Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Thuốc diệt vi khuẩn Helicobacter Pylory pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (121.63 KB, 5 trang )

Thuốc diệt vi khuẩn Helicobacter
Pylory
Từ khi Marshall và Warren lần đầu tiên phân lập
trực khuẩn Helicobacter Pylory (Hp) vào năm
1982, đã có rất nhiều nghiên cứu về vai trò của nó
trong bệnh lý dạ dày. Năm 1994, Tổ chức Y tế
Thế giới dựa trên kết quả nghiên cứu dịch tễ học
đã xếp Hp vào nhóm I trong các yếu tố gây ung
thư dạ dày. Chính vì vậy, điều trị triệt để Hp luôn
là vấn đề có tính thời sự.
Hp là vi khuẩn gram (-)
nuôi cấy trong môi trường
gelose socolat hoặc gelose
máu. Dưới ống kính hiển vi
(điện tử) có dạng chữ S,
dấu phẩy hoặc hình cung
dài, một đầu có túm roi (3-
5 roi).
Người là ký chủ thường gặp nhất của Hp, sự hiện
diện của Hp ở khỉ Phesus chỉ là ngoại lệ. Ở người
chỉ tìm thấy Hp chủ yếu vùng hang vị, nó phát triển
ở niêm mạc dạ dày nhưng không bao giờ xuyên
thủng niêm mạc và cũng không bao giờ vào tận tế

Helicobacter pylori
trong niêm mạc dạ dày.

bào. Hp hiện diện ở thực quản, hành tá tràng khi có
dị sản niêm mạc dạ dày (gastricmetaplasia). Ngược
lại Hp không thể hiện diện ở vùng dạ dày có dị sản
niêm mạc ruột (Intestina metaplasi).


Hp sống được trong môi trường axit ở dạ dày vì nó
là vi khuẩn trong quá trình sinh sống đòi hỏi oxy ở
mức độ rất thấp; bên cạnh đó nó sản xuất ra nhiều
urease, urease sẽ chuyển ure thành amoniac làm cho
môi trường sinh sống của Hp trở thành kiềm. Ngoài
ra Hp còn sản xuất ra catalase, protease, ngoại độc
tố, các chất này gây bệnh cho niêm mạc dạ dày.
Các kháng sinh diệt HP
Có nhiều kháng sinh đã được nghiên cứu và sử dụng
trong điều trị Hp, tuy nhiên hiện nay, có một số
thuốc được khuyến cáo cân nhắc sử dụng cho một
liệu trình đầu tay
- Amoxicilline: thuộc nhóm beta - lacta, thuốc nhạy
với Hp. Hoạt tính của thuốc phụ thuộc pH dịch vị.
Trong nhiều nghiên cứu, amoxicilline được sử dụng
trong các phác đồ diệt Hp và cho hiệu quả cao vì hầu
như không có hiện tượng kháng thuốc. Liều sử dụng
2g/ngày x 7 - 10 ngày. Tác dụng phụ ít, có thể gặp đi
ngoài, viêm đại tràng giả mạc, buồn nôn, nôn
- Nhóm imidazole với các dẫn chất như:
metronidazol, tinidazol và ornidazole: Đây là các
kháng sinh có khả năng tập trung nhiều ở niêm mạc
dạ dày, có nồng độ cao trong chất nhày và không bị
ảnh hưởng bởi biến động của pH. Tuy nhiên vấn đề
cần quan tâm là khả năng dung nạp của người bệnh
và tỷ lệ kháng thuốc. Trong thực tế lâm sàng, sử
dụng đơn độc metronidazol thì tỷ lệ kháng thuốc cao
nhưng khi phối hợp 2 - 3 thuốc thì tỷ lệ kháng thuốc
sẽ giảm. Liều sử dụng 1g/ngày x 7 - 10 ngày. Tác
dụng phụ khi dùng ngắn ngày có thể bị buồn nôn, đi

ngoài, dị ứng; dùng dài ngày có thể bị giảm cảm
giác.
- Clarithromycin: kháng sinh thuộc nhóm Macrolid,
có phổ tác dụng rộng. Trong điều trị Hp, hiện
clarithromycin được khuyên dùng trong phác đồ ba
thuốc, vì còn nhạy cảm cao với Hp. Thuốc không bị
ảnh hưởng của pH dịch vị, dễ hấp thu hơn và tác
dụng tích cực hơn đối với Hp so với erythromycin,
có khả năng lan tỏa vào lớp nhày và thấm tốt vào
niêm mạc dạ dày. Clarithromycin có hiệu quả diệt
Hp cao, tỷ lệ kháng thuốc của vi khuẩn thấp. Liều sử
dụng 1g/ngày x 7 - 10 ngày.
Bismuth dạng keo
Bismuth là một kim loại nặng, trước thập kỷ 70 của
thế kỷ trước người ta đã sử dụng bismuth để điều trị
bệnh loét tiêu hóa có hiệu quả, song dùng liều cao
kéo dài gây ra hội chứng não bismuth và từ đó đã có
khuyến cáo không nên dùng bismuth. Từ khi phát
hiện bismuth có thêm khả năng diệt Hp theo cơ chế
gây đông vón trực tiếp protein của vi khuẩn này
người ta tái sử dụng bismuth để điều trị loét đường
tiêu hóa dưới các dạng keo hữu cơ. Các hợp chất
bismuth này có kích thước phân tử lượng lớn, hấp
thụ vào máu ít, an toàn khi sử dụng liều ngắn hạn,
phân có màu sẫm hoặc đen là bình thường.
Tác dụng: băng se niêm mạc, ngăn cản sự tác động
của dịch vị vào ổ loét theo cơ chế sau: bismuth dạng
keo hữu cơ tan ở trong nước nhưng bền ở môi
trường pH < 5, khi vào đến dạ dày sẽ tạo các vi tinh
thể bismuth oxychlorid và bismuth citrat. Những vi

tinh thể này che phủ lên vùng lõm của vết loét từ đó
ngăn cản sự tác động của ion H+ và pepsin, nhưng
không gắn vào niêm mạc bình thường xung quanh.
Đồng thời nó gắn với glycoprotein của màng nhày
tạo thành phức hợp ngăn cản sự trào ngược của ion
H+ mà không làm ảnh hưởng tới sự trao đổi ion này
ở màng nhày. Thuốc còn làm tăng bicarbonat tá
tràng, kích thích tăng sản xuất và hoạt động của
prostaglandin, tăng tiết nhày do đó làm củng cố
thêm hàng rào niêm mạc.
Đã có nhiều công trình nghiên cứu chứng minh rằng
việc sử dụng đơn độc kháng sinh sẽ thất bại trong
điều trị Hp, các khuyến cáo hiện nay cho thấy sử
dụng kết hợp hai kháng sinh cùng với bismut và
thuốc ức chế bơm proton sẽ cho hiệu quả cao trong
diệt trừ Hp. Tuy nhiên, việc phối hợp thuốc cụ thể
như thế nào, liều lượng ra sao và dùng trong thời
gian bao lâu, phụ thuộc vào tình trạng cụ thể của
bệnh nhân, bạn không nên tự ý dùng thuốc mà cần
có ý kiến của bác sĩ.

×