MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong điều kiện hiện nay, việc hoàn thiện hệ thống những khái niệm
và phạm trù của khoa học pháp lý nói chung và khoa học lý luận về nhà nước
và pháp luật nói riêng có một ý nghĩa rất lớn đối với việc tạo ra cơ sở khoa
học cho việc hoàn thiện hệ thống pháp luật. Nghiên cứu những vấn đề lý luận
và thực tiễn về hành vi pháp luật xuất là vấn đề cấp thiết xuất phát từ một số
lý do cơ bản sau đây:
Thứ nhất, hành vi pháp luật là một phạm trù cơ bản của khoa học pháp
lý đã được nghiên cứu ở các cấp độ và các khía cạnh khác nhau. Tuy nhiên,
do quan niệm về hành vi pháp luật chưa có sự thống nhất nên khi giải quyết
những vấn đề cụ thể của các khoa học pháp lý cũng như việc tìm kiếm các
giải pháp để đáp ứng những đòi hỏi của thực tiễn còn gặp nhiều khó khăn.
Thứ hai, trong quá trình đổi mới nội dung, chương trình và phương
pháp đào tạo đại học luật, việc nghiên cứu và làm sáng tỏ vấn đề hành vi pháp
luật sẽ có ý nghĩa rất quan trọng trong việc hoàn thiện giáo trình cũng như nội
dung chương trình giảng dạy môn học Lý luận về nhà nước và pháp luật trong
chương trình đào tạo đại học tại Trường Đại học Luật Hà Nội.
Thứ ba, trong điều kiện hiện nay, việc nâng cao hiệu quả pháp luật đòi
hỏi cần phải có những giải pháp đồng bộ. Trong đó, việc đánh giá thực trạng
về hành vi pháp luật trong thực tiễn và trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp cho
công tác giáo dục pháp luật, đấu tranh phòng và chống vi phạm pháp luật có ý
nghĩa rất quan trọng.
Vì vậy, xuất phát từ những lý do đó, chúng tôi cho rằng việc nghiên
cứu về hành vi pháp luật sẽ góp phần quan trọng đối với việc giải quyết
những đòi hỏi của lý luận và thực tiễn pháp luật hiện nay ở nước ta.
1
2. Tình hình nghiên cứu
Hiện nay, trong khoa học pháp lý, đã có một số công trình khoa học
nghiên cứu về hành vi pháp luật. Các công trình nghiên cứu về hành vi pháp
luật đáng chú ý có thể kể đến:
- Chương "Hành vi pháp luật" trong cuốn Những vấn đề lý luận cơ
bản về nhà nước và pháp luật của Viện Nhà nước và pháp luật (1995)
- Hành vi thương mại của tác giả Ngô Huy Cương - Tạp chí nghiên
cứu lập pháp số 1/2002
- Động cơ hóa hành vi pháp luật của tác giả Lê Vương Long - Tạp chí
Luật học số 1/2000
- Vi phạm pháp luật - một số vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt Nam
của tác giả Bùi Xuân Phái (2002) - Luận văn thạc sĩ luật học
- Hành vi phạm tội nhìn từ góc độ tâm lý học của tác giả Đặng Thanh
Nga - Tạp chí Luật học, 4/1998
- Hành vi pháp luật - những vấn đề lý luận và thực tiễn của tác giả Lê
Minh Tiến - Luận văn thạc sĩ luật học.
- Ngoài ra, trong các giáo trình Lý luận về Nhà nước và Pháp luật ở
một số cơ sở đào tạo luật cũng đề cập ở mức độ nhất định về hành vi pháp luật.
Ở nước ngoài, cũng đã có những công trình đề cập đến vấn đề này.
Trong các giáo trình Lý luận về nhà nước và pháp luật của Liên Xô trước đây
cũng đã đề cập ở mức độ nhất định. Bên cạnh đó, các công trình của các tác
giả khác cũng đã đề cập đến vấn đề này. Có thể kể đến một số công trình sau:
- The concept of a legal system, Claredon press - Oxford - 1980
- Von Wright, G. H. Norm and Action, Routledge & Kegan Paul,
New York,
- Hans Kelsen, General Theory of Law and State. Publisher New
York: Russell and Russell, 1961
2
- Michael S. Moore, MORE ON ACT AND CRIME, University of
Pennsylvania Law Review.Vol. 142 - 1994.
Nhìn chung, các công trình đó đã giải quyết được một số khía cạnh nhất
định về hành vi pháp luật từ các góc độ khác nhau. Tuy nhiên, các công trình
đó còn có những hạn chế nhất định đòi hỏi cần phải được làm sáng tỏ thêm:
Thứ nhất, các quan điểm cũng như cách tiếp cận vấn đề chưa có sự
thống nhất, thậm chí có những quan điểm trái ngược nhau về hành vi pháp
luật. Vì thế, khi vận dụng những quan điểm đó vào việc giải quyết những vấn
đề cụ thể của khoa học pháp lý chuyên ngành hoặc thực tiễn pháp luật chưa
đảm bảo tính thống nhất.
Thứ hai, ở khía cạnh lý luận, những vấn đề liên quan đến mối quan hệ
giữa hành vi pháp luật và các phạm trù pháp lý khác của lý luận về nhà nước
và pháp luật chưa được giải quyết một cách thấu đáo.
Thứ ba, việc đánh giá thực trạng về hành vi pháp luật còn ở mức độ
hạn chế, chưa thực sự gắn với đời sống thực tiễn và hoàn cảnh hiện nay. Vì
vậy, khi đề ra các giải pháp thực tiễn còn mang tính chất chung chung, thiếu
cụ thể.
3. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận khoa học của Chủ
nghĩa Mác - Lênin về nhà nước và pháp luật. Trong đó, các phương pháp
nghiên cứu chủ yếu là phương pháp duy vật biện chứng và phương pháp duy
vật lịch sử. Bên cạnh đó, để làm rõ những vấn đề cụ thể, đề tài còn sử dụng
các phương pháp khác như phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, điều tra xã
hội học…
4. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Việc nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về hành vi pháp luật nhằm:
- Góp phần hoàn thiện lý luận về hành vi pháp luật - một phạm trù rất
cơ bản của khoa học lý luận về nhà nước và pháp luật.
3
- Đánh giá thực trạng hành vi pháp luật ở nước ta hiện nay, trên cơ sở
đó đề xuất các giải pháp cho các hoạt động thực tiễn trong công tác đấu tranh
phòng và chống vi phạm pháp luật.
- Phục vụ cho công tác giảng dạy môn học lý luận về nhà nước và
pháp luật trong chương trình đào tạo đại học.
5. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Hành vi pháp luật là một phạm trù pháp lý rất phức tạp mà mỗi khoa
học có thể tiếp cận nó ở các góc độ riêng của mình. Trong phạm vi đề tài này,
nhóm nghiên cứu sẽ tập trung làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản nhất
về hành vi pháp luật từ góc độ lý luận về nhà nước và pháp luật và đặt nó
trong lý luận của các khoa học pháp lý chuyên ngành; đánh giá thực trạng
hành vi pháp luật ở nước ta hiện nay; đề xuất các giải pháp cho việc đấu tranh
phòng và chống vi phạm pháp luật ở nước ta hiện nay.
6. Nội dung nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề cơ bản sau:
- Lý luận cơ bản nhất về hành vi pháp luật bao gồm khái niệm, đặc
điểm, cấu thành và phân loại hành vi pháp luật. Bên cạnh đó, đề tài cũng tập
trung giải quyết các vấn đề liên quan đến mối liên hệ giữa hành vi pháp luật
và các phạm trù khác của lý luận về nhà nước và pháp luật như hành vi trong
cơ chế điều chỉnh pháp luật;
- Hành vi pháp luật trong một số lĩnh vực pháp luật chuyên ngành;
- Đánh giá thực trạng về hành vi pháp luật, những yếu tố ảnh hưởng
đến hành vi pháp luật, các trạng thái của hành vi trong thực tiễn đời sống xã hội;
- Trên cơ sở thực trạng đã đánh giá, đề tài sẽ đề xuất những giải pháp
cho các hoạt động thực tiễn đặc biệt là trong công tác đấu tranh phòng chống
vi phạm pháp luật và việc giáo dục, nâng cao ý thức pháp luật nằm phát triển,
nhân rộng các hành vi hợp pháp trong đời sống xã hội.
4
PHẦN I
BÁO CÁO TỔNG HỢP KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
5
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HÀNH VI PHÁP LUẬT
1.1. Khái niệm hành vi pháp luật
1.1.1. Hành vi
Hành vi là phạm trù được tiếp cận từ góc độ của nhiều ngành khoa
học khác nhau. Trong tâm lí học có ba trường phái tiêu biểu đề cập đến hành
vi là thuyết hành vi cổ điển; thuyết hành vi mới và tâm lý học mácxít về hành
vi. Thuyết hành vi cổ điển (hay học thuyết Watson)
1
cho rằng, hành vi của con
người chỉ bao gồm các cử động (hoạt động) có thể quan sát được ở cơ thể
người thích ứng với môi trường khách quan xung quanh. Nói cách khác, hành
vi chính là kết quả của qui trình: kích thích (Stimulant) - phản ứng (Reaction).
Các nhà tâm lý học theo Thuyết hành vi mới không phủ nhận kết quả nghiên
cứu của Watson và cho rằng, các yếu tố S-R là những yếu tố tiền đề không thể
thiếu của hành vi. Tuy nhiên, họ cho rằng cần phải làm kín khoảng trống giữa
kích thích và phản ứng bằng cách đưa lý trí vào giữa hai yếu tố này. Các nhà
tâm lý học mác-xít về hành vi coi ý thức là vấn đề trung tâm của tâm lý hành
vi, ý thức chính là yếu tố không thể thiếu trong cấu trúc của hành vi. Hành vi
của con người là hoạt động khách quan, xét về nội dung và hình thức, hoạt
động đó hàm chứa các nhân tố tâm lý, ý thức, kinh nghiệm lịch sử- xã hội, giá
trị xã hội, hay nó là quá trình tác hợp các yếu tố chủ quan bên trong và yếu tố
bên ngoài dưới những điều kiện nhất định. Tính đúng đắn của tâm lý học
mác-xít khi tiếp cận hoạt động là coi kích thích cũng là đối tượng của nhận
thức, phản xạ là nội dung trả lời của tâm lý được hình thành trên cơ sở ý thức.
1
. Watson (1878-1958) nhà tâm lý học người Mỹ. Ông đã đưa ra cương lĩnh đầu tiên của thuyết hành vi
với công thức nổi tiếng S-R, tạo nên thuyết hành vi cổ điển (còn gọi là thuyết Watson).
6
Các nhà triết học mácxít khẳng định ý thức là thuộc tính của vật chất
nhưng không phải của mọi dạng vật chất mà chỉ là thuộc tính của một dạng
vật chất có tổ chức cao là bộ não người. Xét về cấu trúc vật chất và nội dung
của hành vi xã hội không thể thiếu quá trình tâm lý như kích thích, phản ứng
nghĩa là nó hàm chứa cả những thuộc tính bản năng và được hình thành trên
nền tảng ý thức, nhận thức của con người. Hành vi xã hội mang tính lịch sử
xã hội, hàm chứa các giá trị xã hội và nó được phổ biến, nhân rộng trong đời
sống xã hội của con người bằng chính nền tảng của ý thức. Sự phát triển của
xã hội không nằm ngoài quá trình lao động, sáng tạo của chính con người.
Các hoạt động đó có ý thức, tương tác với nhau và từng bước tạo nên những
thang bậc giá trị xã hội. Vì lẽ đó, hành vi của con người xét về mặt tổng thể là
hành vi xã hội? Hành vi của con người hàm chứa hai mặt, đó là những hoạt
động vật chất hình thành trên cơ sở ý thức của chủ thể và giá trị xã hội, phương
thức ứng xử chung với nghĩa là nguyên lý để tồn tại của xã hội con người.
Theo các nhà xã hội học, hành vi xã hội là một chỉnh thể thống nhất
gồm cả các yếu tố bên trong (tâm lý, ý thức) và các yếu tố bên ngoài (nhu cầu,
tác nhân, điều kiện, tình huống, giá trị, chuẩn mực xã hội…). Vì thế, "hành vi
cần được phân tích như một chỉnh thể linh hoạt, không một bộ phận nào của
chỉnh thể được phân tích hoặc có thể được phân tích một cách độc lập"
2
. Do
đó, cần phải phân biệt hành vi xã hội với các hành động vật lý, bản năng vô thức.
Như vậy, hành vi là một đối tượng hiện vẫn có sự khác biệt về nhận thức
giữa các ngành khoa học. Điều này là do các ngành khoa học khác nhau có đối
tượng nghiên cứu, phạm vi và mục đích nghiên cứu khác nhau. Mặc dù có sự
khác nhau nhất định về cách tiếp cận nhưng nhìn chung theo chúng tôi, hành
vi là hoạt động được hình thành trên cơ sở nhận thức; có phương thức biểu
đạt trên thực tế bằng hành động hoặc không hành động; có mục đích, định
hướng cụ thể. Với cách nhìn nhận như vậy, hành vi xã hội cần phải được phân
biệt với các thao tác bản năng. Những thao tác này xét về nội dung và hình
thức không được hình thành trên cơ sở nhận thức và không mang tính xã hội.
2
. Vũ Quang Hà, Xã hội học đại cương, Nxb Thống kê, 2002, trang132.
7
Như vậy, hành vi là là xử sự có ý thức của con người trong những
điều kiện hoàn cảnh cụ thể, chứa đựng nội dung thực tế và hướng tới mục
đích nhất định.
Trên cơ sở đó, hành vi có những đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, hành vi là dạng hoạt động được hình thành trên cơ sở ý
thức của con người.
Thứ hai, hành vi có phương thức biểu đạt trên thực tế dưới dạng
hành động và không hành động.
Thứ ba, hành vi chứa đựng động cơ, mục đích và định hướng cụ thể.
Thứ tư, hành vi mang tính lịch sử - xã hội
Thứ năm, hành vi luôn gắn liền với quá trình điều chỉnh xã hội, được
đánh giá bởi các chuẩn mực xã hội
Thứ sáu, hành vi có mối liên hệ hữu cơ với trách nhiệm xã hội.
Hành vi có nhiều loại và do nhiều chủ thể tiến hành trong những điều
kiện cụ thể khác nhau. Mặc dù có tính đa dạng cả về nội dung và tính chất
nhưng hành vi cũng có những nét tương đồng trong sự hình thành, tồn tại và
phát huy giá trị trên thực tế. Chính vì lẽ đó, việc phân loại hành vi là có thể
thực hiện dựa trên những tiêu chí khác nhau.
+ Dựa vào dạng thức tồn tại thực tế (tức hình thức biểu đạt khách
quan trên thực tế), hành vi phân thành hai dạng thức là hành động và không
hành động. Hành động là dạng thức hành vi thể hiện thái độ chủ động của chủ
thể trong việc bộc lộ những thao tác ra bên ngoài thế giới khách quan. Hành
động có thể được thể hiện dưới những thao tác vật chất như dùng sức mạnh
hoặc sử dụng ngôn ngữ nói. Không hành động là dạng thức hành vi thể hiện
thái độ chủ động của chủ thể trước một yêu cầu nào đó và đã không bộ lộ
những thao tác cụ thể ra ngoài thế giới khách quan nhưng gắn với một kết quả
thực tế.
8
+ Dựa vào các phương tiện điều chỉnh xã hội, hành vi được nhận diện
theo các chuẩn mực như hành vi đạo đức, hành vi pháp luật, hành vi tôn giáo,
hành vi chính trị.
- Hành vi đạo đức là những hành vi được điều chỉnh bởi đạo đức, hay
đó là những hành vi được đánh giá bởi các chuẩn mực đạo đức tốt hoặc xấu.
- Hành vi tôn giáo là những hành vi được điều chỉnh bởi các qui
phạm, quan niệm tôn giáo. Do tôn giáo có nhiều giáo phái nên các qui phạm,
quan niệm của các giáo phái có sự khác nhau nhất định.
- Hành vi pháp luật là những hành vi chịu sự điều chỉnh của pháp luật.
- Hành vi chính trị là hành vi thể hiện quan điểm, khuynh hướng,
đường lối chính trị trong đời sống xã hội có giai cấp, chịu sự điều chỉnh của
các quan điểm, qui phạm chính trị.
+ Dựa vào đặc điểm về chủ thể, hành vi có thể phân thành hành vi của
cá nhân, hành vi của tổ chức (tập thể).
+ Dựa vào ý chí, hành vi có thể chia làm hai dạng là hành vi chủ động
và hành vi bị động.
+ Dựa vào cơ sở của sự tồn tại hành vi có thể phân thành hành vi có
sự thỏa thuận (hay có giao ước, hợp đồng) và hành vi không có thỏa thuận
hay ngoài giao ước, hợp đồng.
Tóm lại, hành vi là phương thức tồn tại của con người. Nếu xã hội của
con người là quá trình vận động và phát triển không có điểm dừng thì hành vi
cũng sẽ là bất tận. Con người với tư cách là chủ thể của sự sáng tạo thì hành
vi luôn chứa đựng sự mới mẻ về nội dung, tính chất và vẫn là một vấn đề
phức tạp trong nhận thức luận. Việc kiến giải một cách khoa học về hành vi sẽ
là cơ sở lý luận quan trọng cho quá trình nghiên cứu một cách toàn diện về
con người. Đó là một quá trình đòi hỏi phải được tiếp cận đa chiều dưới lăng
kính liên ngành của nhiều bộ môn khoa học, bởi đó là những nội dung không
dễ có được sự thống nhất trong nghiên cứu.
9
1.1.2. Khái niệm hành vi pháp luật
Trong khoa học pháp lý hiện nay, còn có nhiều ý kiến khác nhau về
hành vi pháp luật cũng như về các đặc trưng cơ bản của nó. Các quan điểm
này đã luận giải ở những mức độ nhất định về hành vi pháp luật. Tuy nhiên,
vẫn còn có những điểm về hành vi pháp luật chưa được luận giải. Xuất phát
từ quan niệm hành vi được phân tích ở trên, hành vi pháp luật có những dấu
hiệu cơ bản sau đây:
Thứ nhất, hành vi pháp luật là xử sự thực tế của con người. Hành
vi là cách xử sự của con người trong một hoàn cảnh cụ thể có thể được biểu
hiện ra bên ngoài bằng lời nói, cử chỉ nhất định
3
(xử sự dưới dạng hành
động) và cũng có thể được thể hiện bằng việc thiếu vắng những cử chỉ, lời nói
hay những thao tác nhất định (xử sự dưới dạng không hành động). Khi những
nhận thức, suy nghĩ của con người chưa được biểu hiện ra bên ngoài thành
những xử sự cụ thể (hành động hoặc không hành động) trong một tình huống
hay hoàn cảnh cụ thể nào đó được pháp luật quy định thì cũng có nghĩa là
chưa thể có hành vi pháp luật. Do đó, hành vi pháp luật trước hết phải là
những xử sự thực tế cụ thể được thể hiện dưới những hình thức nhất định.
Điều này có nghĩa là hành vi pháp luật phải ở mức độ hành vi thực tế
4
.
Thứ hai, hành vi pháp luật là những xử sự hợp pháp hoặc bất hợp
pháp. Khác với các hành vi xã hội khác, một hành vi thực tế nào đó của con
người chỉ được coi là hành vi pháp luật khi đó là những xử sự hợp pháp hoặc
bất hợp pháp. Đây là đặc điểm thể hiện khía cạnh pháp lý của hành vi pháp
luật.
5
Không phải tất cả các hành vi hay xử sự thực tế của con người đều là
hành vi pháp luật mà chỉ những xử sự thực tế của con người theo quy định
của pháp luật là hành vi hợp pháp hoặc trái pháp luật thì mới có thể là hành vi
pháp luật.
3
. Đặng Thanh Nga, Từ khái niệm hành vi đến khái niệm hành vi phạm tội, Tạp chí Nhà nước và Pháp
luật, số 6 (218)/2006, trang 77.
4
. Đào Trí Úc, Những vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1993, trang 98.
5
. Đào Trí Úc, Sđd, trang 98.
10
Thứ ba, chủ thể của hành vi pháp luật phải có năng lực hành vi
pháp luật. Những hành vi thực hiện quyền và nghĩa vụ trên thực tế do chủ thể
không có năng lực hành vi thực hiện sẽ không thể là hành vi pháp luật bởi vì
họ chưa được pháp luật thừa nhận khả năng xác lập và thực hiện các quyền và
nghĩa vụ của mình. Những hành vi do chủ thể không có năng lực hành vi thực
hiện nếu đó là hành vi hợp pháp hoặc bất hợp pháp thì đó chỉ là những hành
vi mang tính chất pháp lý. Những hành vi này có thể là sự kiện pháp lý làm
phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ pháp luật.
Như vậy, hành vi pháp luật là xử sự hợp pháp hoặc bất hợp pháp
của chủ thể có năng lực hành vi pháp luật.
Quan niệm như vậy về hành vi pháp luật thể hiện được nội dung của
vấn đề toàn diện hơn và nhờ đó, nó tạo điều kiện cho việc nghiên cứu và làm
sáng tỏ về hành vi pháp luật trong các ngành khoa học pháp lý khác cũng như
nghiên cứu về hành vi pháp luật trong mối quan hệ với các phạm trù khác của
khoa học lý luận về nhà nước và pháp luật như quy phạm pháp luật, quan hệ pháp
luật, cơ chế điều chỉnh pháp luật, vi phạm pháp luật và trách nhiệm pháp lý
Để hiểu rõ hơn về hành vi pháp luật, có lẽ cũng cần phải đặt nó trong
mối quan hệ với các hành vi của con người được điều chỉnh bằng những phương
tiện khác như phong tục tập quán, tín điều tôn giáo… đặc biệt là đạo đức.
Giữa hành vi pháp luật và hành vi đạo đức có những điểm giống nhau
cơ bản:
Một là, hành vi pháp luật và hành vi đạo đức là những hành vi phổ
biến nhất trong đời sống xã hội. Trong các hành vi xã hội của con người thì
hành vi đạo đức và hành vi pháp luật chiếm tỉ trọng lớn nhất.
Hai là, hành vi pháp luật và hành vi đạo đức đều mang tính chất lịch
sử xã hội. Qua mỗi thời kì lịch sử, do điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa xã
hội khác nhau, con người có những hành vi khác nhau, cách thức thực hiện
khác nhau, công cụ, phương tiện hỗ trợ khác nhau…
11
Ba là, với tính cách là hành vi con người, hành vi pháp luật và hành vi
đạo đức đều chịu sự chi phối của những điều kiện khách quan, chủ quan. Đó
là những yếu tố như điều kiện kinh tế xã hội; môi trường sống như gia đình,
khu dân cư, nhà trường, nơi công tác. Ý thức cá nhân, bao gồm trình độ văn
hóa, hiểu biết pháp luật, đạo đức, quan điểm quan niệm sống… cũng là yếu tố
có sự chi phối rất mạnh mẽ tới hành vi của con người.
Bốn là, hành vi pháp luật và hành vi đạo đức đều bị chi phối bởi ý
thức hệ hay các quan điểm, quan niệm của lực lượng cầm quyền.
Bên cạnh những điểm giống nhau, hành vi pháp luật và hành vi đạo
đức cũng có những điểm khác biệt. Sự khác nhau giữa hành vi pháp luật và
hành vi đạo đức được thể hiện ở các khía cạnh sau:
Thứ nhất, nhân tố điều chỉnh hành vi: Hành vi pháp luật chịu sự tác
động trực tiếp của qui phạm pháp luật, nói một cách cụ thể, chỉ khi có qui
phạm pháp luật (qui tắc xử sự), các thành viên trong xã hội mới biết một cách
chính xác mình được làm gì, phải làm gì, làm như thế nào hay không được
làm gì? Trong khi đó, có thể nói, hành vi đạo đức trực tiếp chịu sự chi phối
của các quan điểm, quan niệm, tư tưởng đạo đức. Nắm được các quan niệm,
tư tưởng đạo đức là xác định được mình phải làm gì, làm như thế nào trong
điều kiện hoàn cảnh nào, bởi của các quan niệm, quan điểm đạo đức chính là
những yêu cầu, đòi hỏi của xã hội đối với hành vi của mỗi người.
12
Thứ hai, chủ thể của hành vi: Chủ thể của hành vi pháp luật là những
người có năng lực hành vi pháp luật. Tức là họ phải có khả năng nhận thức và
điều khiển hành vi của mình. Họ không chỉ nhận thức được mặt thực tế của
hành vi mà quan trọng là phải nhận thức được ý nghĩa xã hội của hành vi của
họ, tức là phải nhận thức được hành vi đó là phù hợp hay không phù hợp với
yêu cầu đòi hỏi của xã hội, hành vi đó được xã hội khuyến khích hay bị xã hội
lên án Đồng thời, họ phải điều khiển được hành vi của họ trên cơ sở của sự
nhận thức đó, nếu hành vi phù hợp với yêu cầu đòi hỏi của xã hội, họ phải có
sự tự giác, tích cực để thực hiện chúng, nếu hành vi không phù hợp với đòi
hỏi của xã hội, bị xã hội lên án…, họ phải có khả năng kiềm chế để không
thực hiện nó…Trong khi đó, chủ thể của hành vi đạo đức có phạm vi rộng
hơn rất nhiều. Chủ thể của hành vi đạo đức cũng phải là người có năng lực
hành vi đạo đức. Năng lực hành vi đạo đức xuất hiện rất sớm, nó xuất hiện
ngay từ khi con người thực hiện những hành vi có ý thức đầu tiên. Mỗi người,
ngay từ khi còn nhỏ, lúc mới bắt đầu nhận thức đã được giáo dục luân lí, đạo
đức trong gia đình. Đến tuổi tới trường, những kiến thức đầu tiên nhà trường
cung cấp cho trẻ cũng là những quan niệm, chuẩn mực luân lí, đạo đức.
13
Thứ ba, biện pháp tác động đến hành vi: Các biện pháp tác động đến
hành vi pháp luật và hành vi đạo đức cũng có sự khác nhau. Hành vi pháp luật
chịu sự tác động bởi các biện pháp mang tính nhà nước. Tùy điều kiện, hoàn
cảnh cụ thể, nhà nước có thể sử dụng một hoặc kết hợp các biện pháp khác
nhau, từ tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục, đến khen thưởng, xử phạt. Trong
khi đó, để tác động đến hành vi đạo đức, chủ yếu và "trước hết nhờ vào
những yếu tố kích thích nội tâm của con người - sức mạnh từ bên trong, từ
lương tâm, từ những thói quen xử sự và từ sức mạnh bên ngoài - dư luận xã
hội"
6
. Hơn nữa, các biện pháp tác động đến hành vi pháp luật chỉ được thực
hiện trong hiện tại và sự hiệu lực của các biện pháp đó chỉ trong một thời gian
nhất định. Ngược lại, sự phán xét của "toà án lương tâm" đối với hành vi con
nhấti không chỉ diễn ra trong một thời hạn nhất định. Sự ân hận, cắn rứt, giày
vò trong lương tâm không có thời hiệu, nó diễn ra một cách "triền miên, day
dứt, thậm chí suốt cả cuộc đời người vi phạm"
7
.
Ngoài ra, hành vi pháp luật và hành vi đạo đức còn được phân biệt ở
ranh giới giữa chúng và cơ chế tâm lý của hành vi.
1.14. Phân loại hành vi pháp luật
Phân loại hành vi pháp luật là một vấn đề rất phức tạp. Thông thường,
giới luật học thường phân chia hành vi pháp luật thành hành vi hợp pháp và
hành vi bất hợp pháp dựa vào mối quan hệ giữa hành vi với những đòi hỏi của
pháp luật. Đây là cách phân loại phổ biến và thông dụng nhất. Hành vi pháp
luật cũng có thể được phân loại theo nhóm gắn với các lĩnh vực pháp luật cụ
thể như hành vi pháp luật dân sự, hành vi pháp luật hành chính Dựa vào
hình thức biểu hiện khách quan của hành vi, hành vi pháp luật được phân chia
thành hai loại là hành động và không hành động.
6
. Hoàng Thị Kim Quế, "Một số suy nghĩ về mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức trong hệ thống điều
chỉnh xã hội", Nhà nước và Pháp luật, (7/1999), trang 17.
7
. Hoàng Thị Kim Quế, Sđd, trang 17.
14
Loại hành vi được thể hiện dưới hình thức hành động đều được đa số
các học giả thừa nhận đó là dạng hành vi được thực hiện bằng những cử chỉ,
lời nói, động tác của chủ thể. Hành vi pháp luật thuộc loại này dễ dàng được
nhận diện trong đời sống xã hội. Ví dụ, hành vi làm lộ bí mật công tác, hành
vi ký kết hợp đồng
Loại hành vi được thể hiện dưới hình thức không hành động là một
vấn đề phức tạp, hiện nay còn có những ý kiến khác nhau. Hành động xét về
mặt khách quan nó bao hàm một hoặc một chuỗi những thao tác, cử chỉ, lời
nói. Vì thế không hành động được hiểu là sự thiếu vắng một hoặc một chuỗi
những thao tác cử chỉ nào đó. Một người không thực hiện hành động (H) ở
thời điểm (T) chỉ trong trường hợp ở thời điểm đó người đó có cơ hội để thực
hiện hành động này
8
. Trong trường hợp này, việc thiếu vắng hành động được
pháp luật quy định nên được xem là không hành động. Ví dụ, một người thấy
người khác trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, tuy có điều kiện cứu
giúp mà không cứu giúp thì rõ ràng là không hành động trong điều kiện có thể
hành động. Ở đây cũng cần lưu ý rằng, "không hành động" là xét ở khía cạnh
quy định của pháp luật còn bản thân người thực hiện hành vi bằng không
hành động ở thời điểm đó, họ có thể thực hiện những hành động khác nhưng
lại không thực hiện hành động được pháp luật quy định. Vì thế việc xem xét
cái gọi là hành động hoặc không hành động cần phải xuất phát từ các quy
định của pháp luật. Trong mối quan hệ với các qui định của pháp luật, sự
thiếu vắng một hành động nào đó có thể là hợp pháp hoặc không hợp pháp.
8
. Joseph Raz, The Concept of a Legal system - An Introduction to the Theory of Legal system., Clarendon
Press - Oxford 1980, trang 51.
15
Ở khía cạnh ngôn ngữ, cái gọi là "hành động" hoặc "không hành
động" chỉ mang tính chất tương đối. Ví dụ, sự đối lập giữa làm việc và nghỉ
ngơi, giữa làm việc và đình công trong lĩnh vực Luật lao động. Theo đó, "làm
việc" hiểu theo nghĩa thông thường đó là hoạt động nhằm đạt được một kết
quả nào đó
9
; "Đình công" là "cùng nhau nghỉ, không làm việc"
10
hoặc "là sự
ngừng việc tập thể "
11
. Trong những trường hợp này, việc giải thích một
hành vi là hành động hay không hành động chỉ có ý nghĩa tương đối. Ở đây,
việc thiếu vắng hành động này được biểu hiện bằng cách sử dụng một thuật
ngữ chỉ một hành động khác chứ không hoàn toàn là việc sử dụng cách nói
phủ định để mô tả hành vi được thể hiện bằng không hành động. Trong những
trường hợp này, việc mô tả không hành động lại được thực hiện bởi việc xác
định một hành động khác và ngược lại.
1.2. Cấu thành hành vi pháp luật
Cấu thành của hành vi pháp luật bao gồm bốn yếu tố là mặt khách
quan, mặt chủ quan, chủ thể và khách thể.
1.2.1. Mặt khách quan của hành vi pháp luật
Mặt khách quan của hành vi pháp luật bao gồm các yếu tố như: xử sự
thực tế của chủ thể, hệ quả tác động của xử sự đó đối với xã hội, quan hệ nhân
quả giữa xử sự đó với hệ quả tác động của nó, thời gian, địa điểm xảy ra xử
sự và phương tiện giúp chủ thể thực hiện xử sự đó.
9
. Nguyễn Như Ý (chủ biên), Đại từ điển tiếng Việt, NXB Văn hoá Thông tin, Hà Nội - 1998, trang 967.
10
. Nguyễn Như Ý, Sđd, trang 640.
11
. Trường ĐH Luật Hà Nội, Giáo trình Luật lao động Việt Nam, NXB Công an nhân dân, Hà Nội - 2004,
trang 263.
16
Trước hết, hành vi pháp luật là xử sự thực tế của con người, xử sự đó
có thể là hợp pháp song cũng có thể là trái pháp luật. Xử sự hợp pháp của các
chủ thể được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau tùy theo yêu cầu của
pháp luật. Đó có thể là tuân theo pháp luật, thi hành pháp luật, sử dụng pháp
luật hoặc áp dụng pháp luật. Tuy nhiên, cách thức tuân theo, thi hành, sử dụng
hoặc áp dụng pháp luật của các chủ thể rất khác nhau tùy theo từng loại quan
hệ xã hội và từng tình huống cụ thể.
Xử sự trái pháp luật cũng được thể hiện dưới nhiều hình thức khác
nhau. Đó có thể là việc chủ thể không thực hiện, thực hiện không đúng hoặc
không đầy đủ nghĩa vụ mà pháp luật bắt buộc phải thực hiện. Loại xử sự bất
hợp pháp khác là là chủ thể thực hiện những hành vi bị pháp luật cấm Xử sự
trái pháp luật bao gồm hai loại là hành vi trái pháp luật do nguyên nhân khách
quan và vi phạm pháp luật. Hành vi trái pháp luật do nguyên nhân khách quan
là hành vi trái pháp luật nhưng không có lỗi của chủ thể và trong lĩnh vực
pháp lý nó thường được gọi là trường hợp bất khả kháng. Còn vi phạm pháp
luật là hành vi trái pháp luật và có lỗi do chủ thể có năng lực trách nhiệm
pháp lý thực hiện, xâm hại đến các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ.
Thứ hai, sự tác động của xử sự đó tới xã hội được thể hiện qua hệ quả
mà nó gây ra cho xã hội. Đó có thể là tác động tích cực song cũng có thể là
tác động tiêu cực. Những xử sự hợp pháp sẽ có tác động tích cực theo hướng
làm cho các quan hệ xã hội được điều chỉnh theo mục đích của nhà nước hay
phát triển theo chiều hướng mà nhà nước mong muốn, giúp cho trật tự pháp
luật được thiết lập trong những lĩnh vực được điều chỉnh bởi pháp luật, mang
lại những lợi ích vật chất tinh thần cho các chủ thể hoặc cho xã hội.
Phần lớn các xử sự trái pháp luật là có tác động tiêu cực theo hướng
làm cho các quan hệ xã hội không phát triển theo chiều hướng nhà nước
mong muốn, làm rối loạn trật tự xã hội hoặc làm cho trật tự pháp luật không
được thiết lập trong một lĩnh vực nào đó; gây ra những thiệt hại nhất định cho
xã hội.
17
Thứ ba, quan hệ nhân quả giữa xử sự thực tế và hệ quả mà nó gây ra
cho xã hội, tức là giữa chúng có mối quan hệ tất yếu với nhau, hành vi đã
chứa đựng mầm mống sẽ gây ra hệ quả hoặc là nguyên nhân trực tiếp của hệ
quả, nó phải xảy ra trước hệ quả về mặt thời gian, còn hệ quả phải là kết quả
tất yếu của chính xử sự ấy mà không phải của một xử sự khác. Ví dụ, hành vi
đăng ký xe máy, nộp thuế trước bạ của một cá nhân đã hứa hẹn và là nguyên
nhân trực tiếp đưa đến việc cá nhân đó được nhận đăng ký xe máy; hành vi vi
phạm luật giao thông đã chứa đựng mầm mống gây ra tai nạn giao thông hoặc
ngay lập tức gây ra tai nạn giao thông.
Thứ tư, các yếu tố khác như thời gian, địa điểm, phương tiện để thực
hiện xử sự. Thời gian là giờ, ngày, tháng, năm xảy ra xử sự thực tế của chủ
thể. Địa điểm là nơi mà chủ thể thực hiện hành vi và phương tiện là công cụ
mà chủ thể sử dụng để thực hiện hành vi.
Trong các yếu tố trên của mặt khách quan của hành vi pháp luật thì xử
sự thực tế của chủ thể là yếu tố quan trọng nhất và giữ vai trò quyết định vì
nếu không có nó thì cũng không có các yếu tố khác.
1.2.2. Mặt chủ quan của hành vi pháp luật
Mặt chủ quan của hành vi pháp luật là trạng thái tâm lý bên trong của
chủ thể khi thực hiện hành vi hay khi thực hiện một xử sự nhất định. Nó thể
hiện khả năng nhận thức, khả năng xác định mục đích, lựa chọn phương thức
thực hiện hành vi và điều khiển hành vi của chủ thể; nó phản ánh động cơ
thực hiện hành vi, thái độ của chủ thể đối với hành vi của mình và đối với hệ
quả của hành vi đó.
Mục đích của hành vi là cái đích trong tâm lý mà chủ thể mong muốn
đạt được khi thực hiện hành vi của mình.
18
Động cơ của hành vi là động lực trong tâm lý thúc đẩy chủ thể thực
hiện hành vi. Xử sự thực tế của các chủ thể có thể do sự thúc đẩy của một
động cơ nào đó. Động cơ thực hiện một xử sự thực tế của các chủ thể có thể
là trong sáng, lành mạnh, song cũng có thể là không trong sáng, không lành
mạnh hoặc thậm chí đen tối, thấp hèn.
Ngoài những yếu tố trên, đối với trường hợp vi phạm pháp luật, yếu tố
quan trọng trong nhất mặt chủ quan của vi phạm pháp luật là "lỗi", vì nếu chủ
thể không có lỗi trong hành vi của mình thì không bị coi là vi phạm pháp luật.
Do vậy, lỗi chính là yếu tố căn bản để phân biệt giữa hành vi trái pháp luật do
nguyên nhân khách quan với vi phạm pháp luật. Lỗi là thái độ hay trạng thái
tâm lý của chủ thể đối với hành vi trái pháp luật của mình và đối với hậu quả
của hành vi đó gây ra cho xã hội được thể hiện dưới hai hình thức cố ý hoặc
vô ý. Lỗi cố ý gồm có cố ý trực tiếp và cố ý gián tiếp. Lỗi vô ý cũng gồm hai
loại: vô ý vì cẩu thả và vô ý vì quá tự tin. Chủ thể sẽ bị coi là có lỗi khi thực
hiện hành vi trái pháp luật nếu đó là kết quả của sự lựa chọn và thực hiện của
chính chủ thể trong khi có đủ điều kiện để lựa chọn và thực hiện một xử sự
khác phù hợp với các qui định của pháp luật họ có thể nhận thức được hành vi
của mình và hậu quả của hành vi đó gây ra cho xã hội đồng thời điều khiển
được hành vi của mình.
1.2.3. Chủ thể của hành vi pháp luật
19
Chủ thể của hành vi pháp luật là cá nhân hoặc tổ chức có năng lực
hành vi pháp luật, tức là phải có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi
của mình. Họ không chỉ nhận thức được mặt thực tế của hành vi mà quan
trọng là phải nhận thức được ý nghĩa xã hội của hành vi của họ, tức là phải
nhận thức được hành vi đó là phù hợp hay không phù hợp với yêu cầu đòi hỏi
của xã hội, hành vi đó được xã hội khuyến khích hay bị xã hội lên án Đồng
thời, họ phải điều khiển được hành vi của họ trên cơ sở của sự nhận thức đó,
nếu hành vi phù hợp với yêu cầu đòi hỏi của xã hội, họ phải có sự tự giác, tích
cực để thực hiện chúng, nếu hành vi không phù hợp với đòi hỏi của xã hội, bị
xã hội lên án…, họ phải có khả năng kiềm chế để không thực hiện nó.
Đối với chủ thể là cá nhân thì năng lực hành vi pháp luật của họ không
thể phát sinh ngay từ khi họ sinh ra mà sẽ hình thành dần dần và cá nhân sẽ
được coi là có năng lực hành vi pháp luật đầy đủ khi họ đạt đến một độ tuổi
nhất định và trí tuệ phát triển bình thường. Đó là độ tuổi mà sự phát triển về
trí lực và thể lực đã cho phép chủ thể có đủ khả năng tự mình xác lập và thực
hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý của mình. Độ tuổi đó là khác nhau trong
các quan hệ pháp luật khác nhau tùy theo quy định của pháp luật. Đối với chủ
thể là tổ chức thì nó sẽ được coi là có năng lực hành vi đầy đủ khi nó được
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thành lập, cho phép thành lập, đăng ký
hoặc công nhận; tức là khi nó được thành lập hoặc được tồn tại và hoạt động
một cách hợp pháp. Năng lực hành vi pháp luật của tổ chức sẽ chấm dứt khi
nó bị giải thể hoặc sát nhập.
20
Năng lực trách nhiệm pháp lý là dấu hiệu gắn với chủ thể của vi phạm
pháp luật. Đó là khả năng mà pháp luật quy định cho chủ thể phải chịu trách
nhiệm về những hành vi của mình. Chủ thể là tổ chức sẽ có năng lực trách
nhiệm pháp lý khi nó có năng lực hành vi pháp luật, song nó chỉ có năng lực
trách nhiệm pháp lý trong những lĩnh vực nhất định theo quy định của pháp
luật. Chủ thể là cá nhân sẽ có năng lực trách nhiệm pháp lý khi họ đạt đến độ
tuổi nhất định và trí tuệ phát triển bình thường. Độ tuổi đó được pháp luật quy
định cụ thể tùy thuộc vào từng loại trách nhiệm pháp lý, nhưng đó phải là độ
tuổi mà sự phát triển về trí lực và thể lực đã cho phép chủ thể đủ khả năng
nhận thức được hành vi của mình và hệ quả của hành vi đó gây ra cho xã hội
nên phải tự chịu trách nhiệm về hành vi của mình.
1.2.4. Khách thể của hành vi pháp luật
Khách thể của hành vi pháp luật là các quan hệ xã hội được pháp luật
điều chỉnh hoặc bảo vệ. Đối với hành vi hợp pháp thì khách thể của nó là
những quan hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh. Pháp luật tác động lên quan
hệ xã hội bằng cách quy định quyền và nghĩa vụ pháp lý cho các chủ thể tham
gia vào quan hệ đó nhằm làm cho quan hệ được hình thành hoặc được củng
cố và phát triển. Ngược lại, pháp luật cũng có thể ngăn cản, kìm hãm sự phát
triển và từng bước loại trừ những quan hệ xã hội trái với lợi ích của nhà nước,
của nhân dân, trái với quy luật phát triển của xã hội. Khác với hành vi hợp
pháp, khách thể của hành vi trái pháp luật là những quan hệ xã hội được pháp
luật bảo vệ nhưng bị vi phạm pháp luật xâm phạm tới. Pháp luật bảo vệ quan
hệ xã hội bằng cách quy định các biện pháp trừng phạt đối với các chủ thể
xâm hại đến quan hệ xã hội đó. Xâm phạm đến các quan hệ xã hội tức là làm
biến dạng đi cách xử sự là nội dung của các quan hệ xã hội đó.
1.3. Hành vi pháp luật trong cơ chế điều chỉnh pháp luật
1.3.1. Hành vi pháp luật trong các giai đoạn của quá trình điều
chỉnh pháp luật
21
Quá trình điều chỉnh pháp luật được chia thành ba giai đoạn cơ bản là
giai đoạn thiết lập các khuôn mẫu cho hành vi của chủ thể các quan hệ xã hội
(giai đoạn mô hình hóa hành vi của chủ thể); Giai đoạn xuất hiện quyền và
nghĩa vụ pháp lý của chủ thể (giai đoạn cá biệt hóa các khuôn mẫu của hành
vi thành cách xử sự cụ thể) và giai đoạn các chủ thể thực hiện các quyền và
nghĩa vụ pháp lý (giai đoạn hiện thực hóa mô hình hành vi của chủ thể)
12
.
Trong mỗi giai đoạn đó, hành vi pháp luật có những vai trò nhất định.
Trong giai đoạn thứ nhất – giai đoạn mô hình hóa hành vi pháp luật
của các chủ thể pháp luật, những dấu hiệu pháp lý của một hành vi pháp luật
được xác định. Xét ở khía cạnh hình thức, giai đoạn này chủ yếu được thể
hiện ở việc tạo ra các quy phạm pháp luật và nó được tiến hành theo trình tự,
thủ tục do pháp luật quy định và được thực hiện bởi những chủ thể nhất định.
Vì vậy, việc tạo ra các quy pháp luật cũng là hành vi pháp luật. Xét về mặt nội
dung, thiết lập các khuôn mẫu cho xử sự của các chủ thể pháp luật thực chất
là làm hình thành những dấu hiệu pháp lý của hành vi pháp luật. Trong đó,
các điều kiện, hoàn cảnh cho xử sự của chủ thể sẽ được xác định và quan
trọng hơn là cách xử sự của chủ thể trong những điều kiện và hoàn cảnh cụ
thể đó cũng được xác định. Vì thế, giai đoạn này đã tạo ra những căn cứ,
những tiêu chuẩn pháp lý của hành vi pháp luật.
12
. Nguyễn Quốc Hoàn – Cơ chế điều chỉnh pháp luật Việt Nam - Luận án tiến sĩ luật học - Trường ĐH
Luật Hà Nội, 2002, trang 26, 27, 28.
22
Trong giai đoạn thứ hai của quá trình điều chỉnh pháp luật, việc cá biệt
hóa các quyền và nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể cũng là một hành vi pháp
luật. Hành vi trong trường hợp này là hành vi chủ thể xác lập quyền và nghĩa vụ
của mình trên cơ sở quy phạm pháp luật thông qua việc tham gia vào các quan
hệ pháp luật cụ thể. Các hành vi của các chủ thể trong trường hợp này đóng vai
trò là sự kiện pháp lý làm phát sinh, thay đổi quan hệ pháp luật mà nội dung của
nó là các quyền và nghĩa vụ cụ thể của chủ thể. Mặt khác, nếu quyền và nghĩa vụ
của chủ thể được xác định trên cơ sở một quyết định cá biệt của cơ quan có thẩm
quyền thì hoạt động của cơ quan có thẩm quyền ra quyết định áp dụng pháp luật
cũng là được thể hiện bằng các hành vi pháp luật cụ thể. Bản thân việc ra một
quyết định áp dụng pháp luật đã là một hành vi pháp luật vì chủ thể ra quyết định
áp dụng pháp luật phải tuân thủ các quy định của pháp luật về thẩm quyền, trình
tự và thủ tục áp dụng pháp luật. Xét ở khía cạnh khác, trong giai đoạn cá biệt hóa
các quyền và nghĩa vụ của chủ thể, hành vi pháp luật của chủ thể giữ một vai trò
làm cụ thể hơn những dấu hiệu pháp lý của hành vi pháp luật gắn với từng điều
kiện và hoàn cảnh đã xảy ra trên thực tế. Những dấu hiệu pháp lý của hành vi
pháp luật được xác định trong trường hợp này không còn chung chung, khái quát
như trong mô hình hành vi được tạo ra ở giai đoạn trước.
23
Trong giai đoạn thứ ba của quá trình điều chỉnh pháp luật, hành vi pháp
luật của chủ thể đã được thể hiện trên thực tế. Dấu hiệu thực tế được thể hiện ở
việc chủ thể thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình đã được xác định trong
giai đoạn thứ nhất và thứ hai. Xét về mặt nội dung, giai đoạn thứ nhất và giai
đoạn thứ hai của quá trình điều chỉnh pháp luật, hành vi pháp luật mới chỉ được
xác định về mặt pháp lý nhưng chưa thể hiện thành những hành động, cử chỉ, lời
nói hay những thao tác trên thực tế thì giai đoạn thứ ba sẽ là giai đoạn mà ở đó,
hành vi pháp luật xuất hiện trên thực tế. Hành vi pháp luật trong giai đoạn thứ ba
là một hành vi pháp luật thực tế chứ không phải là những dấu hiệu được pháp
luật xác định. Nếu chủ thể thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ của mình theo
quy định của pháp luật (thể hiện ở hành vi phù hợp với pháp luật) thì cơ chế điều
chỉnh pháp luật đã được hoàn thành. Ngược lại, nếu xuất hiện vi phạm pháp luật,
tức là xuất hiện hành vi thực tế vi phạm pháp luật, quá trình điều chỉnh pháp luật
sẽ xuất hiện giai đoạn đặc biệt - giai đoạn truy cứu trách nhiệm pháp lý.
1.3.2. Mối quan hệ giữa hành vi pháp luật và các thành tố khác của
cơ chế điều chỉnh pháp luật
Các thành tố của cơ chế điều chỉnh pháp luật có mối quan hệ mật thiết
tác động qua lại lẫn nhau rất phức tạp, sự tác động đó xảy ra ở tất cả các giai
đoạn của quá trình điều chỉnh pháp luật. Trong đó, hành vi pháp luật có sự tác
động qua lại với các thành tố khác trong cơ chế điều chỉnh pháp luật.
Hành vi pháp luật và quy phạm pháp luật
Trước hết, quy phạm pháp luật là căn cứ pháp lý để xác định một hành
vi thực tế nào đó của chủ thể có phải là hành vi pháp luật hay không. Các quy
phạm pháp luật là quy tắc xử sự của con người do nhà nước đặt ra vì vậy, để
xác định một hành vi thực tế của con người có phải là hành vi pháp luật hay
không cần phải dựa vào các quy định của pháp luật mà cụ thể là phải dựa vào
nội dung của các quy phạm pháp luật. Nếu một xử sự nào đó của con người
xảy ra trên thực tế mà không được các quy phạm pháp luật xác định thì hành
vi đó không phải là hành vi pháp luật.
24
Mặt khác, nội dung của các quy phạm pháp luật là những khuôn mẫu
hành vi của chủ thể gắn với những điều kiện và hoàn cảnh nhất định. Phần
không thể thiếu trong các quy phạm pháp luật là xử sự của chủ thể. Cách thức
xác định các xử sự trong mỗi quy phạm pháp luật là không giống nhau, điều
này hoàn toàn phụ thuộc vào tính chất của loại hành vi được nhà nước quy
định, ý chí của nhà làm luật và cả kỹ thuật lập pháp. Vì thế những dấu hiệu
pháp lý của hành vi pháp luật được xác định trong quy phạm pháp luật rất đa
dạng. Đó có thể là việc mô tả hành vi, xác định cách thức thực hiện hành vi
hoặc xác định kết quả thực tế của hành vi.
Như vậy, hành vi pháp luật là nội dung chủ yếu của quy phạm pháp
luật. Các dấu hiệu pháp lý cơ bản của một hành vi pháp luật được xác định
trong quy phạm pháp luật dưới các hình thức khác nhau.
Hành vi pháp luật và quan hệ pháp luật
Trong mối quan hệ với hành vi thực hiện pháp luật của chủ thể, quan
hệ pháp luật với nội dung là quyền và nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể là căn
cứ để chủ thể thực hiện hành vi của mình trên thực tế. Vì thế, hành vi thực
hiện pháp luật chính là sự hiện thực hóa quyền và nghĩa vụ của chủ thể trong
quan hệ pháp luật mà suy cho cùng đó là sự hiện thực hóa các khuôn mẫu
hành vi của chủ thể - quy phạm pháp luật. Ngược lại, đối với quan hệ pháp
luật, hành vi thực hiện pháp luật lại là một trong những sự kiện pháp lý làm
phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ pháp luật.
25