Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Bài thu hoạch lớp bồi dưỡng lý luận nâng cao nhận thức về Đảng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (281.36 KB, 21 trang )

HỘI LƯU HỌC SINH VIỆT NAM TẠI
NAM KINH – GIANG TÔ – TRUNG QUỐC

BÀI THU HOẠCH
LỚP BỒI DƯỠNG LÝ LUẬN NÂNG CAO NHẬN THỨC VỀ
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM NĂM 2011
Họ và tên:
Ngày sinh:
Quê quán:
Đơn vị công tác:
Nam Kinh, Tháng 5 năm 2011
Lớp bồi dưỡng lý luận nâng cao nhận thức về Đảng Cộng Sản Việt Nam -2011
MỤC LỤC
Câu hỏi 1: Trong hơn 80 năm xây dựng và trưởng thành, Đảng Cộng sản Việt Nam đã
lãnh đạo nhân dân giành được những thắng lợi vĩ đại như thế nào? 3
Câu hỏi 2: Trình bày những mục tiêu tổng quát, mục tiêu đến giữa thế kỷ 21 trong quá
trình xây dựng Chủ nghĩa Xã hội và bảo bệ Tổ Quốc ? Các phương hướng cơ bản để
thực hiện mục tiêu đó là gì? 12
Câu hỏi 3: Cương lĩnh chính trị là gì? Những định hướng lớn về xây dựng và hoàn
thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước là gì? 12
Câu hỏi 4: Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ, nội
dung cơ bản của nguyên tắc đó được Điều lệ Đảng quy định ra sao ? 14
Câu hỏi 5: Điều lệ Đảng quy định tiêu chuẩn, nhiệm vụ và quyền của đảng viên như
thế nào? 15
Câu hỏi 6: Những người như thế nào thì có thể được xét kết nạp Đảng? Vì sao "thừa
nhận và tự nguyện thực hiện Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, tiêu chuẩn và nhiệm
vụ đảng viên, hoạt động trong một tổ chức cơ sở đảng" là điều kiện quan trọng nhất
đối với người muốn vào Đảng? 16
Câu hỏi 7: Cần làm gì và phấn đấu như thế nào để trở thành đảng viên? Vì sao vấn đề
xây dựng động cơ vào đảng đúng đắn được đặt lên hàng đầu và có ý nghĩa quyết định
đối với việc phấn đấu trở thành đảng viên? 18


2
Lớp bồi dưỡng lý luận nâng cao nhận thức về Đảng Cộng Sản Việt Nam -2011
Câu hỏi 1: Trong hơn 80 năm xây dựng và trưởng thành, Đảng Cộng sản Việt
Nam đã lãnh đạo nhân dân giành được những thắng lợi vĩ đại như thế nào?
Trả lời:
Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện đã lãnh
đạo nhân dân tiến hành Cách mạng Tháng Tám thành công, lập nên nước Việt Nam
dân chủ cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam), đánh thắng các
cuộc chiến tranh xâm lược, xóa bỏ chế độ thực dân phong kiến, hoàn thành sự nghiệp
giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc. Qua 8 thập kỷ (1930-2010),
Cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng đã giành được những thắng lợi rất
vẻ vang, mở ra kỷ nguyên mới trong sự phát triển của dân tộc ta: kỷ nguyên độc lập
dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội; mở ra thời đại mới: thời đại Hồ Chí Minh. Lịch sử
Đảng Cộng sản Việt Nam, như Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: là cả một pho lịch
sử bằng vàng.
1. Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời, bước ngoặt quyết định của cách mạng
Việt Nam
Năm 1858, thực dân Pháp xâm lược nước ta, từng bước thiết lập chế độ thống trị
tàn bạo, phản động của chủ nghĩa thực dân trên đất nước ta. Về chính trị, chúng trực
tiếp nắm giữ các chức vụ chủ chốt trong bộ máy nhà nước, thi hành chính sách cai trị
chuyên chế, biến giai cấp tư sản mại bản và địa chủ phong kiến thành tay sai đắc lực.
Sự câu kết giữa đế quốc và phong kiến là đặc trưng của chế độ thuộc địa. Đồng thời,
chúng thực hiện chính sách đàn áp, khủng bố hết sức dã man, tàn bạo, chia rẽ dân tộc,
tôn giáo , làm cho nhân dân mất hết quyền độc lập, quyền tự do dân chủ; mọi phong
trào yêu nước bị đàn áp dã man, mọi ảnh hưởng của các trào lưu tiến bộ từ bên ngoài
vào bị ngăn cấm. Về kinh tế, chúng thực hiện chính sách độc quyền, kìm hãm sự phát
triển kinh tế độc lập của nước ta, tăng cường vơ vét tài nguyên và bóc lột nặng nề, kể
cả duy trì bóc lột kiểu phong kiến , làm cho nhân dân ta, trước hết là công nhân và
nông dân, bị bần cùng hóa, nền kinh tế bị què quặt, lệ thuộc vào kinh tế Pháp, để lại

hậu quả nghiêm trọng kéo dài. Về văn hóa- xã hội, chúng thực hiện chính sách ngu
dân, khuyến khích văn hóa nô dịch, vong bản, sùng Pháp, kìm hãm dân ta trong vòng
tối tăm, dốt nát, lạc hậu, phục tùng sự cai trị của chúng. Với chính sách khai thác
thuộc địa triệt để của thực dân Pháp, xã hội Việt Nam có những biến đổi lớn, hai giai
cấp mới ra đời: giai cấp công nhân và giai cấp tư sản. Nước ta từ chế độ phong kiến
chuyển sang chế độ thuộc địa, nửa phong kiến. Chính sách thống trị của Pháp và bọn
tay sai đã tạo ra trong xã hội Việt Nam hai mâu thuẫn cơ bản: mâu thuẫn giữa toàn thể
dân tộc ta với thực dân Pháp xâm lược và mâu thuẫn giữa nhân dân ta, chủ yếu là giữa
nông dân, với giai cấp địa chủ phong kiến- chỗ dựa cho bộ máy thống trị và bóc lột
của chủ nghĩa thực dân Pháp. Hai mâu thuẫn đó quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó
mâu thuẫn giữa dân tộc với đế quốc xâm lược là chủ yếu. Vì vậy, nhiệm vụ chống
thực dân Pháp xâm lược và nhiệm vụ chống bọn phong kiến tay sai không tách rời
nhau. Đấu tranh giành độc lập dân tộc phải gắn chặt với đấu tranh đòi quyền dân sinh,
3
Lớp bồi dưỡng lý luận nâng cao nhận thức về Đảng Cộng Sản Việt Nam -2011
dân chủ. Đó là yêu cầu của cách mạng Việt Nam đặt ra cần được giải quyết. Trong
quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước lâu dài và gian khổ, ác liệt, dân tộc ta sớm
hình thành truyền thống yêu nước nồng nàn, tinh thần đấu tranh anh dũng, bất khuất.
Ngay từ khi thực dân Pháp xâm lược, nhân dân ta liên tiếp đứng lên chống lại chúng.
Từ năm 1858 đến trước năm 1930, hàng trăm phong trào, cuộc khởi nghĩa oanh liệt
dưới ngọn cờ của các sĩ phu và các nhà yêu nước đương thời theo nhiều khuynh
hướng khác nhau như phong trào Cần Vương, phong trào Đông du, Đông Kinh nghĩa
thục, Duy tân do cụ Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh và một số người yêu nước theo
khuynh hướng dân chủ tư sản khởi xướng, các cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Trung
Trực, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Nguyễn Thái Học tất cả các phong trào
đấu tranh đó dù vô cùng anh dũng nhưng đều thất bại và bị thực dân Pháp đàn áp tàn
bạo. Nguyên nhân cơ bản dẫn tới thất bại của các phong trào đấu tranh đó là những
người yêu nước đương thời chưa tìm được con đường cứu nước đúng đắn phản ánh
đúng nhu cầu phát triển của xã hội Việt Nam. Cách mạng nước ta thời kỳ đó đứng
trước cuộc khủng hoảng, bế tắc về đường lối cứu nước. Giữa lúc cách mạng Việt Nam

đang chìm trong cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước, ngày 5-6-1911, Nguyễn
Tất Thành (Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh) rời Tổ quốc ra đi tìm đường cứu nước.
Trên con đường bôn ba khắp năm châu, bốn biển, Người vừa lao động, vừa quan sát,
nghiên cứu lý luận và kinh nghiệm các cuộc cách mạng tư sản điển hình (Pháp, Mỹ)
và tham gia hoạt động trong Đảng Xã hội Pháp, sau đó trở thành một trong những
người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Người đã từng bước rút ra nhiều bài học quý
báu và bổ ích cho sự lựa chọn con đường cách mạng của mình. Tháng 7-1920,
Nguyễn Ái Quốc đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất Những luận cương về vấn đề dân tộc
và thuộc địa của Lênin. Luận cương đã giải đáp trúng những vấn đề mà Nguyễn Ái
Quốc đang trăn trở tìm hiểu, giúp Người hiểu sâu sắc những vấn đề cơ bản của đường
lối giải phóng dân tộc, đó là con đường cách mạng vô sản, giải phóng dân tộc gắn với
chủ nghĩa xã hội, giai cấp vô sản phải nắm lấy ngọn cờ giải phóng dân tộc, gắn cách
mạng dân tộc từng nước với phong trào cách mạng vô sản thế giới Từ đây, Người
dứt khoát đi theo con đường cách mạng của Lênin, con đường Cách mạng Tháng
Mười Nga vĩ đại. Đây là bước ngoặt từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa cộng
sản, từ một chiến sĩ giải phóng dân tộc trở thành một chiến sĩ cộng sản quốc tế của
Người. Sự kiện đó cũng đánh dấu bước ngoặt mở đường thắng lợi cho sự nghiệp giải
phóng dân tộc Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc là người Việt Nam đầu tiên tiếp thu sáng
tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tìm ra con đường đúng đắn giải phóng dân tộc Việt Nam.
Trở thành chiến sĩ cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã tham gia hoạt động trong phong
trào cộng sản và công nhân quốc tế, tích cực vận động phong trào cách mạng thuộc
địa, nghiên cứu và truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin về Việt Nam qua các báo Người
cùng khổ, Nhân đạo, Đời sống công nhân và sau này là tác phẩm Bản án chế độ thực
dân Pháp (1925) của Người. Tháng 12-1924, Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu
(Trung Quốc) trực tiếp chỉ đạo việc chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Tại
đây, Người tham gia sáng lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông, sáng lập
và trực tiếp huấn luyện Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên, sáng lập và viết bài cho
4
Lớp bồi dưỡng lý luận nâng cao nhận thức về Đảng Cộng Sản Việt Nam -2011
báo Thanh niên, xuất bản tác phẩm Đường kách mệnh (1927) để một mặt tuyên

truyền chủ nghĩa Mác-Lênin vào trong nước, mặt khác tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ cốt cán, tiếp tục chuẩn bị về mặt tư tưởng và tổ chức cho việc thành lập Đảng.
Chủ nghĩa Mác-Lênin và các tài liệu tuyên truyền của Nguyễn Ái Quốc được giai
cấp công nhân và nhân dân Việt Nam đón nhận như “người đi đường đang khát mà có
nước uống, đang đói mà có cơm ăn”. Nó lôi cuốn những người yêu nước Việt Nam đi
theo con đường cách mạng vô sản, làm dấy lên cao trào đấu tranh mạnh mẽ, sôi nổi
khắp cả nước, trong đó giai cấp công nhân trở thành một lực lượng chính trị độc lập.
Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân, nhiều tầng lớp nhân dân phát triển mạnh
mẽ, đòi hỏi phải có tổ chức đảng chính trị lãnh đạo. Vì vậy các tổ chức đảng được
thành lập:
- Ngày 17-6-1929, Đông Dương Cộng sản Đảng được thành lập ở Bắc Kỳ.
- Mùa thu năm 1929, An Nam Cộng sản Đảng được thành lập ở Nam Kỳ.
- Ngày 1-1-1930, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn được thành lập ở Trung Kỳ.
Chỉ trong một thời gian ngắn ở Việt Nam đã có ba tổ chức cộng sản được tuyên
bố thành lập. Điều đó phản ánh xu thế tất yếu của phong trào đấu tranh cách mạng ở
Việt Nam. Song, sự tồn tại của ba tổ chức cộng sản hoạt động biệt lập trong một quốc
gia có nguy cơ dẫn đến chia rẽ lớn. Yêu cầu bức thiết của cách mạng là cần có một
đảng thống nhất lãnh đạo. Nguyễn Ái Quốc, người chiến sĩ cách mạng lỗi lạc của dân
tộc Việt Nam, người duy nhất có đủ năng lực và uy tín đáp ứng yêu cầu đó của lịch
sử: thống nhất các tổ chức cộng sản thành Đảng Cộng sản duy nhất ở Việt Nam. Từ
ngày 6/1 đến 7-2-1930, Hội nghị hợp nhất ba tổ chức Cộng sản họp tại Cửu Long
(Hương cảng, Trung Quốc) dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Hội nghị
nhất trí thành lập Đảng thống nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam, thông qua
Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Điều lệ vắn tắt của
Đảng, Điều lệ tóm tắt của các hội quần chúng Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng
sản việt Nam mang tầm vóc lịch sử như là Đại hội thành lập Đảng. Đảng được thành
lập là kết quả của cuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc ở nước ta trong những
năm đầu thế kỷ XX; là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào
công nhân và phong trào yêu nước; là kết quả của quá trình lựa chọn, sàng lọc nghiêm
khắc của lịch sử và là kết quả của quá trình chuẩn bị đầy đủ về chính trị, tư tưởng và

tổ chức của một tập thể chiến sĩ cách mạng, đứng đầu là đồng chí Nguyễn Ái Quốc.
Đó là một mốc lớn đánh dấu bước ngoặt trọng đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam,
chấm dứt cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước kéo dài mấy chục năm. Trong
Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt do Chủ tịch Hồ Chí Minh khởi thảo được Hội
nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam thông qua đã xác định: cách mạng Việt Nam
phải tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội là con đường cách mạng duy nhất đúng để thực hiện mục tiêu
giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Sự
ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam với Cương lĩnh, đường lối cách mạng đúng đắn
5
Lớp bồi dưỡng lý luận nâng cao nhận thức về Đảng Cộng Sản Việt Nam -2011
chứng tỏ giai cấp công nhân Việt Nam đã trưởng thành, đủ sức lãnh đạo cách mạng.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam gắn liền với tên tuổi của Nguyễn Ái Quốc-
Hồ Chí Minh, người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng ta.
2. Đảng ra đời, mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam đều gắn liền với sự
lãnh đạo của Đảng
Ngay khi vừa mới ra đời, với đường lối cách mạng cứu nước đúng đắn, Đảng ta
đã quy tụ đoàn kết xung quanh mình tất cả các giai cấp và các tầng lớp yêu nước, xây
dựng nên lực lượng cách mạng to lớn và rộng khắp đấu tranh chống thực dân Pháp và
bọn phong kiến tay sai, vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Qua 15 năm lãnh đạo cách
mạng, trải qua các cuộc đấu tranh gian khổ hy sinh, Đảng từng bước vận động, giáo
dục quần chúng, qua ba cao trào cách mạng lớn (1930-1931, 1936- 1939, 1939- 1945)
như ba cuộc tổng diễn tập cách mạng, với khí thế cách mạng vĩ đại của quần chúng,
nắm chắc thời cơ lịch sử, với một nghệ thuật lãnh đạo và tổ chức khởi nghĩa tài tình,
Đảng ta lãnh đạo cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 thành công trọn vẹn.
Chỉ trong thời gian ngắn, nhân dân Việt Nam đã đập tan xiềng xích nô lệ của chế độ
thực dân và lật nhào chế độ phong kiến tay sai thối nát tồn tại trong gần một thế kỷ.
Ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời đọc Tuyên ngôn
độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Nhà nước của dân, do dân và
vì dân. Dân tộc ta bước sang kỷ nguyên mới- kỷ nguyên độc lập tự do, dân chủ nhân

dân tiến lên Chủ nghĩa Xã hội.
Đánh giá ý nghĩa lịch sử của sự kiện này, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Chẳng
những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động
và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: lần này là lần đầu tiên
trong lịch sử cách mạng của dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi
đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc” . Ngay khi vừa
mới ra đời, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã phải đối mặt với ba thứ giặc hung
dữ: giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm. Nạn đói hoành hành đã làm cho hơn 2 triệu
đồng bào chết đói; trên 95% dân Việt Nam mù chữ; miền Bắc hơn 20 vạn quân
Tưởng, miền Nam trên 15 vạn quân Pháp lăm le xâm lược nước ta. Trong khi đó, lực
lượng mọi mặt của Nhà nước ta còn rất non yếu: vận mệnh của đất nước như “ngàn
cân treo sợi tóc”. Song, Đảng ta đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kịp thời đề ra
những chủ trương và quyết sách đúng đắn, toàn diện trên tất cả các mặt chính trị, kinh
tế, xã hội, an ninh, quốc phòng. Đối với các thế lực thù địch, chúng ta thực hiện sách
lược mềm dẻo, lợi dụng mâu thuẫn, phân hóa chúng, giành thời gian củng cố lực
lượng chuẩn bị kháng chiến. Với đường lối chính trị sáng suốt, vừa cứng rắn về
nguyên tắc, vừa mềm dẻo về sách lược, Đảng ta đã động viên được sức mạnh đoàn
kết toàn dân, triệu người như một, vượt qua muôn vàn khó khăn, nguy hiểm tưởng
như không qua được, củng cố, giữ vững chính quyền cách mạng vượt qua tình thế
hiểm nghèo, chuẩn bị mọi mặt cho cuộc kháng chiến lâu dài chống thực dân Pháp. Bất
chấp nguyện vọng của nhân dân ta và mặc dù chúng ta đã nhân nhượng, nhưng thực
dân Pháp vẫn không từ bỏ dã tâm cướp nước ta lần nữa. Chúng ta càng nhân nhượng,
6
Lớp bồi dưỡng lý luận nâng cao nhận thức về Đảng Cộng Sản Việt Nam -2011
thực dân Pháp càng lấn tới. Lich sử đã đặt dân tộc ta trước một thử thách gay go mới,
phải đứng lên bảo vệ nền độc lập của Tổ quốc. Đêm 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã ra Lời kêu gọi, nhân dân cả nước quyết tâm “ Thà hy sinh tất cả, chứ nhất
định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ!” Với đường lối kháng
chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mạnh là chính, vừa kháng chiến,
vừa kiến quốc, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta vượt qua mọi khó khăn giành thắng lợi

trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Chiến thắng Điện Biên Phủ
lịch sử (tháng 5-1954) mãi mãi ghi vào lịch sử dân tộc ta như một Bạch Đằng, một
Chi Lăng hay một Đống Đa của thế kỷ XX, đi vào lịch sử thế giới như một chiến công
chói lọi, đột phá thành trì của hệ thống nô dịch thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc, báo
hiệu sự sụp đổ hoàn toàn không tránh khỏi của chủ nghĩa thực dân. Đánh giá ý nghĩa
thắng lợi, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Lần đầu tiên trong lịch sử, một nước thuộc
địa nhỏ yếu đã đánh thắng một nước thực dân hùng mạnh. Đó là một thắng lợi vẻ
vang của nhân dân Việt Nam, đồng thời cũng là một thắng lợi của các lực lượng hòa
bình, dân chủ và xã hội chủ nghĩa trên thế giới”. Thắng lợi đó làm sáng tỏ một chân
lý: “Trong điều kiện thế giới ngày nay, một dân tộc dù là nhỏ yếu, nhưng một khi đã
đoàn kết đứng lên kiên quyết đấu tranh dưới sự lãnh đạo của chính đảng Mác-Lênin
để giành độc lập và dân chủ, thì có đầy đủ lực lượng để chiến thắng mọi kẻ thù xâm
lược. Thắng lợi đó cũng chứng tỏ rằng chỉ có sự lãnh đạo đúng đắn của giai cấp công
nhân mà Đảng ta là đại biểu, chỉ có đường lối cách mạng khoa học của chủ nghĩa
Mác-Lênin mới có thể tạo điều kiện cho nhân dân ta đánh bại quân thù và giành tự do,
độc lập” .
Với thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, cách mạng Việt Nam
bước vào thời kỳ mới với đặc điểm là đất nước tạm chia làm hai miền với hai chế độ
chính trị- xã hội đối lập nhau. Con đường phát triển tất yếu của cách mạng Việt Nam
như Đảng ta xác định là tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược:
Một là, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, xây dựng miền Bắc
thành căn cứ địa vững mạnh của cách mạng cả nước.
Hai là, tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, chống đế
quốc Mỹ và tay sai, giải phóng miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà.
Tuy mỗi miền thực hiện một chiến lược khác nhau nhưng có mối quan hệ chặt
chẽ với nhau, trong đó cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc giữ vai trò quyết định
nhất đối với toàn bộ sự phát triển cách mạng Việt Nam. Cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân ở miền Nam giữ vị trí quan trọng có tác dụng trực tiếp đối với sự nghiệp giải
phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Nhân dân cả nước ta tiếp tục cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước với tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, quyết

“đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”. Trong cuộc đọ sức quyết liệt này, đế quốc
Mỹ đã huy động và sử dụng một lực lượng quân sự và phương tiện chiến tranh khổng
lồ hòng tiêu diệt lực lượng cách mạng nước ta. Song, trải qua 21 năm, dưới sự lãnh
đạo của Đảng, nhân dân ta đã vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, chiến đấu kiên
cường, lại được sự đồng tình ủng hộ của các lực lượng tiến bộ trên thế giới, đã lần
7
Lớp bồi dưỡng lý luận nâng cao nhận thức về Đảng Cộng Sản Việt Nam -2011
lượt đánh thắng các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ ở miền Nam. Bằng cuộc
tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 với thắng lợi của Chiến dịch Hồ Chí
Minh lịch sử, nhân dân ta đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, đưa cả nước bước vào thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội. Nhìn lại tính chất và quy mô của cuộc chiến tranh, thấy hết
lực lượng mà kẻ địch đã sử dụng, những ý đồ mà chúng đã thực thi, nhớ lại những
tình huống cực kỳ phức tạp mà cách mạng Việt Nam đã vượt qua, chúng ta càng thấy
rõ tầm vóc vĩ đại và ý nghĩa lớn lao của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. “Năm
tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu
nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc như một trong những trang chói lọi nhất,
một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí
tuệ con người, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX,
một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc !”
Thắng lợi oanh liệt mùa xuân năm 1975 đã kết thúc vẻ vang 30 năm chiến tranh
giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, chấm dứt ách thống trị tàn bạo hơn một thế kỷ
của chủ nghĩa thực dân cũ và mới trên đất nước ta; hoàn thành cách mạng dân tộc dân
chủ trong cả nước; bảo vệ thành quả của chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, mở ra bước
ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc ta, mở ra thời kỳ mới- thời kỳ độc lập thống nhất đi
lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước.
Bước vào thời kỳ cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cách mạng Việt Nam có
những thuận lợi, song cũng không ít khó khăn, mà khó khăn lớn nhất là nền kinh tế
nước ta chủ yếu là sản xuất nhỏ, năng suất lao động thấp, hậu quả chiến tranh để lại
nặng nề. Chủ nghĩa đế quốc và bọn phản động luôn tìm mọi cách phá hoại. Phong trào

cộng sản và công nhân quốc tế đã và đang trải qua nhiều diễn biến phức tạp; chủ
nghĩa xã hội thế giới gặp phải những khó khăn, thử thách lớn, lâm vào khủng hoảng,
thoái trào, đặc biệt từ khi chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô sụp đổ. Quá
trình đó đã tác động, ảnh hưởng lớn đến sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước
ta.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong 10 năm (1975- 1985), cách mạng Việt Nam đã
vượt qua những khó khăn trở ngại, thu được những thành tựu quan trọng. Chúng ta đã
nhanh chóng hoàn thành việc thống nhất đất nước về mọi mặt, đánh thắng các cuộc
chiến tranh biên giới bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Trên các lĩnh vực
kinh tế, văn hóa- xã hội, Nhân dân ta đã có những cố gắng to lớn trong công cuộc
khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh, bước đầu bình ổn sản xuất và đời
sống nhân dân. Chúng ta tập trung sức bắt tay xây dựng nhiều công trình kinh tế trọng
điểm: đường sắt Bắc- Nam, thủy điện Hòa Bình, xi măng Hoàng Thạch, cầu Thăng
Long Tuy nhiên, những thành tựu về kinh tế- xã hội còn thấp so với yêu cầu kế
hoạch và công sức bỏ ra, nền kinh tế có mặt mất cân đối nghiêm trọng, tỷ lệ lạm phát
cao quá mức, cuộc khủng hoảng kinh tế- xã hội ngày càng gay gắt. Trên mặt trận bảo
vệ Tổ Quốc chúng ta đã giúp nhân dân Campuchia giải phóng khỏi chế độ diệt chủng
Polpot. Ở biên giới phía Bắc chúng ta cũng bảo vệ và đánh đuổi quân xâm lược từ
8
Lớp bồi dưỡng lý luận nâng cao nhận thức về Đảng Cộng Sản Việt Nam -2011
phương Bắc. Trên biển Đông chúng ta cũng không ngừng đề cao cảnh giác, bảo vệ và
giữ vững các đảo và quần đảo, giải quyết các xung đột với tinh thần hòa bình là trên
hết.
Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật, Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (12-1986) đã nghiêm khắc kiểm điểm sự lãnh
đạo của mình, khẳng định những mặt làm được, phân tích rõ những sai lầm, khuyết
điểm, đặc biệt là khuyết điểm chủ quan, duy ý chí trong lãnh đạo kinh tế, đề ra đường
lối đổi mới toàn diện, mở ra bước ngoặt trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
nước ta. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng đã thông qua Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Chiến lược ổn định và

phát triển kinh tế- xã hội đến năm 2000 và nhiệm vụ kinh tế- xã hội 5 năm 1991-
1995, cụ thể hóa hơn nữa đường lối đổi mới ở nước ta. Sau 10 năm thực hiện đường
lối đổi mới toàn diện và 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VII của Đảng, đất nước ta vượt qua một giai đoạn thử thách gay go. Trong hoàn
cảnh phức tạp, khó khăn, cách mạng nước ta không những đứng vững mà còn vươn
lên đạt những thắng lợi nổi bật trên nhiều mặt. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII
của Đảng (22-6 đến 1-7-1996) đã nhận định: “Công cuộc đổi mới trong 10 năm qua
đã thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa rất quan trọng. Nhiệm vụ do Đại hội
VII đề ra cho 5 năm 1991- 1995 đã được hoàn thành về cơ bản. Nước ta đã ra khỏi
khủng hoảng kinh tế- xã hội, nhưng một số mặt còn chưa vững chắc. Nhiệm vụ đề ra
cho chặng đường đầu của thời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp hóa đã
cơ bản hoàn thành, cho phép chuyển sang thời kỳ mới đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được
xác định rõ hơn”. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định:
“Tiếp tục sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội” .
Đại hội đã đề ra nhiệm vụ từ năm 1996 đến năm 2000 là: “Tăng trưởng kinh tế nhanh,
hiệu quả cao và bền vững đi đôi với giải quyết những vấn đề bức xúc về xã hội, bảo
đảm an ninh, quốc phòng, cải thiện đời sống nhân dân, nâng cao tích lũy từ nội bộ nền
kinh tế, tạo tiền đề vững chắc cho bước phát triển cao hơn vào thế kỷ sau”. Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (4-2001) đã chỉ rõ: Thực tiễn phong phú và
những thành tựu thu được qua 15 năm đổi mới đã chứng minh tính đúng đắn của
Đảng, đồng thời giúp chúng ta nhận thức càng rõ hơn về con đường đi lên Chủ nghĩa
Xã hội ở nước ta. Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo
con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh. Thế kỷ XX là thế kỷ đấu tranh oanh liệt và chiến thắng vẻ vang của dân tộc ta.
Thế kỷ XXI sẽ là thế kỷ nhân dân ta tiếp tục giành thêm nhiều thắng lợi to lớn trong
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đưa nước ta sánh vai cùng
các nước phát triển trên thế giới. Đại hội X của Đảng họp vào lúc toàn Đảng, toàn dân
ta kết thúc 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội IX và đã trải qua 20 năm đổi mới. Đại

hội có nhiệm vụ: kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết Đại hội IX của Đảng, Kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001 - 2005 và Chiến lược phát triển kinh tế -
9
Lớp bồi dưỡng lý luận nâng cao nhận thức về Đảng Cộng Sản Việt Nam -2011
xã hội 10 năm 2001 - 2010, nhìn lại 20 năm đổi mới; quyết định phương hướng, mục
tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 - 2010; kiểm điểm sự lãnh đạo
của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX, đề ra phương hướng, nhiệm vụ xây
dựng Đảng; bổ sung, sửa đổi Điều lệ Đảng; bầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khoá X. Đại hội đã căn cứ vào thực tiễn tình hình cách mạng Việt Nam đề ra nhiệm
vụ hết sức quan trọng: Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Ðảng, phát
huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta
ra khỏi tình trạng kém phát triển. Gần 25 năm thực hiện công cuộc đổi mới dưới sự
lãnh đạo của Đảng đất nước ta đã đạt những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử
đúng như đồng chí Tổng bí thư Nông Đức Mạnh đã khẳng định tại lễ kỹ niệm 80 năm
thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam: “Có thể coi công cuộc đổi mới là cuộc cách
mạng toàn diện và sâu sắc nhất trong thời kỳ mới. Từ một nước nghèo nàn, lạc hậu,
nền kinh tế Việt Nam đã có bước phát triển nhanh theo hướng thực hiện công nghiệp
hoá, hiện đại hoá, xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa với nhiều thành phần kinh tế, nhiều hình thức sở hữu và tích cực, chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế. Đất nước không những đi ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội
mà còn vượt qua được những tác động tiêu cực của khủng hoảng tài chính tiền tệ ở
khu vực những năm 1997 - 1998 và cuộc khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế
toàn cầu hiện nay. Trong hoàn cảnh khủng hoảng tài chính và suy thối kinh tế trên
quy mơ thế giới, Việt Nam vẫn tăng trưởng và ổn định kinh tế vĩ mô, năm 2008 đạt
thu nhập bình quân đầu người trên 1.000 đô-la, vượt qua ngưỡng một nước chậm phát
triển, năm 2009 tăng trưởng kinh tế đạt 5,32%, đời sống vật chất và tinh thần của các
tầng lớp nhân dân được cải thiện đáng kể. Tỉ lệ các hộ nghèo đói giảm từ 58% năm
1993 xuống còn 12,3% năm 2009. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân
tộc được củng cố và tăng cường. Chính trị - xã hội ổn định. Quốc phòng và an ninh
được giữ vững. Vị thế Việt Nam trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao. Sức

mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất nước
tiếp tục đi lên với triển vọng tốt đẹp. Đó là sự nỗ lực phi thường của toàn thể nhân
dân, của Đảng, Nhà nước ta. Cần nhấn mạnh, từ thực tiễn phong phú và sáng tạo của
công cuộc đổi mới, nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội ngày càng sáng tỏ hơn; hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về xã
hội xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã hình thành
trên những nét cơ bản.”
Chặng đường vẻ vang tám thập kỷ qua của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo
của Đảng đã khẳng định: Sự lãnh đạo đúng đắn và sáng suốt của Đảng là nhân tố
quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân
dân ta cũng còn có những yếu kém, có lúc phạm sai lầm, khuyết điểm. Điều quan
trọng là Đảng sớm phát hiện ra những sai lầm, khuyết điểm của mình, đề ra những
biện pháp sửa chữa đúng đắn, kịp thời. Đảng công khai tự phê bình, nhận khuyết điểm
trước nhân dân, quyết tâm sửa chữa và sửa chữa có kết quả. Vì vậy, Đảng vẫn được
nhân dân tin cậy, thừa nhận Đảng ta là đội tiên phong chính trị, người lãnh đạo chân
chính duy nhất của cả dân tộc. Ở nước ta, ngoài Đảng Cộng sản không lực lượng nào
10
Lớp bồi dưỡng lý luận nâng cao nhận thức về Đảng Cộng Sản Việt Nam -2011
có thể lãnh đạo cách mạng.
3. Những truyền thống quý báu của Đảng Cộng sản Việt Nam
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng 80 năm, Đảng Cộng sản Việt Nam không
ngừng được tôi luyện, trưởng thành và đã xây dựng nên nhiều truyền thống quý báu,
thể hiện bản chất tốt đẹp của Đảng ta. Đó là:
- Bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu lý tưởng cách mạng.
- Tinh thần độc lập tự chủ và sáng tạo.
- Kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nắm vững ngọn cờ độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
- Trung thành với lợi ích giai cấp, lợi ích dân tộc, gắn bó mật thiết với nhân dân.
- Kiên định nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Đảng.
- Giữ gìn đoàn kết nội bộ, đoàn kết quốc tế

Những truyền thống đó là sự kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc
ta, của giai cấp công nhân Việt Nam và giai cấp công nhân quốc tế trên một tầm cao
mới của thời đại, là sức mạnh bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng. Đó là kết quả của
quá trình vun trồng, xây đắp bền bỉ, là sự hy sinh phấn đấu không mệt mỏi của các thế
hệ đảng viên của Đảng góp phần tạo nên. Những truyền thống đó có ý nghĩa dân tộc
và quốc tế sâu sắc, thể hiện tinh thần cách mạng triệt để, trình độ trí tuệ ngày càng
được nâng cao của Đảng ta. Ngay từ khi vừa mới ra đời, Đảng ta đứng đầu là Chủ tịch
Hồ Chí Minh vĩ đại đã nắm bắt đúng xu thế phát triển của thời đại, gắn phong trào
cách mạng Việt Nam với phong trào cách mạng của giai cấp công nhân thế giới, giải
quyết đúng đắn vấn đề dân tộc trên lập trường của giai cấp công nhân. Vì vậy, trên
con đường phát triển của cách mạng Việt Nam, nhất là trong những bước ngoặt lịch
sử phải đương đầu với mọi thử thách dù hiểm nghèo tưởng không thể vượt qua, Đảng
đã kịp thời có những quyết sách sáng suốt đáp ứng yêu cầu phát triển của thực tiễn,
đưa con thuyền cách mạng vượt lên.
Cơ sở, nguồn gốc sức mạnh và truyền thống của Đảng là ở chỗ: Đảng đứng vững
trên nền tảng tư tưởng tiên tiến của thời đại, đó là chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh. Lênin cho rằng: “Chỉ có đảng nào được một lý luận tiền phong hướng
dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò người chiến sĩ tiên phong”. Đảng ta không
chỉ nắm bắt những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin mà còn biết vận dụng
sáng tạo và phát triển trong thực tiễn Việt Nam. Đồng thời, Đảng ta không ngừng phát
huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta và tiếp thu những tinh hoa trí tuệ của nhân
loại.
Ôn lại lịch sử và truyền thống của Đảng không phải chỉ để tự hào về Đảng mà
quan trọng hơn là góp phần giữ vững, kế thừa và phát huy những truyền thống của
Đảng, làm cho Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh, có đủ năng lực lãnh đạo và
11
Lớp bồi dưỡng lý luận nâng cao nhận thức về Đảng Cộng Sản Việt Nam -2011
sức chiến đấu ngang tầm đòi hỏi của thời đại mới, đưa ngọn cờ vinh quang của Đảng
lên tầm cao mới.
Câu hỏi 2: Trình bày những mục tiêu tổng quát, mục tiêu đến giữa thế kỷ 21

trong quá trình xây dựng Chủ nghĩa Xã hội và bảo bệ Tổ Quốc ? Các
phương hướng cơ bản để thực hiện mục tiêu đó là gì?
Trả lời:
Mục tiêu tổng quát: Khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là xây dựng được về
cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư
tưởng, văn hóa phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa
ngày càng phồn vinh, hạnh phúc.
Mục tiêu đến giữa thế kỷ XXI: Từ nay đến giữa thế kỷ XXI, toàn Đảng, toàn dân
ta phải ra sức phấn đấu xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại,
theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Các phương hướng cơ bản:
Một là, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh
tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường.
Hai là, phá triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ba là, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con
người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Bốn là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã
hội.
Năm là, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp
tác và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.
Sáu là, xây dựng nền dân chủ Xã hội Xhủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân
tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất.
Bảy là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân.
Tám là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Câu hỏi 3: Cương lĩnh chính trị là gì? Những định hướng lớn về xây dựng và
hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước là gì?
Trả lời:
1. Cương lĩnh chính trị
Cương lĩnh là văn kiện lý luận và chính trị cơ bản chỉ rõ mục tiêu, đường lối,

12
Lớp bồi dưỡng lý luận nâng cao nhận thức về Đảng Cộng Sản Việt Nam -2011
nhiệm vụ và phương hướng cách mạng trong một giai đoạn nhất định của một chính
đảng hoặc một tổ chức chính trị, theo V.I. Lênin: “Cương lĩnh là một bản tuyên ngôn
vắn tắt, rõ ràng và chính xác nói lên tất cả những điều mà đảng muốn đạt được và vì
mục đích gì mà đảng đấu tranh”.
Theo quan niệm của Đảng ta: Cương lĩnh chính trị là văn bản trình bày những nội
dung cơ bản về mục tiêu, đường lối, nhiệm vụ và phương pháp cách mạng trong một
giai đoạn nhất định
Cương lĩnh là cơ sở thống nhất ý chí và hành động của toàn Đảng, là ngọn cờ tập
hợp, cổ vũ các lực lượng xã hội phấn đấu cho lý tưởng mà Đảng đã chỉ ra.
2. Những định hướng lớn về xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội
Chủ nghĩa Nhà nước
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động
lực của sự phát triển đất nước. Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa, bảo đảm dân chủ phải được thực hiện trong thực tế cuộc sống ở mỗi cấp,
trên tất cả các lĩnh vực Dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và phải được thể chế
hoá bằng pháp luật, được pháp luật bảo đảm.
Nhà nước tôn trọng và bảo đảm các quyền con người, quyền công dân; chăm lo
hạnh phúc, sự phát triển tự do của mỗi người. Quyền và nghĩa vụ công dân do Hiến
pháp và pháp luật quy định. Quyền của công dân không tách rời nghĩa vụ công dân.
Nhân dân thực hiện quyền làm chủ thông qua hoạt động của Nhà nước, của cả hệ
thống chính trị và các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện.
Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên
minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Quyền lực nhà nước là thống nhất; có sự phân công,
phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp, tư pháp. Nhà nước ban hành pháp luật; tổ chức, quản lý xã hội bằng pháp luật
và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.

Nhà nước phục vụ nhân dân, gắn bó chặt chẽ với nhân dân, thực hiện đầy đủ
quyền dân chủ của nhân dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân và chịu sự
giám sát của nhân dân; có cơ chế và biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa và trừng trị tệ
quan liêu, tham nhũng, lãng phí, vô trách nhiệm, lạm quyền, xâm phạm quyền dân
chủ của công dân; giữ nghiêm kỷ cương xã hội, nghiêm trị mọi hành động xâm phạm
lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân.
Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước theo nguyên tắc tập trung dân chủ, có
sự phân công, phân cấp, đồng thời bảo đảm sự chỉ đạo thống nhất của Trung ương.
13
Lớp bồi dưỡng lý luận nâng cao nhận thức về Đảng Cộng Sản Việt Nam -2011
Câu hỏi 4: Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ,
nội dung cơ bản của nguyên tắc đó được Điều lệ Đảng quy định ra sao ?
Trả lời:
Nội dung cơ bản của nguyên tắc tập trung dân chủ là:
-
Cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng do bầu cử lập ra, thực hiện tập thể lãnh
đạo, cá nhân phụ trách.
Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng là Đại hội đại biểu toàn quốc. Cơ quan lãnh
đạo ở mỗi cấp là đại hội đại biểu hoặc đại hội đảng viên. Giữa hai kỳ đại hội, cơ quan
lãnh đạo của Đảng là Ban Chấp hành Trung ương, ở mỗi cấp là Ban chấp hành đảng
bộ, chi bộ (gọi tắt là cấp ủy).
-
Tổ chức Đảng và đảng viên phải chấp hành nghị quyết của Đảng. Thiểu số
phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, cá nhân phục tùng tổ chức
-
Nghị quyết của các cơ quan lãnh đạo của Đảng chỉ có giá trị thi hành khi có
hơn một nửa số thành viên trong cơ sở Đảng tán thành. Trước khi biểu quyết mỗi
thành viên đều được phát biểu ý kiến của mình. Đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số
được quyền bảo lưu, được báo cáo lên cấp ủy cấp trên, đến Đại hội toàn quốc, song
phải chấp hành nghiêm chỉnh nghị quyết, không được truyền bá ý kiến trái với nghị

quyết của tổ chức cơ sơ đảng; cấp ủy có thẩm quyền xem xét, nghiên cứu ý kiến đó
không phân biệt đối xử.
-
Tổ chức đảng quyết định các vấn đề thuộc pham vi quyền hạn của mình,
song không trái với nguyên tắc, đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước và nghị quyết của cấp trên.
Để thực hiện tốt nguyên tắc tâp trung dân chủ, cần nhận thức đúng đắn và thống
nhất nội dung của nguyên tắc này; uốn nắn những nhận thức lệch lạc, đồng thời phải
có cơ chế, các quy định, quy chế làm việc cụ thể, đồng bộ, bảo đảm thực hiện nghiêm
minh ở mỗi cấp, ở mỗi tổ chức Đảng.
Phát huy dân chủ sẽ khơi dậy tính tích cực chủ động, sáng tạo của các tổ chức
Đảng và đảng viên. Thực hiện tốt dân chủ trong Đảng sẽ tạo điều kiện thúc đẩy dân
chủ trong các cơ quan Nhà Nước cũng như toàn xã hội. Khuyến khích mọi người
mạnh dạn suy nghĩ, tìm tòi đóng góp xây dựng nhằm thực hiện đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước. Điều này có ý nghĩa to lớn ytong sự phát triển của
cách mạng, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay của nước ta.
Cần chống quan điểm dân chủ cực đoan, dân chủ phi giai cấp. Dân chủ phải gắn
liền với tập trung, phát huy dân chủ đi đôi với việc tăng cường tập trung và kỷ luật
của Đảng. Đây là mối quan hệ biện chứng cần được nhận thức, xử lý đúng đắn trong
thực tiễn. Nếu tuyệt đối hóa mặt này đi đến hạ thấp hoặc phủ nhận mặt kia đều làm
cho Đảng suy yếu, thậm chí tan rã.
14
Lớp bồi dưỡng lý luận nâng cao nhận thức về Đảng Cộng Sản Việt Nam -2011
Nhận thức đúng nguyên tắc tập trung dân chủ đã khó, việc thực hiện nguyên tắc
này càng khó hơn. Điều đó còn phụ thuộc vào trình độ, ý thức Đảng, kinh ngiệm công
tác của mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng. Vì vậy trong thực tế ở nơi này, nơi kia, có
lúc chưa thực hiện tốt nguyên tắc này. Đó là những thiếu sót cần được thường xuyên
phát hiện, phê phán, uốn nắn. Bởi vì đây cũng chính là kẽ hở mà kẻ thù đang tìm cách
khoét sâu, khai thác, xuyên tạc nhằm hạ thấp đi tới xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng.
Câu hỏi 5: Điều lệ Đảng quy định tiêu chuẩn, nhiệm vụ và quyền của đảng viên

như thế nào?
Trả lời:
Tiêu chuẩn của Đảng Viên:
1. Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam là chiến sĩ cách mạng trong đội tiên
phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam, suốt đời phấn
đấu cho mục đích, lý tưởng của Đảng, đặt lợi ích của Tổ quốc, của giai cấp công nhân
và nhân dân lao động lên trên lợi ích cá nhân; chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh
chính trị, Điều lệ Đảng, các nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước; có lao
động, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; có đạo đức và lối sống lành mạnh; gắn bó
mật thiết với nhân dân; phục tùng tổ chức, kỷ luật của Đảng, giữ gìn đoàn kết thống
nhất trong Đảng.
2. Công dân Việt Nam từ mười tám tuổi trở lên; thừa nhận và tự nguyện : thực
hiện Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, tiêu chuẩn và nhiệm vụ đảng viên, hoạt động
trong một tổ chức cơ sở đảng; qua thực tiễn chứng tỏ là người ưu tú, được nhân dân
tín nhiệm, đều có thể được xét để kết nạp vào Đảng.
(Đại Hội Đại biểu Toàn quốc XI ,iều lệ Đảng Cộng Sản Việt Nam, Điều 1)
Đảng viên có nhiệm vụ:
1. Tuyệt đối trung thành với mục đích lý tưởng cách mạng của Đảng, chấp hành
nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp
luật của Nhà nước; hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; phục tùng tuyệt đối sự phân
công và điều động của Đảng.
2. Không ngừng học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ kiến thức, năng lực công
tác, phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, có lối sống lành mạnh; đấu tranh chống
chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, cục bộ, quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các biểu hiện
tiêu cực khác. Chấp hành quy định của Ban Chấp hành Trung ương về những điều
đảng viên không được làm.
3. Liên hệ chặt chẽ với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân
dân; chăm lo đời sống vật chất, tinh thần và bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhân
dân; tích cực tham gia công tác quần chúng, công tác xã hội nơi làm việc và nơi ở;
tuyên truyền vận động gia đình và nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của

Đảng, pháp luật của Nhà nước.
15
Lớp bồi dưỡng lý luận nâng cao nhận thức về Đảng Cộng Sản Việt Nam -2011
4. Tham gia xây dựng, bảo vệ đường lối, chính sách và tổ chức của Đảng; phục
tùng kỷ luật, giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng; thường xuyên tự phê bình và
phê bình, trung thực với Đảng; làm công tác phát triển đảng viên; sinh hoạt đảng và
đóng đảng phí đúng quy định.
(Đại Hội Đại biểu Toàn quốc XI ,iều lệ Đảng Cộng Sản Việt Nam, Điều 2)
Đảng viên có quyền:
1. Được thông tin và thảo luận các vấn đề về Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng,
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng; biểu quyết công việc của Đảng.
2. Ứng cử, đề cử và bầu cử cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng theo quy định của
Ban Chấp hành Trung ương.
3. Phê bình, chất vấn về hoạt động của tổ chức đảng và đảng viên ở mọi cấp trong
phạm vi tổ chức; báo cáo, kiến nghị với các cơ quan có trách nhiệm và yêu cầu được
trả lời.
4. Trình bày ý kiến khi tổ chức đảng nhận xét, quyết định công tác hoặc thi hành
kỷ luật đối với mình.
Đảng viên dự bị có các quyền trên đây, trừ quyền biểu quyết, ứng cử và bầu cử cơ
quan lãnh đạo của Đảng.
(Đại Hội Đại biểu Toàn quốc XI ,iều lệ Đảng Cộng Sản Việt Nam, Điều 3)
Câu hỏi 6: Những người như thế nào thì có thể được xét kết nạp Đảng? Vì sao
"thừa nhận và tự nguyện thực hiện Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, tiêu
chuẩn và nhiệm vụ đảng viên, hoạt động trong một tổ chức cơ sở đảng" là
điều kiện quan trọng nhất đối với người muốn vào Đảng?
Trả lời:
Điều kiện được xét để kết nạp vào Đảng:
1. Là công dân Việt Nam từ mười tám tuổi trở lên
2. Thừa nhận và tự nguyện thực hiện Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, tiêu
chuẩn và nhiệm vụ đảng viên, hoạt động trong một tổ chức cơ sở Đảng.

3. Qua thực tiễn chứng tỏ là người ưu tú, được nhân dân tín nhiệm.
Qua những điều trên” Thừa nhận và tự nguyện thực hiện Cương lĩnh chính
trị, Điều lệ Đảng, tiêu chuẩn và nhiệm vụ đảng viên, hoạt động trong một tổ chức
cơ sở Đảng” là điều kiện quan trọng nhất để được xét vào Đảng bởi vì:
Là công dân cho nên đảng viên phải sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp
luật. Nhưng khác với công dân, đảng viên còn ý thức sâu sắc được trách nhiệm chính
trị của mình là làm cách mạng, lãnh đạo và vận động nhân dân thực hiện đường lối
chính trị của Đảng. Do đó, muốn trở thành đảng viên phải thừa nhận và thực hiện
16
Lớp bồi dưỡng lý luận nâng cao nhận thức về Đảng Cộng Sản Việt Nam -2011
Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, tiêu chuẩn, nhiệm vụ và quyền của đảng viên,
hoạt động trong một tổ chức cơ sở Đảng.
Đây là đòi hỏi quan trọng nhất đối với người vào Đảng. Nội dung điều kiện này
yêu cầu người muốn được đứng trong đội ngũ của Đảng phải có quan điểm, lập
trường chính trị đúng đắn, giác ngộ mục đích, lý tưởng của Đảng, sắn sàng thực hiện
nhiệm vụ Đảng viên. Người vào Đảng phải có trình độ và sự tin cậy chính trị. Tiêu
chuẩn Đảng viên, điểm 1, Điều 1 trong Điều lệ Đảng quy định:”Đảng viên Đảng
Cộng sản Việt Nam là chiến sĩ cách mạng trong đội tiên phong của giai cấp công nhân
Việt Nam, suốt đời phấn đấu cho mục đích, lý tưởng của Đảng, đặt lợi ích của Tổ
Quốc, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên lợi ích cá nhân; chấp hành
nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, các nghĩ quyết của Đảng và pháp
luật của Nhà nước; có lao động, không bóc lột, hoàn thành nhiệm vụ được giao; có
đạo đức và lối sống lành mạnh; gắn bó mật thiết với nhân dân; phục tùng tổ chức, kỷ
luật của Đảng, giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng”
Tiêu chuẩn nói trên cũng là yêu cầu phấn đấu của những người muốn gia nhập
Đảng.
Đòi hỏi đối với người vào Đảng không chỉ thừa nhận mà còn phải tự nguyên thực
hiện. Thừa nhận mà không tự nguyện thực hiện thì chưa phải đã thừa nhận thực sự.
Hành động thực tế là thước đo nhận thức tư tưởng và ý thức phấn đấu của người vào
Đảng. Không thể coi là thừa nhận chủ nghĩa xã hội mà trong việc làm hàng ngày lại

luôn luôn chỉ nghĩ đến lợi ích cá nhận hoặc lợi ích bộ phận, cục bộ. Bởi vì bản chất
của chủ nghĩa xã hội là vì lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và
của cả dân tộc; kết hợp hài hòa lợi ích chung của đất nước và lợi ích cá nhân. Thái độ
và việc làm thực tế không góp phần củng cố, nâng cao vai trò kinh tế nhà nước; coi
nhẹ kinh tế tập thể, thờ ơ trước cuộc sống của những bà con còn nghèo đói, ít được
học hành và chăm sóc sức khỏe làm sao có thể chứng minh cho sự nhất trí đối với
con đường do Đảng vạch ra. Không thể coi là thừa nhận Điều lệ Đảng, tiêu chuẩn
đảng viên mà lười lao động hoặc không lao động (lao động chân tay hoặc lao động trí
óc) bóc lột lao động của người khác, buông thả cá nhân, không dám đấu tranh các
biểu hiện tiêu cực ở ngay trong đơn vị mình Không tự giác rèn luyện, không nghiêm
túc tham gia sinh hoạt, đặt mình trong sự quản lý giáo dục, giáo dục của đơn vị, của
đoàn thể ở cơ sở thì không đảm bảo về ý thức kỷ luật, thật sự thừa nhận hoạt động
trong một tổ chức cơ sở đảng.
Đảng không chỉ căn cứ vào những lời nói, dù đó là những lời nói mạnh mẽ, mà
còn căn cứ vòa việc làm thực tiễn hàng ngày để thấy được người xin vảo Đảng có thật
sự vì mục đích, lý tưởng của Đảng mà phân đấu hay không? Vào Đảng có tự giác
chấp nhận phục tùng tổ chức và kỷ luật của Đảng hay không ? Đây là điều kiện được
tổ chức Đảng đặc biệt quan tâm khi xem xét kết nạp người vào Đảng
17
Lớp bồi dưỡng lý luận nâng cao nhận thức về Đảng Cộng Sản Việt Nam -2011
Câu hỏi 7: Cần làm gì và phấn đấu như thế nào để trở thành đảng viên? Vì sao
vấn đề xây dựng động cơ vào đảng đúng đắn được đặt lên hàng đầu và có ý
nghĩa quyết định đối với việc phấn đấu trở thành đảng viên?
Trả lời:
Cần làm gì và phấn đấu như thế nào để trở thành Đảng Viên
1. Xây dựng động cơ vào Đảng đúng đắn
2. Rèn luyện bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức cách mạng
3. Nâng cao năng lực, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao
4. Gắn bó với tập thể, với nhân dân, tích cực tham gia hoạt động đoàn thể,
công tác xã hội

Xây dựng động cơ vào đảng đúng đắn được đặt lên hàng đầu và có ý nghĩa
quyết định đối với việc phấn đấu trở thành đảng viên bởi vì:
Đối với người phấn đấu vào Đảng, cần trả lời câu hỏi: Vào Đảng để làm gì? Vì
sao lại vào Đảng?
Có thể có những câu trả lời khác nhau, kể cả hy vọng vào Đảng để đạt được
những mong muốn riêng. Lúc sinh thời, Bác Hồ dạy: “Vì sao chúng ta vào Đảng?
Phải chăng để thăng quan, phát tài? Không phải! Chúng ta vào Đảng là để hết lòng
hết sức phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, làm tròn nhiệm vụ của người đảng viên”.
Bác còn căn dặn nếu sợ không phục vụ được nhân dân, phục vụ được cách mạng thì
đứng vào hay là khoan hãy vào Đảng. Bởi vì Đảng là tổ chức cách mạng có sứ mệnh
cao cả đoàn kết và lãnh đạo nhân dân đấu tranh cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội, chứ không phải là nơi để tìm kiếm danh vọng, địa vị, thu hái lợi lộc.
Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là niềm tin, lẽ sống, là động lực tinh thần to
lớn của mỗi chúng ta. Suốt đời Bác Hồ chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là
làm sao nước được độc lập, dân được tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc,
được học hành. Trước đây, vì mục đích lớn lao đó mà Đảng ta đã chấp nhận hy sinh
phấn đầu thì ngày nay, trong điều kiện Đảng cầm quyền, Đảng ta vẫn như vậy. Bước
vào thế kỷ XXI, tranh thủ cơ hội, vượt qua thách thức, toàn Đảng, toàn dân ta tiếp tục
vững bước tiến lên dưới ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Cuộc đấu tranh
xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa rất lâu dài, gian khổ. Thực chất
đó là cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc diễn ra dưới nhiều hình thức. Mặt trái
của kinh tế thị trường, giao lưu mở cửa, hội nhập quốc tế cùng với âm mưu thủ đoạn
“diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch đang đặt độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội ở nước ta trước những thách thức mới. Dù khó khăn, phức tạp thế nào, chúng ta
cũng không bao giờ xa rời mục tiêu, lý tưởng cách mạng của mình. Tiến lên chủ nghĩa
xã hội là quy luật tiến hóa của lịch sử, là yêu cầu khách quan của dân tộc ta. Động cơ
thôi thúc chúng ta phấn đấu vào Đảng là để đứng trong một tổ chức tự nguyện của
những người cùng chung một chí hướng đấu tranh xây dựng một xã hội mới tốt đẹp,
18
Lớp bồi dưỡng lý luận nâng cao nhận thức về Đảng Cộng Sản Việt Nam -2011

dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, vững bước đi lên chủ
nghĩa xã hội. Trước lúc từ biệt chúng ta, Bác Hồ “chỉ tiếc là không được phục vụ lâu
hơn nữa, nhiều hơn nữa”
Xây dựng động cơ phấn đấu vào Đảng đúng đắn là điều có ý nghĩa quyết định.
Đảng chỉ kết nạp những người giác ngộ về mục đích, lý tưởng cách mạng, quyết
không thu nhận vào hàng ngũ mình những người mang động cơ không đúng đắn, đã
không thể chuyển thành đảng viên chính thức, buộc phải đưa ra khỏi Đảng
Để xây dựng động cơ vào Đảng đúng đắn, cần hiểu sâu sắc bản chất, mục đích
của Đảng, bằng việc làm hàng ngày của mình góp phần thực hiện có hiệu quả mục
tiêu, nhiệm vụ do Đảng đề ra, thường xuyên trau dồi đạo đức cách mạng, đấu tranh
khắc phục mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân thực dụng, vụ lợi, xa lạ với bản chất
của người chiến sĩ cách mạng
Xây dựng động cơ vào Đảng chính là trong mỗi lời nói, việc làm đều có ý thức
chính trị rõ ràng, có lợi cho dân, cho Đảng. Ở đâu, lúc nào, làm gì cũng vì sự nghiệp
cách mạng của Đảng, của nhân dân. Thật đáng quý biết bao, ngay cả khi đất nước
đứng trước nhiều khó khăn thử thách, chúng ta vẫn thủy chung với Đảng, càng thêm
quyết tâm phấn đấu trỏ thành Đảng viên để góp phần giữ vững chủ nghĩa xã hội,
thành quả lịch sủ vĩ đại được tạo nên bởi sự hy sinh to lớn của cả dân tộc.
Xây dựng động cơ phấn đấu vào Đảng vì nhìn thấy những hành động sáng suốt
của Đảng. Trong thời điểm hiện nay mặc dù chúng ta đang sống trong hòa bình nhưng
những xung đột trong lợi ích về kinh tế, tài nguyên thiên nhiên luôn đẩy nước chúng
ta vào những tình thế hết sực khó khăn. Tuy nhiên Đảng vẫn có những chính sách
hiệu quả để phát triên và bảo vệ đất nước, có thể lấy dẫn chứng bằng bài phát biểu của
trung tướng Nguyễn Chí Vịnh- thứ trưởng Bộ Quốc Phòng:
-
Đất nước ta có vị trí địa chính trị rất nhạy cảm đối với những mối quan hệ và
can dự ấy, nên các nước lớn bao giờ cũng muốn lôi kéo mình về phía họ. Đấy
là quy luật, Tuy nhiên, khi đang đứng trong một khu vực đã, đang và sẽ tiếp
tục diễn ra xung đột (và cả thỏa hiệp) lợi ích của nhiều nước lớn cần nhớ một
quy luật: “Đỉnh cao của xung đột là thỏa hiệp. Chúng ta không được để các

nước khác thỏa hiệp trên lưng mình.”
-
Trong quan hệ với các nước, Việt Nam tôn trọng bạn bè quốc tế, mong muốn
hợp tác hữu nghị với tất cả các nước, nhưng không bao giờ quên rằng, việc
đất nước mình thì mình phải tự lo. Ngược lại, khi nghĩ tới lợi ích của đất nước
mình thì cũng đừng quên nghĩ tới lợi ích của họ. Họ có lợi ích thì lúc đó quan
hệ của mình với họ mới bền và đáng tin cậy
-
Nhưng tôi muốn nhấn mạnh điều này, có thể khó nghe: sự tôn trọng, đoàn kết,
hữu nghị ấy chỉ có và chỉ thực chất khi Việt Nam mạnh và độc lập tự chủ,
Việt Nam đủ khả năng tự bảo vệ mình. Không bao giờ có đoàn kết thực sự
khi bất bình đẳng, khi không tôn trọng nhau, muốn chi phối nhau đẩy chúng
ta bị lệ thuộc. Đây là yếu tố mang tính chất nội tại, quyết định đến việc giải
quyết các vấn đề an ninh của đất nước.
19
Lớp bồi dưỡng lý luận nâng cao nhận thức về Đảng Cộng Sản Việt Nam -2011
-
Hòa bình của chúng ta không phải là cầu hòa, Việt Nam không chấp nhận hòa
bình lệ thuộc. Khi ta đã làm tất cả những gì có thể để gìn giữ hòa bình mà
nước khác cứ muốn xâm hại lợi ích của đất nước ta thì lúc đó, thế của ta sẽ
như cánh cung kéo hết, đã buông dây cung thì đó là sức mạnh vô cùng to lớn
của cả dân tộc để bảo vệ Tổ quốc mình.
-
Chủ quyền, độc lập tự chủ trước, hòa bình sau, vì không có độc lập tự chủ,
mất chủ quyền lãnh thổ thì còn gì nữa đâu mà nói hòa bình? Quyền tự quyết
của một đất nước là điều quan trọng nhất. Bác Hồ nói rồi, “Không có gì quý
hơn độc lập, tự do”, mọi nỗ lực của Bác là có độc lập, tự do cho dân tộc. Có
mối quan hệ giữa chủ quyền và hòa bình, muốn có hòa bình phải có chủ
quyền lãnh thổ. Hai cái đó không thiếu được, tôi có một tư duy nhất quán về
chuyện này. Hòa bình vừa là động lực để bảo vệ, xây dựng Tổ quốc, vừa là

mục đích ta phải giữ. Nhưng chủ quyền phải được đặt lên hàng đầu.
-
Điều tôi lo ngại nhất là một quốc gia bị sự lệ thuộc về chính trị. Bị nước khác
chi phối về chính trị thì sẽ dẫn đến mất chủ quyền, mất độc lập tự chủ, mất
chế độ xã hội và dẫn đến mất nước. Sự lệ thuộc chính trị có thể đến từ nhiều
hướng, theo nhiều cách, trên nhiều lĩnh vực, nếu chúng ta không cảnh giác thì
sẽ bị lệ thuộc, mất luôn cả chủ quyền đất nước.
(Trích bài phỏng vấn tướng Nguyễn Chí Vịnh của báo Vnexpress-ngày
10/1/2011)
Thông qua bài phỏng vấn trên chúng ta đã có thể thấy được chiến lược cũng như
chính sách của Đảng ta trong thời kỳ mới “Độc lập nhưng không lệ thuộc”. Từ đó có
thể thấy được trong quá khứ hay hiện tại Đảng ta luôn là lá cờ đầu dẫn dắt nhân dân
Việt Nam đi lên, luôn ứng phó kịp thời với những tình hình mới của thế giới, làm cho
nhân dân ta luôn vững tin vào đường lối chính sách của Đảng.
Vì thế tôi càng tin tưởng và quyết tâm phấn đấu vào Đảng để có cơ hội phục vụ
nhân dân, phục vụ đất nước
Liên hệ bản thân, tự đánh giá về quá trinh phấn đấu đứng trong hàng ngũ của
Đảng và mục tiêu trong tương lai:
1. Điều đầu tiên và quan trọng nhất là tôi luôn cố gắng học tập thật tốt. Năm thứ
nhất tôi đã xuất sắc đứng thứ nhất khoa về kết quả học tập và vẫn đang tiếp tục cố
gắng để giữ vững thành tích, được trường trao bằng khen đối với LHS có thành tích
học tập tốt. Tôi xác định rằng học tốt để thể hiện đúng truyền thống hiếu học của nhân
dân ta. Thứ hai, học tốt để khẳng định được với bạn bè quốc tế là người Việt Nam có
năng lực, có trí tuệ, từ đó mới được mọi người tôn trọng và giúp đỡ, nói thật khó nghe
nhưng đó là sự thật khi năng lực không có thì sự tôn trọng là không có, không ai
muốn giúp chúng ta cả. Thứ ba là học tập tốt chuyên môn để sau này phục vụ đất
nước, phục vụ nhân dân, làm cho đất nước ta ngày càng giàu đẹp và phát triển.
20
Lớp bồi dưỡng lý luận nâng cao nhận thức về Đảng Cộng Sản Việt Nam -2011
2. Tích cực nghiên cứu về Đảng, bác Hồ cũng như các vị lãnh đạo khác của

Đảng. Mục đích là giúp tôi hiểu rõ hơn về các đường lối chính sách của Đảng, để một
khi đã được vào Đảng thì không bị bỡ ngỡ trước những đường lối, chính sách, nhanh
chóng hòa nhập và hoạt động một cách có hiệu quả. Ngoài ra tôi cũng nghiên cứu về
quá trình hoạt động của bác Hồ cũng như các vị lãnh đạo khác của Đảng giúp tôi có
được sự tự hào dân tộc, tự hào được dẫn dắt bởi những con người vĩ đại để từ đó đúc
rút kinh nghiệm bản thân phấn đấu và học tập noi gương theo những tấm gương đó.
3. Tích cực tuyên truyền về đường lối chính sách của Đảng cho mọi người, giới
thiệu Việt Nam tới bạn bè quốc tế. Tháng 10/2010 tôi cũng đã tham gia vào một tối
văn hóa giới thiệu các dân tộc do hội trường tổ chức để giới thiệu với bạn bè Trung
Quốc những hình ảnh về Việt Nam. Mục tiêu trong tương lai của tôi là tiếp tục tuyên
truyền thông qua việc giao tiếp với bạn bè quốc tế, Internet để thể hiện rõ Việt Nam là
một quốc gia thống nhất, độc lập, dân chủ, là một dân tộc yêu hòa bình, mến khách và
luôn đấu tranh cho lẽ phải. Thể hiện rõ Việt Nam không chỉ là một anh hùng trong
đấu tranh bảo vệ Tổ Quốc mà còn là một quốc gia có trình độ, có khả năng tự chủ
công nghệ cao để phát triển trong thời đại mới.
4. Tôi cũng cố gắng quan hệ tốt với mọi người, tích cực giúp đỡ người khác,
nhiệt tình tham gia các phong trào hoạt động của trường, lớp cũng như trong hội lưu
học sinh, tích cực học hỏi và trau dồi kiến thức cho bản thân, có khả năng phê và tự
phê.
5. Tôi cũng tích cực hoạt động thể dục thể thao như tham gia vào hội diễn văn
nghệ LHS năm 2010, bóng đá và bóng chuyền năm 2011. Mục đích là vừa để nâng
cao sức khỏe bản thân vừa sẵn sàng một khi Tổ Quốc gọi, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ
và giữ gìn độc lập Tổ Quốc dù cho kẻ thù có là ai.
6. Tôi cũng luôn cố gắng duy trì đường lối chính trị kiên định, nhất quán, không
nghe theo những lời kích động gây hại tới Đảng và Nhân dân. đặc biệt trong thời đại
thông tin bùng nổ như hiện nay việc tiếp xúc với các thông tin đa chiều, các thông tin
không tốt đối vơi Đảng là điều không thể tránh khỏi. Tuy nhiên tôi luôn tin tưởng vào
sự lãnh đạo của Đảng, của chính phủ và luôn quyết tâm thực hiện đúng những sự lãnh
đạo đó.
21

×