành vi vi phạm quy định về quản lý rừng. Điều này chưa hợp lý và
còn chung chung. Bởi trong cùng một điều luật điều chỉnh quá nhiều hành
vi vi phạm như vậy sẽ dẫn đến khó khăn trong việc áp dụng hình phạt, cũng
như xác định hành vi phạm tội và như vậy việc bỏ lọt tội phạm là không
tránh khỏi.
Hình phạt đối với người phạm tội theo Điều 181 BLHS năm 1985 trên
là chưa thỏa đáng. Bởi hành vi khai thác rừng trái phép, săn bắn trái phép
chim thú gây hậu quả nguy hại rất lớn cho xã hội trong khi luật quy định
chỉ bị phạt cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng
đến ba năm. Quy định hình phạt đối với tội phạm này không tạo được sự
răn đe cần thiết đối với người phạm tội cũng như chưa đáp ứng được mục
đích phòng ngừa chung.
Quy định của Điều 181 BLHS năm 1985 đã xác định CTTP của tội vi
phạm các quy định về quản lý và bảo vệ rừng với những dấu hiệu pháp lý
đặc trưng và điển hình. Tuy nhiên việc xác định dấu hiệu hành vi khách
quan của tội phạm cần dựa trên các văn bản pháp lý chuyên ngành trong
lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng. Trong khi đó, ở thời điểm BLHS năm
1985 được ban hành, Luật bảo vệ và phát triển rừng chưa được ban hành.
21

Do vậy, so với quy định của Luật bảo vệ và phát triển rừng và các văn
bản khác có liên quan như Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính năm
1995, Nghị định số 14/CP ngày 5 tháng 2 năm 1992 của Chính phủ quy
định về xử phạt vi phamh hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng
thì quy định tại Điều 181 BLHS năm 1985 bộc lộ hạn chế đó là:
Thứ nhất, có sự mâu thuẫn giữa tên điều luật và hành vi được quy
định trong điều luật. Bởi vì tên điều luật là tội vi phạm các quy định về
quản lý và bảo vệ rừng nhưng hành vi vi phạm các quy định về quản lý
rừng được mô tả trong điều luật là“khai thác trái phép cây rừng, săn bắn
trái phép chim thú”.
Thứ hai, Điều 181 BLHS năm 1985 quy định: “đã bị xử lý hành chính
mà còn vi phạm” là không chính xác mà cần phải quy định là: “đã bị xử
phạt hành chính mà còn vi phạm” mới đúng. Bởi lẽ xử lý hành chính bao
gồm cả xử phạt hành chính và các biện pháp xử lý hành chính khác.Còn xử
phạt vi phạm hành chính được áp dụng đối với cá nhân, cơ quan, tổ chức có
hành vi cố ý hoặc vô ý vi phạm các quy định của pháp luật về quản lý nhà
nước mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử
phạt hành chính. Nếu quy định là xử lý vi phạm hành chính thì bao quát,
chung chung.
Trong một thời gian dài, các quy định của BLHS năm 1985 về tội vi
phạm các quy định về quản lý và bảo vệ rừng hầu như không có sự sửa đổi,
bổ sung. Chỉ duy nhất Luật sửa đổi, bổ sung BLHS năm 1989 có sự sửa đổi
một chút về hình phạt bổ sung đối với tội vi phạm các quy định về khai
thác và bảo vệ rừng. Theo đó người phạm tội vi phạm các quy định về khai
thác và bảo vệ rừng có thể bị phạt tiền đến 50.000.000đ (nâng mức phạt
tiền lên tối đa là 50.000.000đ).
22
Nhìn chung, quy định trong BLHS năm 1985 về tội vi phạm các quy
định về quản lý và bảo vệ rừng đã góp phần đáng kể vào việc răn đe và
trừng trị tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng, góp phần

nâng cao nhận thức về bảo vệ rừng cũng như đấu tranh phòng, chống tội
phạm vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng.
Năm 1999, Quốc hội khóa X, kỳ họp thứ 6 đã thông qua BLHS của
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và có hiệu lực từ ngày
21/12/2000. Một lần nữa tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ
rừng được đề cập tới tại Điều 175 Chương XVI – Các tội xâm phạm trật tự
quản lý kinh tế - BLHS 1999 (đã được sửa đổi, bổ sung ngày 19 tháng 6
năm 2009)
So với Điều 181 BLHS năm 1985, Điều 175 BLHS năm 1999 đã có
một số thay đổi quan trọng.
Thứ nhất, về dấu hiệu định tội, nhà làm luật đãquy định tình tiết làm
ranh giới phân biệt giữa hành vi vi phạm với hành vi phạm tội;
Thứ hai, các dạng hành vi khách quan của tội vi phạm quy định về
khai thác và bảo vệ rừng đã được mô tả khá chi tiết;
Thứ ba, hình phạt bổ sung đối với tội phạm này được quy định ngay
cùng một điều luật.
Để khắc phục những thiếu sót trên và hoàn thiện pháp luật hình sự,
nhà làm luật đã tách Điều 181 BLHS năm 1985 thành các Điều 175 và
Điều 176 BLHS năm 1999 và quy định tương ứng hai tội là tội vi phạm các
quy định về khai thác và bảo vệ rừng và tội vi phạm các quy định về quản
lý rừng.
Việc tách các tội phạm quy định Điều 181 BLHS năm 1985 thành các
tội độc lập là hết sức cần thiết.Nó đảm bảo cho việc điều chỉnh các QHXH
một cách cụ thể, tránh tình trạng hiểu thế nào cũng được, xử lý thế nào
cũng được.
Nhìn chung, các quy định trong BLHS năm 1999 về tội vi phạm các
quy định về khai thác và bảo vệ rừng đã khẳng định được sự răn đe, trừng
23
trị của pháp luật khi có hành vi vi phạm đến việc khai thác và bảo vệ rừng
trái pháp luật bởi CTTP rõ ràng, hành vi cụ thể và hình phạt thích đáng.

CHƯƠNG 2
DẤU HIỆU PHÁP LÝ CỦA TỘI VI PHẠM CÁC QUY ĐỊNH VỀ
KHAI THÁC VÀ BẢO VỆ RỪNG VÀ HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI
NGƯỜI PHẠM TỘI THEO BLHS NĂM 1999.
2.1. Dấu hiệu pháp lý của tội vi phạm các quy định về khai thác
và bảo vệ rừng
Dấu hiệu pháp lý đầu tiên cần được đề cập đến là khách thể của tội
phạm.
Điều 175 BLHS quy định về tội phạm vi phạm các quy định về khai
thác và bảo vệ rừng cho thấy hành vi khai thác và bảo vệ rừng trái pháp
luật đã được cụ thể hóa ở Chương XVI phần các tội phạm của BLHS. Qua
đó có thể xác định khách thể của tội vi phạm các quy định về khai thác và
bảo vệ rừng là QHXH được luật hình sự xác lập bảo vệ và bị hành vi vi
phạm quy định về khai thác và bảo vệ rừng xâm hại.
Chế độ quản lý kinh tế của Nhà nước bao gồm nhiều mảng quan hệ xã
hội khác nhau trong các lĩnh vực như kinh doanh; buôn bán; thuế v.v Do
nhà làm luật quy định tội phạm này tại Chương XVI – các tội xâm phạm
trật tự quản lý kinh tế, tội phạm này xâm hại tới khách thể loại là các
QHXH bảo đảm cho sự ổn định và phát triển của nền kinh tế quốc dân.
Hành vi phạm tội đã xâm hại đến các quan hệ này thông qua việc vi phạm
các quy định của nhà nước trong quản lý kinh tế và qua đó gây thiệt hại cho
lợi ích của nhà nước, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân.
Tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ xâm hại tới khách thể
trực tiếp là chế độ quản lý về khai thác và bảo rừng, rừng ở đây bảo gồm
rừng tự nhiên và rừng trồng với thực vật và động vật rừng cũng như những
yếu tố tự nhiên có liên quan đến rừng.
Khách thể của tội phạm là các QHXH. Tội phạm gây thiệt hại cho các
quan hệ này thông qua việc làm biến đổi tình trạng của các đối tượng tác
động – các bộ phận cấu thành của quan hệ xã hội. Các bộ phận của khách
24

thể có thể bị tác động là con người, các đối tượng vật chất hoặc là hoạt
động bình thường của chủ thể.
Phân tích hành vi phạm tội quy định tại Điều 175 BLHS có thể thấy:
Đối tượng tác động mà hành vi phạm tội hướng đến là cây rừng (rừng tự
nhiên hoặc rừng trồng) và các loài thực, động vật, các yếu tố tự nhiên có
liên quan đến rừng. Thông qua sự tác động vào các đối tượng này, hành vi
phạm tội đã xâm hại đến chế độ quản lý về khai thác và bảo vệ rừng, gây
thiệt hại cho Nhà nước. Tất cả các hành vi làm biến đổi tình trạng của rừng
một cách trái pháp luật đều là những hành vi gây thiệt hại cho chế độ quản
lý về khai thác và bảo vệ rừng. Sự làm biến đổi tình trạng này có thể do
những hành vi khác nhau gây ra như hành vi khai thác rừng trái phép; hành
vi buôn bán, vận chuyển gỗ trái phép.
Như vậy, tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng có đối
tượng tác động là rừng và các sản phẩm của rừng như gỗ và các lâm thổ
sản khác bị tội phạm xâm hại đến gây thiệt hại cho chế độ quản lý về khai
thác và bảo vệ rừng.
Qua nghiên cứu, tìm hiểu, tác giả nhận thấy khách thể của tội vi phạm
các quy định về khai thác và bảo vệ rừng có điểm giống với khách thể của
các tội như: tội buôn lậu (Điều 153); tội vận chuyển trái phép hàng hóa,
tiền tệ qua biên giới. Bởi đối tượng tác động của hành vi phạm tội của cả ba
tội này đều là hàng cấm. Theo quy định tại Điều 175 BLHS năm 1999: các
loại thực vật rừng thuộc nhóm IA là loại hàng cấm (cấm khai thác, sử dụng
vì mục đích thương mại). Do đó, chúng là đối tượng của tội sản xuất, tàng
trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm.
Ngoài ra khách thể của tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo
vệ rừng còn có điểm giống với khách thể của tội hủy hoại rừng (Điều 189).
25
Cả hai tội này đều xâm phạm đến chế độ quản lý của Nhà nước về khai
thác và bảo vệ rừng, đều có đối tượng tác động là rừng.
Bên cạnh đó, khách thể của tội vi phạm các quy định về khai thác và

bảo vệ rừng có điểm giống với khách thể của tội vi phạm các quy định về
bảo vệ động vật thuộc danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo
vệ (Điều 190). Cả hai tội này đều có đối tượng phạm tội là động vật thuộc
danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ theo quy định của
Chính phủ đã được liệt kê trong danh mục thực vật rừng, động vật rừng
nguy cấp, quý, hiếm ban hành theo Nghị định của Chính phủ số
33/2006/NĐ-CP ngày 30/3/2006. Ví dụ: tê giác một sừng, bò tót, bò xám,
bò rừng, hổ, báo, voi…Tuy nhiên, đối tượng tác động của tội vi phạm các
quy định về bảo vệ động vật hoang dã quý, hiếm là dấu hiệu bắt buộc trong
CTTP nhưng lại không là dấu hiệu bắt buộc trong CTTP của tội vi phạm
các quy định về khai thác và bảo vệ rừng.
Giữa các tội phạm này có điểm giống nhau như vậy nên cần phân biệt
chúng để tránh việc xác định nhầm tội. Việc phân biệt tội vi phạm các quy
định về khai thác và bảo vệ rừng với các tội phạm trên sẽ được nêu cụ thể ở
các phần phân tích tiếp theo.
Dấu hiệu pháp lý tiếp theo được phân tích thuộc mặt khách quan của
tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng.
Mặt khách quan của tội phạm là biểu hiện bên ngoài của tội phạm, bao
gồm những biểu hiện của tội phạm diễn ra hoặc tồn tại bên ngoài thế giới
khách quan như: hành vi khách quan nguy hiểm cho xã hội, hậu quả nguy
hiểm cho xã hội cũng như mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả,
các điều kiện bên ngoài của việc thực hiện hành vi phạm.
Tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng có CTTP vật
chất. Theo Điều 175 các dấu hiệu được phản ánh trong CTTP bao gồm: dấu

×