Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Một số vấn đề về nguồn lực con người

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (126.2 KB, 11 trang )

MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ NGUỒN NHÂN LỰC

Trong hệ thống các nguồn lực của sự phát triển thì nguồn nhân lực là
yếu tố quan trọng nhất, quyết định nhất sự phát triển của xã hội. Nguồn lực
con người là phạm trù dùng để chỉ tổng thể các yếu tố thuộc về con người và
cộng đồng người, bao gồm số lượng, cơ cấu, chất lượng con người với tất cả
đặc điểm và sức mạnh của nó trong cải biến tự nhiên và xã hội ở từng giai
đoạn lịch sử cụ thể.
Con người được xem xét với tư cách là một nguồn lực, nguồn lực nội
tại, cơ bản trong hệ thống các nguồn lực của sự phát triển xã hội. Là một
nguồn lực, cũng như các nguồn lực khác, con người tạo ra sức mạnh và tham
gia vào quá trình thúc đẩy sự phát triển của một quốc gia, dân tộc. Song,
nguồn lực con người khác các nguồn lực khác ở chỗ, có nó, các nguồn lực
khác mới phát huy được tác dụng và có ý nghĩa tích cực, vì thế nó là nguồn
lực của mọi nguồn lực. Mặt khác, nó không chỉ là chủ thể quyết định sự vận
động và phát triển xã hội, mà còn là khách thể của các quá trình kinh tế - xã
hội. Sức mạnh của nguồn lực con người biểu hiện qua sức mạnh của thể lực,
trí lực, niềm tin, ý chí của mỗi cá nhân và của cả cộng đồng không chỉ trong
thực tế mà còn ở dạng tiềm năng. Những nhân tố trên có quan hệ hữu cơ và
trong điều kiện ngày nay, trí lực có vai trò đặc biệt quan trọng.
Theo quan điểm chủ nghĩa Mác - Lê nin, con người không chỉ là sản
phẩm của tự nhiên và xã hội mà còn là chủ thể tích cực cải biến tự nhiên và xã
hội; con người là điểm khởi đầu và là điểm kết thúc của mọi quá trình biến
đổi lịch sử. Thông qua hoạt động sản xuất vật chất, con người sáng tạo ra lịch
sử của chính mình, lịch sử của xã hội loài người. Từ quan niệm đó, C.Mác
1
khẳng định, sự phát lực lượng sản xuất xã hội trước hết có nghĩa là “phát triển
sự phong phú của bản chất con người, coi như một mục đích tự thân”
1
. Bởi
vậy, theo C.Mác, ý nghĩa lịch sử, mục đích cao cả của sự phát triển xã hội là


phát triển con người toàn diện, nâng cao năng lực và phẩm giá con người, giải
phóng con người, loại trừ ra khỏi đời sống con người mọi sự tha hóa để con
người được sống với cuộc sống đích thực con người.
Vai trò con người chính là vai trò của quần chúng nhân dân, người
sáng tạo chân chính ra lịch sử chứ không phải "vài ba cá nhân anh hùng nào",
thể hiện qua các hoạt động thực tiễn cơ bản nhất đó là: lao động sản xuất, đấu
tranh cách mạng và sáng tạo các giá trị văn hóa - tinh thần. Khảo cứu các
cuộc cách mạng trong lịch sử, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin
chỉ ra rằng, chính quần chúng nhân dân chứ không phải ai khác là người quyết
định sự thành bại của cách mạng, quyết định tiến trình lịch sử nhân loại.
V.I.Lênin khẳng định: “Cách mạng là ngày hội của những người bị áp bức và
bóc lột. Không lúc nào quần chúng nhân dân có thể tỏ ra là người sáng tạo trật
tự xã hội mới tích cực như trong thời kỳ cách mạng. trong những thời kỳ như
thế…thì nhân dân có thể làm được những kỳ công”
2
Chúng ta đều biết, xét đến cùng, yếu tố giữ vai trò chi phối, quyết định
sự vận động và phát triển của xã hội chính là lực lượng sản xuất. Tuy nhiên,
yếu tố quan trọng nhất, giữ vai trò quyết định trong lực lượng sản xuất chính
là con người. Bởi vì, trong bất cứ xã hội nào người lao động cũng là yếu tố
quan trọng nhất trong lực lượng sản xuất; đặc biệt ngày nay khoa học công
nghệ ngày càng phát triển, hàm lượng chất xám kết tinh trong giá trị hàng hóa
càng cao thì vai trò của người lao động có trí tuệ lại càng quan trọng. Vì con
1
C.Mác và Ph.Ăngghen, toàn tập, tập 26, Nxb CTQG,Hà Nội 1995, tr 168
2
VI.Lênin, Toàn tập, tập 11, Nxb Tiến bộ, Matxcova, 1979, tr 131
2
người được đào tạo kiến thức toàn diện, có trình độ, có năng lực, được làm
chủ tư liệu sản xuất sẽ là người lao động làm nên năng suất lao động cao.
Con người là chủ thể sáng tạo ra công nghệ kỹ thuật… công nghệ kỹ

thuật có phát triển hiện đại đến trình độ nào thì cũng không thể thay thế khả
năng con người, vì con người sáng tạo ra máy móc, công nghệ kỹ thuật, sử
dụng nó, cải tiến nó là để phục vụ lợi ích của con người, nâng cao năng suất
lao động, cải thiện đời sống vật chất tinh thần. Vì thế, trí tuệ con người phát
triển tới đâu sẽ tạo ra trình độ công nghệ kỹ thuật tương ứng.
Ngoài ra vai trò nguồn lực con người trong quá trình sản xuất còn thể
hiện ở lương tâm, trách nhiệm, nghề nghiệp, ý thức tổ chức kỷ luật tạo nên ý
chí lớn, tình cảm lớn, tư tưởng lớn tạo động lực giúp cho con người vượt qua
khó khăn thử thách, chiến thắng nghèo nàn, lạc hậu xây dựng đất nước theo
mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh”. Điều
đó tạo ra những điều kiện thuận lợi để phát huy nguồn lực con người, phát
triển kinh tế xã hội nhanh, bền vững, thực hiện thành công sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước .
Không chỉ trên lĩnh vực kinh tế mà trên lĩnh vực khác như: chính trị,
văn hóa, xã hội, vai trò của nguồn lực con người cũng được thể hiện rõ khi
người lao động có trí thức, có năng lực, thấy được trách nhiệm của mình sẽ
tham gia tích cực vào quản lý xã hội, quản lý nhà nước, thực hiện tốt quyền và
nghĩa vụ công dân góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Xây dựng nền văn hóa mới, con người mới xã hội chủ nghĩa, giữ gìn phát huy
bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới để làm phong phú
nền văn hóa dân tộc.
Với tư cách là một lực lượng sản xuất, con người giữ vị trí quan trọng
nhất trong lực lượng sản xuất, quyết định toàn bộ quá trình sản xuất xã hội, đúng
3
như Lênin đã khẳng định: "Lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại
là công nhân, là người lao động"
3
.
Trong quan hệ với các nguồn lực khác, nguồn lực con người cũng tỏ rõ
vai trò quyết định của mình. Điều này thể hiện ở chỗ các nguồn lực khác như

vốn, tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý, v.v. tự nó chỉ tồn tại dưới dạng tiềm
năng. Chúng chỉ phát huy tác dụng và có ý nghĩa khi được kết hợp với nguồn
lực con người, thông qua hoạt động có ý thức của con người. Bởi lẽ, con
người là nguồn lực duy nhất biết tư duy, có trí tuệ và ý chí, biết "lợi dụng" các
nguồn lực khác, gắn kết chúng lại với nhau, tạo thành sức mạnh tổng lực. Các
nguồn lực khác là những khách thể, chịu sự cải tạo, khai thác của con người
và hết thảy chúng đều phục vụ cho nhu cầu, lợi ích của con người, nếu con
người biết cách tác động và chi phối chúng.
Kế thừa, tiếp thu, vận dụng và phát triển sáng tạo quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đề cao con người, xem trọng
vai trò quyết định của con người, luôn đặt con người ở vị trí trung tâm, coi
việc phát huy nguồn lực con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự
phát triển. Theo Hồ chí Minh, cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất
nước nhà, xây dựng đời sống mới, tiến lên xã hội chủ nghĩa đều phải bắt đầu
từ “vốn con người”, từ việc phát huy nhân tố con người. Nếu khinh dân, xem
khinh việc sử dụng và phát huy nhân tố con người sẽ là một sai lầm rất to, rất
có hại, có quan hệ mật thiết đến thành hay bại của sự nghiệp cách mạng. Tư
tưởng “dân là vốn quý nhất, có dân là có tất cả” cho thấy trong tư tưởng Hồ
Chí Minh, con người là nguồn lực quan trọng nhất, nguồn lực của mọi nguồn
lực. Vai trò ấy được Người kế thừa từ tư tưởng: “Chở thuyền cũng là dân, lật
3
VI Lênin, Toàn tập, tập 38, Nxb Tiến Bộ, Matxcơva, 1977, tr 430
4
thuyền cũng là dân” để rồi khái quát ở tầm chân lý: “Dễ mười lần không dân
cũng chịu; khó trăm lần dân liệu cũng xong”.
Quán triệt sâu sắc quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn
quan tâm đến vấn đề con người và phát triển nguồn lực con người, coi nguồn
lực con người là “nguồn lực của mọi nguồn lực”, là “tài nguyên của mọi tài
nguyên”, là nguồn lực nội sinh quan trọng nhất quyết định thành công của sự

nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Nghị quyết
Đại hội XI của Đảng chỉ rõ: “Phát triển, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực,
nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong những yếu tố quyết định
sự phát triển nhanh và bền vững đất nước”
4
.
Sau gần ba thập kỷ đổi mới với nhiều nỗ lực, nguồn nhân lực nước ta
đã co sự phát triển cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu. Đặc biệt, trình độ
học vấn, trình độ chuyên môn kỹ thuật, thể lực của con người Việt Nam đã
từng bước được nâng lên. Nhưng so với nhiều nước trong khu vực và so với
yêu cầu của quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát
triển kinh tế tri thức thì chất lượng nguồn nhân lực của nước ta còn rất thấp
kém và đang ở mức báo động đáng lo ngại. Còn thiếu nghiêm trọng đội ngũ
cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi, chuyên gia đầu ngành, tổng công trình sư.
Điều này đã được Đảng ta chỉ rõ: “Số và chất lượng chưa đáp ứng được yêu cầu
của sự phát triển đất nước”
5
. “Tình trạng thiếu việc làm còn cao. Chính sách tiền
lương, thu nhập chưa động viên được cán bộ công chức, người lao động gắn bó,
tận tâm với công việc. Đời sống của một bộ phận dân cư, nhất là ở miền núi,
4
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H 2011, tr
41
5
, 2
5
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy (khoá X), Nxb CTQG, H 2008, tr.85
5
vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn”
6

. Đến nay nước ta chưa có một chiến
lược phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao đúng tầm,
còn thiếu cơ chế thích hợp phát hiện, tuyển chọn, bồi dưỡng và trọng dụng nhân
tài.
Hiện nay, toàn Đảng, toàn dân ta đang đẩy mạnh sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, mở cửa hội nhập quốc tế, thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược, vừa xây
dựng chủ nghĩa xã hội vừa bảo vệ Tổ quốc, nhằm mục tiêu đến năm 2020
nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Bối cảnh
quốc tế và tình hình trong nước vừa có thuận lợi, thời cơ, vừa có khó khăn,
thách thức. Nước ta đã thực hiện thành công chặng đường đầu của công cuộc
đổi mới, đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển, đời sống nhân dân có
nhiều cải thiện tích cực, sức mạnh quốc gia về mọi mặt được tăng cường, độc
lập, tự chủ và chế độ xã hội chủ nghĩa được giữ vững, vị thế và uy tín của của
Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao, tạo điều kiện, tiền đề để nước ta
tiếp tục phát triển mạnh mẽ và bền vững hơn trong giai đoạn mới. Tuy nhiên,
nước ta vẫn đang đứng trước nhiều thách thức lớn, đan xen nhau và diễn biến
phức tạp không thể xem thường. Sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước và hội nhập quốc tế đang đặt ra yêu cầu phải phát triển và nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao để đáp ứng sự
phát triển của kinh tế tri thức.
Chiến lược phát triển nhân lực Việt Nam thời kỳ 2011-2020 đã được
Chính phủ thông qua trong Quyết định số 579/QĐ-TTg, ngày 19-4-2011 xác
định: Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là một bước đột phá
6
3
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H 2011,
tr.168
6
chiến lược, yếu tố quyết định đẩy mạnh phát triển và ứng dụng khoa học,

công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, tạo lợi thế
cạnh tranh, bảo đảm đưa nền kinh tế của đất nước phát triển nhanh, bền vững,
hiệu quả.
Để phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu sự nghiệp đẩy mạnh
CNH, HĐH trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay cần thực hiện tốt những
giải pháp cơ bản sau:
Một là, phải xác định cho rõ nguồn nhân lực là tài nguyên quý giá nhất
của Việt Nam trong công cuộc đổi mới và phát triển đất nước. Một đất nước
rất ít tài nguyên thiên nhiên như ở Việt Nam, cần phải lấy nguồn nhân lực làm
tài nguyên thay thế, gọi là tài nguyên nguồn nhân lực, hoặc tài nguyên con
người. Muốn vậy, phải làm cho mọi người thấy rõ vai trò và trách nhiệm đào
tạo và sử dụng nhân lực, biến thách thức và chất lượng nhân lực thành lợi thế
cạnh tranh trên phương diện toàn cầu. Đây là nhiệm vụ của toàn xã hội, mang
tính xã hội; là trách nhiệm của các cấp lãnh đạo, quản lý, của nhà trường, của
doanh nghiệp, của gia đình cũng như của bản thân mỗi người lao động. "Đây
chính là thể hiện quan điểm phát triển con người, phát triển kinh tế - xã hội vì
con người và do con người, là một trong những nội dung cơ bản của phát triển
bền vững"
3
.
Hai là, xây dựng và hoàn thiện hệ thống giá trị của con người Việt
Nam trong thời đại mới. Phải “xây dựng và hoàn thiện giá trị, nhân cách con
người Việt Nam” thời kỳ mới. Đại hội XI, Đảng ta đã nêu ra những tiêu chí,
những chuẩn mực của con người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay cần phải
chăm lo xây dựng để có nguồn nhân lực chất lượng cao. Những chuẩn mực đó
là: “Xây dựng con người Việt Nam giàu lòng yêu nước, có ý thức làm chủ,
trách nhiệm công dân, có tri thức, sức khỏe, lao động giỏi, sống có văn hóa,
7
nghĩa tình, có tinh thần quốc tế chân chính”, có khả năng sáng tạo và ứng
dụng khoa học - công nghệ vào quá trình lao động sản xuất và quản lý.

Ba là, xây dựng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về nhân lực,
việc làm, giáo dục, đào tạo, chính sách tiền lương, khen thưởng, đãi ngộ;
chính sách trọng dụng chuyên gia, tham mưu, kỹ sư, tổng công trình sư, nhà
thiết kế, phát minh, gọi chung là nhân tài, chính sách về môi trường, điều
kiện, phương tiện làm việc; chính sách việc làm, thu nhập, bảo hiểm, bảo trợ
xã hội; chính sách cho các cơ quan khoa học NGO. Tổ chức tốt việc việc thực
hiện các chính sách đó. Cải cách chế độ tiền lương cho đội ngũ giáo viên,
giảng viên, có chế độ ưu đãi cho người học.
Đổi mới quản lý nhà nước về phát triển nhân lực; hoàn thiện bộ máy
quản lý phát triển nhân lực nhằm nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả quản
lý nhân lực; đổi mới phương pháp giáo dục, quản lý nhân lực, thấu tình đạt lý,
nhìn rõ đúng sai, kịp thời rút kinh nghiệm về quản lý nhân lực. Tổ chức bộ
máy quản lý nhân lực từ trung ương đến địa phương. Nhân sự cho bộ máy này
phải là những chuyên gia giỏi về nghiên cứu nhân tài, nhân lực trong và ngoài
biên chế nhà nước. Làm rõ chức năng, nhiệm vụ của bộ máy này là tư vấn,
tham mưu, đề xuất; thu thập, phân tích các số liệu về nguồn nhân lực ở tất cả
các ngành, các cấp.
Bốn là, đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân. Giáo dục,
đào tạo có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển của con người và xã hội.
“Giáo dục và đào tạo có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực,
bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng phát triển đất nước, xây dựng nền
văn hóa và con người Việt Nam. Phát triển giáo dục và đào tạo cùng với phát
triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, đầu tư cho giáo dục và
8
đào tạo là đầu tư phát triển”
7
. Để phát triển nhanh nguồn nhân lực cả về lượng
và chất “phải đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân theo hướng
chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, trong
đó, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ

quản lý là khâu then chốt” .
Trong nhiều năm qua mặc dù giáo dục nước ta đã đạt được những
thành tựu nhất định, song nhìn chung, giáo dục Việt Nam chưa theo kịp trình
độ phát triển của giáo dục thế giới, thậm chí nhiều tiêu cực nảy sinh và phát
triển mạnh trong hệ thống giáo dục. Việc thành lập hệ thống các trường cao
đẳng, đại học dưới nhiều hình thức mọc ra như nấm nhưng chương trình và
chất lượng đạo tạo dường như khó kiểm soát, dẫn đến hiện tượng tiêu cực
trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo, “học giả”, bằng thật diễn ra khá phổ biến
gây bức xúc trong dư luận xã hội. Do vậy, đây là điểm nút cần phải được tháo
gỡ một cách nhanh chóng và chỉ khi nào giải quyết tốt điểm nút này thì giáo
dục Việt Nam mới có điều kiện và môi trường pháp lý để phát triển lành
mạnh.
Đội ngũ giáo viên các cấp và cán bộ quản lý giáo dục là những chiếc
“máy cái” trong hệ thống giáo dục. Chất lượng, nhân cách, phẩm chất đạo đức
và lý tưởng của đội ngũ này như thế nào ảnh hưởng to lớn và trực tiếp đến sản
phẩm mà họ đào tạo ra - đó chính là những con người, những công dân xây
dựng xã hội. Do vậy, phát triển đội ngũ này một cách toàn diện thực sự là một
trong những khâu then chốt hàng đầu. Trên cơ sở đó, đẩy mạnh xây dựng xã
hội học tập, tạo cơ hội và điều kiện cho mọi công dân được học tập suốt đời.
7
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H 2011, tr
77
9
Năm là, nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe nhân dân, bảo đảm an
sinh xã hội. Cần quan tâm nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe nhân dân,
bảo đảm an sinh xã hội. Nguồn nhân lực phải được đánh giá một cách toàn
diện cả về thể lực, trí tuệ, đạo đức, nhân cách, phẩm chất…. của con người.
Nhận thức rõ điều đó, tại Đại hội XI, Đảng ta khẳng định: “Xây dựng và thực
hiện chiến lược quốc gia về nâng cao sức khỏe, tầm vóc con người Việt Nam”.
Trong đó, lĩnh vực y tế đóng vai trò quan trọng hàng đầu. Đảng ta cũng xác

định cần tập trung chỉ đạo sát sao và cụ thể hóa hơn những hoạt động của lĩnh
vực này nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả chăm sóc sức khỏe nhân dân,
đáp ứng yêu cầu của quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn
với kinh tế tri thức trong bối cảnh hội nhập, cạnh tranh gay gắt và cường độ
lao động cao.
Thực hiện tốt chính sách xã hội, nhất là chính sách an sinh xã hội,
chính sách xóa đói, giảm nghèo nhằm giảm dần khoảng cách chênh lệch giữa
các tầng lớp dân cư, giữa các vùng lãnh thổ. Quan tâm tới hộ nghèo, những
gia đình khó khăn, các nhóm yếu thế trong xã hội, những hộ chính sách xã
hội, những vùng sâu, vùng xa tạo ra cơ hội phát triển cho mọi người, làm cho
mọi người dân đều được hưởng những thành quả y tế, giáo dục, văn hóa…
Tập trung giải quyết những vấn đề cấp bách về lao động việc làm, thu nhập,
để người lao động có điều kiện nâng cao trình độ tri thức, trình độ tay nghề,
có môi trường rèn luyện phấn đấu, cống hiến sức mình cho đất nước, cho xã
hội và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần. Cương lĩnh xây dựng đất nước
(Bổ sung phát triển 2011) Đảng ta khẳng định: “Tạo môi trường và điều kiện
để mọi người lao động có việc làm và thu nhập tốt hơn. Có chính sách tiền
lương và chế độ đãi ngộ tạo động lực để phát triển; điều tiết hợp lý thu nhập
trong xã hội. Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa nghèo bền
10
vững; giảm dần tình trạng chênh lệch giàu- nghèo giữa các vùng, miền, các
tầng lớp dân cư”
8
.
Phát triển nguồn nhân lực là vấn đề vấn đề rất khó khăn, phức tạp, đòi
hỏi phải phát huy vai trò sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, của các
cấp, các ngành và mỗi cá nhân. Với tư cách là đơn vị nghiên cứu chế độ,
chính sách giúp Đảng và Nhà nước quản lý, phát triển nguồn nhân lực đất
nước, thiết nghĩ Bộ LĐTBXH cần phối hợp chặt chẽ với các ngành, các địa
phương đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu

cầu hội nhập quốc tế. Đồng thời, nghiên cứu ban hành nhiều chính tạo việc
làm, chính sách xã hội phù hợp đối với người lao động, tạo động lực để người
lao động vươn lên cống hiến sức lực, trí tuệ cho đất nước. Là một cán bộ
trong cơ quan của Bộ LĐTBXH, bản thân tôi cũng thấy mình cần tiếp tục học
tập, tu dưỡng, rèn luyện, không ngừng nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức,
lối sống, trình độ, năng lực chuyên môn …đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, chức
trách được giao, góp phần thiết thực vào sự phát triển chung của nguồn nhân
lực đất nước trong bối cảnh hội nhập quốc tế.
8
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H 2011, tr
79
11

×