Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Đề bài: tìm hiểu pháp luật về huy động vốn của công ty cổ phần.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (147.54 KB, 15 trang )

Bài tập cuối kì môn: luật thương mại.
Đề bài: tìm hiểu pháp luật về huy động vốn của công ty cổ phần.
Bài làm:
Công ty cổ phần là loại hình doanh nghiệp phổ biến trong nền kinh tế thị
trường, nó góp phần phát triển nền kinh tế và hoàn thiện thể chế nền kinh tế thị
trường. Công ty cổ phần đầu tiên trên thế giới ra đời khoảng thế kỉ XVII, nó gắn liền
với sự bóc lột của chủ nghĩa đế quốc với các nước thuộc địa, công ty cổ phần đầu tiên
xuất hiện vào năm 1602 đó là công ty Đông Ấn Độ của Anh, sang thế kỉ XIX công ty
cổ phần ngày càng phát triển mạnh mẽ. Mặc dù công ty cổ phần và pháp luật về công
ty cổ phần đã ra đời từ rất lâu, nhưng ở nước ta do hoàn cảnh kinh tế xã hội mà gần
đây công ty cổ phần và pháp luật về công ty cổ phần mới được quan tâm nhiều. Với
nhiều ưu thế so với các loại hình công ty khác như: có tư cách pháp nhân, các cổ
đông công ty chỉ phải chịu trách nhiệm hữu hạn trong phần vốn góp, có cấu trúc vốn
linh hoạt và khả năng chuyển nhượng vốn góp tự do, dễ dàng, có tính ổn định trong
kinh doanh và không hạn chế thời gian tồn tại… Với rất nhiều ưu thế trong đó có ưu
thế lớn nhất cấu trúc vốn linh hoạt và khả năng huy động vốn của công ty cổ phần dễ
dàng, ưu việt hơn hẳn các loại hình công ty khác là một trong những lý do khiến công
ty cổ phần ngày càng được nhiều nhà đầu tư lựa chọn khi muốn đầu tư kinh doanh
hoặc thành lập, chuyền đổi loại hình công ty.
Để hiểu rõ hơn về những ưu thế của công ty cổ phần trong khả năng huy động
vốn, em chọn đề tài “tìm hiểu pháp luật về huy động vốn của công ty cổ phần” để tìm
hiểu.
A. Khái quát về công ty cổ phần và vấn đề huy động vốn của công ty
cổ phần.
I. khái quát về công ty cổ phần.
Trong hệ thống khoa học pháp lý của các quốc gia khác nhau có nhiều cách
định nghĩa khác nhau về công ty cổ phần. pháp luật hiện hành của Việt Nam không
đưa ra định nghĩa công ty cổ phần mà chỉ đưa ra những dấu hiệu nhận biết công ty cổ
phần, được quy định rõ tại khoản 1 điều 77 luật doanh nghiệp 2005 là:
1
“1. Công ty cổ phần là loại hình doanh nghiệp, trong đó:


a) Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần;
b) Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân, số lượng cổ đông tối thiểu là ba và
không hạn chế tối đa;
c) Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ về tài sản
khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp;
d) Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác
trừ trường hợp quy định tại khoản 3 điều 81 và khoản 5 điều 54 của luật này”.
Ngoài ra tại khoản 2 và khoản 3 điều 77 LDN 2005 còn cho thấy rõ công ty cổ
phần có tư cách pháp nhân độc lập và có quyền phát hành chứng khoán ra công
chúng.
II. khái quát về vốn và cấu trúc vốn của công ty cổ phần.
Muốn hoạt động kinh doanh không thể không có vốn, vốn của doanh nghiệp
nói chung là giá trị được tính bằng tiền của những tài sản thuộc sở hữu của DN hoặc
sử dụng hợp pháp của DN, được DN sử dụng trong kinh doanh. Có thể nói vốn là
nhân tố cơ bản không thể thiếu được trong các DN. Công ty cổ phần là loại hình công
ty đối vốn điển hình do vậy vấn đề vốn của CTCP hết sức phức tạp. Ta có thể tiếp cận
vốn của CTCP dước nhiều góc độ, dựa trên các tiêu chí khác nhau. Căn cứ vào nguồn
gốc hình thành vốn thì vốn của CTCP gồm có: Vốn chủ sở hữu (vốn tự có) và vốn tín
dụng (vốn vay).
Vốn chủ sở hữu: là vốn thuộc sở hữu của công ty, được hình thành từ nguồn
vốn đóng góp của các cổ đông và vốn do CTCP tự bổ sung từ lợi nhuận của công ty.
Vốn tín dụng: là nguồn vốn hình thành từ việc đi vay bằng nhiều hình thức
khác nhau: vay ngân hang, vay từ tổ chức cá nhân, vay bằng các phát hành trái phiếu.
Vốn của CTCP có thể được hình thành bằng nhiều con đường khác nhau,
nhưng điều quan trong là công ty có tỷ lệ vốn hợp lý, phương thức huy động vốn
thích hợp và có phương án kinh doanh đúng đắn để sử dụng vốn hiệu quả và tạo được
niềm tin cho đối tác đảm bảo công ty pháp triển vững mạnh.
2
B. Huy động vốn trong công ty cổ phần.
I. Những ưu thế của CTCP so với các loại hình công ty khác trong việc

huy động vốn.
Điểm lý tưởng trong vấn đề huy động vốn của CTCP hơn hẳn các loại hình
công ty khác là “CTCP có quyền phát hành chứng khoán các loại để huy động vốn”
(khoản 3 điều 77 LDN 2005) trong khi đó doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp danh
“không được phát hành bất kì một loại chứng khoán nào” (khoản 3 điều 130 và khoản
2 điều 141), khả năng huy động vốn của công ty trách nhiệm hữu hạn có thuận lợi
hơn là được quyền phát hành trái phiếu nhưng cũng “không được quyền phát hành cổ
phần” (khoản 3 điều 38). Trong các loại chứng khoán của CTCP cổ phiếu là ưu thế
lớn nhất của CTCP nhờ khả năng thu hút vốn dễ dàng, có thể huy động được một
lượng vốn góp lớn, và giảm được nhiều chi phí trung gian so với các hình thức huy
động khác do tiếp cận trực tiếp các nhà đầu tư.
CTCP có cấu trúc vốn rất linh hoạt, đáp ứng được nhu cầu đa dạng của người
đầu tư. Phần vốn của cổ đông có thể được tự do chuyển nhượng thông qua việc
chuyển quyền sở hữu cổ phần (trừ các trường hợp do pháp luật quy định) hay đó là
hình thức chuyển nhượng cổ phiếu trên thị trường chứng khoán (TTCK). Tính chuyển
nhượng cổ phiếu mang lại cho nền kinh tế sự vận động nhanh chóng của vốn đầu tư
mà không phá vỡ tính ổn định của tài sản công ty.
Mặt khác, cổ phần có mệnh giá nhỏ kết hợp với tính thanh khoản và chuyển
nhượng dễ dàng đã khuyến khích mọi tầng lớp dân chúng đầu tư. Những đặc điểm
này đã giúp CTCP có khả năng huy động một lượng vốn ngầm chảy trong các tầng
lớp nhân dân, khả năng tích tụ và tập trung vốn với quy mô lớn đáp ứng được các dự
án đầu tư cần lượng vốn lớn và lâu dài, mở rộng đa dạng hóa các ngành nghề kinh
doanh dễ dàng hơn.
II. Quy định của pháp luật về các hình thức huy động vốn của công ty cổ
phần.
Cũng giống như nhiều loại hình công ty khác, CTCP cổ phần có hai cách để
huy động vốn là: tăng vốn chủ sở hữu và tăng vốn vay, và trong mỗi cách lại có
3
những phương thức huy động vốn khác nhau. Tăng vốn chủ sở hữu bằng cách phát
hành cổ phiếu, tăng vốn vay được thực hiện thông qua ba hình thức: phát hành trái

phiếu, tín dụng ngân hang, tín dụng thuê mua.
1. Huy động vốn thông qua phát hành cổ phiếu.
Cổ phần là phần chia nhỏ nhất vốn điều lệ của CTCP được thể hiện dưới hình
thức cổ phiếu, bao gồm cổ phần phổ thông và cổ phần ưu đãi. Cổ phiếu là chứng chỉ
do CTCP phát hành hoặc bút toán ghi sổ xác nhận quyền sở hữu một hoặc một số cổ
phần của công ty trong đó. Cổ phiếu là bằng chứng chứng minh quyền sở hữu cổ
phần của công ty (được quy định rõ tại khoản 1 điều 85 LDN 2005)
Phát hành cổ phiếu là việc chào bán cổ phần của CTCP cho người đầu tư nhằm
đáp ứng nhu cầu về vốn của công ty. Kết quả của việc chào bán cổ phần sẽ đảm bảo
huy động vốn điều lệ trong quá trình thành lập công ty hoặc sẽ làm tăng vốn điều lệ
của công ty trong quá trình thành lập công ty hoặc làm tăng vốn điều lệ của công ty
khi công ty đang trong quá trình hoạt động.
Việc phát hành cổ phiếu có thể làm ảnh hưởng đến quyền lợi của các cổ đông
hiện có hoặc có thể dẫn tới sự thay đổi vị thế của từng cổ đông. Do vậy việc quyết
định bán loại cổ phần, số lượng mỗi cổ phần chào bán sẽ do Đại hội đồng cổ đông
quyết định còn Hội đồng quản trị quyết định thời điểm bán, phương thức và giá chào
bán.
Quy định của pháp luật về việc phát hành cổ phiếu:
Phát hành cổ phiếu có thể diễn ra nhiều lần. có thể chia thành các trường hợp:
phát hành cổ phiếu lần đầu để huy động vốn thành lập công ty và phát hành cổ phiếu
trong quá trình hoạt động công ty.
- phát hành cổ phiếu lần đầu khi thành lập công ty:
khi thành lập, CTCP phải huy động vốn góp từ các cổ đông. Theo quy định thì
các cổ đông sáng lập phải cùng nhau đăng kí mua ít nhất 20% tổng số cổ phần được
chào bán, sổ cổ phiếu còn lại sẽ được phát hành để huy động đủ số vốn điều lệ. Các
cổ đông sáng lập thực hiện nguyên tắc nhất trí về số lượng cổ phần và loại cổ phần dự
kiến chào bán.
4
-phát hành cổ phiếu trong quá trình hoạt động của công ty.
Trong quá trình hoạt động, phát hành cổ phiếu là hình thức huy động vốn rất

hiệu quả. Đặc biệt là đối với CTCP lớn, có nhiều dự án đầu tư dài hạn, ngắn hạn mà
cần lượng vốn lớn. Việc phát hành cổ phiếu lúc này sẽ làm tăng vốn chủ sở hữu của
công ty tạo ra một lá chắn chống lại sự phá sản công ty, làm tăng độ tín nhiệm của
công ty. Phát hành cổ phiếu có thể được thực hiện qua hai phương thức: phát hành
riêng lẻ và phát hành rộng rãi ra công chúng.
+ phát hành riêng lẻ: là hình thức phát hành cổ phiếu trong phạm vi một số
người nhất định và với số lượng hạn chế, thường là bán cho những người trong công
ty. Tại khoản 2 điều 87 LND 2005 quy định rõ về việc phát hành cổ phần phổ thông
và chào bán cổ phần cho tất cả các cổ đông theo tỉ lệ cổ phần hiện có trong công ty,
theo đó thì việc phát hành cổ phiếu này phải được thông báo bằng văn bản rõ ràng
đến từng cổ đông biết, trong thông báo phải ghi rõ tổng số cổ phần dự kiến phát hành
và số cổ phần cổ đông được quyền mua, giá chào bán, thời hạn đăng kí mua…các quy
đinh tại khoản 2 điều 87 là có sự phát triển hơn so với LDN trước đó. Tuy nhiên trình
tự, thủ tục, điều kiện… chào bán cổ phiếu riêng lẻ không được quy định trực tiếp
trong LDN 2005 mà do Chính Phủ có hướng dẫn cụ thể.
+ Phát hành cổ phiếu ra công chúng:
Là phương thức phát hành cổ phiếu trong đó cổ phiếu được bán rộng rãi ra
công chúng cho một số lượng lớn các nhà đầu tư với khối lượng cổ phiếu phát hành
đạt được một tỉ lệ quy định nhất định và phải giành một tỉ lệ nhất định cho các nhà
đầu tư nhỏ. Điều kiện, phương thức và thủ tục phát hành cổ phiếu được thực hiện
theo quy định của luật chứng khoán. Ngoài ra công ty còn phải thực hiện các chế độ
báo cáo, công bố thông tin và chịu sự giám sát chặt chẽ theo quy định của pháp luật.
Điều đó xuất phát tứ lý do để cổ phiếu hay trái phiếu của công ty phát hành ra không
phải là trò lừa đảo hoặc của chủ thể đầu tư có dự án đầu tư kém hiệu quả, gây lãng
phí cho nền kinh tế, đồng thời bảo vệ lợi ích cho các nhà đầu tư. CTCP muốn phát
hành cổ phiếu ra công chúng phải đảm bảo các yêu cầu về vốn, thời gian hoạt động,
5
đội ngũ quản lý, hiệu quả sản xuất kinh doanh và tính khả thi của các dự án trong
tương lai, được quy định rõ trong khoản 1 điều 12 luật chứng khoán 2006:
“Điều kiện chào bán cổ phần ra công chúng phải đảm bảo các điều kiện sau:

a) Doanh nghiệp có mức vốn điều lệ tại thời điểm đăng kí chào bán từ
10 tỷ đồng Việt Nam trở lên tính theo giá trị trên sổ kế toán;
b) Hoạt động kinh doanh của công ty năm liền trước năm chào bán phải
có lãi, đồng thời không có lỗ lũy kế tính đến năm đăng kí chào bán;
c) Có phương án phát hành và phương án sử dụng vốn thu được từ đợt
chào bán được Đại hội đồng cổ đông thông qua”
Việc quy định như vậy nhằm đảm bảo số lượng và chất lượng cổ phiếu của
CTCP để có thể giao dịch trên thị trường chứng khoán. Sau khi đảm bảo được các
yếu tố trên công ty lập hồ sơ gửi lên Ủy bản chứng khoán nhà nước xin được cấp giấy
phát hành.
Phát hành cổ phần là hình thức huy động vốn hiệu quả và dễ dàng nhất của
công ty cổ phần và chỉ ở loại hình CTCP mới có điều này, hơn nữa việc chuyển
nhượng cổ phần tự do càng tạo ra sức hút lớn đối với các nhà đầu tư.
Không chỉ huy động vốn thông qua hình thức phát hành cổ phiếu, CTCP còn
được quyền huy động vốn thông qua hình thức phát hành trái phiếu, và các hình thức
tín dụng khác.
2. Huy động vốn thông qua các hình thức tín dụng:
a) Huy động vốn thông qua hình thức phát hành trái phiếu.
Theo khoản 3 điều 77 LDN 2005, CTCP có quyền phát hành chứng khoán các
loại để huy động vốn. Cùng với phát hành cổ phiếu là cách huy động vốn chủ sở hữu,
CTCP còn có quyền phát hành trái phiếu để vay vốn dài hạn và trung hạn, đáp ứng
cho nhu cầu về vốn kinh doanh có lúc vượt ngoài khả năng tài chính của các cổ đông.
Nhưng khác với cổ phiếu, trái phiếu chỉ xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của
người sở hữu trái phiếu được trả nợ gốc và lãi suất ấn định trong trái phiếu. Trái
phiếu có đặc điểm là có thời gian đáo hạn, có lãi suất cố định, tiền trả lãi không phụ
thuộc vào việc kinh doanh của công ty thành công hay khó khăn, đem lại cho người
6

×