MỤC LỤC
Phần mở đầu
1. Lý do chọn đề tài;
2. Mục tiêu nghiên cứu;
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
4. Phương pháp nghiên cứu
Phần nội dung
Chương I: Một số vấn đề lí luận của việc vận dụng nguyên tắc TTDC nhằm
nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên
1. Cơ sở khoa học của việc vận dụng nguyên tắc TTDC nhằm nâng cao chất
lượng đội ngũ giáo viên
2. Cơ sở pháp lý của việc vận dụng nguyên tắc TTDC nhằm nâng cao chất
lượng đội ngũ giáo viên
3. Cơ sở thực tiễn của việc vận dụng nguyên tắc TTDC nhằm nâng cao chất
lượng đội ngũ giáo viên
Chương II: Thực trạng của việc vận dụng nguyên tắc TTDC nhằm nâng cao
chất lượng đội ngũ GV trường phổ thông .
1. Những thành tựu chung
2. Những yếu kém và bất cập
3. Nguyên nhân
4. Một số vấn đề đặt ra trong việc vận dụng nguyên tắc TTDC trong quản lý
trường phổ thông nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ GV
Chương III: Một số biện pháp của việc vận dụng nguyên tắc TDC nhằm nâng
cao chất lượng đội ngũ giáo viên trường phổ thông .
Phần kết luận
1. Kết luận
2. Bài học kinh nghiệm
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nhân dân ta rất hiếu học và rất coi trọng vai trò của thầy giáo. Câu ca dao “
Muốn sang thì bắc cầu kiều, muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy.” đã nói lên điều
đó. Trong lễ giáo trước đây, người ta sắp xếp thứ bậc: Quân - Sư – Phụ; xếp thầy
trên cha. Thứ bậc ấy tuy là của đạo Nho nhưng được nhân dân ta chấp nhận, điều
đó chứng tỏ nhân dân ta đánh giá cao vai trò của giáo dục, của học vấn trong sự
phát triển của xã hội. Bác Hồ rất quan tâm đến sự nghiệp giáo dục và đội ngũ thầy
giáo. Về sự nghiệp giáo dục, người đã từng nói: “ Vì sự nghiệp mười năm trồng
cây, vì lợi ích trăm năm trồng người”. Về vai trò thầy giáo, Bác dạy “ nếu không
có thầy giáo thì không có giáo dục ”. Nhưng để thực hiện được vai trò vẻ vang
của mình, trước hết: “ Thầy phải xứng đáng làm thầy, thầy phải được lựa chọn cẩn
thận vì không phải ai cũng làm thầy được .”
Hội nghị Ban chấp hành Trung ương 2 khóa VIII về những giải pháp chủ
yếu để thực hiện mục tiêu GD-ĐT từ nay đến năm 2010 đã nêu: “ Giáo viên là
nhân tố quyết định chất lượng giáo dục và được xã hội tôn vinh, giáo viên phải đủ
đức, đủ tài ”. Điều đó có nghĩa là giáo viên không đủ đức, đủ tài không thể tạo ra
những con người đi vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của trí tuệ, kỷ nguyên của
KHKT hiện đại; và sẽ không hoàn thành sứ mệnh CNH - HĐH đất nước. Cố Thủ
tướng Phạm Văn Đồng đã nói: “ Nghề dạy học là nghề sáng tạo bậc nhất vì nó
sáng tạo ra những con người sáng tạo”.
Chỉ thị số 40- CT/TW ngày 15 tháng 6 năm 2004 của Ban Bí thư Trung
ương Đảng về "Xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý
giáo dục giai đoạn 2005 - 2010" đã ghi nhận rõ lí do vì sao phải xây dựng, nâng
cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục : “Trong lịch sử nước
ta, "tôn sư trọng đạo" là truyền thống quý báu của dân tộc, nhà giáo bao giờ cũng
được nhân dân yêu mến, kính trọng. Những năm qua, chúng ta đã xây dựng được
đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục ngày càng đông đảo, phần lớn có
phẩm chất đạo đức và ý thức chính trị tốt, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ ngày
càng được nâng cao. Đội ngũ này đã đáp ứng quan trọng yêu cầu nâng cao dân trí,
đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần vào thắng lợi của sự nghiệp cách
mạng của đất nước. Tuy nhiên, trước những yêu cầu mới của sự phát triển giáo dục
trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý
giáo dục có những hạn chế, bất cập. Số lượng giáo viên còn thiếu nhiều, đặc biệt ở
các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số Cơ cấu giáo viên đang mất
cân đối giữa các môn học, bậc học, các vùng, miền. Chất lượng chuyên môn,
nghiệp vụ của đội ngũ nhà giáo có mặt chưa đáp ứng yêu cầu và truyền đạt lý
thuyết, ít chú ý đến phát triển tư duy, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành của
người học; một bộ phận nhà giáo thiếu gương mẫu trong đạo dức, lối sống, nhân
cách, chưa làm gương tốt cho học sinh, sinh viên. Năng lực của sự nghiệp giáo
dục. Chế độ, chính sách còn bất hợp lý, chưa tạo được động lực đủ mạnh để phát
huy tiềm năng của đội ngũ này.
Tình hình trên đòi hỏi phải tăng cường xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ
quản lý giáo dục một cách toàn diện. Đây là nhiệm vụ vừa đáp ứng yêu cầu trước
mắt, vừa mang tính chiến lược lâu dài, nhằm thực hiện thành công Chiến lược phát
triển giáo dục 2001-2010 và chấn hưng đất nước”.
Từ nhận thức trên đây, tôi thấy vị trí, vai trò của giáo viên trong sự nghiệp
giáo dục, càng thấy hơn trách nhiệm xây dựng đội ngũ giáo viên “vừa hồng vừa
chuyên” của các nhà quản lý giáo dục. Từ đó, tôi thấy rõ hơn trách nhiệm xây dựng
đội ngũ giáo viên đạt chuẩn ở các trường phổ thông là việc làm cần thiết và phải
làm ngay. Đó cũng là mục tiêu hàng đầu của quản lý nhà nước.
Xuất phát từ những lý do khách quan và lý do chủ quan như đã phân tích ở
trên, tôi lựa chọn đề tài: “ Một số biện pháp quản lý nhằm xây dựng và phát triển
đội ngũ giáo viên trường phổ thông ”.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Đề xuất một số biện pháp quản lý nhằm xây dựng và phát triển đội ngũ giáo
viên trường phổ thông ”.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
a Xác định cơ sở khoa học của việc quản lý nhằm xây dựng và phát triển đội ngũ
giáo viên trường phổ thông
b Thực trạng của đội ngũ giáo viên trường phổ thông .
c Những giải pháp nhằm xây dựng và phát triển đội ngũ GV trường phổ thông .
4. Đối tượng nghiên cứu: “Một số biện pháp quản lý nhằm xây dựng và phát triển
đội ngũ giáo viên trường phổ thông .
4. Phương pháp nghiên cứu
a Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận.
b Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn.
c Nhóm phương pháp nghiên cứu hỗ trợ (biểu bảng, sơ đồ).
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I :
CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC QUẢN LÝ NHẰM NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN CỦA TRƯỜNG PHỔ THÔNG
1. Cơ sở khoa học của việc xây dựng và phát triển đội ngũ giáo viên trường
phổ thông
Từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay, ngành giáo dục Việt Nam đã
không ngừng chăm lo xây dựng đội ngũ giáo viên cả về số lượng lẫn chất lượng.
Ngày nay, chúng ta đã có một hệ thống trường sư phạm đào tạo giáo viên mọi cấp,
từ Trung ương đến địa phương. Tỉ lệ giáo viên chuẩn ngày một cao hơn. Đội ngũ
giáo viên đó đã tạo nên thành tựu rực rỡ cho nền giáo dục XHCN Việt Nam. Vấn
đề đội ngũ giáo viên hiện nay là họ đã thấm nhuần tư tưởng chỉ đạo của Nghị quyết
Ban chấp hành Trung ương 2, Ngành giáo dục và đào tạo đã có nhiều biện pháp để
nâng cao chất lượng của đội ngũ giáo viên nói chung, giáo viên phổ thông nói
riêng, đã và đang không ngừng lớn mạnh về số lượng cũng như chất lượng.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây với cơ chế thị trường, bên cạnh những
mặt tích cực, đã gây nên những biến động lớn, làm đảo lộn nhiều bậc thang giá trị
trong xã hội, trong đó có giáo dục và đào tạo. Nguyên nhân của sự giảm sút này có
nhiều, trong đó vấn đề đội ngũ giáo viên là nguyên nhân quan trọng. Bởi một số
giáo viên còn có những biểu hiện chưa toàn tâm toàn ý phục vụ sự nghiệp giáo
dục, và một số bộ phận không đủ điều kiện đảm nhận trách nhiệm người thầy. Sự
phân bố đội ngũ giảng dạy lại không đồng đều; nơi thừa, nơi thiếu, môn thừa, môn
thiếu. Đời sống cán bộ giáo viên cũng có sự phân bố sâu sắc. Trong lúc đó, đất
nước ta trong giai đoạn hiện nay đòi hỏi phải có đội ngũ cán bộ giỏi về trình độ
nhận thức, trình độ chuyên môn, trình độ sư phạm, trình độ công nghệ thông tin, có
năng lực, phẩm chất đạo đức tốt.
Đảng, Nhà nước, ngành giáo dục đã và đang có chính sách và những biện
pháp tích cực, cụ thể nhằm tháo gỡ những khó khăn của giáo dục nói chung và đội
ngũ giáo viên nói riêng, chuẩn bị cho sự đổi mới toàn diện giáo dục khi bước vào
thiên niên kỉ mới. Tuy nhiên, mọi chính sách, biện pháp dù tích cực đến mấy cũng
trở thành hình thức nếu bản thân đội ngũ giáo viên và mỗi giáo viên không ý thức
đầy đủ trách nhiệm khó khăn và cao cả của mình để tự đổi mới và tự vươn lên.
b) Nguyên tắc tập trung dân chủ
Nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong hoạt động chính trị
xã hội ở nước ta, đồng thời cũng là một nguyên tắc quan trọng trong tổ chức và
hoạt động của bộ máy nhà nước của nước ta.
Tập trung dân chủ là một nguyên tắc Hiến định; Điều 6, Chương I, Hiến pháp
1992 (đã sửa đổi, bổ xung năm 2001) ghi nhận:
"Quốc hội, Hội đồng nhân dân và các cơ quan khác của Nhà nước đều tổ chức và hoạt
động theo nguyên tắc tập trung dân chủ".
Quan điểm về tổ chức và hoạt động của nhà nước theo nguyên tắc tập trung
dân chủ đã được Nhà nước CHXHCN Việt Nam ghi nhận trong ba văn bản Hiến
pháp: Hiến pháp 1959 (Điều 4, Chương I); Hiến pháp 1980 (Điều 6, Chương I); Hiến
pháp 1992 (Điều 6, Chương I - sửa đổi).
* Những yêu cầu và nội dung của
nguyên tắc tập trung dân chủ
Tập trung dân chủ là sự kết hợp hài hoà giữa sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung,
thống nhất của các cơ quan trung ương, của cấp trên với mở rộng dân chủ, nhằm tăng
cường tính chủ động, sáng tạo và khai thác mọi tiềm năng của các cơ quan địa
phương, của cấp dưới, đồng thời đảm bảo phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong
việc tham gia quản lý nhà nước và thực hiện các quyền và nghĩa vụ công dân.
Sự chỉ đạo thống nhất của Trung ương cần tập trung vào các vấn đề vĩ mô như:
thể chế, chiến lược, qui hoạch, kế hoạch phát triển của các ngành cũng như toàn bộ
nền kinh tế, còn mở rộng dân chủ ở địa phương là phải có sự phân định rõ ràng về
thẩm quyền và trách nhiệm của mỗi cấp chính quyền; tiến hành phân cấp quản lý cho
địa phương quản lý các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, giáo dục, đời sống, thu - chi ngân
sách, tổ chức nhân sự ở địa phương; xác định rõ trách nhiệm quản lý theo ngành và
theo lãnh thổ.
Các cơ quan quyền lực nhà nước là do dân bầu ra, các cơ quan đó phải chịu
trách nhiệm, phải báo cáo công tác trước nhân dân, phải chịu sự giám sát của nhân
dân. Các cơ quan tư pháp, hành pháp tối cao là do Quốc hội lập ra, các cơ quan đó
cũng phải chịu sự giám sát của Quốc hội; phải chịu trách nhiệm và phải báo cáo công
tác trước Quốc hội.
Nguyên tắc tập trung dân chủ đòi hỏi phải có sự qui định rõ ràng về các chức
năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của từng loại cơ quan nhà nước, của từng chức danh
công chức, cán bộ. Phải có sự phân định rõ trách nhiệm tập thể của các cơ quan nhà
nước và trách nhiệm cá nhân của từng công chức, cán bộ. Phải xây dựng chế độ kết
hợp giữa tập thể lãnh đạo và cá nhân phục trách.
Quản lý nhà nước về giáo dục cũng tuân thủ nguyên tắc này. Dưới góc độ vĩ
mô nguyên tắc này có nghĩa là nhà nước thống nhất quản lí HTGDQD về mục
tiêu, chương trình, nội dung, qui chế thi cử và hệ thống văn bằng (Luật Giáo dục
2005). Bên cạnh đó phân cấp rõ ràng về QLGD cho địa phương và tạo điều kiện để
cơ sở phát huy chủ động và sáng tạo.
Nguyên tắc
tập trung dân chủ
quá quen thuộc đối với tất cả các cơ quan nhà
nước, các tổ chức chính trị, xã hội, các đơn vị sự nghiệp… ở Việt Nam.
Tuy nhiên để hiểu đúng và có thể vận dụng được nguyên tắc
tập trung dân
chủ
trong hoạt động quản lí nhà nước về giáo dục ở cơ sở cần suy nghĩ để trả lời
câu hỏi : Làm thế nào giải quyết tốt mối quan hệ giữa chế độ thủ trưởng và thực
hiện dân chủ cơ sở ở một trường học ?
Như vậy, nguyên tắc
tập trung dân chủ
đối với quản lí trường phổ thông có
nghĩa là nhà nước thống nhất, tập trung quản lí về chế độ, chính sách giáo dục ; về
mục tiêu, nội dung giáo dục và qui chế văn bằng đồng thời tạo điều kiện cho cơ
sở chủ động sáng tạo trong việc triển khai các hoạt động giáo dục và quản lí trường
phổ thông cụ thể, tránh việc ôm đồm hoặc buông lỏng trên cơ sở phân cấp, phân
quyền về quản lí trường phổ thông rõ ràng bằng một hành lang pháp lí hợp lí, đồng
bộ.
Đối với cơ sở phát huy quyền làm chủ của tập thể sư phạm, đồng thời đề cao
trách nhiệm cá nhân theo chế độ thủ trưởng đối với việc quản lí trường phổ
thông . Dân chủ hoá giáo dục, dân chủ hoá nhà trường là các tư tưởng lớn, tuy
nhiên việc dựa vào các văn bản pháp luật, pháp qui để đảm bảo quyền và nghĩa vụ
đối với mọi đối tượng tham gia hoạt động giáo dục là điều cần nắm chắc khi triển
khai nguyên tắc tập trung dân chủ ở cơ sở.
Nội dung cơ bản của nguyên tắc tập trung dân chủ ở đây là phát huy quyền
chủ động của Hiệu trưởng phối hợp với tổ chức Đảng, các tổ chức đoàn thể xã hội
trong quản lý trường phổ thông .
Sự phối hợp giữa Hiệu trưởng với tổ chức Đảng, các tổ chức đoàn thể xã hội
trong trường phổ thông hình thành nên hệ thống các mối quan hệ. Hệ thống quan
hệ này có nhiều mức độ.
Có thể chỉ tham gia ở mức độ góp phần vào một hoạt động, một tổ chức
chung nào đó, chưa thể hiện được chiều sâu trong việc làm.
Có thể cùng góp sức làm chung một công việc, nhưng có thể không thực
hiện chung một trách nhiệm. Sự cộng tác đôi khi có tính chất nhất thời, tuỳ từng vụ
việc.
Sự hợp tác cùng chung sức, hỗ trợ lẫn nhau trong một công việc một lĩnh
vực hoạt động, nhằm một mục tiêu giáo dục (MTGD)
Tóm lại quan hệ đó là quan hệ phối hợp với nhiều mức độ khác nhau.
Quan hệ ấy cũng nhiều tầng, bậc do vai trò của từng lực lượng trong quan hệ phối
hợp.
Hiệu trưởng phối hợp với tổ chức Đảng, các tổ chức đoàn thể trong
trường phổ thông nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục, cụ thể là :
a) Quan hệ phối hợp trên cơ sở quy định của pháp luật
Để phát triển giáo dục nói chung và phát triển trường phổ thông nói riêng có nhiều
văn bản pháp luật quy định nhiệm vụ, trách nhiệm của nhà trường và các tổ chức
đoàn thể.
- "Mục tiêu của giáo dục phổ thông là giúp học sinh phát triển toàn diện
về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực
cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt
Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân;…. Giáo dục
tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển
đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản
để học sinh tiếp tục học trung học cơ sở." (Điều 27 Luật Giáo dục).
- "Các đoàn thể nhân dân trước hết là Đoàn TNCS HCM, các tổ chức xã hội,
các tổ chức kinh tế, gia đình cùng nhà trường có trách nhiệm giáo dục thanh niên,
thiếu niên, nhi đồng". "Đoàn TNCS HCM có trách nhiệm phối hợp với nhà trường
giáo dục thanh niên, thiếu niên, nhi đồng, vận động thanh niên gương mẫu trong
học tập, rèn luyện tham gia sự nghiệp giáo dục".
Điều 22, Điều lệ trường phổ thông quy định: ”Tổ chức Đảng Cộng sản Việt
Nam và đoàn thể trong trường
1. Tổ chức Đảng Cộng sản Việt Nam trong trường tiểu học lãnh đạo nhà
trường và hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật và Điều lệ của Đảng.
2. Công đoàn, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Đội Thiếu niên
tiền phong Hồ Chí Minh, Sao Nhi đồng Hồ Chí Minh và các tổ chức xã hội khác
hoạt động trong trường tiểu học theo quy định của pháp luật và Điều lệ của từng
tổ chức nhằm giúp nhà trường thực hiện mục tiêu, nguyên lý giáo dục”.
Như vậy, nội dung cơ bản của nguyên tắc tập trung dân chủ ở đây phải được
biểu hiện ở sự phối hợp giữa Chi bộ Đảng, chính quyền, Công đoàn, Đoàn TNCS
HCM trong trường phổ thông PT được các văn bản nhà nước quy định, là trách
nhiệm chung, sự thống nhất thực hiện MTGD.
Trong mối quan hệ phối hợp vì MTGD, Hiệu trưởng phải luôn luôn giữ vai
trò trung tâm, nòng cốt. Tuỳ theo nội dung hoạt động, đặc điểm của tổ chức đoàn
thể làm cơ sở để xác định mức độ phối hợp và xây dựng cơ chế phối hợp. Sự vận
hành của cơ chế được chỉ đạo bởi nguyên tắc Đảng lãnh đạo - Chính quyền quản
lý - Nhân dân làm chủ, toàn xã hội tham gia dưới sự quản lý của Nhà nước.
Hiệu trưởng phối hợp với Công đoàn trong trường phổ thông PT
Quan hệ phối hợp giữa Hiệu trưởng và Công đoàn trong trường phổ thông PT
là sự vận dụng mềm dẻo, có tính nguyên tắc về quyền, trách nhiệm của tổ chức công
đoàn với thủ trưởng đơn vị cơ quan.
- Quyền kiến nghị, tham gia ý kiến của Công đoàn đối với Hiệu trưởng trong
các hoạt động : Xây dựng chương trình kế hoạch năm học ; Dự hội nghị của trường
và các cuộc họp quan trọng do Hiệu trưởng tổ chức ; Giải quyết và sắp xếp việc
làm của cán bộ, giáo viên, nhân viên; Quản lý bảo hiểm xã hội ; Giải quyết khiếu
nại, tố cáo
- Quyền cùng thực hiện công việc của Công đoàn với Hiệu trưởng:
Tổ chức thi đua; Chăm lo công tác bảo hiểm xã hội; Quản lý quỹ phúc lợi; Quyền
thoả thuận quyết định của Công đoàn với Hiệu trưởng: Quy định mối quan hệ giữa
Hiệu trưởng với Công đoàn; Quyết định tiền lương, thưởng, nhà ở, kỷ luật; Điều
kiện làm việc cung cấp thông tin cho Công đoàn; Thời gian hoạt động, điều kiện
hoạt động của cán bộ Công đoàn.
- Quyền "đối thoại" giữa Công đoàn và Hiệu trưởng.
Đại diện người lao động đối thoại với Hiệu trưởng; Cấp phát tài chính, và
nhiều hoạt động khác.
Trong thời kỳ đổi mới của đất nước, Công đoàn ngành Giáo dục đã phối hợp
với Bộ GD & ĐT tạo phát động bốn cuộc vận động : dân chủ hoá nhà trường, xã
hội hoá giáo dục, kỷ cương - tình thương - trách nhiệm và gia đình nhà giáo văn
hóa.
Hiệu trưởng và Công đoàn trong trường phổ thông PT phối hợp thực hiện
bốn cuộc vận động đó, trên cơ sở các văn bản hướng dẫn của cấp trên và tình hình
thực tiễn của địa phương.
Như vậy mối quan hệ giữa Hiệu trưởng và Công đoàn trong trường phổ
thông PT rất đa dạng và phong phú ở nhiều mức độ khác nhau. Hiệu quả của sự
phối hợp này phụ thuộc vào sự năng động, năng lực của Hiệu trưởng và Ban chấp
hành Công đoàn trong việc thực hiện các văn bản pháp quy và giải quyết tình hình
thực tiễn trong nhà trường.
Hiệu trưởng phối hợp với Đoàn TNCS HCM
Đoàn TNCS HCM trong trường phổ thông là tổ chức gần Đảng nhất, là lực
lượng đông đảo trực tiếp thực hiện nhiệm vụ chính trị của nhà trường.
Đoàn TNCS HCM có vị trí, vai trò đã được khẳng định trong Hiến pháp,
trong Luật Giáo dục và trong Điều lệ Đoàn. Đoàn có trách nhiệm phối hợp với
Hiệu trưởng về giáo dục thế hệ trẻ. Đoàn có vai trò nòng cốt trong các tổ chức học
sinh và thanh niên trong các hoạt động giáo dục. Tổ chức quần chúng đông đảo
này là đối tượng giáo dục đồng thời cũng là chủ thể công tác giáo dục. Cho nên vai
trò đảm bảo hiệu quả chất lượng giáo dục thực sự đặt lên vai Đoàn Thanh niên.
Trong sự phối hợp giữa Hiệu trưởng và Đoàn TNCS HCM có rất nhiều hình thức
phong phú về công tác giáo dục trong nhà trường.
Đoàn TNCS HCM trong trường phổ thông có tiềm năng lớn tham gia công
tác giáo dục.
Đoàn Thanh niên cùng với Hiệu trưởng thực hiện các hoạt động ngay trong
nhà trường. Việc chỉ đạo hoạt động đoàn trong nhà trường phổ thông ực chất là việc
chỉ đạo học tập và tham gia các hoạt động giáo dục theo kế hoạch của nhà trường,
kết hợp với những chủ trương về giáo dục của bản thân Đoàn Thanh niên theo
hướng chỉ đạo của Ban nhà trường từ Trung ương Đoàn.
Đoàn còn hoạt động ngay trong tổ chức của những người dạy, vì không ít
giáo viên trẻ là đoàn viên thanh niên, cho nên chính đoàn viên là người học và
người dạy này sẽ góp phần quyết định chất lượng và hiệu quả của giáo dục.
Đoàn cùng với nhà trường tổ chức và thực hiện các hoạt động ngoại khoá
chương trình giáo dục ngoài nhà trường.
Các hoạt động ngoại khoá tuy gắn với từng bộ môn nhưng cần có sự hỗ trợ
của Đoàn, nhất là những hoạt động phù hợp với tính chất của lứa tuổi và chức năng
của Đoàn. Chương trình hoạt động giáo dục ngoài nhà trường xây dựng theo các
chủ điểm có sự phối hợp từ Trung ương (Bộ GD&-ĐT và Trung ương Đoàn TNCS
HCM). Đoàn có vai trò chủ động tổ chức hoạt động này.
- Đoàn thanh niên giữ vai trò chính trong các hoạt động thăm quan, du lịch,
vui chơi giải trí, thể dục thể thao, sinh hoạt câu lạc bộ … Đoàn còn giữ vai trò
nòng cốt của nhiều chương trình xã hội trong nhà trường như phong trào "thanh
niên lập nghiệp", "Tuổi trẻ giữ nước" cuộc vận động lớn năm 2001 - 2002 " xã hội
tình nguyện vì trẻ em đặc biệt khó khăn" do Trung ương Đoàn phát động.
Để phát huy vai trò trách nhiệm của Đoàn TNCS HCM trong trường phổ
thông PT về công tác giáo dục cần phát triển tổ chức Đoàn ngày càng vững mạnh.
Cho nên ở những nơi, những lúc cần thiết chính Hiệu trưởng phải tham gia vào việc
xây dựng, củng cố Đoàn Thanh niên, nhất là đổi mới phương thức hoạt động của
Đoàn tạo nên tính đồng bộ trong việc đổi mới nội dung và phương pháp giáo dục
trong trường TH
Tóm lại, nội dung cơ bản của nguyên tắc tập trung dân chủ ở đây là phát huy
quyền chủ động của cơ sở dựa trên hành lang pháp lí được qui định bởi Luật Giáo
dục và những văn bản pháp quy trong hoạt động quản lí giáo dục, đồng thời nâng
cao tinh thần cá nhân phụ trách, tập thể lãnh đạo và phát huy dân chủ của tập thể
theo qui chế dân chủ cơ sở do chính phủ và Bộ giáo dục ban hành. Muốn có
nguyên tắc tập trung dân chủ ở cơ sở, trong tổ chức điều hành công việc hàng ngày
cần thực hiện tốt chế độ thủ trưởng nhưng phải bảo đảm thực hiện quy chế dân chủ
ở cơ sở.
1.2. Tập thể sư phạm trong trường phổ thông
a. Khái niệm
Tập thể sư phạm trong trường phổ thông là tổ chức của tập thể lao động sư phạm,
đứng đầu là Hiệu trưởng. Tập thể sư phạm liên kết các giáo viên, cán bộ, nhân viên
thành một cộng đồng giáo dục có tổ chức, có mục đích giáo dục thống nhất, có
phương thức hoạt động nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục của nhà trường. Đội ngũ
giáo viên là lực lượng chủ yếu, quan trọng nhất trong tập thể sư phạm nhà trường
làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục trong nhà trường, là người quyết định chất lượng
đào tạo trong nhà trường.
Tập thể sư phạm nhà trường đa dạng hoá về cơ cấu tổ chức, bao gồm Ban
giám hiệu, tổ chức Đảng, các tổ chuyên môn, tổ hành chính, Hội đồng trường, các
hội đồng khác và các tổ chức đoàn thể trong nhà trường
Giáo viên nhà trường phổ thông được tổ chức thành các tổ chuyên môn, theo
môn học, hoặc nhóm môn học, có tổ trưởng, tổ phó, do hiệu trưởng chỉ định và
giao nhiệm vụ: nhiệm vụ của họ là xây dựng kế hoạch hoạt động của tổ, hướng dẫn
xây dựng và quản lý kế hoạch của từng giáo viên trong tổ theo kế hoạch dạy học,
tổ chức bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, tổ chức kiểm tra, đánh giá chất lượng
thực hiện nhiệm vụ của giáo viên, đề xuất khen thưởng hoặc kỷ luật đối với những
giáo viên có thành tích hoặc vi phạm kỷ luật. Tổ trưởng sử dụng các buổi sinh hoạt
để thực hiện nhiệm vụ quản lý của mình.
Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam trong nhà trường phổ thông được tổ
chức thành chi bộ - Chi bộ lãnh đạo nhà trường hoạt động theo điều lệ Đảng trong
khuôn khổ hiến pháp và pháp luật.
Chi b ngộ Đả
Công o nđ à
Ban giám hi uệ
H i ng tr ngộ đồ ườ
o n, i, (Đ à Độ Sao Nhi ng, )đồ
H i ng thi ua khen th ng, ộ đồ đ ưở
H i ng k lu tộ đồ ỉ ậ
Ban i di n Cha m HSđạ ệ ẹ
Cơ cấu tổ chức trong nhà trường phổ thông
Các tổ chức công đoàn, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Ban nữ
công là những tổ chức chính trị - xã hội được thành lập và hoạt động theo quy định
của Luật Giáo dục, Điều lệ trường phổ thông , Điều lệ Công đoàn, Điều lệ Đoàn
Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh nhằm phối hợp với nhà trường phổ thông ực
hiện mục tiêu, nguyên lý giáo dục .
Mỗi tổ chức tập thể trong nhà trường phổ thông đều có chức năng, nhiệm vụ
cụ thể và có một sức mạnh riêng. Người quản lý có nhiệm vụ khai thác tiềm năng
của tổ chức đó để tạo nên sức mạnh tổng hợp của từng tập thể sư phạm trong nhà
trường.
b. Đặc điểm về lao động sư phạm:
Lao động của giáo viên là loại hình lao động đặc thù, đối tượng lao động sư
phạm trường phổ thông là học sinh lứa tuổi từ 06 đến 11 tuổi; lứa tuổi có sự phát
triển cao về tâm lý, sinh lý. Học sinh có nhu cầu cao về trí tuệ và tình cảm với
người thầy. Phương tiện lao động cũng rất đặc thù. Đó là nhân cách của người thầy
cùng các thiết bị dạy học, trong đó nhân cách người thầy đóng vai trò quan trọng
nhất. Thời gian lao động sư phạm không chỉ đảm bảo được quy định trong chương
Tổ chuyên môn
trình đào tạo và chế độ lao động sư phạm không chỉ đảm bảo được quy định trong
chương trình đào tạo và chế độ lao động mà cần mang tính năng động, sáng tạo,
cộng với say mê nghề nghiệp và tinh thần trách nhiệm trước thế hệ trẻ và trước
toàn xã hội.
Sản phẩm của lao động sư phạm là những nhân cách phát triển toàn diện, đạt
được mục tiêu giáo dục của nhà trường. Nghĩa là sản phẩm đó không được quyền
có phế phẩm. Học sinh TH phải thoả mãn được những nhu cầu của bản thân, gia
đình và xã hội. Lao động sư phạm của người giáo viên vừa mang tính khoa học,
vừa mang tính nghệ thuật và tính nhân đạo cao. Nó mang đặc thù của nghề sư
phạm, đồng thời có tính liên kết công tác, phối hợp với các lực lượng giáo dục
trong và ngoài nhà trường. Bời vì sự hình thành và phát triển nhân cách của người
học sinh cũng như sự chi phối của "Tổng hoà các mỗi quan hệ xã hội" trong đó tạp
thể sư phạm nhà trường là lực lượng giáo dục chuyên biệt có hệ thống, thường
xuyên và cơ bản nhất.
Các yếu tố tâm lý xã hội của tập thể sư phạm: quá trình tâm lý xã hội của một
tập thể sư phạm thường biểu hiện ở sự giao tiếp thích nghi, tìm hiểu, đánh giá, cảm
hoá, thuyết phục, bắc chước, lan truyền cảm xúc cho nhau. Sự chia rẽ, xung đột
cũng có thể xảy ra trong quá trình tâm lý của tập thể sư phạm. Trong quá trình đó,
mối quan hệ thường tập trung vào Ban lãnh đạo của tập thể sư phạm.
Ban giám hiệu, Chi bộ Đảng, Ban chấp hành Công đoàn. Ban chấp hành Đoàn
trường bao giờ cũng có tác động thúc đẩy hay kìm hãm các quá trình tâm lý xã hội
của tập thể sư phạm. Các thuộc tính của tập thể sư phạm bao gồm tất cả các đặc
điểm về đời sống tinh thần, về trạng thái tâm lý xã hội của tập thể. Đó là nhu cầu
về lợi ích chung của tập thể là những nét nổi bật về truyền thống, kỷ cương, nề nếp
của tập thể. Khi các thuộc tính này được khơi dậy và phát huy thì sẽ trở thành động
lực và sức mạnh tinh thần của tập thể.
Giá trị của tập thể sư phạm mang ý nghĩa xã hội to lớn của tập thể sư phạm,
đó là nhiệm vụ giáo dục thế hệ trẻ, những công dân tương lai của đất nước. Có thể
nói tập thể sư phạm góp phần quan trọng vào sự nghiệp đào tạo nguồn nhân lực
chất lượng cao cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, họ xứng
đáng được xã hội tôn vinh.
2. Cơ sở chính trị, cơ sở pháp lý:
- Nghị quyết BCH Trung ương 2 khoá VIII đã nêu: "Xây dựng đội ngũ giáo
viên, tạo động lực cho người dạy, người học, giáo viên là nhân tố quyết định, là lực
lượng cốt cán để biến mục tiêu giáo dục thành hiện thực, có vai trò quyết định về
chất lượng, quyết định về hiệu quả giáo dục".
- Chỉ thị số 40- CT/TW ngày 15 tháng 6 năm 2004 của Ban Bí thư Trung
ương Đảng về "Xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán
bộ quản lý giáo dục giai đoạn 2005 - 2010" đã ghi nhận mục tiêu của
việc xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản
lý giáo dục giai đoạn 2005 – 2010 là:
“Xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục theo hướng chuẩn
hoá, nâng cao chất lượng, bảo đảm đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đặc biệt chú
trọng nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, lương tâm nghề
nghiệp và trình độ chuyên môn của nhà giáo, đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của sự
nghiệp giáo dục trong công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước”.
- Để thực hiện mục tiêu giáo dục và đào tạo, Điều 15, Luật Giáo dục năm
2005 nhấn mạnh vai trò và trách nhiệm của nhà giáo : "Nhà giáo giữ vai trò quyết
định trong việc bảo đảm chất lượng GD.
Nhà giáo phải không ngừng học tập, rèn luyện nêu gương tốt cho người học.
Nhà nước tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo; có chính sách sử dụng, đãi
ngộ, bảo đảm các điều kiện cần thiết về vật chất và tinh thần để nhà giáo thực hiện
vai trò và trách nhiệm của mình; giữ gìn và phát huy truyền thống quý trọng nhà
giáo, tôn vinh nghề dạy học ".
Điều 27, Luật Giáo dục năm 2005 còn nhấn mạnh : “Mục tiêu của GD phổ
thông
1. Mục tiêu của GD phổ thông là giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo
đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân,
tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ
nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho học sinh tiếp tục
học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Điều 28, Luật Giáo dục năm 2005 nhấn mạnh : “Yêu cầu về nội dung,
phương pháp GD phổ thông
2. Nội dung GD phổ thông phải bảo đảm tính phổ thông , cơ bản, toàn diện,
hướng nghiệp và có hệ thống; gắn với thực tiễn cuộc sống, phù hợp với tâm sinh lý
lứa tuổi của học sinh, đáp ứng mục tiêu GD ở mỗi cấp học.
3. Phương pháp GD phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ
động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi
dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm; rèn luyện kỹ năng vận
dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú
học tập cho học sinh.
Quyết định số 09/2005/QĐ-TTg, ngày 11 tháng 01 năm 2005, về
việc phê duyệt Đề án"Xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà
giáo và cán bộ quản lý giáo dục giai đoạn 2005 - 2010"; Quyết định
số 09 cũng đã ghi nhận mục tiêu, các nhiệm vụ chủ yếu, các giải pháp của
việc xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản
lý giáo dục giai đoạn 2005 – 2010. Trong đó các nhiệm vụ chủ yếu mà
Quyết định số 09/2005/QĐ-TTg nhấn mạnh là:
- Đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo thuộc các cơ sở giáo dục
và dạy nghề công lập và ngoài công lập, bảo đảm đến năm 2010 đáp ứng đủ về số
lượng, trong đó có 80% giáo viên bậc mầm non, 100% giáo viên các cấp, bậc học
phổ thông , dạy nghề đạt chuẩn đào tạo theo quy định;
- Củng cố, nâng cao chất lượng hệ thống các trường, khoa sư phạm, các
trường cán bộ quản lý giáo dục; đẩy mạnh việc xây dựng các trường Đại học Sư
phạm trọng điểm.
- Thực hiện đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục, đào tạo,
bồi dưỡng trong các trường, các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng sư phạm theo hướng hiện
đại và phù hợp với thực tiễn Việt Nam, trong đó chú trọng đổi mới phương pháp
giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng, gắn với nội dung đổi mới Chương trình giáo dục phổ
thông .
- Triển khai có hệ thống và chuẩn hoá công tác đào tạo, bồi dưỡng giảng
viên các trường đại học, cao đẳng và giáo viên các trường trung học chuyên
nghiệp, dạy nghề; bảo đảm cho các nhà giáo được bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm
theo quy định của Luật Giáo dục; nội dung, chương trình phương pháp đào tạo
phải phù hợp với yêu cầu của từng bậc học.
- Đổi mới công tác quản lý nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục theo hướng
nâng cao chất lượng, hiệu quả; quy định cụ thể trách nhiệm, quyền hạn của các
cấp, các ngành, các cơ quan quản lý giáo dục và các ngành có liên quan.
- Đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra, đặc biệt là thanh tra chuyên môn.
Hiện đại hoá và đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong hệ thống quản lý
giáo dục.
- Tiếp tục bổ sung, sửa đổi, hoàn thiện và thực hiện chính sách ưu đãi đối
với nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục; khuyến khích đội ngũ nhà giáo nâng cao
trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và đẩy mạnh sự gắn kết chặt chẽ giảng dạy với
nghiên cứu khoa học; đổi mới công tác quản lý, sử dụng và giao biên chế ngành
giáo dục nhằm nâng cao quyền và trách nhiệm của đội ngũ nhà giáo, tạo sự bình
đẳng giữa các loại hình cơ sở giáo dục và đào tạo.
- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng để tiếp tục xây dựng và nâng cao chất
lượng đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục.
Ngoài ra, còn nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác về việc xây dựng,
nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục của
nhà nước như :
- Chỉ thị số 18 ngày 27/08/2001 của Thủ tướng Chính phủ về một số biện
pháp cấp bách xây dựng đội ngũ nhà giáo.
- Chỉ thị số 16/1999/CT-BGD&ĐT về vấn đề bồi dưỡng nhà giáo, cán bộ
quản lý GD&ĐT trong các dịp nghỉ hè.
- Chỉ thị năm học của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT và hướng dẫn nhiệm vụ năm
học,
3. Cơ sở thực tiễn :
Nghị quyết BCH Trung ương 2 của Đảng CSVN về giáo dục và đào tạo đã có
nhiều biện pháp để nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên. Có thể nói rằng: trong
những năm qua, đội ngũ giáo viên phổ thông không những lớn mạnh về số lượng
cũng như về chất lượng, trình độ chuẩn ngày một nâng cao.
Tuy nhiên trên thực tế, đội ngũ giáo viên vẫn còn trong tình trạng chưa đủ về
số lượng, yếu về chất lượng, thiếu đồng bộ về cơ cấu.
Nhưng vấn đề đáng lo ngại nhất là chất lượng đích thực của đội ngũ giáo viên.
Có thể thấy trình độ chuyên môn còn yếu, ít am hiểu các kiến thức về cuộc sống và
khoa học cơ bản. Nhiều giáo viên không những hạn chế về kiến thức mà còn thiếu
một cái "Tâm" về giáo dục. Một bộ phận giáo viên có trình độ chuyên môn tốt
nhưng chỉ lo dạy thêm, chạy sô kiếm tiền.
Trong số giáo viên này, họ nói thực rằng: "Vấn đề đáng quan tâm là kiếm
được bao nhiều tiền, dạy được bao nhiêu lớp" mà không biết, vì thế mà uy tín của
rất kém về ý thức phấn đấu, không chịu tự học, tự bồi dưỡng để nâng cao trình độ
chuyên môn mà chú tâm vào những việc vặt vãnh, tầm thường. Thái độ thường
trực của những giáo viên này là mệt mỏi, bàng quan với những công việc của chính
mình, công việc trên lớp thì qua loa, chiếu lệ.
Ngoài ra còn một số rào cản, ảnh hưởng không nhỏ đến động lực trong mỗi
giáo viên, không kích thích, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên. Đó là công tác
bổ nhiệm cán bộ, công tác quản lý, thanh tra, kiểm tra đánh giá giáo viên, công tác
thi đua khen thưởng, công tác đánh giá học sinh. Một số cán bộ quản lý có thái độ
bình quân chủ nghĩa, không chịu phấn đấu nên trình độ chuyên môn và trình độ
quản lý tụt hậu và các xa với thực tế giáo dục.
Công tác thanh tra, kiểm tra còn nặng về hình thức; kết quả thanh, kiểm tra
mang rõ tính chất đối phó, ít phản ánh được chất lượng đích thực của một cá nhân
hay một đơn vị. Rõ ràng việc làm này không thúc đẩy được chất lượng giáo dục.
Về vấn đề thi giáo viên giỏi chỉ căn cứ một số mặt như: giáo án, một số giờ lên lớp,
sáng kiến kinh nghiệm mà không căn cứ vào quá trình giáo dục của giáo viên và
chất lượng mà giáo viên phụ trách. Nếu việc đánh giá của ta không dựa trên kết
quả thực tiễn và bằng những tiêu chuẩn khách quan, công bằng thì sẽ dẫn tới việc
không đánh giá đích thực của chất lượng giáo dục, người dạy không dám "Dũng
cảm" đưa ra những phương pháp giáo dục mới và cũng không còn hào hứng việc
tìm tòi, đào sâu suy nghĩ để nâng cao chất lượng giáo dục.
Nói tóm lại: để có một đội ngũ cán bộ giáo viên vững mạnh, đáp ứng được
nhu cầu đổi mới giáo dục hiện nay thì ngoài việc bồi thường nâng cao chất lượng
đội ngũ giáo viên mà còn phải phá bỏ những rào cản trong quản lý, cũng như chế
độ, chính sách hợp lý.
CHƯƠNG II :
THỰC TRẠNG CỦA VIỆC QUẢN LÝ NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN TRƯỜNG PHỔ THÔNG
1. Tình hình chung của đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục (CBQLGD)
Cán bộ quản lý giáo dục thường được lựa chọn từ các nhà giáo có trình độ
chuyên môn phù hợp với các bậc học, có kinh nghiệm trong công tác giáo dục nên
am hiểu khá sâu về giáo dục. Về cơ bản, CBQLGD nắm được đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về giáo dục, tận tuỵ, có ý thức giữ gìn
phẩm chất đạo đức, tích cực và có năng lực triển khai các nhiệm vụ trong công tác
quản lý, vì vậy đã có những đóng góp quan trọng đối với sự phát triển giáo dục
trong những năm đổi mới. Tuy nhiên, đa số CBQLGD không được cập nhật về
nghiệp vụ quản lý giáo dục hiện đại, chủ yếu dựa vào kinh nghiệm, thiếu các kiến
thức về pháp luật, quản trị nhân sự, tài chính, hạn chế về trình độ ngoại ngữ, kỹ
năng tin học nên công tác quản lý giáo dục hiện đại còn hạn chế.
Quản lý giáo dục là một lĩnh vực khoa học, đòi hỏi tính chuyên môn cao, là
công cụ giữ vai trò quan trọng để giữ gìn kỷ cương trong việc tổ chức, triển khai
các hoạt động giáo dục, nhất là trong dạy và học, bảo đảm điều kiện cần thiết cho
việc nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục. Quản lý giáo dục thiếu chặt chẽ sẽ tạo
điều kiện cho những tiêu cực phát triển.
Trong xã hội hiện đại, việc học ở nhà trường trở thành một nhu cầu của mọi
người vì nhờ học tập mà giá trị con người cũng như giá trị sức lao động được tăng
lên và con người có khả năng tồn tại, phát triển tốt hơn. Bản chất của việc học ở
nhà trường, dù ở cấp, bậc học nào, thì vẫn là sự tự học của trò dưới sự tổ chức việc
học và hướng dẫn cách học của thầy, cô giáo. Nhà giáo phải có năng lực tổ chức,
hướng dẫn và kiểm soát được việc học. Người học phải là chủ thể trong việc học,
nghĩa là phải chủ động, tự giác lao động để tích luỹ tri thức, vì việc học giữ vai trò
quyết định chất lượng giáo dục. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, điều rất
đáng lưu ý là, ở một bộ phận người học đã xuất hiện xu hướng không quan tâm
đúng mức đến việc lao động để tích luỹ tri thức mà thiên về việc để có một tấm
bằng nên đã có những việc làm sai trái, biểu hiện sự suy thoái đạo đức trong việc
học. Những hiện tượng tiêu cực trong giáo dục phát triển rất đa dạng, đó là sự gian
dối trong học tập, trong thi cử, tuyển sinh, bảo vệ luận văn, luận án, cấp phát văn
bằng, chứng chỉ… Những hiện tượng này tuy chỉ xảy ra ở một bộ phận người học,
CBQLGD, nhà giáo nhưng đã kéo dài nhiều năm, cho đến nay vẫn chưa được giải
quyết cơ bản đã gây ra sự bức xúc trong dư luận xã hội. Tiêu cực trong giáo dục có
thể phát sinh từ người học, từ CBQLGD họăc nhà giáo, nhưng chấm dứt được
những gian dối đó thì vai trò quyết định thuộc về đội ngũ CBQLGD và ý thức
trách nhiệm của nhà giáo. Tuy nhiên, cũng không thể xem nhẹ trách nhiệm của
người học, của cha mẹ học sinh. Những năm qua, một bộ phận đội ngũ CBQLGD
có biểu hiện hữu khuynh, buông lỏng quản lý, không kiên quyết hoặc không xử lý
nghiêm minh những vi phạm trong giáo dục, do phẩm chất đạo đức suy thoái còn
tham gia vào những vụ việc tiêu cực trong giáo dục. Những tiêu cực trong giáo dục
đã làm phương hại đến truyền thống văn hoá, đến lối sống lành mạnh và chuẩn
mực đạo đức xã hội trong việc dạy và học, trong giữ gìn và phát huy truyền thống
hiếu học của dân tộc ta trải qua hàng nghìn năm lịch sử.
2. Những thành tựu chung
Theo thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tạo: Đến cuối năm học 2002-2003, cả
nước có khoảng 911.000 nhà giáo đang đảm nhận nhiệm vụ giảng dạy cho trên 22
triệu học sinh, sinh viên ở tất cả các cấp học, bậc học và trình độ đào tạo. Đại bộ
phận nhà giáo có đạo đức tốt, tận tuỵ với nghề, có tinh thần trách nhiệm và ý thức
phấn đấu, thường xuyên tự bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ để giảng dạy tốt, nêu
gương tốt cho học sinh, sinh viên noi theo. ý thức phấn đấu rèn luyện về chính trị
tư tưởng của đội ngũ nhà giáo đã có tiến bộ đáng kể, nhiều người được kết nạp và
đảng, đến nay đã có khoảng 23% là đảng viên.
Hệ thống các trường đào tạo giáo viên, quy mô đào tạo giáo viên ở các cấp
học, bậc học, các địa phương được mở rộng. Chất lượng đào tạo giáo viên đang
dần được nâng cao. Công tác bồi dưỡng giáo viên được thực hiện thường xuyên và
định kỳ, nhiều người được cử đi học ở trong nước và nước ngoài để nâng cao trình
độ. Hiện nay tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn ở các bậc học là: mầm non 54,5%; tiểu học
87,5%; trung học cơ sở (THCS) 91,5%; trung học phổ thông (THPT) 95,35%; dạy
nghề 71%; trung học chuyên nghiệp (THCN) 85,17%. Bậc đại học và sau đại học
đã có 1.654 giáo sư và phó giáo sư, 5.743 tiến sĩ và tiến sĩ khoa học, 10.599 thạc sĩ
và 571 chuyên khoa cấp I,II.
Những năm gần đây, nhiều chế độ chính sách ưu đãi nhà giáo đã được thể chế
hoá. Nhờ đó, nhiều tỉnh đã giải quyết được một phần đáng kể tình trạng thiếu giáo
viên, giáo viên yếu kém. Chính sách miễn học phí cho các học sinh, sinh viên sư
phạm đã tạo một buớc chuyển biến rõ rệt chất lượng đầu vào của các trường sư
phạm các cấp. Số giảng viên trẻ được cử đi đào tạo sau đại học ở trong nước và
nước ngoài ngày càng nhiều đang góp phần khắc phục tình trạng hẫng hụt về trình
độ đội ngũ giảng viên các trường cao đẳng, đại học (CĐ, ĐH).
Đội ngũ CBQLGD hiện có khoảng 10.400 người ở cấp bộ, sở, phòng và có khoảng
80.000 người ở các trường học, chiếm 10% tổng số cán bộ công chức và viên chức
toàn ngành. Đội ngũ CBQLGD đã từng bước được hoàn chỉnh về cơ cấu và nghiệp
vụ; nói chung có ý thức chính trị vững vàng, có phẩm chất đạo đức tốt, có trình độ
chuyên môn và kinh nghiệm quản lý; đã và đang là lực lượng nòng cốt thực hiện các
chủ trương, công tác của ngành, của địa phương và nhà trường. Cơ chế tuyển chọn,
quy trình, thủ tục bổ nhiệm CBQLGD từng bước được hoàn thiện và được các cấp
có thẩm quyền thực hiện nghiêm túc. Nhìn chung, phần lớn CBQLGD được bố trí,
sử dụng đúng chuyên môn, sở trường, do đó đã tạo điều kiện để họ phát huy khả
năng của bản thân.
Chỉ thị số 40-CT/TW ngày 15/6/2004, Ban Bí thư Trung ương đã đánh giá:
"Những năm qua, chúng ta đã xây dựng được đọi ngũ NG& CBQLGD ngày càng
đông đảo, phần lớn có phẩm chất đạo đức và ý thức chính trị tốt, trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ ngày càng được nâng cao. Đội ngũ này đã đáp ứng quan trọng yêu
cầu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần vào thắng lợi
của sự nghiệp cách mạng của đất nước."
3. Những yếu kém và bất cập
3.1. Về số lượng và cơ cấu
Hiện nay, Ngành GD&ĐT vẫn còn thiếu nhiều giáo viên, đặc biệt là ở các vùng
sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và giáo viên các môn đặc thù như thể
dục, mỹ thuật, âm nhạc, giáo dục quốc phòng, giáo dục công dân, tin học. Cả nước
còn thiếu khoảng 65.000 giáo viên mầm non và phổ thông, 15.500 giáo viên các
trường dạy nghề, THCN và giảng viên CĐ,ĐH, nhưng lại có hiện tượng thừa cục
bộ. Trong khi đó một số lượng giáo sinh ra trường hiện chưa có việc làm hoặc làm
nghề khác vì thiếu biên chế hoặc không muốn xa thành phố, thị xã. Ở các vùng
đồng bào dân tộc thiểu số, tỷ lệ giáo viên người dân tộc thiểu số chiếm tỷ lệ
khoảng 5,7%.
Bên cạnh tình trạng thiếu giáo viên, cơ cấu đội ngũ cũng đang mất cân đối
giữa các môn học, các vùng miền.
Về nội dung này, Chỉ thị số 40-CT/ TW của Ban Bí thư Trung ương đánh giá:
" Tuy nhiên, trước những yêu cầu mới của sự phát triển giáo dục trong thời kỳ
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đội ngũ NG&CBQLGD có những hạn chế, bất cập.
Số lượng giáo viên còn thiếu nhiều, đặc biệt ở các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng
bào dân tộc thiểu số Cơ cấu giáo viên đang mất cân đối giữa các môn học, bậc
học, các vùng, miền."
3.2. Về chất lượng
Chất lượng chuyên môn của đội ngũ nhà giáo chưa có chuyển biến đáng kể;
việc giải quyết mối tương quan giữa dạy chữ, dạy người và dạy nghề còn chưa hợp
lý (còn nặng về dạy chữ, nhẹ về dạy người, dạy nghề); đặc biệt còn yếu về phương
pháp giảng dạy; chậm được bổ sung, cập nhật các tri thức mới về sư phạm, khoa
học-công nghệ, ngoại ngữ Vẫn còn một số lượng đáng kể giáo viên mầm non,
phổ thông , THCN và dạy nghề chưa đạt chuẩn đào tạo theo quy định của Luật
Giáo dục, đặc biệt là ở các vùng có điều kiện kinh tế-xã hội khó khăn. Một bộ phận
NG&CBQLGD chưa toàn tâm, toàn ý phục vụ sự nghiệp giáo dục; thiếu tính
gương mẫu về đạo đức và lối sống, cá biệt có người còn vi phạm pháp luật, làm
giảm sút uy tín của NG&CBQLGD trước con mắt xã hội.
Chỉ thị số 40-CT/TW đã đánh giá: "Chất lượng chuyên môn, nghiệp vụ của
đội ngũ nhà giáo có mặt chưa đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục và phát triển kinh
tế-xã hội, đa số vẫn dạy theo lối cũ, nặng về truyền đạt lý thuyết, ít chú ý đến phát
triển tư duy, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành của người học; một bộ phận nhà
giáo thiếu gương mẩu trong đạo đức, lối sống, nhân cách, chưa làm gương tốt cho
học sinh, sinh viên "
4. Nguyên nhân của những kết quả đạt được và những yếu kém trong xây
dựng đội ngũ nhà giáo và CBQLGD
4.1. Về mặt chủ quan
4.1.1. Có thể nói rằng, những kết quả đạt được trong việc xây dựng đội ngũ
nhà giáo và CBQLGD trong những năm đổi mới được xuất phát từ ba nguyên
nhân chính, như sau:
• Thứ nhất là, ở nước ta, khoa học và công nghệ cùng với giáo dục được Nhà
nước xác định là quốc sách hàng đầu nên, trong những năm qua, Nhà nước đã
có những chủ trương rất quan trọng để nâng cao dân trí, như thực hiện việc
xoá mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học và THCS; đổi mới nội dung chương
trình, phương pháp giáo dục ở các bậc học để nâng cao chất lượng giáo dục,
đồng thời mở rộng quy mô đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển
kinh tế - xã hội và nhu cầu học tập của nhân dân; hằng năm đều tăng ngân
sách đầu tư cho giáo dục và đến năm 2007 đã đạt 20% tổng chi ngân sách.
Bên cạnh đó, Chính phủ đã phát hành trái phiếu giáo dục phục vụ cho mục
tiêu xây dựng trường sở; dành vốn vay ODA cho những dự án đổi mới giáo
dục ở các bậc học cùng với chủ trương xã hội hoá giáo dục, sự đóng góp của
cha mẹ học sinh, của cộng đồng dân cư cho giáo dục đã giúp cho nhà trường
có thêm kinh phí để tổ chức các hoạt động giáo dục. Những chủ trương đổi
mới cơ chế xây dựng kế hoạch đào tạo ngoài chỉ tiêu ngân sách Nhà nước cấp,
các trường thuộc giáo dục đại học được chủ động xây dựng kế hoạch đào tạo
đáp ứng nhu cầu của xã hội, từ đó đã tăng được quy mô và phát huy tiềm năng
lao động của nhà giáo và nhà trường có thêm phần thu để tăng cường cơ sở
vật chất và đời sống nhà giáo ở một số trường đại học đã được cải thiện bằng
lao động của mình. Mặt khác, Chính phủ cũng đã ban hành những chính sách
cụ thể, như chế độ phụ cấp đứng lớp cho nhà giáo; quyền tự chủ, tự chịu trách
nhiệm của cơ sở giáo dục về thực hiện nhiệm vụ, về tài chính, lao động và
mức thu nhập; chính sách phát triển giáo dục mầm non; Chỉ thị của Ban Bí
thư Trung ương Đảng và Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về xây dựng,
nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và CBQLGD.
• Thứ hai là, hệ thống các trường sư phạm, trường bồi dưỡng CBQLGD đã
được đầu tư xây dựng ở cấp trung ương và cấp tỉnh, bảo đảm yêu cầu đào tạo
nhà giáo cho các cấp học.
• Thứ ba là, đội ngũ nhà giáo và CBQLGD đã có tinh thần trách nhiệm, ý thức
vươn lên khắc phục khó khăn, giữ gìn phẩm chất đạo đức, tâm huyết với nghề
nghiệp để thực hiện nhiệm vụ, bảo đảm cho việc học tập của người học ở
khắp các vùng, miền, đáp ứng nhu cầu đào tạo nhân lực phục vụ cho sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước.
4.1.2. Những tồn tại, yếu kém của đội ngũ nhà giáo và CBQLGD có nhiều nguyên
nhân, có thể đề cập đến một số nguyên nhân cụ thể, như sau:
Tư duy giáo dục chậm đổi mới, chưa coi trọng việc xây dựng đội ngũ nhà
giáo và CBQLGD khi đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế. Công tác đào tạo, bồi
dưỡng nhà giáo chưa được đặt ra phải đi trước một bước trong tiến trình đổi
mới giáo dục. Thiếu chủ động trong quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng
nhà giáo và CBQLGD. Chương trình đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo và
CBQLGD chưa tiếp cận với cách quản lý giáo dục hiện đại và cập nhật
những thành tựu mới của khoa học giáo dục. Chậm đổi mới chương trình đào
tạo giáo viên ở các trường sư phạm.
Sự yếu kém của đội ngũ giáo viên mầm non, phổ thông, giáo dục nghề nghiệp
về phương pháp giáo dục là do giáo viên chưa tiếp cận được sự phát triển của
lý luận giáo dục hiện đại có nguyên nhân từ việc chế độ bồi dưỡng định kỳ
hầu như không thực hiện được, việc tự học của giáo viên để cập nhật kiến
thức rất hạn chế. Ngay như việc bồi dưỡng giáo viên trước năm học để triển
khai thay sách giáo khoa nhìn chung cũng chưa đạt yêu cầu cả về lý luận và
kỹ năng để thay đổi phương pháp giáo dục, do việc bồi dưỡng giáo viên,
chuẩn bị nâng cấp trường, lớp, thiết bị dạy học theo yêu cầu đổi mới chương
trình đã không quan tâm giải quyết đồng bộ với việc chuẩn bị sách giáo khoa.
Điều này giải thích được tại sao giáo viên còn lúng túng và một số không nhỏ
giáo viên chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới chương trình, thay sách giáo
khoa.
Giữa các môn học có tình trạng vừa thừa, vừa thiếu giáo viên, đặc biệt là thừa
số giáo viên không có khả năng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ và thiếu giáo viên
âm nhạc, mỹ thuật, công nghệ, thể dục thể thao trong các trường phổ thông.
Tình trạng này đã kéo dài trong nhiều năm, chủ yếu là do Bộ Giáo dục và
Đào tạo và Bộ Nội vụ chưa tham mưu để Chính phủ đưa ra được những
quyết định cụ thể nhằm giải quyết số giáo viên dư và bổ sung những giáo
viên âm nhạc, mỹ thuật, công nghệ, thể dục thể thao, nhân viên thí nghiệm,
thư viện để nhà trường có điều kiện thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện về
trí, đức, thể, mỹ.
Việc bồi dưỡng, đào tạo cán bộ giảng dạy chủ yếu là tự học, thông qua công
tác nghiên cứu khoa học nhưng phương tiện nghiên cứu thiếu và ngân sách
đầu tư cho công tác nghiên cứu khoa học ở các trường đại học cũng như chi
cho việc đi thực tế sản xuất, thực tập chuyên môn nghiệp vụ tại các nước có
nền giáo dục phát triển rất hạn chế. Nhìn chung, đại bộ phận nhà giáo ít có
điều kiện để cập nhật kiến thức và phương pháp giáo dục hiện đại. Do đó,
công tác đào tạo, bồi dưỡng giảng viên đại học và xây dựng đội ngũ giảng
viên đầu ngành rất hạn chế về số lượng và chất lượng, dẫn đến tình trạng
hẫng hụt về đội ngũ giảng viên đầu ngành ở các trường đại học, kể cả các
trường sư phạm. Chủ trương của Nhà nước giao quyền tự chủ cho các trường
đại học xây dựng kế hoạch tuyển sinh phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế - xã
hội và nhu cầu của xã hội là một chủ trương đúng. Nhưng trong tổ chức thực
hiện có tình trạng mở rộng quy mô mà không quan tâm đúng mức đến việc
phát triển đội ngũ giảng viên. Nhiều trường đại học không những chỉ tăng chỉ
tiêu đào tạo chính quy, mở ra hệ cao đẳng, hệ tại chức tại trường mà còn ký
hợp đồng với nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, các cơ quan, tổ
chức mở các lớp tại chức. Tình trạng này là nguyên nhân dẫn đến tỷ lệ sinh
viên/giảng viên quá cao, nhất là ở khối kinh tế, dịch vụ; giảng viên bị thu hút
vào giảng dạy mà không tham gia nghiên cứu khoa học nên cũng không nâng
cao được năng lực, trình độ. Do đó đội ngũ giảng viên của giáo dục đại học
thiếu trầm trọng và nhìn chung hạn chế về trình độ và phương pháp.
Công tác quản lý giáo dục, trong đó có quản lý đội ngũ nhà giáo và CBQLGD
còn nhiều yếu kém. Công tác thanh tra, kiểm tra chưa kịp thời và xử lý không
nghiêm minh. Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, giữ gìn phẩm chất đạo
đức trong đội ngũ nhà giáo và CBQLGD bị coi nhẹ, thiếu kỷ cương và buông
lỏng quản lý, để tiêu cực nảy sinh và kéo dài. Hệ thống chế độ, chính sách
cho đội ngũ nhà giáo chậm được sửa đổi, bổ sung, chưa tạo động lực để nhà
giáo, CBQLGD chuyên tâm với nghề nghiệp.
Công tác thanh tra, kiểm tra chưa được xem trọng. Đội ngũ thanh tra chuyên
ngành về giáo dục chưa đủ mạnh để thanh tra quá trình dạy và học, thi cử,
cấp phát văn bằng, chứng chỉ… nên cũng còn rất hạn chế trong việc đề xuất
những giải pháp cho việc xây dựng đội ngũ nhà giáo và CBQLGD.
Công tác đào tạo và bồi dưỡng giáo viên chưa theo kịp với những đổi mới
của giáo dục phổ thông . Chất lượng và hiệu quả công tác bồi dưỡng giáo
viên còn thấp. Chương trình, hình thức bồi dưỡng chưa đáp ứng yêu cầu,
chậm được đổi mới. Phương pháp bồi dưỡng vẫn chưa chú trọng phát huy
tính chủ động, tích cực của người học. Đội ngũ báo cáo viên còn nhiều bất
cập. Tài liệu bồi dưỡng còn nghèo nàn, chưa kịp thời. Kiểm tra, đánh giá
nhiều khi còn mang tính hình thức.
Việc thực hiện quy hoạch hệ thống các trường sư phạm và xây dựng hai
trường ĐH sư phạm trọng điểm còn quá chậm chạp.
Năng lực của đội ngũ CBQLGD chưa ngang tầm với yêu cầu phát triển của
sự nghiệp giáo dục. Tính chuyên nghiệp chưa cao; nhận thức về nội dung và
phương pháp quản lý nhà nước, quản lý chuyên môn nghiệp vụ GD&ĐT còn
yếu. Còn những biểu hiện tiêu cực như buông lỏng quản lý, chạy theo thành
tích, thiếu kiên quyết chặn đứng các tiêu cực trong ngành đã được Đảng,
Nhà nước nhắc nhở nhiều lần. Riêng đối với CBQLNN về giáo dục (Trung
ương, tỉnh, huyện) có nhiều mặt yếu kém đáng quan tâm như tinh thần trách
nhiệm trong hoạt động công vụ chưa cao, kỷ luật chưa nghiêm, mất đoàn kết
kéo dài. Công tác quy hoạch, kế hoạch chưa được quan tâm, việc xây dựng
chính sách thanh tra, kiểm tra còn nhiều bất cập.