Tải bản đầy đủ (.doc) (72 trang)

Giải pháp đảm bảo kết hợp hài hòa giữa chính sách kinh tế với chính sách xã hội trong pháp luật Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (492.77 KB, 72 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà nước ta là một
nước quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua thời kì tư bản chủ nghĩa thì nhiều vấn
đề liên quan đến quyền của con người cần được giải quyết. Trong những quy định
của pháp luật hiện hành thì “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ của con người”
được đưa ra thành một chương riêng và được đặt ở chương gần đầu của Hiến pháp.
Từ đó cho thấy việc đảm bảo các quyền của con người là rất quan trọng. Điều 35
của Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2013) quy định rằng: “ 1. Công
dân có quyền làm việc, lựa chọn nghề nghiệp, việc làm và nơi làm việc. 2. Người
làm công ăn lương được đảm bảo các điều kiện làm công việc công bằng, an toàn,
được hưởng lương, chế độ nghỉ ngơi. 3. Nghiêm cấm phân biệt đối xử, cưỡng bức
lao động, sử dụng công nhân dưới độ tuổi lao động tối thiểu”. Chính vì thế mà luật
lao động lại có những quy định để đảm bảo tuân thủ những quy định của Hiến
pháp.
Trong hệ thống pháp luật lao động của nước ta, sau Hiến pháp thì Bộ Luật
Lao động giữ vị trí rất quan trọng điều chỉnh một lĩnh vực rộng lớn các quan hệ lao
động có tính chất kinh tế - xã hội sâu rộng, tác động lên toàn bộ xã hội, tất cả các
thành phần kinh tế, mọi doanh nghiệp, mọi tổ chức, các cơ sở kinh doanh, dịch vụ
và mọi người lao động. Bộ luật Lao động được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam khóa IX, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 23 tháng 6 năm 1994,
có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 1995, trên cơ sở kế thừa và phát huy
pháp luật của nước ta từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đến nay. Đây là lần
đầu tiên nước ta có Bộ Luật lao động hoàn chỉnh để các thể chế hóa quan điểm,
đường lối đổi mới, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
của Đảng Cộng Sản Việt Nam, cụ thể hóa Hiến pháp năm 1992 về quyền và nghĩa
vụ của người lao động và của người sử dụng lao động, các tiêu chuẩn lao động, các
nguyên tắc sử dụng và quản lý lao động, góp phần thúc đẩy sản xuất.
Trước yêu cầu của hội nhập quốc tế và khu vực đặc biệt là sau khi Việt
Nam đã gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), bộ luật đã điều chỉnh để
đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong tình hình mới, phù hợp với tình


hình lao động hiện nay. Bộ luật Lao động nước ta hoạt động dựa trên 5 nguyên tắc
cơ bản đó là:
Thứ nhất là nguyên tắc tự do lao động và tự do thuê mướn lao động.
Thứ hai là nguyên tắc bảo vệ người lao động .
Thứ ba là bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao động.
Thứ 4 là đảm bảo và tôn trọng sự thỏa thuận của các bên trong lĩnh vực lao
động.
Thứ 5 là nguyên tắc kết hợp giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội
trong luật lao động
Để hiểu được rõ hơn, cũng như trước tình trạng và tính cấp thiết của vấn đề
lao động nước ta hiện nay, trên cơ sở khoa học, lí luận và thực tiễn đã đề cập thì
em chọn đề tài: “ Giải pháp đảm bảo sự kết hợp hài hòa giữa chính sách kinh tế và
chính sách xã hội trong pháp luật lao động Việt Nam” làm nội dung nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của đề tài là những nội dung cơ bản của nguyên tắc đảm bảo sự
kết hợp hài hòa giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội trong luật lao động
Việt Nam, đồng thời cũng chỉ ra được thực trạng và đưa ra nhưng giải pháp để
nâng cao hiệu quả của sự đảm bảo kết hợp đó.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối với Luật Lao động thì đối tượng nghiên cứu là những mối quan hệ xã
hội trong lĩnh vực lao động bao gồm hai loại: quan hệ lao động và quan hệ liên
quan đến quan hệ lao động. Vì cũng là một khía cạnh trong Bộ luật lao động nên
đối tượng nghiên cứu của đề tài này cũng bao gồm 2 loại trên nhưng phạm vi sẽ
hẹp hơn.
- Quan hệ lao động được quy định tại khoản 1 Điều 7 của Bộ Luật Lao động
năm 2012 có hiệu lực thi hành từ ngày 1/5/2013.Đó là quan hệ giữa người sử
dụng lao động và người lao động trong quá trình lao động.
- Các quan hệ liên quan đến quan hệ lao động: Ở đây với đề tài này thì chúng
ta nghiên cứu ở các mối quan hệ đó là quan hệ việc làm, quan hệ học nghề,

quan hệ bảo hiểm xã hội, quan hệ về chính sách tiền lương tiền thưởng, các
vấn đề về việc chi trả trợ cấp thôi việc, mất việc,…
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Thời gian: Đề tài tìm hiểu theo suốt tiến trình của Bộ Luật Lao động từ năm
1994 đến nay qua bốn lần sửa đổi và có những Bộ Luật mới bổ sung và sửa đổi
một số điều ở Bộ Luật mới.
Không gian: Đề tài tập trung vào nghiên cứu vào vấn đề việc làm, học nghề,
hợp đồng lao động; các chính sách bảo hộ cho người lao động; tiền lương; vấn đề
bảo hiểm xã hội ở Việt Nam.
Nội dung nghiên cứu thì tập trung vào làm rõ nội dung của đề tài, nêu ra
được thực trạng của nó trong tình hình của đất nước thông qua Bộ Luật Lao động
Việt Nam. Sau đó đưa ra nguyên nhân và biện pháp để nâng cao hơn nữa sự kết
hợp giữa hai chính sách đó.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Đề tài đóng góp thêm tư liệu nghiên cứu về vấn đề nâng cao nguyên tắc đảm
bảo sự kết hợp giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội trong Luật lao động
Việt Nam, giúp cho người đọc hiểu biết thêm về các nguyên tắc cơ bản của Luật
Lao động. Đưa ra những giải pháp và đề xuất hay kiến nghị của cá nhân vào việc
giải quyết vấn đề còn nảy sinh, tồn tại trong nguyên tắc này,góp phần sửa đổi và bổ
sung điều luật cho hoàn chỉnh hơn. Giải quyết được quan hệ lao động trong các
vấn đề liên quan để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của công dân đã được quy
định trong Hiến pháp, pháp luật.
5. Lịch sử nghiên cứu
Luật lao động có từ rất lâu và được các nhà khoa học nghiên cứu, tìm hiểu
ngày càng hoàn thiện hơn về cả hình thức lẫn nội dung. Một số tác phẩm nghiên
cứu về vấn đề này như:
Giáo trình Luật Lao động Việt Nam, Thanh Hưởng Chu, Nxb Trường đại
học Luật Hà Nội, 1994.
Giáo trình Luật Lao động, ThS. Hoàng Xuân Trường (Chủ Biên), PGS
Nguyễn Hữu Viện, Nxb Đại học Kinh tế Quốc dân. Cuốn giáo trình này do một

nhóm giảng viên bộ môn Luật trường Đại học Kinh tế kế hoạch (nay là trường Đại
học Kinh tế Quốc dân biên soạn và xuất bản đầu tiên năm 1974. Giáo trình được sử
dụng cho chuyên ngành Kinh tế lao động trường Đại học Kinh tế Quốc dân và sinh
viên khoa Luật nay thuộc trường Đại học Tổng Hợp (nay là khoa Luật thuộc
trường Đại học Quốc gia). Năm 1983 giáo trình đã được biên soạn lại do hai giảng
viên Bộ môn Luật là Nguyễn Hữu Viện và Phạm Văn Luyện thực hiên. Chủ nhiệm
bộ môn Luật Nguyễn Hữu Viện làm chủ biên và đã tái bản năm 1984. Từ đó đến
nay giáo trình chưa được tái bản.
Giáo trình Luật Lao động cơ bản, Ths. Diệp Thành Nguyên, Trường Đại
học Cần Thơ.
Giáo trình Luật Lao Động Việt Nam (tái bản lần thứ 5), trường Đại học
Luật Hà Nội, Nxb Công An Nhân Dân.
Bên cạnh những cuốn sách giáo trình về Luật Lao động thì Bộ luật là điều
quan trọng hơn cả, Bộ Luật Lao động là cơ sở căn bản, là căn cứ pháp lý để giải
quyết vấn đề về lao động. Sau 15 năm thi hành Bộ Luật Lao động năm 1994 thì
Luật đã cơ bản đi vào đời sống, tạo hành lang pháp lý cho các chủ thể thiết lập
quan hệ xã hội, điều chỉnh phù hợp các quan hệ xã hôi,… Tuy nhiên trước tình
hình kinh tế - xã hội, thị trường , quan hệ lao động ở mỗi thời kỳ lại khác nhau đòi
hỏi Bộ luật Lao động sao cho phù hợp với thực tiễn. Bộ Luật lao động năm 1994
đã được bổ sung và sửa đổi năm 2002, 2006, 2007, 2012. Bộ Luật Lao động của
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2012),
Nxb Lao động.
Ngoài ra còn có các cuốn sách nghiên cứu về Luật Lao động năm 2012 như:
Hỏi đáp về Bộ Luật Lao động của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Bộ
luật Lao động số 10/2012/QH13 của Quốc hội có hiệu lực từ ngày 01/5/2013),
Nxb Hồng Đức; Tìm hiểu về Luật Lao động và Pháp Luật Công Đoàn Việt Nam,
Nxb Lao động.
……
Các cuốn sách giáo trình, các bộ luật hay các ấn phẩm mới ra dựa trên những
Bộ Luật Lao động nhằm đảm bảo làm rõ về các vấn đề cơ bản về lao động, đảm

bảo quyền và lợi ích của người lao động và sử dụng lao động.
6. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài nghiên cứu, bài tiểu luận sử dụng phương
pháp nghiên cứu, phân tích, chứng minh, so sánh, tổng hợp, dẫn chứng dựa trên
lịch sử nghiên cứu của đối tượng. Sử dụng phương pháp quan sát, thu thập thông
tin từ tài liệu, kênh thông tin của các trang mạng, báo chí, sách vở để kết hợp làm
rõ vấn đề đặt ra.
7. Cấu trúc của đề tài
Ngoài mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục kèm theo thì bố cục
tiểu luận bao gồm 3 chương
Chương 1:Cơ sở lý luận đảm bảo sự kết hợp hài hòa giữa chính sách
kinh tế và chính sách xã hội trong pháp luật lao động Việt Nam
1.1. Chính sách kinh tế và chính sách xã hội trong pháp luật lao động Việt Nam
1.1.1. Chính sách kinh tế
1.1.2. Chính sách xã hội
1.1.3. Mối quan hệ giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội
1.2. Nội dung của đảm bảo sự kết hợphài hòa giữa chính sách kinh tế và chính
sách xã hội trong pháp luật Việt Nam
Chương 2: Thực trạng của việc đảm bảo kết hợp hài hòa giữa chính
sách kinh tế với chính sách xã hội trong pháp luật lao động Việt Nam
2.1. Việc làm
2.1.1. Tầm quan trọng của việc làm
2.1.2. Việc làm theo quy định của Luật lao động
2.2. Học nghề
2.2.1. Học nghề và cơ hội việc làm của người lao động
2.2.2. Học nghề trong luật lao động Việt Nam
2.3. Hợp đồng lao động
2.3.1. Đối tượng của hợp đồng lao động
2.3.2. Nội dung của hợp đồng lao động theo quy định của Luật lao động
2.4. Bảo hộ lao động

2.4.1. Các nguyên tắc cơ bản của pháp luật về bảo hộ lao động
2.4.2. Lợi ích của bảo hộ lao động về kinh tế
2.5. Bảo hiểm xã hội
2.5.1. Đặc điểm, các loại bảo hiểm xã hội và mối quan hệ với phát
triển kinh tế
2.5.2. Nội dung của bảo hiểm xã hội trong Luật lao động
2.6. Tiền lương
Chương 3:Giải pháp để nâng cao việc đảm bảo sự kết hợp hài hòa giữa
chính sách kinh tế và chính sách xã hội trong pháp luật lao động Việt Nam
3.1. Đánh giá ưu nhược điểm
3.1.1. Ưu điểm
3.1.2. Nhược điểm
3.2. Nguyên nhân
3.3. Một số giải pháp
3.3.1. Giải pháp đồng bộ
3.3.2. Giái pháp đối với từng chế định
NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN ĐẢM BẢO SỰ KẾT HỢP HÀI HÒA GIỮA CHÍNH
SÁCH KINH TẾ VỚI CHÍNH SÁCH XÃ HỘI TRONG PHÁP LUẬT LAO
ĐỘNG VIỆT NAM
Đối với mọi công dân trong xã hội thì vấn đề về quyền và lợi ích hợp pháp
là vấn đề cấp thiết của cuộc sống, giúp thúc đẩy và duy trì đời sống của mình, tạo
điều kiện cho con người có thể thể phát huy được hết khả năng vốn có của
mình.Để giải quyết những yêu cầu đó thì Đảng và Nhà nước cần phải có những
chính sách kinh tế, xã hội,… điều chỉnh cho phù hợp.
Theo Bộ luật Lao động năm 1994 thông qua ngày 23/6/1994, có hiệu lực thi
hành từ ngày 01 tháng 01 năm 1995, về chính sách của Nhà nước đối với lao động:
“Điều 10.
1– Nhà nước thống nhất quản lý nguồn nhân lực và quản lý lao động bằng

pháp luật và có chính sách để phát triển, phân bố nguồn nhân lực, phát triển đa
dạng các hình thức sử dụng lao động và dịch vụ việc làm.
2– Nhà nước hướng dẫn người lao động và người sử dụng lao động xây
dựng mối quan hệ lao động hài hòa và ổn định, cùng nhau hợp tác vì sự phát triển
của doanh nghiệp.”
Tuy nhiên với Bộ luật hiện hành để phù hợp với tình hình kinh tế đất nước
thì các chính sách của Nhà nước về lao động cũng phải thay đổi theo xu thế của đất
nước, được thể hiện tại Điều 4 của Bộ luật Lao động năm 2012, có hiệu lực thi
hành từ ngày 1/5/2013:
“Điều 4. Chính sách của Nhà nước về lao động
1. Đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của người lao động;
khuyến kích những thỏa thuận đảm bảo cho người lao dộng có những điều
kiên thuận lợi hơn so với quy định của pháp luật về lao động; có những
chính sách để người lao động mua cổ phần, góp vốn phát triển sản suất ,
kinh doanh.
2. Đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động, quản
lý lao động đúng pháp luật, dân chủ, công bằng, văn minh và nâng cao trách
nhiệm xã hội.
3. Tạo điều kiện thuận lợi đối với hoạt động tạo ra việc làm, tự tạo
việc làm, dạy nghề và học nghề để có việc làm; hoạt động sản xuất kinh
doanh thu hút nhiều lao động.
4. Có chính sách phát triển phân bố nguồn nhân lực; dạy nghề đào
tạo bồi dưỡng và nâng cao trình độ kỹ năng nghề cho người lao động, ưu đãi
đối với người lao động có trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao đáp ứng được
yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
5. Có chính sách phát triển kinh tế thị trường lao động, đa dạng
hóa các hình thức kết nối cung cầu lao động.
6. Hướng dẫn người lao động và người sử dụng lao động đối
thoại, thương lượng tập thể, xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định và
tiến bộ.

7. Đảm bảo nguyên tắc bình đẳng; quy định chế độ lao động và
chính sách xã hội nhằm bảo vệ lao động nữ, lao động là người khuyết tật,
người lao động cao tuổi, lao động chưa thành niên.”
Như vậy chính sách kinh tế và chính sách xã hội đã được Nhà nước nói đến
trong Điều 4 và điều này được thể hiện rõ rệt:
1.1. Chính sách kinh tế và chính sách xã hội trong pháp luật lao động
Việt Nam
1.1.1. Chính sách kinh tế
Chính sách kinh tế là những chủ trương, chính sách cụ thể, những quy định
của nhà nước nhằm điều tiết nền kinh tế với mục đích tăng trưởng kinh tế, nâng
cao đời sống nhân dân và phúc lợi xã hội.
Chính sách kinh tế trong pháp luật lao động Việt Nam là những mục tiêu về
kinh tế như lợi nhuận, tiền lương, tiền thưởng,…
Tiền lương là khái niệm có nội dung kinh tế, xã hội và pháp lí dược nhiều
ngành khoa học như kinh tế học, luật học,… nghiên cứu dưới góc độ khác nhau.
Kinh tế chính trị học nghiên cứu tiền lương chủ yếu dưới góc độ là bộ phận
chi phí sản xuất, là giá cả của hàng hóa sức lao động, từ đó nhằm giải quyết một
cách hiệu quả nhất vấn đề phân phối thu nhập ở cả tầm vĩ mô và vi mô.
Dưới góc độ pháp lý tiền lương chủ yếu được xem xét với tư cách là chế
định của luật lao động, là tương quan pháp lý giữa người sử dụng lao động và
người lao động trong lĩnh vực trả công lao động.
Với tư cách là chế định trong Luật lao động thì tiền lương được hiểu là:
“Tiền lương của người lao động do hai bên thỏa thuận trong hợp đồng lao động và
được trả theo năng suất lao động, chất lượng và hiệu quả công việc. Mức lương của
người lao động không được thấp hơn mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định”
(Luật lao động năm 1994, sửa đổi bổ sung năm 2007) đến Bộ luật hiện hành thì
khái niệm tiền lương này đã được thay đổi cụ thể ở Điều 90: “ 1. Tiền lương là
khoản tiền mà người sử dụng lao động trả cho người lao động để thực hiện công
việc theo thỏa thuận . Tiền lương bao gồm mức lương theo công việc hoặc theo
chức danh, phục cấp lương và các khoản bổ sung khác. Mức lương của người lao

động không thấp hơn mức lương tối thiểu do Chính phủ quy định. 2. Tiền lương trả
cho người lao động căn cứ vào năng suất lao động và chất lượng công việc . 3.
Người sử dụng lao động phải đảm bảo trả lương bình đẳng, không phân biệt giới
tính đối với người lao động” .
Tiền thưởng là khoản thù lao bổ sung cho tiền lương để trả cho những yếu tố
mới phát sinh trong quá trình lao động chưa tính đến trong lương cơ bản.
1.1.2. Chính sách xã hội
Chính sách xã hội là một hệ thống những quan điểm, chủ trương, phương
hướng, biện pháp của Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội khác được thể chế
hóa để giải quyết những vấn đề xã hội mà trước hết là những vấn đề xã hội gay gắt
nhằm đảm bảo sự an toàn và phát triển xã hội. Chính sách xã hội là chính sách đối
với con người, nó tìm cách tác động vào hệ thồng quan hệ xã hội (quan hệ các giai
cấp, các tầng lớp xã hội, quan hệ các nhóm xã hội khác nhau) tác động vào hoàn
cảnh sống của con người và của nhóm xã hội (bao gồm điều kiện lao động và điều
kiên sinh hoạt) nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội, bảo đảm và thiết lập được
công bằng xã hội trong điều kiện xã hội nhất định.
Chính sách xã hội trong pháp luật Lao động được hiểu là những chế định,
yếu tố thuộc về quan hệ lao động như: việc làm, vấn đề học nghề, hợp đồng lao
động, bảo hộ lao động, bảo hiểm xã hội …đó là các vấn đề liên quan đến cuộc
sống, đến lợi ích của cá nhân lao động trong xã hội. Việc đảm bảo chính sách này
sẽ làm cho cuộc sống và lợi ích của con người được đảm bảo theo pháp luật.
a. Về việc làm
Hoạt động kiếm sống là hoạt động quan trọng nhất của thế giới nói chung và
con người nói riêng. Dưới góc độ kinh tế - xã hội thì việc làm được hiểu là các
hoạt động tạo ra, đem lại lợi ích, thu nhập cho người lao động được xã hội thừa
nhận.
Dưới góc độ pháp lý, ở Việt Nam, trong nền kinh tế hóa tập trung, người lao
động được có là có việc làm và được xã hội thừa nhận, trân trọng là người làm việc
trong các đơn vị kinh tế quốc doanh và tập thể và không thừa nhận hiện tượng thất
nghiệp, thiếu việc làm, dư thừa lao động.

Theo Hiến pháp năm 1992, sửa đổi bổ sung năm 2002 quy định tại Điều 55:
“ Lao động là quyền và nghĩa vụ của công dân. Nhà nước và xã hội có kế hoạch
tạo ngày càng nhiều việc làm cho người lao động”, đây là quyền cơ bản của người
lao động nhưng đồng thời cũng là nhiêm vụ của mỗi cá nhân người lao động. Trên
cơ sở đó, cùng với sự tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế vào hoàn cảnh Việt
Nam, Bộ luật Lao động năm 1994 (sửa đổi bổ sung năm 2002, 2006 và 2007), quy
định tại Điều 13: “ Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập không bị pháp
luật nghiêm cấm đều được thừa nhận là việc làm”. Tuy nhiên theo Hiến pháp hiện
hành được quy định tại Khoản 1Điều 35: “ Công dân có quyền làm việc, lựa chọn
nghề nghiệp, việc làm và nơi làm việc” và Bộ luật Lao động việc làm được quy
định tại Chương II, Khoản 1 Điều 9: “ Việc làm là hoạt động lao động tạo ra thu
nhập mà không bị pháp luật cấm”.
So với của Bộ luật cũ thì khái niệm việc làm của Bộ luật năm 2012 có rõ
ràng hơn và vẫn được cấu thành từ ba yếu tố cơ bản đó là: là hoạt động lao động;
tạo ra thu nhập và có tính hợp pháp. Số lượng việc làm trong nền kinh tế phản ánh
cầu lao động, về lý thuyết cầu lao động cho biết số lượng lao động mà các tổ chức
kinh tế sẵn sàng thuê để tiến hành các hoạt động kinh tế với mức tiền lương nhất
định.
b. Học nghề
Học nghề theo quy định của Bộ luật lao động hiện hành tại Điều 59. Học
nghề là những chế định của luật lao động, bao gồm tổng hợp các quy phạm pháp
luật do Nhà nước ban hành, quy định về quyền học nghề, điều kiện của học nghề,
quyền dạy nghề, điều kiện của người dạy nghề, hợp đồng học nghề, quan hệ dạy và
học nghề giữa 2 bên, chính sách áp dụng đối với các cơ sở dạy nghề, vấn đề giải
quyết việc làm cho người học nghề trong những trường hợp cụ thể,
Quan hệ dạy và học nghề giữa cơ sở dạy nghề và người học nghề có thể
được hình thành bằng một trong hai con đường: tuyển sinh theo chỉ tiêu Nhà nước
giao hoặc giao kết hợp đồng học nghề. Vì vậy những nội dung tiếp theo của
chương trình này đề cập đến vấn đề học nghề theo hợp đồng học nghề.
c. Hợp đồng lao động

Hợp đồng lao động được quy định tại Điều 26 (Bộ luật lao động 1992, sửa
đổi bổ sung năm 2002, 2006, 2007) và Điều 15 (Bộ luật Lao động năm 2012) đó
là: “Hợp đồng lao động là sự thỏa thuận giữa người lao động và người sử dụng lao
động về việc làm có trả công, điều kiện lao động, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên
trong quan hệ lao động”.
Qua khái niệm này cho chúng ta hiểu một số điểm về khái niệm như sau:
Thứ nhất, hợp đồng lao động sẽ là sự thỏa thuận giữa hai đối tượng là
người sử dụng lao động và người lao động. Điều này cho thấy hợp đồng lao
động xác định rõ hai đối tượng tham gia vào mối quan hệ lao động, trong đó
quyền lợi và nghĩa vụ của các bên được quy định một cách cụ thể và rõ ràng.
Thứ hai, hợp đồng lao động xác định sự thỏa thuận giữa hai đối tượng
tham gia vào hợp đồng về một việc cụ thể. Việc thỏa thuận cụ thể giữa
người sử dụng lao động và người lao động về việc thực hiện công việc gì
phải được ghi rõ trong hợp đồng lao động.
Thứ ba, hợp đồng lao động phải xác định các điều kiện lao động như
thời gian lao động và thời gian nghỉ giải lao, ngày nghỉ và chế độ nghỉ có
lương, tiền công (bao gồm tiền lương, tiền thưởng),…
Thứ tư, hợp đồng lao động xác định quyền lợi và nghĩa vụ của mỗi
bên tham gia vào hợp đồng. Trong đó người lao động được quyền hưởng
lương từ công việc, chế độ trả lương, điều kiện lao động, bảo hộ lao động,
chế độ bảo hiểm,… Ngược lại, người sử dụng có quyền hành, bố trí người
lao động thực hiện công việc, ngoài ra người lao động và người sử dụng lao
động còn có quyền tạm hoãn, chấm dứt hợp đồng lao động, theo quy định
của pháp luật và phải thực hiện cam kết ghi trong hợp đồng.
d. Bảo hộ lao động
Dưới góc độ pháp lý, bảo hộ lao động được hiểu là các chế định bao gồm
tổng thể các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành, xác định các điều kiện an
toàn và vệ sinh có tính chất bắt buộc, các biện pháp ngăn ngừa,ngăn chặn hoặc
khắc phục các yếu tố nguy hiểm, độc hại trọng môi trường lao động nằm bảo vệ
tính mạng, sức khỏe, nhân cách của người lao động.

Trong từ điển Tiếng Việt 2003, thuật ngữ bảo hộ lao động được hiểu “là
đảm bảo điều kiện lao động an toàn và bảo vệ sức khỏe của người lao động trong
quá trình lao động”. Khi ban hành Bộ luật lao động năm 1994, Việt Nam đã thay
đổi tên gọi của chế độ bảo hộ lao động thành pháp luật an toàn lao động và vệ sinh
lao động và hiện nay theo luật hiện hành vẫn được sử dụng. Nó được quy định tại
Chương IX với ba mục rõ ràng: những quy định chung; tai nạn lao động, bệnh
nghề nghiệp và cách phòng ngừa (từ Điều 133 đến Điều 152).
e. Bảo hiểm xã hội
Sự ra đời của hệ thống bảo hiểm xã hội là một trong những sáng tạo chói lóa
của lịch sử phát triển xã hội. Ý tưởng về bảo hiểm xã hội được coi như là một ý
tưởng về chủ nghĩa xã hội nhưng nó lại tiết kiệm tư bản. Bảo hiểm xã hội được
nhận thức rằng nền kinh tế thị trường cạnh tranh không phân phát thành quả của
nó một cách công bằng cho mọi người và hệ thống quản lý kinh tế thị trường đôi
khi bị suy nhược. Vì vậy bảo hiểm xã hội là một chế độ pháp định bảo vệ người
lao động và sự tài trợ của Nhà nước nhằm trợ cấp về vật chất cho người được bảo
hiểm trong trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập bình thường do gặp tai nạn rủi
ro, bất ngờ.
1.1.3. Mối quan hệ giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì vấn đề chính
sách kinh tế và chính sách xã hội đòi hỏi rất quan trọng đối với đời sống con người
lao động và người lao động của Việt Nam nói riêng và toàn nhân loại nói chung. Ở
mỗi đất nước thì lại có một cách kết hợp khác nhau và ở nước ta thì hai chính sách
đó phải có mối liên hệ với nhau biểu hiện cụ thể:
Thứ nhất, người lao động là thành viên của xã hội, tham gia quan hệ lao
động để đảm bảo lợi ích cho gia đình nên các chế định không chỉ liên quan tới
người lao động mà còn liên quan đến toàn bộ đời sống xã hội, do đó trong quá
trình điều chỉnh các quan hệ xã hội, việc kết hợp chính sách kinh tế với chính sách
xã hội phải vận dụng một cách phù hợp giúp trao đổi và hỗ trợ cho nhau trong quá
trình điều chỉnh các quan hệ lao động. Chính bởi sự yêu cầu phải phù hợp với các
quan hệ xã hội mà Luật Lao động điều chỉnh phải kết hợp hai chính sách đó.

Thứ hai, quan hệ lao động vừa có tính kinh tế, vừa có tính xã hội. Khi điều
tiết quan hệ lao động, Nhà nước phải chú ý đến các bên trong quan hệ này, nhất là
người lao động, về tất cả các phương diện như : lợi ích vật chất, tinh thần, nhu cầu
xã hội v.v… và đặt những vấn đề đó trong mối tương quan phù hợp với điều kiện
kinh tế – xã hội của đất nước.
Thứ ba, chính sách kinh tế làm tiền đề cho sự phát triển chính sách xã hội,
góp phần cho sự tăng trưởng bền vững về tiêu chuẩn đời sống, đáp ứng những nhu
cầu của con người từ đó nhằm đảm bảo tăng trưởng kinh tế đất nước, xây dựng xã
hội công bằng và văn minh.
1.2. Nội dung của sự đảm bảo kết hợp hài hòa giữa chính sách kinh tế và
chính sách xã hội trong pháp luật lao động Việt Nam
Việc kết hợp chính sách kinh tế với chính sách xã hội là sự vận dụng đồng
bộ, hài hòa các chính sách đó để bổ sung cho nhau trong quá trình điều chỉnh các
quan hệ xã hội thuộc lĩnh vực lao động. Luật lao động đòi hỏi phải kết hợp hai
chính sách trên bởi yêu cầu phải phù hợp với các quan hệ xã hội mà nó điều chỉnh.
Những nội dung thuộc lĩnh vực mà Luật Lao động điều chỉnh các quan hệ
thuộc lĩnh vực lao động vừa có các nội dung kinh tế như tăng trưởng trong kinh
doanh để có thu nhập, tiền công, tiền lương, các trợ cấp,lợi nhuận, sản xuất… thì
lại vừa có các nội dung, giải pháp giải quyết các vấn đề xã hội như việc làm thất
nghiệp, đảm bảo đời sống, phân phối công bằng,… Trên thực tế, các quy định này
của Nhà nước về lao động không chỉ liên quan đến người lao động và người sử
dụng lao động mà còn liên quan đến mức độ đầu tư, sự phát triển kinh tế và đời
sống của toàn xã hội. Vì vậy, khi điều tiết các quan hệ này, Nhà nước phải chú
trọng đến hai chính sách này và đặt chúng trong sự phù hợp với điều kiện kinh tế,
xã hội trong từng thời kì, tương quan với các chính sách xã hội khác trong môi
trường hiện tại.
Phương châm kết hợp đó đã được thể hiện rõ thông qua “Văn kiện Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng” trong đó đã chỉ ra: “phải có chính sách xã
hội là động lực để phát triển kinh tế, nhưng đồng thời phải có chính sách kinh tế là
cơ sở và tiền đề để thực hiện chính sách xã hội”. Đó cũng chính là đường lối chiến

lược của Đảng ta trong quá trình lãnh đạo các hoạt động kinh tế, điều tiết của nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Chủ trương đó đến nay vẫn được
Đảng và Nhà nước nhất quán thực hiện tại Bài phát biểu của Chính phủ Việt Nam
tại hội nghị thế giới ở Côpenhaghen năm 1998 “Tăng trưởng kinh tế phải gắn với
tiến bộ và công bằng xã hội ngay từ đầu… Không chờ đợi đến khi đạt trình độ phát
triển kinh tế cao mới thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, càng không hi sinh tiến
bộ và công bằng xã hội để phát triển kinh tế đơn thuần”.
Để thực hiện những tư tưởng, đường lối, chủ trương đó, luật lao động hiện
hành không quy định chi tiết quyền, nghĩa vụ và lợi ích của các bên, để các bên
được tự do thỏa thuận theo hướng có lợi cho người lao động sao cho phù hợp với
khả năng và điều kiện của từng đơn vị, từng thời kì, và sự thỏa thuận này phải
hoàn toàn trong khuôn khổ của pháp luật để thực hiện mục đích xã hội ngay trong
từng bước phát triển của kinh tế. Các bên có quyền và nghĩa vụ tương xứng với
nhau những vẫn đảm bảo được lợi ích của nhau trong lao động. Người sử dụng lao
động có quyền và nghĩa vụ riêng với người lao động và ngược lại của người lao
động đối với người sử dụng lao trên cơ sở bình đẳng, công bằng xã hội. Điều này
được thể hiện thông qua toàn bộ các chương có liên quan của Bộ luật Lao động,
tiêu biểu như Điều 5, Điều 6 của Luật lao động năm 2012.
Luật lao động không những bảo vệ lợi ích của người lao động mà còn có
nhiều quy định khuyến khích các nhà đầu tư – người sử dụng lao động, mở rộng
sản xuất thu hút nguồn lao động, khuyến khích sử dụng lao động đạt hiệu quả cao
đồng thời khuyến khích quản lý lao động dân chủ, văn minh trong các doanh
nghiệp, từng bước cải thiện điều kiện của người lao động, nâng cao thu nhập cho
họ. Ví dụ như hệ thống siêu thị Big C ở Việt Nam đầu tiên là một cơ sở nhưng với
chính sách khuyến kích đầu tư và mở rộng khả năng kinh dooanh, sản xuất, buôn
bán mà có mặt ở một số tỉnh, thành phố của đất nước như: Hà Nội, Hải Phòng,
Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Dương,… nhằm thu hút lao động và tạo việc làm cho
lao động ở nơi đó.
Bên cạnh việc quyền tự do thuê mướn lao động, các nhà đầu tư cũng phải
thực hiện nghĩa vụ để giải quyết việc làm đối với người tàn tật bằng những phương

thức phù hợp, phải ưu tiên tuyển chọn lao động nữ và đảm bảo điều kiện làm việc
cho họ. Đối với lao động này thì người sử dụng lao động phải linh hoạt với việc
sắp xếp bố trí công việc sao cho phù hợp với điều kiện và khả năng của họ, đồng
thời có những chính sách về chế độ làm việc, bảo hiểm xã hội,…kết hợp với chính
sách tiền công, tiền lương, chế độ nghỉ, thời gian làm viêc, chính sách đãi ngộ,…
thích hợp để tạo điều kiện lao động phát huy hết năng lực của mình. Điều này được
thể hiện rõ trong chương II, VII, X, XI, XII của Bộ luật Lao động hiện hành.
Sự cải thiện kĩ thuật, công nghệ của người sử dụng lao động phải được thực
hiện đồng thời với đầu tư cải thiện điều kiện lao động, môi trường lao động, đảm
bảo việc làm nâng cao trình độ cho người lao động. Các mức đóng góp, chi trả của
các bên như trợ cấp thôi việc, mất việc, bảo hiểm xã hội,…đều phải dựa trên cơ sở
khả năng kinh tế của họ để sao cho phù hợp nhất.
Người sử dụng lao động phải có trách nhiệm trước những rủi ro xảy ra trong
quá trình lao động như thiên tai, hỏa hoạn, tai nạn khách quan tại nơi làm việc, bị
phá sản doanh nghiệp,… Nhưng bên cạnh đó người lao động cũng phải gánh mức
độ trách nhiệm ở mức độ hợp lý… để phù hợp với sự phát triển tốt hơn cho doanh
nghiệp cũng như phần nào bảo vệ cho người sử dụng lao động. Điều này được thể
hiện tại chương IX, đặc biệt là Mục 2 về tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.
Ở tầm vĩ mô, trong quá trình quản lý của mình, Chính phủ phải có sự hỗ trợ
cho các quỹ giải quyết về việc làm, bảo trợ cho quỹ bảo hiểm xã hội; hỗ trợ cho
các ngành, các địa phương, các đơn vị có nhiều người thiếu việc làm hoặc mất việc
làm. Ví dụ như chính sách trợ cấp cho người thôi việc, mất việc do cơ chế của
doanh nghiệp, hay tình trạng thiếu việc làm, do thất nghiệp. Tùy vào quy định Luật
mà có những loại trợ cấp khác nhau, những quy định về trợ cấp được quy định tại
Điều 48, 49 của Bộ luật Lao động.
Luật lao động cũng có những quy định ưu tiên cho vay vốn, giảm thuế, hỗ
trợ trang thiết bị ban đầu, ưu tiên cho thuê đất,… đối với các đơn vị sử dụng người
tàn tật hoặc sử dụng nhiều lao động nữ để giải quyết nhiều vấn đề xã hội đồng bộ
với mục đich phát triển kinh tế của đơn vị và ổn định xã hội.
Hệ thống các quy định này đã góp phần phát triển kinh tế trong từng đơn vị

và trong toàn xã hội, đồng thời, bảo vệ được người lao động và đảm bảo công bằng
xã hội trong lĩnh vực lao động.
Với nguyên tắc đảm bảo sự kết hợp hài hòa giữa chính sách kinh tế với
chính sách xã hội trong pháp luật lao động Việt Nam, Luật lao động thể hiện rõ nét
sự kết hợp trong các chế định của Bộ luật. Đã góp phần quan trọng bảo vệ người
lao động, khuyến khích đầu tư, tạo điều kiện phát triển các doanh nghiệp nhằm
tăng trưởng kinh tế đất nước cũng như ổn định xã hội, xây dựng được xã hội công
bằng và văn minh không chỉ trong lao động mà có thể trong nhiều lĩnh vực khác
của đời sống con người trong xã hội Việt Nam.
Chương 2
THỰC TRẠNG CỦA VIỆC ĐẢM BẢO SỰ KẾT HỢP HÀI HÒA
GIỮA CHÍNH SÁCH KINH TẾ VÀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI TRONG PHÁP
LUẬT LAO ĐỘNG VIỆT NAM
Các quy định về đảm bảo kết hợp giữa chính sách kinh tế với chính sách xã
hội được thể hiện trong rất nhiều nội dung của Luật lao động, rõ nét nhất là trong
các chế định: việc làm, học nghề, hợp đồng lao động, bảo hộ lao động, bảo hiểm xã
hội, chế độ đối với lao động đặc thù, tiền lương,… Để hiểu được vấn đề này, chúng
ta đi tìm hiểu từng chế định được quy định trong Bộ luật Việt Nam hiện hành.
1.1. Việc làm
Lao động là một trong những quyền cơ bản của công dân được ghi nhận
trong Hiến pháp. Công dân có sức lao động phải được làm việc để duy trì sự tồn tại
của bản thân và góp phần xây dựng xã hội, thực hiện các nghĩa vụ của họ đối với
những người xung quanh trong cộng đồng. Giải quyết việc làm, đảm bảo cho mọi
người có khả năng lao động đều có cơ hội có việc làm là trách nhiệm của Nhà
nước, của các doanh nghiệp và của toàn xã hội.
1.1.1. Tầm quan trọng của việc làm
Việc làm là rất quan trọng đối với công dân đã được quy định rõ tại Bộ luật
Lao động. Nó thể hiện mối quan hệ hài hòa giữa chính sách kinh tế và chính sách
xã hội cụ thể thông qua phương diện kinh tế - xã hội:
Về mặt kinh tế, việc làm luôn gắn liền với sản xuất, giải quyết vấn đề việc

làm là hiệu quả của sản xuất kinh tế. Và khi kinh tế phát triển sẽ tạo điều kiên tốt
vấn đề giải quyết việc làm và ngược lại nếu không giải quyết tốt vấn đề việc làm
và trình trạng thất nghiệp, mất việc việc do thiếu việc làm sẽ tạo ra các yếu tố kìm
hãm sự phát triển của kinh tế. Chẳng hạn, trên thực tế tỉ lệ thất nghiệp đang ở con
số rất lớn, hầu hết sinh viên ra trường vẫn hoang mang về vấn đề việc làm, từ đó
nếu không giải quyết tốt vấn đề này sẽ làm nền kinh tế đi xuống hoặc không phát
triển, những nhân tài thì không được khai thác một cách triệt để. Vì vậy, vấn đề
việc làm là rất quan trọng.
Về mặt xã hội, giải quyết việc làm có mục tiêu hướng vào sử dụng lao động,
chống thất nghiệp và khắc phục tình trạng thiếu việc làm, đảm bảo thu nhập cho cá
nhân trong doanh nghiệp cũng như tổ chức. Đảm bảo việc làm là đảm bảo chính
sách xã hội có hiệu quả to lớn trong việc phòng chống các hạn chế tiêu cực của xã
hội giữ vững kỉ cương nề nếp xã hội.
1.1.2. Việc làm theo quy định của Luật lao động
Với bộ luật năm 1994 bao gồm 9 điều thì tại Bộ luật hiện hành chỉ bao gồm
6 điều, nội dung đều dựa trên cơ sở của luật cũ và có bổ sung và sửa đổi. Chương
này gồm có 6 Điều quy định về việc làm, giải quyết việc làm; quyền làm việc của
người lao động; quyền tuyển dụng lao động của người sử dụng lao động; chính
sách của Nhà nước hỗ trợ phát triển việc làm; chương trình việc làm; tổ chức dịch
vụ việc làm. Nội dung chương này tập trung sửa đổi, bổ sung chủ yếu vào những
vấn đề cụ thể sau:
Thứ nhất, quy định việc làm và giải quyết việc làm tại Điều 9, Luật lao
động 2012, “ 1. Việc làm là hoạt động lao động tạo ra thu nhập mà không bị pháp
luật cấm. 2. Nhà nước, người sử dụng lao động và xã hội có trách nhiệm tham gia
giải quyết việc làm đảm bảo cho con người có khả năng lao động đều có cơ hội có
việc làm”. So với luật năm 1992 được quy định tại Điều 13 thì tại điều này vẫn cơ
bản giống nhau chỉ có sự thay đổi một số từ ngữ nhằm điều chỉnh nội dung của
vấn đề việc làm theo đúng với thực tế xã hội. Việc làm là hoạt động của con
người là sự tác động của sức lao động vào tư liệu sản xuất để tạo ra sản phẩm
hoặc dịch vụ mục đích là để tạo ra thu nhập- không chỉ là các khoản thu trực tiếp

mà bao hàm cả khả năng tạo ra thu nhập nhưng vẫn đáp đảm bảo theo đúng quy
định của pháp luật.
Thứ hai, quy định về trách nhiệm của Nhà nước, người sử dụng lao động và
người lao động trong vấn đề giải quyết việc làm.
Trách nhiệm của Nhà nước đối với vấn đề giải quyết việc làm đối với lao
động được quy định tại Khoản 2 Điều 9. Pháp luật lao động đã có khá nhiều
những quy định về việc làm ở tầm vĩ mô lẫn trong cả việc ban hành nhưng chính
sách, cơ chế cụ thể để giải quyết việc làm cho người lao động. Nếu ở Bộ luật năm
1994 (sửa đổi, bổ sung năm 2007) vấn đề này được quy định tại Điều 13, 14,15,
17 thì với Bộ luật mới các chủ trương chính sách đó lại được quy định chi tiết tại
Điều 12 và Điều 13. Để phát triển việc làm, Nhà nước đã định ra các chỉ tiêu việc
làm mới ttrong kế hoạch phát tiển kinh tế xã hội 5 năm, hằng năm, dựa vào tình
hình kinh tế đưa ra quyết định mục tiêu quốc gia về vấn đề việc làm (khoản 1
Điều 12); lập quỹ quốc gia về việc làm từ nguồn nhân sách của Nhà nước hoặc
các nguồn khác để hỗ trợ cho việc vay ưu đãi tạo việc làm cho người lao động. Để
tăng cường sự quản lý về lao động thì Nhà nước đã có những chính sách nhằm
điều chỉnh đó là:
- Có chính sách bảo hiểm thất nghiệp, các chính sách khuyến khích để người
lao động tự tạo việc làm, để tạo ra cơ hội làm việc nhiều hơn cho họ. Trong
môi trường bình đẳng, thì mọi con người trong xã hội Việt Nam đều có
quyền bình đẳng như nhau. Theo như lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong
buổi đọc Tuyên ngôn độc lâp đã viết: “Tất cả mọi người đều sinh ra có
quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm
được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền
mưu cầu hạnh phúc” nên sẽ không có sự phân biệt gái - trai, giàu - nghèo,
dân tộc thiểu số. Vì vậy Nhà nước phải có những chính sách hỗ trợ cho
người lao động sử dụng người lao động nữ, người lao động là khuyết tật hay
là người dân tộc thiểu số để giải quyết vấn đề việc làm.
- Nếu như ở Điều 14 Bộ luật Lao động năm 1994 (sửa đổi, bổ sung năm
2007) Nhà nước đã có những chính sách về hỗ trợ tài chính, cho vay vốn

hoặc giảm miễn thuế, khuyến khích và đào tạo điều kiện thuận lợi cho
những tổ chức cá nhân trong nước và nước ngoài (bao gồm cả người Việt
Nam định cư ở nước ngoài) đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh để giải
quyết việc làm cho người lao động thì trong Bộ luật Lao động mới Nhà
nước cũng có chính sách như thế nhưng chỉ khuyến khích, tạo điều kiện và
hỗ trợ chứ không cho vay vốn hoặc miễn giảm thuế như Bộ luật cũ. Vấn đề
này được thể hiện rõ rệt thông qua Điều 12 (Khoản 3,4,5), khuyến khích tạo
điều kiên thuận lợi cho các tổ chức cá nhân trong nước và ngoài nước; hỗ
trợ người sử dụng lao động, người lao động tìm kiếmvà mở rộng thị trường
lao động ở nước ngoài; thành lập Quỹ quốc gia về việc làm để hỗ trợ cho
vay ưu đãi tạo việc làm và thực hiện các hoạt động khác theo quy định của
pháp luật để tạo việc làm và nguồn thu nhập cho người lao động.
- Các tổ chức chính trị xã hội, cơ quan nhà nuước, doanh nghiệp, tổ chức xã
hội và người sử dụng lao động khác trong phạm vi nhiệm vụ quyền hạn của
mình có trách nhiệm tham gia chương trình việc làm. Ủy ban nhân dân, tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương xây dựng chương trình việc làm của địa
phương trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định (Điều 15) thì tại Điều
15 (Bộ luật Lao động năm cũ) các cơ quan có quyền và nhiệm vụ tham gia
thực hiên chương trình và giải quyết việc làm.
Về phía người sử dụng lao động thì cùng với việc tuyển chọn, tăng giảm lao
động phù hợp với nhu cầu sản xuất, kinh doanh, người sử dụng lao động cũng phải
có trách nhiệm với việc đảm bảo cho người lao động làm việc theo thỏa thuận
trong hợp đồng lao động. Có nghĩa vụ với người lao động nữ được quy định tại
Điều 154 của Bộ luật và đảm bảo các điều kiện cho người lao động là người
khuyết tật (Điều 177) phải có chính sách đào tạo cho người lao động trong trường
hợp thay đổi cơ cấu lao động và phải trả trợ cấp khi lao động mất việc làm. Điều
đó được thể hiện cụ thể trong hai trường hợp:
Khi có nhu cầu nhân công lao động:
- Người sử dụng lao động có quyền trực tiếp hoặc thông qua tổ chức dịch vụ
việc làm để tổ chức tuyển chọn người lao động.

- Người sử dụng lao động phải có trách nhiệm giải quyết việc làm cho một số
đối tượng lao động đặc thù, trường hợp nhiều người cùng có đủ điều kiện
tuyển dụng thì phải ưu tiên tuyển dụng lao động là thương, bệnh binh; con
liệt sĩ, con thương bệnh binh, con em gia đình có công; người tàn tật, phụ
nữ, người có quá trình tham gia lực lượng vũ trang, người tham gia lực
lượng thanh niên xung phong, người đã bị mất việc làm từ một năm trở lên.
- Doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, mọi hình thức sở hữu phải nhận
một tỷ lệ người lao động là người tàn tật, lao động nữ vào làm việc. Doanh
nghiệp tiếp nhận số người lao động là người tàn tật vào làm việc thấp hơn tỷ
lệ quy định thì hàng tháng phải nộp vào quỹ việc làm cho người tàn tật một
khoản tiền theo quy định, nếu cao hơn thì khi sản xuất kinh doanh gặp khó
khăn hoặc có dự án phát triển sản xuất sẽ được xét cho vay vốn với lãi suất
thấp hoặc được xét hỗ trợ từ quỹ việc làm. Doanh nghiệp sử dụng nhiều lao
động nữ thì được hưởng các chính sách ưu đãi, hỗ trợ của Nhà nước.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh và hoạt động dịch vụ
- Người sử dụng lao động phải đảm bảo công việc thường xuyên liên tục theo
hợp đồng lao động và thỏa ước lao động tập thể, phải có trách nhiệm tổ chức
nâng cao trình độ nghiệp vụ cho người lao động theo kịp tiến bộ khoa học kỹ
thuật và làm việc có trách nhiệm, hiệu quả cao. Phải đào tạo lại trước khi
chuyển người lao động sang làm việc mới trong doanh nghiệp.
- Khi có sự thay đổi về cơ cấu hoặc công nghệ mà cần phải cho người lao
động thôi việc, người sử dụng lao động căn cứ vào nhu cầu của công việc và
thâm niên làm việc, tay nghề, hoàn cảnh gia đình và những yếu tố khác của
từng người để lần lượt cho thôi việc sau khi đã trao đổi nhất trí với ban chấp
hành công đoàn cơ sở và phải công bố danh sách. Trước khi quyết định cho
thôi việc phải báo cho cơ quan lao động địa phương biết để cơ quan này nắm
được tình hình lao động của địa phương và có kế hoạch hỗ trợ tài chính cho
doanh nghiệp hoặc tạo điều kiện giải quyết việc làm cho người lao động mất
việc làm.
Bên cạnh trách nhiệm của Nhà nước và người sử dụng lao động thì người

lao động cũng phải có trách nhiệm đối với việc làm của mình. Họ có quyền làm
việc cho bất kỳ tổ chức nào, bất kỳ người sử dụng lao động nào và ở bất kì nơi nào
mà pháp luật không cấm (Khoản 1 Điều 10) . Người tìm việc làm thì có quyền trực

×