CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ
THUẾ VÀ PHÁP LUẬT THUẾ VIỆT NAM
1. Khái quát chung về thuế.
1.1 Lịch sử hình thành và phát triển của thuế.
Trong thời kỳ sơ khai của xã hội loài người (xã hội công xã nguyên thủy) với nền
sản xuất chủ yếu là săn bắt, hái lượm, sản phẩm làm ra được chia đều cho các thành viên
công xã. Mỗi thành viên trong xã hội đều bình đẳng như nhau và không phải đóng góp
của cải của mình. Lúc này, tuy các cộng đồng đều có thủ lĩnh của mình nhưng những thủ
lĩnh này chỉ được cộng đồng trao cho quyền hạn mang tính xã hội chứ không là quyền
lực chính trị, quyền lực nhà nước. Trong xã hội đó cũng chưa có nhà nước, chưa có
pháp luật và đương nhiên là trong xã hội đó cũng chưa có “thuế”.
- Trải qua một quá trình lịch sử lâu dài, con người ngày càng sáng tạo ra các
công cụ, phương tiện sản xuất mới, các phương thức sản xuất ngày càng phát triển cùng
với sự chuyên môn hóa trong sản xuất, sản phẩm tạo ra không chỉ đáp ứng nhu cầu hiện
tại của con người mà còn dư thừa. Sản phẩm dư thừa ngày càng nhiều, phát sinh chế dộ
chiếm hữu tư nhân, hình thành giai cấp. Mâu thuẫn giai cấp gay gắt dẫn đến đấu tranh
giai cấp.Trong cuộc đấu tranh giai cấp đó, giai cấp nào thắng thế sẽ lập ra một thiết chế
gọi là nhà nước để thống trị các giai cấp còn lại. Nhà nước ra đời trên nền tảng kinh tế -
chính trị đó.
Để duy thì sự tồn tại của nhà nước (mà đại diện là giai cấp thống trị) và thực hiện
các chức năng quản lý xã hội cần phải có nguồn tài chính đủ lớn. Mà nguồn tài chính thu
được từ đâu? Câu trả lời chính là thu từ sự đóng góp của người dân trong xã hội, sự đóng
góp này được gọi là thuế. Đó là yêu cầu đầu tiên quyết định sự ra đời của thuế. Như vậy,
thuế ra đời là để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của nhà nước.
* Vậy: Thuế ra đời, tồn tại và phát triển cùng với sự ra đời và phát triển của
nhà nước và pháp luật. Sự xuất hiện và phát triển của thuế gắn liền với mỗi giai
đoạn lịch sử và lợi ích của nhà nước mà giai cấp thống trị đang cầm quyền. Mác nói
rằng: Thuế là cơ sở tồn tại của nhà nước.
1.2 Khái niệm thuế:
1.2.1 Một số quan điểm khác nhau về thuế:
a. Thuyết khế ước xã hội:
Khế ước là gì? Khế ước hiểu một cách chung nhất là sự thỏa thuận giữa hai hay
nhiều chủ thể về việc các chủ thể được hưởng những quyền và phải thực hiện những
nghĩa vụ nhất định.
Theo thuyết khế ước xã hội, thuế là nghĩa vụ trong hợp đồng được thiết lập giữa
nhà nước với cư dân trong xã hội. Hay thuế là kết quả của sự thoả thuận giữa nhân dân
mà đại diện của họ chính là các đại biểu dân chúng trong Nghị viện hoặc Quốc hội và
Nhà nước. Như vậy, trong khế ước xã hội đó, quan hệ thuế được hiểu như sau:
+ Nhân dân phải có nghĩa vụ đóng thuế cho nhà nước.
+ Nhà nước có nghĩa vụ cung cấp, đảm bảo cho nhân dân các dịch vụ như: an
ninh, quốc phòng, giáo dục…
Hạn chế của thuyết khế ước: thực tế thì thuế:
+ Trong quan hệ pháp luật thuế không có sự tương ứng quyền và nghĩa vụ giữa các
bên.
+ Trong quan hệ pháp luật thuế không có sự thỏa thuận giữa nhà nước và nhân
dân. Ngay từ khi nhà nước ra đời, nhà nước đã sử dụng quyền lực của giai cấp thống trị
bóc lột giai cấp bị trị thông qua chế độ thuế khóa nặng nề,
+ Trong quan hệ pháp luật thuế không có hợp đồng cụ thể thuần túy giữa các bên.
+ Người dân có quyền mặc cả về thuế không?
Từ sự phân tích trên có thể nhận thấy, thuyết khế ước xã hội chấp nhận quan điểm
thuế mang tính đối giá và hoàn trả trực tiếp, nghĩa là nhân dân phải nhận được phần lợi
ích một cách trực tiếp từ nhà nước tương ứng với số thuế mà nhân dân đã nộp. Hay nói
cách khác rằng, tôi đã nộp thế thì tôi phải được hưởng một phần lợi ích tương ứng với số
tiền thuế tôi đã nộp. Vấn đề là: người nộp thuế có được nhà nước cung cấp các quyền và
nghĩa vụ tương ứng không? Người không nộp thuế (người nghèo…) có được hưởng các
lợi ích do nhà nước cung cấp không? Những vấn đề này chưa được thuyết khế ước xã
hội giải quyết triệt để.
b. Thuyết quyền lực nhà nước:
Theo quan điểm của thuyết này, thuế là sự đóng góp tài chính bắt buộc của
người dân nhằm hình thành quỹ ngân sách nhà nước để nhà nước thực hiện các chức
năng của mình, không mang tính đối giá và được đảm bảo thực hiện bằng sức mạnh
cưỡng chế của nhà nước (bắt buộc các chủ thể từ bỏ một phần lợi ích của mình cho nhà
nước).
- Đặc điểm của thuyết quyền lực nhà nước:
+ Khẳng định bản chất của thuế là sự đóng góp bắt buộc được đảm bảo bằng sức
mạnh cưỡng chế của nhà nước …
+ Khẳng định bản chất của thuế không có tính đối giá và hoàn trả trực tiếp.
- Với quan điểm của thuyết này, thuế sẽ giết chết nguồn thu, người nộp thuế
không còn khả năng để tái sản xuất nên sẽ không thu được thuế lâu dài (không đảm bảo
nguồn thu trong tương lai).
- Trong xã hội hiện đại, với quan điểm tiến bộ, nhà nước cần phải có chính sách
thuế hợp lý nhằm đảm bảo duy trì và bổ sung nguồn thu hợp lý, không bỏ sót đối tượng
chịu thuế nhưng cũng cần có chính sách miễn giảm thuế nhằm hộ trợ kịp thời, giúp họ
tiếp tục thực hiện hành vi chịu thuế. Có như vậy nguồn thu từ thuế mới ổn định, ngân
sách nhà nước mới bền vững.
c. Thuyết tự nguyện:
Theo thuyết tư nguyện, thuế là một khoản tiền mà nhân dân tự nguyện đóng góp
cho quỹ ngân sách nhà nước. Đây là thuyết của giai cấp tư sản muốn lật đổ nhà nước
phong kiến với thuyết quyền lực nhằm tranh thủ sự ủng hộ của đại đa số quần chúng nhân
dân.
Hạn chế của thuyết tự nguyện:
- Trong bất kỳ một chế độ xã hội nào, không ai tự nguyện từ bỏ lợi ích của mình
cho nhà nước trong khi các quyền và lợi ích mà họ nhận được từ hành vi nộp thuế rất mơ
hồ, không rõ ràng, không tương xứng.
- Vì thế, đây là một thuyết không tưởng, chưa hiểu rõ được bản chất, đặc điểm
của thuế. Thuyết này không đứng trên quan điểm duy vật biện chứng mà mang nặng tính
chất siêu hình Mục đích cơ bản của thuyết này không phải là xây dựng nền tảng lý luận
về thuế mà vì mục đích chính trị để chống lại và lật đổ chế độ phong kiến lỗi thời với chế
độ thuế khóa hà khắc.
Từ sự đưa ra và phân tích các thuyết trên, có thể thấy thuế vừa có dấu hiệu của hợp
đồng, vừa có dấu hiệu của quyền lực nhà nước,
Kết luận: Thuế là khoản thu bắt buộc mang tính cưỡng chế bằng sức mạnh của nhà
nước mà các tổ chức, cá nhân có nghĩa vụ phải nộp vào ngân sách nhà nước khi có đủ
những điều kiện nhất định. Các khoản thu này không mang tính đối giá và hoàn trả trực
tiếp cho người nộp thuế. Đây là quan điểm toàn diện, hệ thống và đầy đủ nhất, thể hiện
đúng bản chất của thuế, là cơ sở quan trọng để chúng ta di vào phân tích những đặc điểm
của thuế.
1.3 Đặc điểm của thuế:
a. Thuế là một phạm trù lịch sử gắn liền với nhà nước (từ phạm vi điều chỉnh
đến hình thức thu thuế):
- Bởi vì có sự xuất hiện, tồn tại, phát triển và mất đi của thuế; mỗi giai đoạn lịch sử
khác nhau thì có chính sách thuế khác nhau.
- Mọi sự thay đổi của lịch sử sẽ dẫn đến sự thay đổi về thuế.
- Gắn liền với nhà nước: (như đã phân tích ở nguồn gốc ra đời của thuế).
b. Thuế là một khoản thu mang tính bắt buộc được đảm bảo thực hiện bỡi các
văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực cao và sức mạnh cưỡng chế của nhà nước
(do cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất ban hành).
Là một khoản thu mang tính bắt buộc: Vì không ai tự nguyện từ bỏ quyền lợi
của mình để nộp thuế cho nhà nước. Hơn nữa, để nhà nước tồn tại, nguồn thu từ thuế phải
thường xuyên và ổn định. Nếu tự nguyện nộp thì không thể thường xuyên và ổn định
được. Tính bắt buộc được thể hiện dưới 2 khía cạnh sau:
- Bắt buộc đối với nhà nước: Thu thuế là nghĩa vụ bắt buộc đối với cán bộ, cơ
quan thu thuế. Cán bộ cơ quan thu thuế không được quyền lựa chọn đối tượng nộp thuế,
đối tượng chịu thuế, căn cứ tính thuế… Khoản 1 Điều 8 Luật Quản lý Thuế quy định:
Trách nhiệm của cơ quan quản lý thuế là “Tổ chức thực hiện thu thuế theo quy định của
pháp luật”, lấy pháp luật làm căn cứ duy nhất để thực hiện.
- Đối với người dân: Đây là nghĩa vụ chuyển giao tài sản của họ cho nhà nước khi
có đủ điệu kiện do pháp luật thuế quy định mà không phải quan hệ thanh toán trong hợp
đồng hay ngoài hợp đồng.
- Tính bắt buộc của thuế là một trong những đặc tính quan trọng để phân biệt thuế
với các khoản thu khác trên cơ sở tự nguyện hình thành nên ngân sách nhà nước.
Đảm bảo thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế:
- Cưỡng chế hành chính.
- Cưỡng chế hình sự: Điều 161 Bộ Luật Hình sự năm 1999 quy định về tội trốn
thuế với mức hình phạt lên đến 7 năm tù giam.
Hậu quả của việc cưỡng chế này có thể dẫn đến giảm hiệu quả, uy tín trong sản
xuất kinh doanh, thậm chí là chấm dứt sự tồn tại của đối tượng bị áp dụng.
c.Thuế không mang tính đối giá và hoàn trả trực tiếp cho đối tượng nộp.
Trong quan hệ pháp luật thuế không có mối liên hệ trực tiếp giữa số tiền thuế mà
các đối tượng nộp thuế đã nộp cho nhà nước và các quyền, lợi ích hợp pháp mà đối tượng
nộp thuế nhận được từ nhà nước.
- Không mang tính đối giá: người nộp thuế nhiều và người nộp thuế ít đều
được hưởng lợi ích như nhau.
- Không hoàn trả trực tiếp: Thuế không phải là khoản phải trả khi các đối
tượng nộp thuế đã nhận được một lợi ích hay quyền lợi cụ thể nào từ phía nhà nước.
d. Thuế có phạm vi tác động rộng: Hầu như mọi đối tượng hàng hóa dịch vụ
(được phép lưu thông và hợp pháp), mọi tổ chức, cá nhân (có tư cách chủ thể) đều chịu
sự điều chỉnh của thuế.
Từ những đặc điểm trên, chúng ta có thể so sánh, phân biệt thuế với các khoản thu
khác trong hệ thống các khoản thu của ngân sách nhà nước mà tiêu biểu nhất là phân biệt
thuế với phí và lệ phí:
Giống nhau:
+ Đều là những nguồn thu của ngân sách nhà nước.
+ Căn cứ để tiến tiến hành thu đều là văn bản pháp luật do cơ quan nhà nước có
thẩm quyền ban hành.
Phân biệt thuế với phí và lệ phí:
Tiêu chí
phân biệt
Thuế Phí, lệ phí
Cơ sở
pháp lý
Văn bản có hiệu lực pháp lý cao, do
cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất
ban hành là Quốc hội hoặc Uỷ ban
Thường vụ Quốc hội (Luật, Pháp lệnh,
Nghị quyết)
Được điều chỉnh bởi những văn bản
dưới luật, do Uỷ ban Thường vụ
Quốc hội, Chính phủ, Bộ trưởng Bộ
Tài chính, Hội đồng nhân dân cấp
tỉnh có thẩm quyền ban hành.
Vai trò
trong hệ
thống
Ngân sách
nhà nước
Là khoản thu chủ yếu, quan trọng,
chiếm trên 90% các khoản thu cho
Ngân sách nhà nước
Là khoản thu phụ, không đáng kể,
chỉ đủ chi dùng cho các hoạt động
phát sinh từ phí.
Tính đối
giá
Không mang tính đối giá và hoàn trả
trực tiếp
Mang tính đối giá rõ ràng và hoàn trả
trực tiếp.
Phạm vi
áp dụng
- Không có giới hạn, không có sự khác
biệt giữa các đối tượng, các vùng lãnh
thổ.
- Áp dụng hầu hết đối với các cá nhân,
tổ chức.
- Mang tính địa phương, địa bàn rõ
ràng.
- Chỉ những cá nhân tổ chức có yêu
cầu “Nhà nước” thực hiện một dịch
vụ nào đó.
1.4 Phân loại thuế.
a. Căn cứ vào tính chất của từng sắc thuế, thuế được phân thành: Thuế
trực thu và thuế gián thu.
Thuế trực thu: là loại thuế thu trực tiếp vào đối tượng nộp thuế, người có nghĩa vụ
nộp thuế đồng thời là người chịu thuế, người phải trả tiền thuế và trực tiếp nộp thuế vào
NSNN. Hay nói cách khác là nhà nước đã tiến hành điều tiết một cách trực tiếp một phần
thu nhập của các tổ chức, cá nhân vào ngân sách nhà nước.
Ưu điểm: chính sách về thuế trực thu được công bằng hơn vì nhà nước hiểu rõ và cá biệt
hóa được người chịu thuế. Trên cơ sở đó đảm bảo công bằng xã hội hơn cho việc điều
tiết thu nhập.
Căn cứ này cũng là cơ sở để lý giải vì sao các loại thuế trực thu thường có mức
thuế suất rất cao nhưng chế độ miễn giảm rất linh hoạt nhằm đảm bảo sự công
bằng.
Nhược điểm: khó thu thuế, người nộp thuế có xu hướng trốn thuế vì họ cảm thấy gánh
nặng về thuế khi phải trích một phần lợi ích của chính bản thân mình cho nhà nước.
Bên cạnh đó, việc theo dõi, quản lý thu thuế này là rất phức tạp, đòi hỏi cán bộ
thuế phải có chuyên môn cao, có hệ thống xử lý thông tin liên thông. Điều này cũng làm
cho chi phí hành thu đối với loại thuế trực thu cũng tăng lên tương đối cao và khó khăn
so với thuế gián thu. Điều này đôi khi cũng làm cho việc tập trung thu nhập vào ngân
sách nhà nước không đáp ứng kịp thời, đầy đủ.
Trong hệ thống pháp luật thuế của Việt Nam hiện nay, thuế trực thu gồm:
+ Thuế thu nhập doanh nghiệp;
+ Thuế thu nhập cá nhân;
+ Thuế sử dụng đất nông nghiệp;
+ Thuế sử dụng đất phi nông nghiệp;
+ Thuế tài nguyên.
Thuế gián thu: là loại thuế thu gián tiếp thông qua giá cả hàng hóa và dịch vụ.
Trong thuế gián thu, đối tượng nộp thuế không phải là người chịu thuế (người gánh chịu
thuế là người tiêu dùng).
- Thuế gián thu không tách biệt ra khỏi giá cả hàng hóa và dịch vụ mà nó cấu thành
trong giá cả hàng hoá dịch vụ, làm cho người tiêu dùng lầm tưởng đó là giá mà họ trả để
có được hàng hoá dịch vụ đó.
- Trong thuế gián thu, đối tượng nộp thuế và người chịu thuế là khác nhau. Thông
thường, người chịu thuế chính là người tiêu dùng.
- Trong một số trường hợp đặc biệt, đối tượng nộp thuế và người chịu thuế là một. Ví
dụ: Doanh nghiệp A nhập khẩu máy lạnh về để trang bị cho hệ thống văn phòng của
mình. Trong trường hợp này, thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế nhập khẩu
là thuế gián thu nhưng chính doanh nghiệp A là người chịu thuế đồng thời là người nộp
thuế Lưu ý: nếu có nhận định rằng: Trong thuế gián thu, đối tượng nộp thuế và người
chịu thuế là khác nhau là nhận định đúng, (không nên vận dụng những trường hợp đặc
biệt như ví dụ trên để cho rằng nhận định này sai). Vì đây là đặc trưng cơ bản của thuế
gián thu.
- Có 3 loại thuế gián thu: Thuế Giá trị gia tăng, Thuế Xuất khẩu, nhập khẩu, Thuế
Tiêu thụ đặc biệt.
Nhược điểm:
- Tỷ trọng tiền thuế gián thu trên thu nhập của người nghèo lại cao hơn tỷ trọng tiền
thuế gián thu trên thu nhập của người giàu. Đây là tính không công bằng của thuế gián
thu.
- Nhà nước không cá biệt hóa được người chịu thuế nên khó khăn trong việc thực
hiện chính sách miễn giảm về thuế.
Ưu điểm: Dễ thu thuế bỡi vì đối tượng nộp thuế không phải là người chị thuế (không có
cảm giác gánh nặng về thuế).
Trên cơ sở phân tích về thuế gián thu, trực thu, ta có thể đưa ra sự khác biệt sau
của hai loại thuế này là:
Thuế gián thu Thuế trực thu
- Tiền thuế được cấu thành trong giá cả
hàng hoá, dịch vụ.
- Tiền thuế không được cấu thành trong giá
cả hàng hoá, dịch vụ.
- Nhà nước điều tiết thu nhập của người
chịu thuế một cách gián tiếp thông qua giá
cả hàng hoá, dịch vụ.
- Nhà nước điều tiết trực tiếp thu nhập của
người chịu thuế.
- Trong thuế gián thu, đối tượng nộp thuế
và người chịu thuế là khác nhau.
- Trong thuế trực thu, đối tượng nộp thuế
và người chịu thuế là một.
- Phạm vi tác động của thuế gián thu là rất
rộng rãi.
- Phạm vi tác động của thuế trực thu là
tương đối hẹp.
- Việc thu thuế là tương đối dễ dàng hơn vì
ít gặp sự phản ứng của người chịu thuế.
- Việc thu thuế là tương đối khó khăn vì
tâm lý phản ứng với thuế của nười tiêu
dung.
b. Căn cứ vào đối tượng chịu thuế, thuế được phân thành các loại sau
đây:
Nhóm 1: Thuế thu vào hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hóa và dịch vụ:
Nhóm 2: Thuế điều tiết vào thu nhập (còn gọi là thuế thu nhập): gồm các sắc
thuế có đối tượng điếu chỉnh là các khoản thu nhập.
Nhóm 3: Thuế điều tiết vào hành vi sử dụng một số loại tài sản của nhà nước.
1.5 Vai trò của thuế.
a. Tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước:
- Thuế là một trong 3 nguồn thu chủ yếu và thường xuyên trong Ngân sách nhà nước,
chiếm trên 90% tổng nguồn thu Ngân sách nhà nước.
- Nhà nước quan tâm khi ban hành một sắc thuế thì sẽ bổ sung bao nhiêu phần trăm
cho nguồn thu ngân sách nhà nước, chi phí hành thu như thế nào.
Để thực hiện tốt vai trò này, cần phải đáp ứng những yêu cầu sau:
+ Cần phải đảm bảo rằng các văn bản qui phạm pháp luật thuế đồng bộ, thống
nhất và khoa học để có thể dễ dàng trong việc áp dụng thuế.
+ Thuế đưa ra phải bao quát hầu hết mọi hoạt động từ sản xuất-kinh doanh, chế
biến, sửa chữa, khai thác, xây dựng đến dịch vụ, từ nguồn thu nhập thường xuyên đến
không thường xuyên, những hoạt động tiêu dùng của xã hội.
+ Việc thu thuế cần phải đảm bảo việc nuôi dưỡng nguồn thu.
+ Bên cạnh đó, việc thu thuế phải đảm bảo tính công bằng.
b. Thuế là sản phẩm, là công cụ pháp lý giúp nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh
tế:
- Thuế tạo nguồn thu để phục vụ nhu cầu đầu tư của đất nước.
- Thuế là công cụ điều tiết giá cả thị trường, chống lạm phát hoặc giảm phát.
- Thuế góp phần điều tiết và hướng dẫn tiêu dùng: để hạn chế tiêu dùng các sản phẩm
và sử dụng các dịch vụ không cần thiêt, nhà nước đánh thuế rất cao và ngược lại.
- Thuế được coi là công cụ quan trong để bảo vệ nền sản xuất trong nước, đồng thời
khuyền khích nhà đầu tư đầu tư vào những ngành, những vùng miền nhà nước cần phát
triển.
c. Thuế là công cụ điều tiết thu nhập và thực hiện công bằng xã hội.
- Thuế điều tiết thu nhập một cách hợp lý dựa trên thu nhập: Các luật thuế
được ban hành đều xác nhận “động viên một phần thu nhập vào ngân sách nhà nước”
như một lý do cơ bản để ban hành sắc thuế đó.
- Thuế tạo công bằng xã hội: được thể hiện ở việc nhà nước sử dụng nguồn tài
chính có được để xây dựng hệ thống phúc lợi xã hội, thực hiện các chính sách xã hội như:
đào tạo nghề cho trẻ em lang thang cơ nhỡ, chăm sóc cho người già không nơi nương tựa,
chính sách xã hội đối với gia đình có công với cách mạng, gia đình neo đơn, hay các
chương trình xây dựng hệ thống nước ngọt để cung cấp nước cho mùa khô, đào kênh rửa
phèn, ngăn mặn…
2. Những vấn đề cơ bản về pháp luật thuế:
2.1. Khái niệm pháp luật thuế: pháp luật thuế là tổng hợp các quy pháp pháp luật,
do cơ quan nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá
trình thu, nộp thuế, là bộ phận chủ yếu và quan trong nhất của pháp luật về thu Ngân
sách nhà nước.
Pháp luật thuế có là một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật Việt
Nam không? Luật thuế không phải là một ngành luật độc lập mà chỉ là một bộ phận của
pháp luật Ngân sách nhà nước thuộc ngành luật tài chính. Bỡi vì: để trở thành một ngành
luật độc lập, phải có đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh độc lập. Trong khi
đó, đối tượng điều chỉnh của pháp luật thuế chỉ là một khâu trong toàn bộ chu trình ngân
sách nhà nước thuộc đối tượng điều chỉnh của ngành luật tài chính.
Lưu ý: Pháp luật thuế là tổng hợp các qui phạm pháp luật điều chỉnh các quan
hệ pháp luật xã hội phát sinh trong quá trình thu nộp thuế. Điều này có nghĩa là những
quan hệ nảy sinh trong việc thu nộp thuế sẽ bao gồm những quan hệ sau:
+ Nhóm quan hệ phát sinh trong quá trình quản lý thuế của cơ quan nhà nước.
+ Nhóm quan hệ trong việc người nộp thuế thực hiện nghĩa vụ nộp thuế cho cơ
quan thuế.
- Pháp luật thuế là bộ phận chủ yếu và quan trọng nhất của pháp luật về
thu ngân sách nhà nước.
2.2. Nội dung điều chỉnh của pháp luật thuế:
a. Xác lập nghĩa vụ thuế của các tổ chức, cá nhân có nghĩa vụ nộp thuế cho
nhà nước.
b. Xác lập cách thức điều tiết thuế.
c. Xác định trình tự thực hiện các nghĩa vụ về thuế.
d. Xác lập biện pháp xử phạt và khen thưởng.
2.3. Các yếu tố cấu thành của một đạo luật thuế.
2.3.1. Tên gọi của đạo luật thuế: tên gọi của đạo luật thuế cần phản ánh được
phạm vi tác động, mục đích điều tiết của sắc thuế.
- Căn cứ đặt tên thuế có rất nhiều căn cứ khác nhau, nhưng thông thường thì căn
cứ vào đối tượng tính thuế, đối tượng tác động của loại thuế, nội dung, tính chất của các
điều kiện pháp lý làm phát sinh nghĩa vụ chịu thuế.
- Mục đích của tên gọi một đạo luật thuế là cần phải làm sao giúp người nghe,
người nghiên cứu, người dân ngay khi mới nghe đến tên của sắc thuế đã có thể hình dung
được đối tượng mà sắc thuế muốn điều chỉnh, tránh nhầm lẫn với các sắc thuế khác.
2.3.2. Đối tượng chịu thuế: Đối tượng chịu thuế của một đạo luật thuế là đối
tượng khách quan phải thu thuế, là vật chuẩn mà dựa vào đó nhà nước thu được một số
tiền thuế nhất định.
Phương pháp quy định đối tượng chịu thuế có thể là phương pháp liệt kê (thuế
tiêu thụ đặc biệt, thuế thu nhập cá nhân) hoặc dùng phương pháp đưa ra khái niệm (thuế
xuất khẩu, nhập khẩu, thuế gia trị gia tăng).
Ý nghĩa của việc xác định đối tượng chịu thuế:
- Dựa vào đối tượng chịu thuế có thể xác định được phạm vi điều chỉnh của đạo luật
thuế.
- Dựa vào đối tượng chịu thuế có thể xác định được chủ thể có nghĩa vụ nộp thuế.
- Về nguyên tắc, mỗi đạo luật thuế có đối tượng chịu thuế riêng biệt.
2.3.3. Đối tượng nộp thuế: Đối tượng nộp thuế của một đạo luật thuế là những
tổ chức, cá nhân có hành vi tác động lên đối tượng chịu thuế và theo quy định của đạo
luật thuế, các tổ chức cá nhân có nghĩa vụ phải nộp thuế cho nhà nước.
Hai điều kiện để trở thành đối tượng nộp thuế:
- Có hành vi tác động vào đối tượng chịu thuế mà đạo luật thuế quy định;
- Thỏa mãn điều kiện chịu thuế do pháp luật quy định.
Điều đó có nghĩa là không phải mọi tổ chức, cá nhân có hành vi tác động lên đối
tượng chịu thuế đều là đối tượng nộp thuế mà còn phải thỏa mãn những điều kiện do
pháp luật quy định.
Cần phân biệt 2 khái niệm người nộp thuế và đối tượng nộp thuế.
Cần phân biệt 2 khái niệm người nộp thuế và đối tượng nộp thuế với người chịu
thuế.
Lưu ý:
- Một tổ chức, cá nhân có thể là đối tượng nộp thuế của nhiều đạo luật thuế.
- Tư cách pháp lý của đối tượng nộp thuế không làm ảnh hưởng đến nghĩa vụ
nộp thuế của đối tượng nộp thuế.
Dựa trên việc xác định đối tượng nộp thuế và người chịu thuế chúng ta phân biệt
một số điểm sau:
Đối tượng nộp thuế Người chịu thuế
-Được qui định cụ thể trong đạo luật. - Không được xác định trong đạo luật.
- Là tổ chức, cá nhân trực tiếp tiến hành
việc nộp thuế cho cơ quan thuế.
- Là người thực sự phải trả tiền thuế nhưng
không phải lúc nào cũng nộp thuế trực tiếp
cho cơ quan thuế.
- Trong một số trường hợp, đối tượng nộp thuế trùng với người chịu thuế: khi đó là loại
thuế trực thu hoặc thuế gián thu nhưng đối tượng nộp thuế chính là người tiêu dùng sản
phẩm, sử dụng dịch vụ.
2.3.4. Đối tượng không thuộc diện chịu thuế và đối tượng không thuộc diện
nộp thuế.
Đối tượng không thuộc diện chịu thuế là các hàng hóa, dịch vụ, tài sản hoặc thu
nhập có các điều kiện được dự liệu trong đạo luật nhưng được đạo luật xác định là
không thuộc phạm vi điều chỉnh của đạo luật (sắc thuế đó).
Đối tượng không thuộc diện nộp thuế là các tổ chức cá nhân có các điều kiện
được dự liệu trong đạo luật có hành vi tác động vào đối tượng chịu thuế nhưng được đạo
luật xác định không phải thực hiện các nghĩa vụ về thuế.
2.3.5. Căn cứ tính thuế.
Căn cứ tính thuế gồm 2 căn cứ: là cơ sở tính thuế và thuế suất.
- Cơ sở tính thuế:
+ Đối với thuế gián thu: là giá cả và số lượng hàng hóa, dịch vụ của loại thuế
cần áp dụng (đây là giá chưa có thuế). Giá chưa có thuế là giá cả hàng hoá, dịch vụ chưa
có tiền thuế của loại thế cần áp dụng.
Lưu ý: Giá chưa có thuế là chưa có loại thuế cần áp dụng, nó có thể là giá đã có các
loại thuế khác.
+ Đối với thuế trực thu: theo từng loại thuế khác nhau mà có cách tính khác
nhau (là thu nhập thực tế hay là thu nhập theo pháp luật, thu nhập từ hoạt động làm công
ăn lương hay thu nhập từ hoạt động sản xuất kinh doanh).
- Thuế suất: là mức thuế phải thu thể hiện mức độ điều tiết của nhà nước mà đối
tượng nộp thuế có nghĩa vụ phải nộp vào ngân sách nhà nước theo một mức nhất định.
Có 2 loại thuế suất:
+ Thuế suất tuyệt đối: là một số tiền nhất định trên một đơn vị tính thuế. Thuế
suất căn cứ trên đơn vị háng hóa.
Ưu điểm của thuế suất tuyệt đối: đảm bảo ổn định được số thuế thu vào ngân sách
nhà nước; giúp cơ sở kinh doanh định trước được số thuế phải nộp để xác định trước chi
phí kinh doanh sao cho có lợi và việc thu thuế được tiến hành dễ dàng, phần nào hạn chế
được tình trạng kê khai gian dối của đối tượng nộp thuế để trốn thuế.
Nhược điểm của thuế suất tuyệt đối: mức thuế suất này không phụ thuộc vào sự
biến động của giá cả dẫn đến đôi khi việc điều tiết của thuế không sát với tình hình thực
tại của thị trường, gây thất thoát nguồn thu hoặc ảnh hưởng đến lợi ích của đối tượng nộp
thuế.
+ Thuế suất tương đối: được xác định bằng tỷ lệ % dựa vào cơ sở tính thuế.
Loại thuế suất này thường được sử dụng hơn.
Thuế suất tương đối cố định: Mức thuế suất không thay đổi khi giá trị
tính thuế thay đổi.
Thuế suất tương đối lũy tiến: Mức thuế suất gia tăng theo sự gia tăng
của giá trị tính thuế. Được chia làm 2 loại:
+ Thuế suất tương đối lũy tiến từng phần.
+ Thuế suất tương đối lũy tiến toàn phần.
Thuế suất tương đối lũy thoái: Mức thuế suất giảm theo theo sự gia
tăng của giá trị tính thuế.
Ưu điểm của mức thuế suất tương đối: số thuế phải nộp có thể thay đổi tuỳ theo
cơ sở tính thuế. Trên cơ sở đó, đảm bảo lợi ích của nhà nước và tạo sự công bằng giữa
các đối tượng nộp thuế.
Nhược điểm của mức thuế suất tương đối: công tác hành thu thuế rất là khó khăn vì
phải làm sao có thể xác định được chính xác cơ sở tính thuế (giá bán hàng hoá, dịch vụ,
thu nhập của đối tượng nộp thuế…). Vì vậy, đối với loại thuế suất này, đối tượng nộp
thuế rất dễ có cơ hội để thực hiện các hành vi trốn thuế.
2.3.6. Chế độ đăng ký, kê khai, nộp thuế và quyết toán thuế: (đây là nghĩa
vụ gắn liền với đối tượng nộp thuế khi thực hiện các hành vi chịu thuế.
a. Đăng ký thuế (xem chương II Luật Quản lý thuế):là việc đối tượng nộp thuế
thông báo với cơ quan thuế biết được đối tượng nộp thuế đang tiến hành những hoạt
động, thực hiện những hành vi chịu thuế.
Các đạo luật thuế bắt buộc đối tượng nộp thuế phải thực hiện nghĩa vụ đăng ký
và quy định về thời gian đăng ký đối với từng sắc thuế.
Việc đăng ký thuế chính là trách nhiệm của đối tượng nộp thuế.
b. Kê khai thuế (xem chương III Luật Quản lý thuế): là việc đối tượng nộp thuế
thông báo cho cơ quan thuế biết về thực tế hoạt động của đối tượng nộp thuế và số tiền
thuế phát sinh trong một khoảng thời gian nhất định theo quy định của pháp luật (còn
được gọi là kỳ tính thuế).
Lưu ý: Trong trường hợp không phát sinh số thuế phải nộp thì đối tượng nộp thuế
cũng phải tiến hành kê khai với cơ quan thuế để thông báo với cơ quan thuế rằng số thuế
phát sinh là không có.
c. Nộp thuế (xem chương V Luật Quản lý thuế):: là việc đối tượng nộp thuế thực
hiện nghĩa vụ tài chính của mình đối với nhà nước.
d. Quyết toán thuế (xem chương VI Luật Quản lý thuế):: là việc đối tượng nộp
thuế xác định lại với cơ quan thuế chính xác số thuế mà đối tượng nộp thuế có nghĩa vụ
phải nộp vào ngân sách nhà nước trong một khoảng thời gian nhất định (thường là kết
thúc năm tài chính).
Các trường hợp xảy ra khi quyết toán:
- Nếu tiền thuế tạm nộp > Nghĩa vụ nộp: được hoàn thuế (trong thực tế thì không hoàn
thuế mà thường khấu trừ thuế cho năm sau).
- Nếu tiền thuế tạm nộp < Nghĩa vụ nộp: nộp phần còn thiếu vào ngân sách nhà nước.
- Nếu tiền thuế tạm nộp = Nghĩa vụ nộp: thực hiện quyết toán sổ sách theo đúng quy
định.
2.3.7. Chế độ truy thu và hoàn thuế (xem chương VII Luật Quản lý thuế)::
a. Chế độ hoàn thuế: là việc cơ quan thuế hoàn trả lại một phần hoặc toàn bộ số tiền
thuế mà các tổ chức, cá nhân (không dùng từ đối tượng nộp thuế) đã nộp trước đó do các
tổ chức cá nhân đã thực hiện vượt quá nghĩa vụ nộp thuế của họ.
Trong thực tế, việc hoàn thuế được thực hiện bằng cách khấu trừ vào nghĩa vụ thuế
của năm tiếp theo.
Hoàn thuế thường xảy ra trong các trường hợp sau:
+ Do những chính sách ưu đãi của nhà nước đối với các đối tượng nộp thuế. Ví
dụ như: hoàn thuế đối với trường hợp xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ ra thị trường nước
ngoài…
+ Do đối tượng nộp thuế đã tiến hành nộp thừa cho cơ quan thuế so với nghĩa vụ
của họ.
+ Do sự nhầm lẫn của cơ quan thuê hay là đối tượng nộp thuế.
b. Truy thu thuế: là một quyết định hành chính của cơ quan thuế, yêu cầu đối tượng
nộp thuế phải nộp phần thuế còn thiếu vào ngân sách nhà nước.
Truy thu thuế không phải lúc nào cũng xuất phát từ hành vi vi phạm pháp luật
của đối tượng nộp thuế mà có thể là do nhâm lẫn hoặc thay đổi trong việc thực hiện
chế độ miễn, giảm thuế.
2.3.8. Chế độ miễn giảm thuế (xem chương VIII Luật Quản lý thuế):: là sự
ưu đãi hoặc chia sẻ của nhà nước dành cho đối tượng nộp thuế khi thỏa mãn những điều
kiện mà đạo luật thuế quy định. Trong mọi trường hợp, đối tượng nộp thuế là người
hưởng lợi trực tiếp từ việc miễn giảm thuế.
Lưu ý: Những đối tượng thuộc diện này vẫn là đối tượng nộp thuế, vẫn phải
đăng ký, kê khai, nộp và quyết toán thuế. Khi có căn cứ chứng tỏ rằng họ không
thuộc diện miễn, giảm thuế thì có thể bị truy thu thuế và xử lý theo quy định của
pháp luật.
Điều kiện để được miễn, giảm thuế do đạo luật thuế điều chỉnh sắc thuế tương
ứng quy định. Đối tượng nộp thuế chỉ được miễn, giảm khi thoả mãn các điều kiện do
đạo luật thuế quy định.
Đối tượng nộp thuế tuy đã thoả mãn các điều kiện được đạo luật thuế dự liệu như
các đối tượng nộp thuế chưa có thể được hưởng chế độ miễn, giảm thuế một cách đượng
nhiên. Các đối tượng nộp thuế cần phải làm các thủ tục để xin cơ quan thuế có thẩm
quyền đồng ý cho được hưởng chế độ miễn, giảm thuế này.
Từ việc hiểu thế nào là miễn thuế, là không phải nộp thuế, là hưởng thuế suất 0%
thì chúng ta có thể phân biệt được chúng với nhau:
Không nộp thuế Miễn thuế Thuế suất 0%
- Là những trường hợp đạo
luật thuế dự liệu trước, khi
các tổ chức, cá nhân tác
động vào hàng hoá, dịch vụ
trong trường hợp này sẽ
không phải nộp thuế. Họ
không được coi là đối tượng
nộp thuế.
- Là những trường hợp đạo
luật dự liệu trước, các tổ
chức, cá nhân khi thoả mãn
các điều kiện đặt ra sẽ được
miễn thuế. Họ vẫn là đối
tượng nộp thuế theo quy
định của pháp luật.
- Là những trường hợp đạo
luật qui định nhằm tạo sự
ưu đãi cho đối tượng nộp
thuế khi họ có hành vi tác
động vào đối tượng chịu
thuế trong những trường
hợp đặc biệt. Tổ chức, cá
nhân khi tác động vào đối
tượng chịu thuế này sẽ được
hưởng mức thuế suất là 0%
và họ vẫn là đối tượng nộp
thuế của loại thuế đó.
- Không thuộc phạm vi điều
chỉnh của một đạo luật thuế.
- Thuộc phạm vi điều chỉnh
của một đạo luật thuế.
- Thuộc phạm vi điều chỉnh
của một đạo luật thuế.
- Hệ quả của việc không
phải nộp thuế là hệ quả
đương nhiên. Trong trường
hợp này, tổ chức, cá nhân
không phải lập hồ sơ về
hành vi của mình.
- Hệ quả được miễn thuế là
hệ quả có điều kiện. Cần
phải xin phép cơ quan thuế
có thẩm quyền.
- H
ệ quả số tiền thuế phải
nộp là 0 đồng là hệ quả
đương nhiên. Các tổ chức,
cá nhân không cần phải làm
đơn xin phép.
- Không phải tiến hành kê
khai, nộp thuế.
- Phải tiến hành kê khai,
nộp thuế.
- Phải tiến hành kê khai,
nộp thuế.
Về mặt số học (tiền thuế phải đóng) là giống nhau nhưng bản chất và hệ quả pháp lý của
nó là khác nhau. Việc phân biệt 3 khái niệm này là điều cần thiết để phục vụ cho hoạt
động áp dụng pháp luật thuế, tư vấn thuế
2.3.9. Chế độ xử phạt và khen thưởng (xem chương XII Luật Quản lý
thuế):.
2.4. Các nguyên tắc khi xây dựng hệ thống thuế:
2.4.1. Nguyên tắc đánh thuế phải đảm bảo công bằng: mọi đối tượng có
năng lực chịu thuế phải nộp thuế và mọi người có liên quan đến thuế như nhau phải
thực hiện nghĩa vụ thuế như nhau. Nếu có sự khác nhau nhưng cùng loại thì phải
được đối xử với nhau tương xứng. Sự công bằng đó phải được thể hiện ở cả chiều
ngang và chiều dọc.
Theo chiều ngang: Đối tượng nộp thuế có cùng điều kiện như nhau thì có nghĩa vụ
nộp thuế như nhau. Điều này chỉ đạt được khi những đối tượng nộp thuế giống nhau về
mọi khía cạnh được đối xử như nhau thông qua hệ thống thuế.
Theo chiều dọc: người nào có khả năng nộp thuế cao hơn thì phải nộp thuế nhiều
hơn. Vấn đề đặt ra thì nộp thuế bao nhiêu được gọi là công bằng ? Vấn đề này bản thân
hệ thống pháp luật thuế hiện nay không thể giải quyết được.
2.4.2. Nguyên tắc đánh thuế phải đạt hiệu quả: nguyên tắc này yêu cầu phải
xây dựng hệ thống thuế mang tính hiệu quả cao.
- Hệ thống thuế phải đảm bảo nguồn thu ổn định cho ngân sách.
- Hệ thống thuế phải đảm bảo không gây tác hại tiêu cực đến đối tượng nộp thuế, đến
sự phát triển của nền kinh tế (phải nuôi dưỡng nguồn thu, kích thích sự phát triển kinh
tế).
- Chi phí hành thu phải thấp.
2.4.3. Nguyên tắc đơn giản và rõ ràng: Nguyên tắc này đòi hỏi trong đạo luật
thuế, ngôn ngữ và cách thực hiện các nghĩa vụ về thuế phải dễ hiểu, đơn giản, dễ thực
hiện.
2.4.4. Nguyên tắc đánh thuế phải đảm bảo không xảy ra tình trạng một đối
tượng chịu thuế chịu một loại thuế nhiều lần.
2.4.5. Một số nguyên tắc khác có liên quan:
- Nguyên tắc xây dựng hệ thống thuế phải đảm bảo về mặt tài chính.
- Nguyên tắc xây dựng hệ thống thuế phải đảm bảo về mặt kinh tế.
- Nguyên tắc xây dựng hệ thống thuế phải đảm bảo về mặt pháp lý.
2.5. Hệ thống pháp luật thuế ở Việt Nam.
--