Tải bản đầy đủ (.docx) (54 trang)

thực trạng và giải pháp về huy động vốn của công ty cổ phần theo pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (579.25 KB, 54 trang )

ÂẢI HC HÚ
KHOA LÛT

BÀI NIÊN LUẬN
BỘ MÔN: KINH TẾ - QUỐC TẾ

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP VỀ
HUY ĐỘNG VỐN CỦA CÔNG TY CỔ
PHẦN
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
Giảng viên hướng dẫn: Sinh viên thực hiện:
ThS. Nguyễn Thanh Tùng Phan Thò Loan
Lớp: Luật K34A

.
Lời Cảm Ơn
Để hoàn thành niên luận này, ngoài sự cố
gắng của bản thân, sự giúp đỡ của bạn bè,
không thể không kể đến công lao dạy dổ của
quý thầy cô giáo. Em xin gửi tới quý thầy cô
khoa Luật lời cảm ơn chân thành nhất, đặc biệt
em muốn bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy
giáo Nguyễn Thanh Tùng người đã tận tình giúp
đở, hướng dẫn, chỉ bảo và đóng góp ý kiến để
em thực hiện niên luận này.
Do thời gian và lượng kiến thức còn hạn chế
nên trong quá trình nghiên cứu khó tránh khỏi
những thiếu sót. Rất mong nhận được sự đóng
góp ý kiến của các thầy cô giáo.
Em xin chân thành cảm ơn!
Huế, tháng 02 năm


2013
Sinh viên
Phan Thò Loan
2
.
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
1- CTCP : Công ty cổ phần
2- TSLĐSX : Tài sản lao động sản xuất
3- TSLĐ : Tài sản lao động
4- LN : Lâu năm
5- TSCĐ : Tài sản cố định
6- TSCĐ HH : Tài sản cố định hửu hình
7- TSCĐ VH : Tài sản cố định vô hình
8- TSCĐ TC : Tài sản cố định tài chính
3
.
MỤC LỤC
4
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đại hội 9 của Đảng Cộng Sản Việt Nam đă khẳng định nền kinh tế
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay vận động theo cơ chế thị trường định
hướng Xă hội chủ nghĩa. Chính phủ khuyến khính sự phát triển của mọi
thành phần kinh tế nhằm phát huy tối đa sức mạnh, xây dựng từng bước cơ
sở vật chất-kỹ thuật cho Chủ nghĩa xã hội.
Trong môi trường kinh tế đó, các loại hình doanh nghiệp cạnh tranh
bình đẳng với nhau trong qui định của Pháp luật. Số lượng doanh nghiệp,
quy mô doanh nghiệp ngày càng mở rộng, chính các doanh nghiệp là đơn
vị sản xuất-kinh doanh tạo ra phần lớn của cải cho xẵ hội, đóng góp vào sự
phát triển chung của đất nước.

Công ty cổ phần là một loại hình doanh nghiệp mới ra đời ở Việt Nam,
thời gian qua loại hình doanh nghiệp này chưa phổ biến. Lịch sử phát triển
kinh tế thế giới chỉ ra rằng Công ty cổ phần là mô hình kinh tế phổ biến và
hiệu quả. Ở Việt Nam, việc phát triển mô hình Công ty cổ phần ngoài việc
phát huy sức mạnh của mọi thành phần kinh tế còn mang ý nghĩa phát
triển mô hình sở hữu tập thể. Thực tế hoạt động Cổ phần hoá các doanh
nghiệp Nhà nước thời gian qua đã góp phần xác định rỏ ý nghĩa định hướng
Xã hội chủ nghĩa của cơ chế thị trường ở Việt Nam.
Tuy nhiên hiện nay các Công ty cổ phần ở Việt Nam chưa phát huy được
vai trò thời đại của mình. Qui mô, số lượng các công ty cổ phần còn nhỏ, hiệu
quả hoạt động chưa cao. Đóng góp của Công ty cổ phần cho sự phát triển kinh
tế đất nước chưa xứng với tiềm năng của Công ty cổ phần. Do đó, vấn đề đặt
ra là làm sao phát triển mô hình Công ty cổ phần ở Việt Nam.
Để tồn tại và phát triển, Công ty cổ phần phải liên tục vận động, sắp
xếp bộ máy tổ chức hợp lí, mở rộng qui mô sản xuất, áp dụng công nghệ
mới, công nghệ sạch, khai thác mở rộng thị trường nhưng công việc nay
không thể thiếu yếu tố đó là vốn.
Nhu cầu về vốn là một trong những bức xúc của doanh nghiệp nói
chung va công ty cổ phần nói riêng, đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay,
khi mà các công ty đều mong muốn đầu tư mở rộng sản xuất, đa dạng hoá
dịch vụ nhằm tăng cường khả năng cạnh tranh của công ty sau khi Việt
Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). CTCP có nhiều hình
thức để huy động vốn như phát hành cổ phiếu, trái phiếu, vay vốn ngân
hàng, tín dụng từ nhà cung cấp, thuê tài chính, v.v Mổi cách thức huy
động vốn đều có ưu nhược điểm riêng.
Tuy nhiên, do trình độ phát triển của hệ thống tài chính còn chưa
cao, cũng như một số hạn chế mang tính chủ quan khác, thực trạng huy
động vốn của các CTCP trong nước hiện còn tồn tại nhiều bất cập cần sớm
được giải quyết. Điển hình là tình trạng các công ty quá phụ thuộc vào
nguồn vốn vay ngân hàng, một nguồn vốn không dễ tiếp cận,trong khi đó

lại bỏ qua hoặc ít đẻ ý tới các nguồn vốn huy động nhiều tiềm năng khác.
Mặt khác, do hạn chế về trình độ nhân sự, các mô hình tính toán chi phí
vốn một cách khoa học hầu như không được các doanh nghiệp áp dụng khi
tim kiếm nguồn tài trợ.
Trong quá trình học tập và nghiên cứu tìm hiểu về tình hình hoạt
động tài chính của các CTCP hiện nay. Em nhận thấy việc làm thế nào để
huy động vốn cho CTCP và huy động bằng cách nào đang là một bài toán
khó. Nhất là các CTCP đang trong giai đoạn phát triển mạnh mẽ và có yêu
cầu cấp thiết về việc mở rộng huy động vốn để phục vụ cho sự mở rộng
hoạt động kinh doanh của mình.
Đây là một vấn đề em quan tâm nhiều nhất. Do vậy, em đã lựa chọn
đề tài cho niên luận của mình đó là: "Thực trạng và giải pháp về huy động
vốn của CTCP theo pháp luật Việt Nam".
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài:
Hệ thống hoá những vấn đề cơ bản về CTCP, nguồn vốn của CTCP, và
huy động vốn của CTCP trên thị trường theo pháp luật Việt Nam.
Thực trạng huy động vốn của CTCP trên thị trường ở Việt nam trong
thời gian qua.
Đề xuất các giải pháp tăng cường huy động vốn của CTCP trên thị
trường theo pháp luật Việt Nam, từ đó tạo điều kiện cho các CTCP phát
triển sản xuất kinh doanh, thể hiện rỏ vai trò vị trí của mình trong nền kinh
tế quốc dân.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đề tài lấy hoạt động huy động vốn của CTCP làm đối tượng nghiên cứu.
Phạm vi của đề tài là tập trung nghiên cứu các yếu tố tác động đến huy
động vốn của CTCP trên thị trường và các giải pháp tăng cường huy động
vốn của CTCP trên thị trường Việt Nam.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Nghiên cứu niên luận dựa trên pháp luật của nước
ta về quy định huy động vốn của CTCP.

Phương pháp nghiên cứu: Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu
khác nhau như phương pháp duy vật biện chứng, tổng hợp, so sánh, thống
kế, phân tích, qui nạp, diễn dịch để làm rỏ các vấn đề nghiên cứu và đánh
giá các thông tin có liên quan đến việc huy động vốn của CTCP.
5. ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài
Hệ thống hoá lí luận cơ bản về hoạt động huy động vốn của CTCP
trên thị trường theo pháp luật Việt Nam.
Đánh giá thực trạng huy động vốn của CTCP trên thị trường Việt Nam
những năm qua.
Đề xuất các giải pháp có tính khả thi về tăng cường huy động vốn của
CTCP trên thị trường Việt nam trong những năm tới.
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài lời mở đầu, danh mục tài liệu tham khảo, kết luận thì niên luận
gồm 3 chương.
Chương 1: Khái quát về công CTCP và tổng quan về vốn của doanh
nghiệp trong cơ chế thị trường theo pháp luật Việt Nam.
Chương 2: Thực trạng huy động vốn của CTCP.
Chương 3:Giaỉ pháp tăng cường huy động vốn của CTCP theo pháp
luật Việt Nam.
Để tìm hiểu kỹ lưởng và sâu sắc về tính huy động vốn của các CTCP
theo pháp luật Việt Nam đòi hỏi phải có nhiều thời gian. Do trình độ còn
hạn chế và thời gian nghiên cứu không nhiều nên em chỉ tập trung vào
nhửng vấn đề cơ bản về vốn và các phương thức huy động vốn của CTCP.
Bài niên luận chắc chắn không tránh khỏi sai sót, em rất mong sự
đóng góp của thầy, bạn bè và nhửng người quan tâm.
Em xin chân thành cảm ơn!
PHẦN NỘI DUNG.
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ CÔNG TY CỔ PHẦN VÀ
TỔNG QUAN VỀ VÔN CỦA DOANG NGHIỆP TRONG
CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNGTHEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM

1.1. Công ty cổ phần
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của CTCP
Với tính chất như một hiện tượng kinh tế - xã hội, Công ty cổ phần nói
riêng cũng như các loại hình công ty nói chung đã trở thành một thực thể
pháp lí. Trong khoa học pháp lí, hệ thống pháp luật của các quốc gia khác
nhau lại có các định nghĩa khác nhau về công ty cổ phần. Pháp luật hiện
hành của Việt Nam không đưa ra định nghĩa cụ thể về công ty cổ phần mà
chỉ đưa ra những dấu hiệu để nhận biết công ty cổ phần. Khoản 1 Điều 77
Luật doanh ngiệp 2005 có quy định rõ:
"Công ty cổ phần là doanh nghiệp, trong đó:
a) Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần;
b) Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng cổ đông tối thiểu là ba
và không hạn chế số lượng tối đa;
c) Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản
khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp;
d) Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người
khác, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 81 và khoản 5 Điều 84 của
Luật này (Cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi biểu quyết không được chuyển
nhượng cổ phần đó cho người khác; trong thời hạn ba năm kể từ ngày
công ty được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, cổ đông sáng lập
có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần phổ thông của mình cho cổ đông
sáng lập khác nhưng chỉ được chuyển nhượng cổ phần phổ thông của mình
cho người không phải là cổ đông sáng lập nếu được sự chấp thuận của Đại
hội đồng cổ đông sau 3 năm mọi hạn chế đối với cổ đông sáng lập bị bãi
bỏ)".
Công ty cổ phần có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh.
Công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán các loại để huy
động vốn.
1.1.4. Ưu, nhược điểm của CTCP.

Từ đó có thể thấy ưu nhược điểm của CTCP như sau:
Ưu điểm của loại hình công ty cổ phần:
Chế độ trách nhiệm của công ty cổ phần là trách nhiệm hữu hạn, các
cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của công
ty trong phạm vi vốn góp nên mức độ rủi do của các cổ đông không cao.
Khả năng hoạt động của công ty cổ phần rất rộng, trong hầu hết các
lịch vực, ngành nghề.
Cơ cấu vốn của công ty cổ phần hết sức linh hoạt tạo điều kiện nhiều
người cùng góp vốn vào công ty.
Khả năng huy động vốn của công ty cổ phần rất cao thông qua việc
phát hành cổ phiếu ra công chúng, đây là đặc điểm riêng có của công ty cổ
phần. Tính chất ổn định, lâu bền, sự thừa nhận hợp pháp, khả năng chuyển
nhượng các cổ phần và trách nhiệm hữu hạn, tất cả cộng lại, có nghĩa là
nhà đầu tư có thể đầu tư mà không sợ gây nguy hiểm cho những tài sản cá
nhân khác và có sự đảm bảo trong một chừng mực nào đo giá trị vốn đầu tư
sẽ tăng lên sau mỗi năm. Điều này đã tạo khả năng cho hầu hết các công ty
cổ phần tăng vốn tương đối dễ dàng.
Việc chuyển nhượng vốn trong công ty cổ phần là tương đối dễ dàng,
do vậy phạm vi đối tượng được tham gia công ty cổ phần là rất rộng, ngay
cả các cán bộ công chức cũng có quyền mua cổ phiếu của công ty cổ phần
Nhược điểm của loại hình Công ty cổ phần:
Việc quản lý và điều hành công ty cổ phần rất phức tạp do số lượng
các cổ đông có thể rất lớn, có nhiều người không hề quen biết nhau và thậm
chí có thể có sự phân hóa thành các nhóm cổ động đối kháng nhau về lợi
ích. Thậm chí phía các cổ đông thường thiếu quan tâm đúng mức, rất nhiều
cổ đông chỉ lo nghĩ đến lãi cổ phần hàng năm và ít hay không quan tâm đến
công việc của công ty. Sự quan tâm đến lãi cổ phần này đã làm cho một số
ban lãnh đạo chỉ nghĩ đến mục tiêu trước mắt chứ không phải thành đạt lâu
dài. Với nhiệm kỳ hữu hạn, ban lãnh đạo có thể chỉ muốn bảo toàn hay tăng
lãi cổ phần để nâng cao uy tín của bản thân mình.

Việc thành lập và quản lý công ty cổ phần cũng phức tạp hơn các loại
hình công ty khác do bị ràng buộc chặt chẽ bởi các quy định của pháp luật,
đặc biệt về chế độ tài chính, kế toán.
Công ty cổ phần bị đánh thuế hai lần. Lần thứ nhất thuế đánh vào
công ty. Sau đó, khi lợi nhuận được chia, nó lại phải chịu thuế đánh vào thu
nhập cá nhân của từng cổ đông.
Khó giữ bí mật: vì lợi nhuận của các cổ đông và để thu hút các nhà
đầu tư tiềm tàng, công ty thường phải tiết lộ những tin tức tài chính quan
trọng, những thông tin này có thể bị đối thủ cạnh tranh khai thác.
Vì loại hình công ty cổ phần là loại doanh nghiệp đại chúng, số lượng
các cổ đông không hạn chế do đó, vị trí Giám đốc (Tổng giám đốc) Công ty
cổ phần rất quan trọng các quyết định của Giám đốc (Tổng giám đốc) công
ty cổ phần ảnh hưởng lớn đến nhiều cổ đông khác và để đảm bảo tính
khách quan trong hoạt động kinh tế của loại hình này nên tại khoản 2 điều
116 Luật doanh nghiệp quy định hạn chế quyền của Giám đốc (Tổng giám
đốc) công ty cổ phần :
“….Giám đốc hoặc Tổng giám đốc công ty không được đồng thời làm
Giám đốc hoặc Tổng giám đốc của doanh nghiệp khác ,,”
1.1.2. Cơ cấu tổ chức quản lý của CTCP.
Công ty cổ phần có Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị và Giám
đốc (Tổng giám đốc). Với Công ty cổ phần có trên 11 cổ đông th́ có thêm
Ban kiểm soát.
Đại hội đồng cổ đông gồm tất cả các cổ đông có quyền biểu quyết, là
cơ quan quyết định cao nhất của Công ty cổ phần. Đại hội đồng cổ đông có
các quyền chính sau:
Quyết định loại và số cổ phần được quyền chào bán của từng loại.
Quyết định mức cổ tức hàng năm.
Bầu, miễn nhiệm, băi nhiệm thành viên Hội đồng quản trị, thành viên
Ban kiểm soát.
Quyết định tổ chức lại và giải thể Công ty cổ phần.

Quyết định sửa đổi, bổ sung điều lệ Công ty cổ phần.
Thông qua báo cáo tài chính hàng năm.
Quyết định mua lại hơn 10% tổng số cổ phần đă bán của mỗi loại.
Hội đồng quản trị là cơ quan quản lư Công ty cổ phần, có toàn quyền
nhân danh công ty để quyết định mọi vấn đề liên quan đến mục đích, quyền
lợi của công ty (trừ những vấn đề thuộc thẩm quyền của Đại hội đồng cổ
đông). Hội đồng quản trị có các quyền và nghĩa vụ chính sau:
Quyết định chiến lược phát triển của công ty.
Kiến nghị loại cổ phần và tổng số cổ phần được quyền chào bán của
từng loại; quyết định huy động thêm vốn theo h́nh thức khác.
Quyết định phương án đầu tư.
Quyết định giải pháp phát triển thị trường; thông qua hợp đồng mua
bán, vay, cho vay và các hợp đồng khác có giá trị bằng hoặc lớn hơn 50%
tổng giá trị tài sản được ghi trong sổ kế toán của công ty.
Bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Giám đốc (Tổng giám đốc) và cán
bộ quản lí quan trọng khác của công ty.
Quyết định cơ cấu tổ chức, quy chế quản lí nội bộ công ty, quyết định
thành lập công ty con, lập chi nhánh, văn phòng đại diện và việc góp vốn,
mua cổ phần của doanh nghiệp khác.
Trình báo cáo quyết toán tài chính hàng năm lên Đại hội đồng cổ đông
Hội đồng quản trị gồm không quá 11 thành viên, Hội đồng quản trị
bầu Chủ tịch Hội đồng quản trong số các thành viên của mình. Chủ tịch
Hội đồng quản trị có thể kiêm Giám đốc (Tổng giám đốc) theo điều lệ của
công ty.
Giám đốc (Tổng giám đốc) là người điều hành hoạt động hàng ngày
của công ty và chịu trách nhiệm trước Hội đồng quản trị về việc thực hiện
các quyền và nhiệm vụ được giao.
1.1.1.3. Cổ phần, cổ phiếu, cổ tức
Thứ nhất,Cổ phần:
" Điều 78. Các loại cổ phần

1. Công ty cổ phần phải có cổ phần phổ thông. Người sở hữu cổ phần
phổ thông là cổ đông phổ thông.
2. Công ty cổ phần có thể có cổ phần ưu đãi. Người sở hữu cổ phần ưu
đãi gọi là cổ đông ưu đãi.
Cổ phần ưu đãi gồm các loại sau đây:
a) Cổ phần ưu đãi biểu quyết;
b) Cổ phần ưu đãi cổ tức;
c) Cổ phần ưu đãi hoàn lại;
d) Cổ phần ưu đãi khác do Điều lệ công ty quy định.
3. Chỉ có tổ chức được Chính phủ uỷ quyền và cổ đông sáng lập được
quyền nắm giữ cổ phần ưu đãi biểu quyết. Ưu đãi biểu quyết của cổ đông
sáng lập chỉ có hiệu lực trong ba năm, kể từ ngày công ty được cấp Giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh. Sau thời hạn đó, cổ phần ưu đãi biểu
quyết của cổ đông sáng lập chuyển đổi thành cổ phần phổ thông.
4. Người được quyền mua cổ phần ưu đãi cổ tức, cổ phần ưu đãi hoàn
lại và cổ phần ưu đãi khác do Điều lệ công ty quy định hoặc do Đại hội
đồng cổ đông quyết định.
5. Mỗi cổ phần của cùng một loại đều tạo cho người sở hữu nó các
quyền, nghĩa vụ và lợi ích ngang nhau.
6. Cổ phần phổ thông không thể chuyển đổi thành cổ phần ưu đãi. Cổ
phần ưu đãi có thể chuyển đổi thành cổ phần phổ thông theo quyết định của
Đại hội đồng cổ đông".
Căn cứ theo điều 78 của luật Doanh nghiệp 2005 thì CTCP có cổ phần
phổ thông và có thể có cổ phần ưu đăi.
Cổ phần phổ thông: là cổ phần bắt buộc phải có của công ty cổ phần.
Người sở hữu cổ phần phổ thông được gọi là cổ đông phổ thông. Là người
chủ sở hữu của công ty cổ phần nên họ có quyền quyết định những vấn đề
rất quan trọng liên quan đến công ty cổ phần (Điều 79 và 80 Luật doanh
nghiệp 2005). Bên cạnh đó pháp luật còn quy định một số hạn chế về
quyền của các cổ đông sáng lập đối với loại cổ phần phổ thông mà họ sở

hữu trong thời hạn 3 năm kể từ ngày công ty cổ phần được cấp Giấy chứng
nhận đăng ký kinh doanh (Điều 84 Luật doanh nghiệp 2005).
Công ty cổ phần có thể có các loại cổ phần ưu đãi sau:
Thứ nhất, Cổ phần ưu đãi biểu quyết: là cổ phần có số phiếu biểu
quyết nhiều hơn so với cổ phần phổ thông. Số phiếu biểu quyết của một cổ
phần ưu đãi biểu quyết do điều lệ công ty quy định. Chỉ có tổ chức được
Chính phủ uỷ quyền và cổ đông sáng lập được quyền nắm giữ cổ phần ưu
đãi biểu quyết.
Thứ hai,Cổ phần ưu đãi cổ tức: là cổ phần được trả cổ tức với mức
cao hơn so với mức cổ tức của cổ phần phổ thông hoặc mức ổn định hằng
năm. Cổ tức là số tiền được trích ra từ lợi nhuận, được chia hằng năm bao
gồm cổ tức cố định và cổ tức thưởng. Cổ tức cố định không phụ thuộc vào
kết quả kinh doanh của công ty. Mức cổ tức cố định cụ thể và phương thức
xác định cổ tức thưởng được ghi trên cổ phiếu của cổ phần ưu đãi cổ tức.
Cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi cổ tức bị tước bỏ một số quyền cơ bản của
cổ đông.
Thứ ba,Cổ phần ưu đãi hoàn lại: là cổ phần được công ty hoàn lại vốn
góp bất cứ khi nào theo yêu cầu của người sở hữu hoặc theo các điều kiện
được ghi tại cổ phiếu của cổ phần ưu đãi hoàn lại. Cổ đông sở hữu cổ phần
ưu đãi hoàn lại bị tước bỏ một số quyền cơ bản của cổ đông.
Cổ phần ưu đãi khác do Điều lệ công ty quy định.
Chỉ có cổ đông sáng lập mới được quyền nắm giữ cổ phần ưu đăi biểu
quyết. Cổ phần ưu đăi biểu quyết này chỉ có hiệu lực trong ṿng 3 năm kể từ
ngày Công ty cổ phần được cấp giấy chứng nhận đăng kư kinh doanh, sau
thời hạn đó, cổ phần ưu đăi biểu quyết chuyển thành cổ phần phổ thông.
Thứ hai,Cổ phiếu: Cổ phiếu có thể ghi tên hoặc không ghi tên. Là giấy
chứng nhận số tiền nhà đầu tư đóng góp vào công ty phát hành. Cổ phiếu là
chứng chỉ do công ty cổ phần phát hành hoặc bút toán ghi sổ xác
nhận quyền sở hữu một hoặc một số cổ đông của công ty đó.
Nguời nắm giữ cổ phiếu trở thành cổ đông và đồng thời là chủ sở hữu

của công ty phát hành.
Thứ ba,Cổ tức: Công ty cổ phần trả cổ tức cho cổ đông khi công ty
kinh doanh có lăi, hoàn thành nghĩa vụ nép thuế và các nghĩa vụ tài chính
khác theo qui định của Pháp luật. Mức cổ tức trả đối với từng cổ phần do
Hội đồng quản trị xác định.
1.2. Vốn
1.2.1. Khái niệm
Để hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thực sự có hiệu
quả thì điều đầu tiên mà các doanh nghiệp quan tâm và nghỉ đến là làm thế
nào để có đủ vốn và sửdụng nó thế nào để đem lại hiệu quả cao nhất. Vậy
vấn đề đặt ra ở đây - vốn là gì? Các doanh nghiệp cần bao nhiêu vốn thì đủ
cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
Vốn là điều kiện không thể thiếu để một doanh nghiệp được thành lập
và tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong mọi loại hình doanh
nghiệp, vốn phản ánh nguồn lực tài chính đầu tư vào sản xuất kinh doanh.
Tuy nhiên, khi nói về vốn vẫn còn tồn tại rất nhiều quan điểm và tranh luận
về định nghĩa về vốn.
Theo K.Marx, vốn (tư bản) là giá trị đem lại giá trị thặng dư, là đầu
vào của quá trình sản xuất. Định nghĩa này có một tầm khái quát lớn bao
hàm đầy đủ cả bản chất và vai trò của vốn. Bản chất của vốn là giá trị cho dù
nó được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Vốn là giá trị đem lại giá
trị thặng dư nó tạo ra sự sinh sôi về giá trị thông qua hoạt động sản xuất
kinh doanh. Tuy nhiên do hạn chế về trình độ phát triển lúc bấy giờ mà Marx
đẵ bó hẹp khái niệm về vốn trong khu vực sản xuất vật chất và cho rằng chỉ
có quá trình sản xuất mới tạo ra giá trị thặng dư cho nền kinh tế.
Theo P.Samuelson, vốn là các hàng hóa được sản xuất ra để phục vụ
cho quá trình sản xuất mới, là đầu vào của hoạt động sản xuất của một
doanh nghiệp.
Theo D.Begg, ông cho rằng vốn bao gồm vốn hiện vật và vốn tài
chính. Vốn hiện vật là dự trữ các hàng hóa và các giấy tờ có giá của doanh

nghiệp. Như vậy Begg đã đồng nhất vốn với tài sản của doanh nghiệp.
Thực chất vốn của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của tất cả các tài sản
mà doanh nghiệp dùng trong quá trình sản xuất kinh doanh. Vốn của doanh
nghiệp được phản ánh trong bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp.
Trong nền kinh tế thị trường, vốn được coi là một loại hàng hóa. Nó
giống các loại hàng hóa khác ở chỗ có chủ sở hữu đích thực, song nó có
đặc điểm là người sở hữu vốn có thể bán quyền sử dụng vốn trong một thời
gian nhất định. Chi phí của việc sử dụng vốn chính là lãi suất. Chính nhờ
có sự tách rời quyền sử hữu và quyền sử dụng nên vốn có thể lưu chuyển
trong đầu tư kinh doanh để sinh lợi.
Dưới góc độ doanh nghiệp, vốn là một trong những điều kiện vật chất
cơ bản kết hợp với sức lao động và các yêu tố khác làm đầu vào cho quá
trình sản xuất kinh doanh. Sự tham gia của vốn không chỉ bó hẹp trong quá
trình sản xuất vật chất riêng biệt mà trong toàn bộ quá trình sản xuất và tái
sản xuất liên tục trong suốt thời gian tồn tại của doanh nghiệp từ khi bắt
đầu đến khi kết thúc quá trình sản xuất.
Như vậy, một cách thông dụng nhất, vốn có thể hiểu là các nguồn tiền tài
trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nguồn tiền này
được hình thành dưới nhiều cách thức khác nhau và tại các thời điểm khác
nhau. Giá trị nguồn vốn phản ánh nguồn lực tài chính được đầu tư vào sản
xuất kinh doanh. Tùy từng loại hình doanh nghiệp và các đặc điểm cụ thể mà
mỗi doanh nghiệp có các phương thức tạo vốn và huy động vốn khác nhau.
1.2.2. Phân loại vốn trong doanh nghiệp
Có nhiều cách phân loại vốn, tùy thuộc vào mổi gốc độ khác nhau ta
có các cách phân loại vốn khác nhau.
1.2.2.1. Phân loại vốn theo Tài sản
Loại một: Vốn Lưu động (Tài sản)
Tài sản lưu động được biểu hiện bằng tiền góp toàn bộ Tài sản của
doanh nghiệp có thời gian luân chuyển ngắn, thường trong một kỳ kinh
doanh hay trong vòng một năm. Có thể phân TSLĐ thành ba loại:

TSLĐ sản xuất
TSLĐ lưu thông
TSLĐ Tài chính
TSLĐ sản xuất: Là những tài sản dự trữ trong quá trình sản xuất
(Nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ, tồn kho)
TSLĐ lưu thông: Là thành phẩm, hàng hoá, dự trữ trong kho hay gửi
đi bán, tiền mặt, tiền gửi.
Loại hai: Tài sản cố định
Là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản của doanh nghiệp, có thời
gian di chuyển dài, thường trên một năm tuỳ theo tính chất đầu tư.
TSCĐ hữu hình: Là biểu hiện bằng tiền có giá trị lớn, thời gian sử
dụng dài (máy móc, thiết bị, nhà xưởng). Tài sản có thể từ doanh nghiệp
mua sắm hoặc xây dựng hay đi thuê dài hạn.
TSCĐ vô hình: Là tài sản phản ánh một lượng giá trị mà doanh
nghiệp đã thực sự đầu tư, xuất phát từ lợi ích hay đặc quyền đặc lợi doanh
nghiệp (bằng phát minh, sáng chế, quyền sử dụng đất.)
TSCĐ tài chính: Là các khoản đầu tư tài chính dài hạn, với mục đích
kiếm lời, đầu tư liên kết, liên doanh, mua chứng khoán, cho vay. Đây là
những khoản đầu tư dài hạn (Trên 1 năm).
1.2.2.2. Phân loại vốn theo nguồn hình thành
Toàn bộ vốn của doanh nghiệp được hình thành từ nguồn vốn chủ sở
hữu và nguồn vốn nợ phải trả.
Thứ nhất: Nguồn vốn chủ sở hữu.
Là số tiền của các ông chủ, các nhà đầu tư đóng góp vào tuỳ theo từng
loại hình doanh nghiệp (Nhà nước, tư nhân, liên doanh, liên kết, công ty cổ
phần). Vốn chủ sở hữu được hình thành bằng nhiều nguồn khác nhau, bao gồm:
Vốn góp: Là số vốn do các bên tham gia thành lập doanh nghiệp tiến
hành đóng góp vào nhằm phục vụ mục đích kinh doanh. Số vốn này tăng
thêm hay giảm đi trong quá trình điều hành hoạt động kinh doanh.
Lợi nhuận chưa phân phối (Lãi): Là phần chênh lệch giữa Doanh thu

thuần của các hoạt động tài chính và các khoản thu nhập bất thường trừ các
Chi phí công đoàn, Chi phí tài chính và các chi phí bất thường khác.
Vốn chủ sở hữu khác là số vốn sở hữu có nguồn gốc lợi nhuận để lại
(các quỹ của Doanh nghiệp) hoặc các loại vốn khác như vốn xây dựng cơ
bản kinh phí nhà nước cấp.
Thứ hai: Công nợ phải trả:
Là số tiền doanh nghiệp phải đi vay đi chiếm dụng của các đơn vị, của cá
nhân mà doanh nghiệp phải có trách nhiệm trả, vay ngắn hạn, nợ ngắn hạn.
SƠ ĐỒ PHÂN LOẠI VỐN CỦA DOANH NGHIỆP
TSLĐ tài chính
TSLĐSX
TSLĐ
Vốn của
doanh
nghiệp
Vốn chủ sở
hữu
vốn góp
TSLĐ lưu thông
LN chưa
phân phối
Vốn chủ
sở hữu
TSCĐ HH
TSCĐ Công nợ
phải trả
TSCĐVH Nợ ngắn hạn
TSCĐTC Nợ dài hạn
1.2.3. Vai trò của vốn đối với hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiên nay

Trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay, xu thế hội nhập nền
kinh tế, vấn đề toàn cầu hóa về phát triển công nghệ thông tin… Việt Nam
muốn tham gia vào quá trình toàn càu hóa thì cũng sẽ phải đối mặt với
những vấn đề mà thế giới đang phải đối mặt. Vì vậy, việc các doanh nghiệp
Việt Nam có đủ khả năng cạnh tranh và hội nhập hay không còn phụ thuộc
vào nhiều yếu tố như: Yếu tố về vốn, trình độ máy móc thiết bị, công nghệ,
năng lực đội ngủ cán bộ, tỷ suất lợi nhuận trên vốn… trong đó, yếu tố
chúng ta cần nói đến ở đây là yếu tố về vốn, hiệu quả sử dụng vốn của
doanh nghiệp.
Vốn là tiền đề cho sự ra đời của doang nghiệp, là cơ sở để doanh
nghiệp mở rộng quy mô sản xuất, tạo công ăn việc làm cho người lao động
tiến hành đầu tư đổi mới công nghệ, trang thiết bị sản xuất kinh doanh. Nếu
thiếu vốn thì quá trình sản xuất của doanh nghiệp sẽ bị ngưng trệ, đồng thời
kéo theo hàng loạt các tác động tiêu cực khác đến bản thân doanh nghiệp
và đời sống của người lao động. Vai trò của vốn được thể hiện rõ nét qua
các mặt sau:
Thứ nhất, Về mặt pháp lý:Một doanh nghiệp khi muốn thành lập thì
điều kiện đầu tiênlà doanh nghiệp phải có một lượng vốn nhất định mà
lượng vốn này tối thiểu phải bằng lượng vốn pháp định, khi đó địa vị pháp
lý của doanh nghiệp mới được xác lập. Trong trường hợp quá trình hoạt
động kinh doanh, vốn doanh nghiệp không đạt được điều kiện mà pháp luật
quy định thì kinh doanh đó sẽ bị chấm dứt hoạt động như: phá sản hoặc sáp
nhập doanh nghiệp. Như vậy, có thể xem vốn là một trong những cơ sở
quan trọng để đảm bảo sự tồn tại tư cách pháp nhân của một doanh nghiệp
trước pháp luật.
Thứ hai, Về mặt kinh tế: Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, vốn là
một trong những yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh
nghiệp. Nó không những đảm bảo khẳ năng mua sắm máy móc thiết bị, dây
chuyền công nghệ để phục vụ cho quá trình sản xuất mà còn đảm bảo cho
hoạt động sản xuất kinh doanh được diển ra thường xuyên và liên tục. Vốn

đảm bảo cho quá trình sản suất kinh doanh được diển ra liên tục, giúp
doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường đặc biệt trong
giai đoạn hiện nay - một nền kinh tế phát triển theo xu hướng toàn cầu hóa,
hội nhập. Ngoài ra, vốn còn là một trong những điều kiện để sử dụng các
nguồn tiềm năng hiện có và tương lai về sức lao dộng, nguồn hàng hóa, mở
rộng, phát triển thị trường, mở rộng lưu thông và tiêu thụ hành hóa, là chất
keo dính kết quá trình và quan hệ kinh tế, là dầu bôi trơn cho cổ máy kinh
tế hoạt động. Trong quá trình sản xuất kinh doanh, vốn tham gia vào tất cả
các khâu từ sản xuất đến tiêu thụ và cuối cùng nó lại trở về hình thái ban
đầu là tiền tệ. Như vậy, sự luân chuyển vốn giúp doanh nghiệp thực hiện
được hoạt động tái sản xuất và tái sản xuất mở rộng của mình.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VỐN
CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN
2.1. Thực trạng huy động vốn của CTCP ở Việt Nam
2.1.1. Quátrình hình thành và phát triển của CTCP
Ở các nước khác nhau, CTCP có thể có những tên gọi khác nhau. Ở
Pháp là công ty vô danh (anonymous Company), Ở Anh là công ty với
trách nhiệm hữu hạn (Company LTD), ở Mỹ nó được gọi là công ty kinh
doanh (Commercial Coporation), và ở Nhật Bản gọi là công ty chung cổ
phần (Kabushiki Kaisha)….
Quá trình công nghiệp hoá ở các nước châu Âu và Bắc Mỹ từ thế kỷ
18, 19 cùng với nhu cầu tích tụ vốn để đầu tư của các nhà tư bản đã làm
xuất hiện loại hình CTCP. Sự phát triển mạnh mẽ của Chủ nghĩa Tư bản đòi
hỏi sản xuất kinh doanh phải có quy mô ngày càng to lớn, cạnh tranh và
độc quyền có mức độ ngày càng gay gắt. Các chủ tư bản đi đến thoả hiệp
với nhau nhằm thu được lợi nhuận tối đa và bành trướng hơn nữa thế lực
kinh tế của mình. CTCP là hình thức kinh doanh thoả mãn được những nhu
cầu này, nó tạo điều kiện thuận lợi cho việc thu hút và tập trung tư bản, như
nhận định của Các Mác “Qua các công ty cổ phần, sự tập trung đã thực
hiện được việc đó trong nháy mắt”.

Về mặt lịch sử hình thành, CTCP ra đời sau các loại công ty đối nhân
nhưng là hình thức đầu tiên của loại hình công ty đối vốn. Khác với sự ra
đời của hình thức công ty TNHH – là sản phẩm của các nhà lập pháp xuất
phát từ nhu cầu của thực tiễn kinh doanh, CTCP được hình thành trong hoạt
động kinh doanh và do nhu cầu của các nhà kinh doanh rồi sau đó mới
được pháp luật thừa nhận và được hoàn thiện thành một chế định pháp lý.
Chẳng hạn như ở Anh, Luật công ty được ban hành lần đầu tiên năm 1844
nhưng trước đó hơn 100 năm đã có sự xuất hiện của các công ty cổ phần.
Và đến năm 1856, ở Anh mới có Luật về công ty cổ phần.
Công ty cổ phần xuất hiện đầu tiên trên thế giới là công ty Đông Ấn
(East India Company) của Anh (1600-1874). Nó được thành lập ngày
31/10/1860 bởi một nhóm có 218 người, và được cấp phép độc quyền kinh
doanh trong vòng 15 năm ở vùng Đông Á, các quốc gia và hải cảng ở châu
Á, châu Phi và được đi lại từ tất cả các hải cảng của các đảo, thị trấn và địa
điểm ở châu Á, châu Phi và Mỹ hay bất kỳ địa điểm nào như thế nằm ngoài
Mũi Hảo Vọng (Cape of Good Hope) và Eo biển Magellan. Ngày
01/6/1874, Công ty bị giải thể khi giấy phép lần sau cùng không được gia
hạn. Công ty đầu tiên này hoạt động hết sức lỏng lẻo: “Người đầu tư góp
vốn theo chuyến đi biển và sau mỗi chuyến đi biển nhận lại vốn cổ phần và
tiền lãi”. Đến năm 1602, ở Hà Lan xuất hiện các công ty cổ phần theo hình
thức tương tự công ty Đông Aán của Anh, rồi lần lượt CTCP xuất hiện ở
Thụy Điển, Đan Mạch, Đức…
Ở Mỹ, CTCP phát triển rất mạnh. Lúc đầu là vì phải xây dựng đường
xe lửa, sau này là để thiết lập mạng lưới phân phối và bán lẻ trên toàn lãnh
thổ rộng lớn của Mỹ. Chính do yêu cầu tài trợ cho các công ty làm đường
xe lửa mà thị trường chứng khoán ở NewYork phát triển. Năm 1811, bang
NewYork ban bố luật về tính TNHH dành cho các công ty sản xuất. Nhờ có
luật này, tiền ùn ùn đổ về NewYork và tính hữu hạn kia trở thành phổ biến
vì bang nào không dùng đến nó là không thu hút được vốn.
Từ cuối thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XIX, CTCP bắt đầu phát triển ở

nhiều lĩnh vực khác nhau như giao thông, vận tải, xây dựng, các ngành chế
tạo cơ khí, ngân hàng, bảo hiểm…? các nước tư phản phát triển và về sau
phát triển rộng rãi ở các nơi khác trên thế giới. Đến những năm 20, 30 của
thế kỷ XIX, với sự phát triển nhanh chóng của khoa học, kỹ thuật, nền kinh
tế thế giới có bước phát triển mạnh mẽ, điều đó dẫn đến nhu cầu phải tập
trung những nguồn vốn lớn để xây dựng cơ sơ hạ tầng kinh tế – xã
hội.Công ty cổ phần là một trong những công cụ giúp thực hiện nhanh
chóng vấn đề tập trung vốn. Vì vậy, có ý kiến bình luận rằng “Nếu như cứ
phải chờ cho đến khi tích luỹ làm cho số tư bản riêng lẻ lớn lên đến mức có
thể đảm đương được việc xây dựng đường sắt thì có lẽ đến ngày nay thế
giới vẫn chưa có đường sắt”. Sự ra đời của CTCP đã giúp cho các nhà
doanh nghiệp giải quyết được mâu thuẫn về tiền vốn một cách sáng tạo.
Tóm lại, trải qua quá trình phát triển lâu dài, CTCP đã từ phạm vi ở
một nước, một khu vực nhất định đã phát triển thành những công ty đa
quốc gia, hoạt động trong nhiều lĩnh vực khác nhau, đúng như nhận định:
“Công ty cổ phần đã phát triển ở hầu hết các nước từ đơn giản đến phức
tạp, từ quy mô nhỏ đến quy mô lớn, từ một ngành đến đa ngành, từ một
quôc gia đến nhiều quốc gia thông qua các công ty siêu quốc gia”.
Ở Mỹ, năm 1989, số lượng các công ty cổ phần chiếm 31,7% trong
tổng số các xí nghiệp công nghiệp và chiếm 92,6% giá trị tổng sản phẩm
công nghiệp. Ngày nay, công ty cổ phần đã chiếm vị trí thống lĩnh trong
các ngành công nghiệp, dịch vụ công cộng và trong các ngành khác nhau
của nền kinh tế Hoa Kỳ.
Ở các nước phương tây, công ty cổ phần là mô hình phổ biến nhất cho
các doanh nghiệp có quy mô lớn. Ở Đức, vốn cơ bản trung bình của các
công ty cổ phần năm 1980 là 43 triệu DM, trong khi đó vốn trung bình của
một công ty TNHH chỉ là 0,38 triệu DM. Trong 100 công ty lớn nhất của
Đức năm 1980 có tới 66 công ty cổ phần. Ở Pháp, vào năm 1986, có tới
123.303 công ty cổ phần, chiếm tới 15,22% tổng số các doanh nghiệp.
Pháp luật về công ty cổ phần

Như đã phân tích, chính từ nhu cầu khách quan phát triển kinh tế – xã
hội cần có sự liên kết hùn vốn, đồng thời về mặt chủ quan, các nhà đầu tư
muốn chia sẻ những gánh nặng rủi ro trong kinh doanh và tìm kiếm lợi
nhuận cao hơn đã dẫn đến sự ra đời của CTCP. Sự ra đời và phát triển của
CTCP đòi hỏi cần phải có sự điều chỉnh của pháp luật.
Ở Anh, Luật về CTCP được ban hành năm 1844. Theo đo,ù các công
ty muốn được thành lập không phải xin phép mà chỉ cần đăng ký. Tuy
nhiên, luật này không cho công ty được hưởng chế độ trách nhiệm hữu hạn.
Sự hạn chế này phản ánh sự nghi ngờ của dư luận về CTCP lúc đó. Tuy
nhiên, vào những năm 1850 có hơn 40 công ty Anh sang Pháp để thành lập
dù chi phí thành lập công ty ở Pháp rất cao. Chính phủ Anh sợ mất doanh
nghiệp nên vào năm 1855 ban hành luật về tính TNHH (Limited Liability
Act) dành cho các công ty đã được thành lập theo luật về CTCP. Cuối cùng
cả hai luật kia được sáp nhập thành một năm 1862 lấy tên là Luật về công
ty (Companies Act).
Vào lúc ấy, nước Anh là đế quốc thống trị về hàng hải và là một cường
quốc công nghiệp hàng đầu thế giới. Luật công ty của Mỹ được ban hành
năm 1881 ở NewYork chịu sự ảnh hưởng mạnh mẽ từ Luật Công ty của
Anh do nguồn gốc hình thành nước Mỹ. Các nước trong khối Thịnh
Vượng Chung ngày nay có luật công ty giống của Anh.
Riêng Pháp và Đức đi theo con đường khác do những khác biệt về văn
hoá và lịch sử. Ở Đức, luật CTCP được ban hành năm 1870. CTCP của
Đức bị luật quy định chặt chẽ và không uyển chuyển như công ty của Anh
và Mỹ. Ở Pháp, bộ luật Napoleon năm 1807 đã thiết lập một nền tảng cho
công ty bằng cách cho lập hội hợp tư cổ phần.
Ở Việt Nam, Luật lệ về công ty lần đầu tiên được quy định là trong
“Bộ Dân luật thi hành tại các toà Nam án Bắc Kỳ”, trong đó tiết thứ 5
(Chương IX) nói về hội buôn được chia thành hai loại là hội người và hội
vốn. Trong đó hội vốn được chia thành hai loại là hội vô danh (CTCP) và
hội hợp cổ (Công ty hợp vốn đơn giản). Nhìn chung, quy định của Pháp

luật thời kỳ này về CTCP còn rất sơ khai.
Dưới thời Pháp thuộc, các quy định của Bộ luật Thương mại Pháp
năm 1807, trong đó có quy định về hình thức CTCP được áp dụng ở cả ba
kỳ tại Việt Nam. Đến năm 1944, chính quyền Bảo Đại ban hành Bộ luật
thương mại Trung phần có hiệu lực áp dụng tại Trung Kỳ, trong đó có quy
định về CTCP (gọi là công ty vô danh) từ Điều 102 đến Điều 142 và từ
Điều 159 đến Điều 171.
Năm 1972, chính quyền Việt Nam Cộng hoà ban hành Bộ luật Thương
mại, trong đó CTCP được gọi là hội nặc danh với đặc điểm “gồm có các
hội viên mệnh danh cổ đông, chỉ chịu trách nhiệm trong giới hạn phần hùn
của mình dưới hình thức cổ phần” (Điều 236) và “chỉ được thành lập nếu
có số hội viên từ 7 người trở lên” (Điều 295). Các vấn đề pháp lý liên quan
đến hình thức hội nặc danh như thành lập, góp vốn, cơ cấu quản lý … đã
được quy định rất chi tiết trong Bộ luật này từ Điều 236 đến Điều 278 cũng
như từ Điều 295 đến Điều 314.
Ở miền Bắc, sau năm 1954 cho đến khi thống nhất đất nước vào năm
1975 và trên phạm vi cả nước từ sau năm 1975 đến những năm 80 của thế
kỷ 20, với chính sách kinh tế kế hoạch hoá tập trung, các hình thức công ty
nói chung và CTCP nói riêng hầu như không được pháp luật thừa
nhận. Khái niệm “công ty” trong giai đoạn này không được hiểu đúng bản
chất pháp lý mà chỉ được hiểu theo hình thức kinh doanh. Các hình thức tổ
chức sản xuất, kinh doanh trong giai đoạn này chủ yếu bao gồm các nhà
máy, xí nghiệp quốc doanh, hợp tác xã (đối với thành phần kinh tế tập thể)
và công tư hợp danh (hình thành từ quá trình cải tạo công thương nghiệp
XHCN). Trong giai đoạn này, mặc dù Điều lệ về đầu tư của nước ngoài ở
nước CHXHCN Việt Nam (ban hành kèm theo Nghị định 115/CP của
Chính phủ ngày 18/4/1977) có đề cập đến hình thức CTCP khi quy định “xí
nghiệp hoặc công ty hỗn hợp” có thể thành lập theo hình thức “công ty vô
danh” (một tên gọi khác của CTCP) nhưng lại không có văn bản pháp luật
nào quy định về tổ chức và hoạt động của hình thức CTCP này. Và trên

thực tế, cũng không có xí nghiệp hoặc công ty hỗn hợp nào được thành lập
theo hình thức “công ty vô danh” theo quy định của Điều lệ về đầu tư của
nước ngoài năm 1977 kể trên.

×