Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

Sự sụp đổ của hệ thống Vecxai-Oa sinh tơn và con đường dẫn đến chiến tranh ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (245.61 KB, 14 trang )

Sự sụp đổ của hệ thống Vecxai-Oa sinh tơn và con đường dẫn đến chiến
tranh thế giới II (1929-1939)

Những nét khái quát về tình hình quốc tế những năm cuối thập niên 20,
đầu thập niên 30:
Cuộc đại khủng hoảng kinh tế thế giới (1929 - 1933) bùng nổ đã chấm dứt
thời kì ổn định của chủ nghĩa tư bản cùng với ảo tưởng về một kỷ ngun hồ
bình của thế giới. Cuộc khủng hoảng bắt đầu từ nước Mĩ ngày 24 - 10 - 1929,
đã nhanh chóng tràn sang châu Âu, bao trùm toàn bộ thế giới tư bản chủ
nghĩa, để lại những hậu quả nghiêm trọng về kinh tế, chính trị, xã h ội. Hàng
trăm triệu người (cơng nhân, nơng dân và gia đình của họ) bị rơi vào vũng lầy
đói khổ. Hàng ngàn cuộc biểu tình lơi cuốn trên 17 triệu công nhân ở các
nước tư bản tham gia trong những năm 1929 - 1933. ở các nước thuộc địa và
phụ thuộc, cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc cũng bùng lên mạnh mẽ.
Những mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản trở nên cực kì gay gắt. Trong bối
cảnh đó đã hình thành những xu hướng khác biệt nhau trong việc tìm kiếm
con đường phát triển giữa các nước tư bản chủ nghĩa. Các nước khơng có
hoặc có ít thuộc địa gặp nhiều khó khăn về vốn, nguyên liệu và thị trường đã
đi theo con đường phát xít hố chế độ chính trị, thiết lập nền chun chính
khủng bố cơng khai nhằm cứu vãn tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng của
mình. Các nước Italia, Đức, Nhật Bản là điển hình cho xu hướng này. Trong
những năm 1929 - 1936, giới cầm quyền các nước nói trên đã từng bước phá
vỡ những điều khoản chính yếu của hệ thống Vécxai - Oasinhtơn và tích cực
chuẩn bị cuộc chiến tranh để phân chia lại thế giới. Trong khi đó các nước
Mỹ, Anh, Pháp... đã tìm cách thốt ra khỏi khủng hoảng bằng những cải cách
kinh tế - xã hội , duy trì nền dân chủ tư sản đại nghị, đồng thời chủ trương
duy trì nguyên trạng hệ thống Vécxai - Oasinhtơn. Quan hệ giữa các cường
quốc tư bản trong thập niên 30 chuyển biến ngày càng phức tạp. Sự hình
thành hai khối đối lập - một bên là Đức, Italia, Nhật Bản với một bên là Mĩ,
Anh, Pháp và cuộc chạy đua vũ trang giữa hai khối đã phá vỡ hệ thống thoả
hiệp tạm thời Vecxai - Oasinhtơn dẫn tớ i sự hình thành các lị lửa chiến



Sưu t m b i: www.daihoc.com.vn


tranh, báo hiệu một cuộc chiến tranh thế giới mới.
1.Sự hình thành ba lị lửa chiến tranh thế giới .
a) Lị lửa chiến tranh ở Viễn Đơng
Nhật Bản là nước đầu tiên có tham vọng phá vỡ hệ thống Vecxai - Oasinhtơn
bằng sức mạnh quân sự. Từ năm 1927 Thủ tướng Nhật Tanaca đã vạch một
kế hoạch chiến tranh toàn cầu đệ trình lên Thiên hồng dưới hình thức bản
“tấu thỉnh”', trong đó khẳng định phải dùng chiến tranh để xố bỏ những “bất
cơng mà Nhật phải chấp nhận” trong các Hiệp ước Oasinhtơn (1921 - 1922)
và đề ra kế hoạch cụ thể xâm lược Trung Quốc, từ đó mở rộng xâm lược toàn
thế giới. Sau hai lần thất bại trong việc xâm lược vùng Sơn Đông (Trung
Quốc), ngày 18 - 9 - 1931 Nhật Bản tạo ra “Sự kiện đường sắt Nam Mãn
Châu” để lấy cớ đánh chiếm vùng Đông Bắc Trung Quốc, nơi tập trung 77%
tổng số vốn của Nhật ở Trung Quốc. Đây là bước đầu tiên trong kế hoạch
xâm lược đại qui mô của Nhật. Sau khi chiếm vùng này, quân Nhật dựng lên
cái gọi là “Nhà nước Mãn Châu độc lập” với chính phủ bù nhìn do Phổ Nghi
đứng đầu, biến vùng Đơng Bắc Trung Quốc thành thuộc địa và bàn đạp cho
những cuộc phiêu l ưu quân sự mới.
Việc Nhật Bản xâm lược Đông Bắc Trung Quốc đã động chạm đến quyền lợi
của các nước tư bản phương Tây, nhất là Mĩ. Tuy nhiên Mĩ cũng như Anh,
Pháp đã nhân nhượng, dung túng cho hành động xâm lược của Nhật với tính
tốn rằng Nhật sẽ tiêu diệt phong trào cách mạng ở Trung Quốc và tiến hành
chiến tranh xâm lược Liên Xơ. Điều đó đã làm cho Nhật bỏ qua mọi phản đối
của phái đồn điều tra Líttơn (Lytton) do Hội Quốc liên cử đến Trung Quốc.
Ngày 24 - 2 - 1933 Hội Quốc liên đã thông qua Báo cáo công nhận chủ quy
ền của Trung Quốc ở Mãn Châu, không công nhận “nước Mãn Châu” do Bộ
tham mưu Nhật dựng lên nhưng mặt khác lại đề nghị duy trì “những quyền

lợi đặc biệt của Nhật” ở Trung Quốc. Như vậy, Hội Quốc liên đã không công
khai tuyên bố “hành động của Nhật là xâm lược và không quyết định một

Sưu t m b i: www.daihoc.com.vn


hình phạt nào đối với Nhật. Trước sức mạnh quân sự, Hội Quốc liên đã sử
dụng sức mạnh tinh thần. Phương pháp đó khơng đem lại kết quả nào”(1).
Nhật Bản tiếp tục mở rộng xâm lược Trung Quốc, chiếm đóng hai tỉnh Nhiệt
Hà và Hà Bắc. Để có thể tự do hành động, ngày 24 - 3 - 1933 Nhật Bản tuyên
bố rút khỏi Hội Quốc liên. Hành động của Nhật đã phá tan nguyên trạng ở
Đông á do Hiệp ước Oasinhtơn năm 1922 qui định, đánh dấu sự tan vỡ bước
đầu của Hệ thống Vecxai - Oasinhtơn. Không dừng lại ở đó, năm 1937 Nhật
bắt đầu mở rộng chiến tranh trên tồn lãnh thổ Trung Quốc.
b) Sự hình thành lò lửa chiến tranh nguy hiểm nhất ở châu Âu
Trong lúc đó, lị lửa chiến tranh thế giới nguy hiểm nhất đã xuất hiện ở châu
Âu với việc Hitle lên cầm quyền ở Đức tháng 1 - 1933. Có thể nói, lực lượng
qn phiệt Đức đã ni chí phục thù ngay từ sau khi nước Đức bại trận và
phải chấp nhận hoà ước Vécxai. Bước vào thập niên 30, sự sụp đổ của chính
phủ Muylơ (Muler) - chính phủ cuối cùng của nền Cộng hoà Vaima
(Weimar) - và việc Bơruyninh (Bruning) lên nắm chính quyền đầu năm 1930
đánh dấu một thời kì chuyển biến mới trong chính sách đối nội cũng như đối
ngoại của Đức. Xu hướng thành lập một chính quyền ''mạnh'', một nền
chuyên chính dân tộc chủ nghĩa cực đoan đã trở thành nhu cầu cấp thiết của
giới quân phiệt ở Đức. Đảng Quốc xã được coi là lực lượng thực tế có thể
đáp ứng được nhu cầu đó và Hítle được coi là “người hùng” có thể ngăn chặn
được “tình trạng hỗn loạn và chủ nghĩa bơnsêvích”. Ngày 30-1-1933 Tổng
thống Hinđenbua (Hindenburg) đã cử Hitle, lãnh tụ của Đảng Quốc xã làm
Thủ tướng, mở đầu một thời kỳ đen tối trong lịch sử nước Đức.
Việc Hitle lên cầm quyền không chỉ là một sự kiện thuần tuý của nước Đức,

mà còn “đánh dấu một bước ngoặt quyết định trong lịch sử quan hệ quốc tế”.
Bởi lẽ, “đối mặt với Hítle, chủ nghĩa “xoa dịu” của Anh, sự trì trệ của Pháp
và chủ nghĩa trung lập của Mỹ là những hiện tượng tiêu biểu nhất của thời kỳ
tiếp theo”(1). Từ đây Hítle thực hiện dần từng bước việc thanh toán hệ thống
Véc-xai và chuẩn bị chiến tranh thế giới mới nhằm thiết lập quyền thống trị

Sưu t m b i: www.daihoc.com.vn


thế giới.
Bước đầu tiên trong kế hoạch của Hítle là chinh phục châu Âu, trong đó chủ
yếu là chiếm đoạt các vùng lãnh thổ ở phía đơng châu Âu, trước hết là Nga
và các vùng phụ cận Nga. Tuy nhiên, Hítle cũng khơng loại trừ một cuộc
chiến tranh với phương Tây để xâm chiếm lãnh thổ phía tây mà trong đó
nước Pháp được coi là “kẻ thù truyền thống”. Hítle còn đề ra kế hoạch Âu - á
(Eurasia) và Âu - Phi (Eurafrica) nhằm xâm chiếm lãnh thổ của các nước
châu Phi, châu á và châu Mĩ. Việc làm đầu tiên của Hítle sau khi lên nắm
quyền là tái vũ trang nước Đức và thoát khỏi những ràng buộc quốc tế để
chuẩn bị cho những hành động xâm lược. Tháng 10 - 1933 Chính phủ Đức
quốc xã đã rời bỏ Hội nghị giải trừ quân bị ở Giơnevơ và sau đó tuyên bố rút
khỏi Hội Quốc liên. Ngày 16 - 3 - 1935, Hítle cơng khai vi phạm Hồ ước
Véc-xai, cơng bố đạo luật cưỡng bức tịng qn, thành lập 36 sư đồn (trong
lúc đó Pháp chỉ có 30 sư đoàn). Ba tháng sau, ngày 18 - 6 - 1935 Đức kí với
Anh Hiệp định về hải qu ân, theo đó Đức được phép xây dựng hạm đội tàu
nổi bằng 35% và Hạm đội tàu ngầm bằng 45% sức mạnh hải quân của Anh.
Hiệp định này trực tiếp vi phạm Hiệp ước Vec-xai và tăng cường sức mạnh
quân sự của nước Đức. Đồng thời, Hitle tìm cách bí mật thủ tiêu các chính
khách phương Tây cản trở kế hoạch xâm lược của mình, như Thủ tướng
Rumani Đuca, Ngoại trưởng Pháp Bác tu, nhà vua Nam Tư Alếchxanđrơ và
thủ tướng áo Đơnphút. Khơng dừng lại ở đó, ngày 7 - 3 - 1936 Hitle ra lệnh

tái chiếm vùng Rênani, công khai xé bỏ Hồ ước Vecxai, Hiệp ước Lơcácnơ
và tiến sát biên giới nước Pháp. Lò lửa chiến tranh nguy hiểm nhất đã xuất
hiện ở châu Âu.
c) Lò lửa chiến tranh thứ hai ở châu Âu
Mặc dù là nước thắng trận nhưng Italia không thoả mãn với việc phân chia
thế giới theo Hoà ước Vecxai. Tham vọng của nước này là muốn mở rộng
ảnh hưởng ở vùng Ban căng, chiếm đoạt các thuộc địa ở châu Phi, làm chủ
vùng biển Địa Trung Hải... Để thoát ra khỏi cuộc đại khủng hoảng kinh tế

Sưu t m b i: www.daihoc.com.vn


1929-1933 và xem xét lại Hệ thống Vecxai - Oasinhtơn có lợi cho mình, giới
cầm quyền phát xít ở Italia chủ trương quân sự hoá nền kinh tế, tăng cường
chạy đua vũ trang và thực hiện chính sách bành trướng xâm lược ra bên n
goài. Thất bại trong việc ký kết Hiệp ước tay tư (Italia - Anh - Đức - Pháp)
nhằm xem xét lại đường biên giới đã qui định ở châu Âu trong khn khổ Hệ
thống hồ ước Vecxai tháng 6 - 1933, từ năm 1934 Mutxôlini ráo riết chuẩn
bị kế hoạch xâm lược, thi hành đạo luật quân sự hoá đất nước. Lúc này quan
hệ giữa Italia với Đức còn căng thẳng do mâu thuẫn về quyền lợi ở vùng Ban
căng. Khi Đức đưa ra đạo luật cưỡng bách tịng qn (3 - 1935), Italia đã kí
kết với Anh, Pháp Hiệp ước Xt rêxa (Stresa) tháng 4 - 1935 nhằm thiết lập
liên minh chống Đức. Nhưng liên minh này đã nhanh chóng tan vỡ bằng việc
Anh kí với Đức một hiệp ước riêng rẽ về hạn chế lực lượng hải quân (6 1935) và sự kiện Italia chính thức xâm lược Êtiơpia ngày 3 - 10 - 1935. Bốn
ngày sau sự kiện này, ngày 7 - 10 - 1935 Hội Quốc Liên ra tuyên bố lên án
Italia và thông qua nghị quyết trừng phạt bằng những biện pháp kinh tế - tài
chính. Tuy nhiên, “lệnh trừng phạt chỉ làm Italia bực mình chứ khơng thực sự
ngăn cản họ tiếp tục các chiến dịch”(1). Nh ững sự kiện trên đây đã khiến
Mútxôlini rời bỏ liên minh Anh, Pháp, xích lại gần hơn với nước Đức phát
xít. Trong khi đó, sự bất lực của Hội Quốc liên cùng với thái độ và hành động

thoả hiệp của các nước Anh, Pháp, Mỹ đã khuyến khích hành động xâm lược
của phát xít Italia. Sau khi chiếm được Êtiơpia, Italia đã ký với Đức Nghị
định thư tháng 10 - 1936, đánh dấu sự hình thành trục Beclin - Rơma. Bắt đầu
từ đây, Đức và Italia tìm cách phối hợp và củng cố liên minh trong cuộc đối
đầu với Liên Xô cũng như các đối thủ khác ở châu Âu. Cả hai nước đều đưa
quân đội can thiệp trực tiếp và công nhận chính quyền phát xí t Phrancơ trong
cuộc nội chiến ở Tây Ban Nha (1936 - 1939).
Hai lò lửa chiến tranh hình thành ở châu Âu bắt đầu có mối liên hệ với lị lửa
chiến tranh ở Viễn Đơng. Ngày 25 - 11 - 1936, Đức và Nhật đã kí kết Hiệp
ước chống Quốc tế cộng sản với những cam kết phối hợp các hoạt động chính
trị đối ngoại và các biện pháp cần thiết để chống Liên Xô và Quốc tế cộng
sản, đồng thời còn nhằm chống cả Anh, Pháp và Mĩ. Italia tham gia Hiệp ước

Sưu t m b i: www.daihoc.com.vn


này ngày 6 - 11 - 1937. Sự kiện đó đánh dấu Trục phát xít Béclin - Rơma Tơkiơ chính thức hình thành. Việc Italia rút ra khỏi Hội Quố c Liên ngày 3 12 - 1937 đã hoàn tất quá trình chuẩn bị để các nước khối Trục được tự do
hành động, thực hiện kế hoạch gây chiến tranh bành trướng lãnh thổ của
mình.
2.Con đường dẫn tới chiến tranh thế giới thứ hai .
Vào cuối những năm 30 quan hệ quốc tế trở nên vô cùng phức tạp và căng
thẳng. Sự chuyển hoá mâu thuẫn giữa các cường quốc tư bản chủ nghĩa đã
dẫn tới sự hình thành hai khối đế quốc đối địch nhau: một là, khối Trục phát
xít do Đức, Italia, Nhật Bản cầm đầu ; hai là, khối đế quốc do Anh, Pháp, Mĩ
cầm đầu. Trong khi khối Trục phát xít đã ráo riết chuẩn bị cho kế hoạch chiến
tranh từ đầu những năm 30 thì khối đế quốc Anh, Pháp, Mĩ bắt đầu quá trình
này vào những năm cuối của thập ni ên 30. Hai khối đế quốc mâu thuẫn gay
gắt với nhau về vấn đề thị trường và quyền lợi nhưng đều thống nhất với
nhau trong mục đích chống Liên Xơ, tiêu diệt Nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu
tiên trên thế giới. Điều đó được thể hiện trong chính sách thoả hiệp, dung

túng của các cường quốc tư bản với chủ nghĩa phát xít nhằm chống Liên Xơ
và đè bẹp phong trào cách mạng thế giới. Như vậy trong quan hệ quốc tế đã
diễn ra cuộc đấu tranh ngày càng căng thẳng và chằng chéo giữa ba lực
lượng: Liên Xô, Khối Trục phá t xít và Khối đế quốc Anh, Pháp, Mĩ. Các
cuộc chiến tranh cục bộ đã lan tràn khắp từ Âu sang á, từ Thượng Hải đến
Gibranta. Chiến tranh thế giới ngày càng trở nên khó tránh khỏi.
a) Cuộc chiến tranh Tây Ban Nha
Cuộc chiến tranh Tây Ban Nha, bùng nổ ngày 17 - 7 - 1936, về hình thức là
cuộc nội chiến giữa Chính phủ cộng hồ Tây Ban Nha với lực lượng phát xít
Phrancơ, nhưng về thực chất là một cuộc khủng hoảng mang tính quốc tế.
Vấn đề khơng chỉ giới hạn trong nội bộ nền chính trị Tây Ban Nha. Đức và
Italia đã trực tiếp can thiệp, đứng về phía phát xít Phrancơ chống lại Chính

Sưu t m b i: www.daihoc.com.vn


phủ Cộng hoà với mưu đồ biến Tây Ban Nha thành một bàn đạp chiến lược
cho kế hoạch bành trướng của mình ở châu Âu, châu Phi, châu á và Đại Tây
Dương. Trong bối cảnh đó, các chính phủ Anh, Pháp đã thi hành chính sách
“khơng can thiệp” tun bố cấm xuất khẩu vũ khí và vật liệu chiến tranh sang
Tây Ban Nha. Ngày 9 - 9 - 1936, “Uỷ ban về vấn đề không can thiệp” được
thành lập. Mĩ khơng chính thức tham gia vào Uỷ ban này nhưng trên thực tế
cũng duy trì lệnh cấm vận vũ khí đối với Tây Ban Nha. Trong khi không áp
dụng một biện pháp cần thiết nào để ngăn chặn sự can thiệp trực tiếp của Đức
và Italia ở Tây Ban Nha, chính sác h “khơng can thiệp” của Anh, Pháp, Mĩ về
thực chất là hành động thoả hiệp với các lực lượng phát xít chống nước Cộng
hồ Tây Ban Nha. Hơn nữa, các công ti độc quyền của Anh, Pháp, Mĩ vẫn
tiếp tục có quan hệ thương mại và tài chính với lực lượng phát xít Phrancơ.
Cuối cùng, các chính phủ Anh, Pháp đã công khai ủng hộ quân phiến loạn
Phrancô, lực lượng đã chiếm ưu thế rõ rệt ở Tây Ban Nha vào năm 1939.

Ngày 10 - 2 - 1939, hải quân Anh đã hỗ trợ cho lực lượng phiến loạn chiếm
đảo Minôca (Minorca) nằm trong quần đảo Balêric (Balearic). Ngay sau đó,
chính phủ Pháp đã gửi tối hậu thư cho Chính phủ Cộng hồ Tây Ban Nha với
u cầu giao nộp Mađrít và các vùng lãnh thổ khác cho lực lượng Phrancô.
Ngày 27 - 2 - 1939, Anh và Pháp đồng thời cắt đứt quan hệ ngoại giao với
Chính phủ cộng hồ Tây Ban Nha và tun bố cơng nhận chính quyền
Phrancơ. Liên Xơ là nước đứng về phía nước Cộng hoà Tây Ban Nha trong
cuộc đấu tranh chống phát xít. Mặc dù lúc đầu Liên Xơ đã tham gia Uỷ ban
về các vấn đề không can thiệp, nhưng sự can thiệp quân sự của Đức và Italia
đã khiến Liên Xô phải hành động. Cả đất nước Xô viết tham gia phong trào
ủng hộ nước Cộng hoà Tây Ban Nha: số tiền quyên góp đã lên tới 47 triệu
rúp. Đồng thời, Liên Xơ cịn tham gia trong lực lượng tình nguyện quốc tế
chiến đấu bảo vệ nước Cộng hồ đến từ 53 nước trên thế giới. Tuy vậy, do so
s ánh lực lượng quá chênh lệch, cuộc chiến tranh Tây Ban Nha kết thúc với
thất bại của Chính phủ Cộng hoà. Ngày 28 - 3 - 1939, lực lượng Phrancô với
sự hỗ trợ của quân đội Italia đã chiếm thủ đơ Mađrít. Sự sụp đổ của nền Cộng
hồ Tây Ban Nha cho thấy mối đe doạ đối với nền hồ bình ở châu Âu ngày

Sưu t m b i: www.daihoc.com.vn


càng trở nên trầm trọng hơn.
b) Hội nghị Muyních (9 - 1938)
Đến năm 1938 nước Đức phát xít về căn bản đã hoàn tất việc chuẩn bị chiến
tranh. Lúc này nước Đức không chỉ phục hồi mà đã trở thành một cường
quốc công nghiệp đứng đầu châu Âu, đồng thời còn là một cường quốc quân
sự. Tháng 3-1938, Đức tiến hành thơn tính áo và thơng qua đạo luật sáp nhập
áo vào Đức, vi phạm trắng trợn Hệ thống Hoà ước Vecxai. Hành động ngang
ngược của Hitle đã không gặp phải trở ngại nào đáng kể từ phía các cường
quốc tư bản phương Tây. Chính phủ Anh chỉ thị kh ông được khuyến khích

áo kháng cự, trong khi Pháp chỉ có những phản ứng yếu ớt. Sau khi chiếm áo,
Đức chuẩn bị thơn tính Tiệp Khắc, một vị trí đặc biệt quan trọng trong kế
hoạch giành quyền thống trị lục địa châu Âu. Để thơn tính Tiệp Khắc, Hitle
đưa ra “vấn đề người Đức ở vùng Xuyđét” (Sudete) - vùng đất ở Tây Bắc
Tiệp Khắc, có khoảng 3,2 triệu người Đức cư trú. Sau những diễn biến phức
tạp và căng thẳng, Hitle đưa ra yêu sách về việc cắt vùng Xuyđét ra khỏi Tiệp
Khắc và khẳng định đây là yêu sách cuối cùng về lãnh thổ của y ở châu Âu.
Tiếp tục chính sách thoả hiệp, các cường quốc tư bản phương Tây đã gây áp
lực thúc ép Tiệp Khắc chấp nhận những yêu sách của Hítle. Điều này đã gây
nên một làn sóng phản đối trong dư luận quốc tế, kể cả ở anh, Pháp, Tiệp
Khắc và Liên Xô. Liên Xô đã nhiều lần khẳng định sẵn sàng giúp đỡ Tiệp
Khắc và đưa ra những biện pháp cụ thể trong Hội nghị liên tịch giữa Bộ tổng
tham mưu Liên Xô, Pháp và Tiệp Khắc. Đồng thời, Liên Xô đã tập trung
quân ở biên giới phía Tây và đặt quân đội trong tình trạng sẵn sàng chiến đấu.
Liên Xơ cũng đề nghị Hội Quốc Liên th ảo luận những biện pháp để bảo vệ
Tiệp Khắc, nhưng tất cả những đề nghị đó đều bị các chính phủ Anh, Pháp
gạt bỏ.
Ngày 29 - 9 - 1938, những người đứng đầu các chính phủ Anh, Pháp, Đức và
Italia đã tham dự Hội nghị Muyních (Đức) để quyết định số phận của Tiệp
Khắc. Đại biểu Tiệp Khắc không được mời tham dự, chỉ được triệu tập đến

Sưu t m b i: www.daihoc.com.vn


để nghe kết quả. Hiệp ước Muyních qui định Tiệp Khắc phải cắt tồn bộ
vùng Xuyđét (trong vịng 10 ngày) cho Đức và phải cắt cho Ba Lan,
Hunggari những vùng lãnh thổ đã được xác định trước đó (trong thời hạn 3
tháng). Trước áp lực của Anh và Pháp, chính phủ Tiệp Khắc chấp nhận Hiệp
ước Mu yních, theo đó, Tiệp Khắc mất đi khoảng 1/4 dân số, 1/5 lãnh thổ với
nhiều cơng trình qn sự quan trọng. Để đổi lại, Hítle đã kí với Anh bản

Tun bố khơng xâm lược lẫn nhau giữa Đức và Anh. Sau đó, ngày 6 - 12 1938, Hiệp định không xâm lược Pháp - Đức cũng được kí kết tại Pari. Hiệp
ước Muyních là đỉnh cao nhất của chính sách thoả hiệp mà các cường quốc tư
bản phương Tây thi hành trong nhiều năm nhằm tránh một cuộc chiến tranh
với nước Đức phát xít và chĩa mũi nhọn chiến tranh về phía Liên Xơ. “C hính
sách Muyních” đã dẫn đến những hậu quả rất nặng nề đối với chính bản thân
hai nước Anh và Pháp. Sự thoả hiệp đầu hàng của các nước này chỉ càng làm
cho nước Đức phát xít đi xa hơn nữa trong chính sách mở rộng chiến tranh.
Ngày 15 - 3 - 1939, Hítle cơng khai xé bỏ Hiệp ước Muyních chiếm đóng
tồn bộ lãnh thổ Tiệp Khắc. Sau đó một tuần, ngày 21 - 3 Hítle đưa ra yêu
sách đòi Ba Lan phải trao thành phố cảng Đăng dích cho Đức. Một ngày sau
quân đội Đức tràn vào chiếm vùng lãnh thổ Mêmen của Litva. Đồ ng thời, kế
hoạch xâm lược Ba Lan cũng được chuẩn bị ráo riết.
Trong lúc này phát xít Italia cũng tăng cường hành động. Tháng 4 - 1939
Mutxôlini cho quân xâm lược Anbani. Liên minh phát xít Đức - Italia được
mở rộng tới mức tối đa với việc kí kết hiệp ước mới Đức - Italia (thường
được gọi là Hiệp ước Thép) theo đó nếu một bên có chiến tranh với một nước
hoặc một nhóm nước khác thì bên kia sẽ tiến hành giúp đỡ ngay lập tức bằng
các lực lượng hải, lục và không quân. Nguy cơ bùng nổ chiến tranh thế giới
chỉ còn là gang tấc, tuy nhiên các cường quốc phương Tây vẫn tìm mọi cách
để hướng cuộc chiến tranh về phía Liên Xơ.
3.Quan hệ quốc tế của Liên Xơ trong thập niên 30

Sưu t m b i: www.daihoc.com.vn


Bước vào thập niên 30 Liên Xô tiếp tục cuộc đấu tranh trong quan hệ quốc tế
nhằm củng cố vị trí quốc tế của mình, đồng thời kiên trì lập trường thiết lập
nền an ninh tập thể ở châu Âu và bảo vệ hồ bình thế giới.
a) Cuộc đấu tranh củng cố vị trí quốc tế và nền an ninh tập thể
Trong những năm 1929-1932, một chiến dịch chống Liên Xô được phát động

trong các nước tư bản phương Tây. Âm mưu đánh bom cơ quan Tổng đại
diện Liên Xô tại Vácxava (1930), chiến dịch chống Liên Xô ở Phần Lan
(1931) kế hoạch mưu sát Đại sứ Nhật Bản tại Mátxcơva (1931), việc tên bạch
vệ Goócnulốp mưu sát Tổng thống Pháp Pơn Đume (1932)... Tất cả những vụ
khiêu khích đó nhằm tạo ra quan hệ quốc tế căng thẳng dẫn tới việc các nước
cắt đứt quan hệ ngoại giao với Liên Xơ. Tháng 2 - 1930 , Giáo hồng Pie XI
đã kêu gọi tổ chức một cuộc “thập tự chinh” chống chủ nghĩa cộng sản, tập
hợp các tín đồ trên thế giới “hành động tập thể” chống Liên Xô. Đồng thời
các nước tư bản phương Tây khởi xướng việc bao vây kinh tế chống Liên Xô.
Đặc biệt là dự án thành lập Liên bang châu Âu do ngoại trưởng Pháp Briăng
(Briand) đề xướng (5 - 1930) mang tính bài Xơ rõ rệt. Dự án đề xuất việc
thành lập một Liên minh châu Âu bao gồm đại diện của tất cả các quốc gia
châu Âu thành viên của Hội Quốc liên, loại trừ Liên Xô - quốc gia lớn nhất ở
châu Âu. Bằng chính sách ngoại giao kiên quyết và khéo léo, Liên Xơ đã kiên
trì đấu tranh để vượt qua được tình trạng căng thẳng và phức tạp trong quan
hệ quốc tế. Thời gian này, Liên Xô thực hiện thắng lợi kế hoạch 5 năm lần
thứ nhất (1928 - 1933) với những thành tựu quan trọng, tăng cường sức mạnh
kinh tế và quốc phòng của đất nước. Đồng thời, các âm mưu thù địch chống
Liên Xô đều bị phá vỡ. Liên Xơ đã kí kết những hiệp ước khơng xâm lược
với phần đông các nước láng giềng và một số nước tư bản châu Âu: Phần L
an, Latvia, Extônia, Ba Lan (1932), Italia (1933) ; đồng thời đạt được thoả
thuận gia hạn các Hiệp ước khơng xâm lược đã kí với Thổ Nhĩ Kì, Đức, Iran,
Lítva, Apganixtan. Tham gia vào Hội nghị giải trừ quân bị ở Giênôvơ khai
mạc ngày 2 - 2 - 1932 (với sự có mặt của đại diện 63 quốc gia), Liên Xô đã
đưa ra một chương trình giải trừ quân bị và nêu rõ quan điểm của mình về

Sưu t m b i: www.daihoc.com.vn


định nghĩa khái niệm xâm lược trong quan hệ quốc tế. Hội nghị Giênôvơ

không đi đến một kết quả đáng kể nào do mâu thuẫn giữa các cường q uốc tư
bản phương Tây, đồng thời những đề nghị của Liên Xô cũng không được
thông qua. Tuy vậy, năm 1933, Liên Xơ đã tiến hành đàm phán và kí kết ba
cơng ước về xác định khái niệm xâm lược với các nước Extơnia, Látvia, Ba
Lan, Rumani, Thổ Nhĩ Kì, Iran, Apganixtan, Rumani, Tiệp Khắc, Nam Tư và
Lítva.
Tháng 9 - 1934 Liên Xô tham gia Hội Quốc Liên và trở thành Uỷ viên
thường trực Hội đồng Hội Quốc Liên. Điều đó cho thấy vị thế ngày càng
được khẳng định của Liên Xô trong các vấn đề quốc tế. Tuy nhiên khi gia
nhập tổ chức này Liên Xô nêu rõ quan điểm của mình trong việc khơng đồng
ý với những quyết định trước đây cũng như một số điều khoản vi phạm chủ
quyền các dân tộc của Hội Quốc Liên. Đồng thời Liên Xơ đã tranh thủ điều
kiện để đấu tranh cho hồ bình và nền an ninh tồn thể, ngăn ngừa nguy cơ
chi ến tranh thế giới. Tháng 5 - 1935, Hiệp ước tương trợ song phương Xô Pháp và Xô-Tiệp đã được kí kết, thể hiện những cố gắng quan trọng của Liên
Xơ trong việc xây nền an ninh tồn thể ở châu âu. ở khu vực châu á, Hiệp
ước tương trợ lẫn nhau với Mông cổ (1936) và Hiệp ước không xâm lược với
Trung Quốc (1937) cũng được Liên Xô kí kết nhằm tạo dựng mối quan hệ
cùng tồn tại hồ bình giữa các quốc gia, đảm bảo an ninh cho vùng Viễn
Đông. Khi Nhật mở rộng chiến tranh ra tồn lãnh thổ Trung Quốc (1937),
Liên Xơ đứng về phía Đảng cộng sản và nhân dân Trung Quốc, giúp đỡ về
tinh thần và vật chất cho Trung Quốc trong cuộc kháng chiến chống Nhật
(cho Trung Quốc vay 100 triệu USD năm 1938, 150 triệu USD năm 1939,
nhiều phi công Liên Xơ tình nguyện tham gia chiến đấu chống Nhật ở Trung
Quốc). Trong thập niên 30, Liên Xô cũng giành được thắng lợi trong việc
bình thường hố quan hệ Xơ - Mĩ. Gần một thập kỉ sau khi bình thường hố
quan hệ với hầu hết các nước tư bản chủ yếu, tháng 11 - 1933 Liên Xô đã đạt
được thoả thuận về việc bình thường hố quan hệ với Mĩ. Mặc dù quan hệ Xơ
- Mĩ cịn gặp nhiều trở ngại, nhưng việc bình thường hố quan hệ với Mĩ
đánh dấu một thắng lợi lớn của nền ngoại giao Xô viết. Từ chỗ là một đế


Sưu t m b i: www.daihoc.com.vn


quốc tích cực và ngoan cố trong liên minh chống phá nước Nga Xô viết, cuối
cù ng Mĩ đã phải thoả thuận và thiết lập quan hệ ngoại giao với Liên Xô.
b) Hiệp ước Xô - Đức không xâm lược nhau
Sau khi Hítle xé bỏ hiệp ước Muyních, thơn tính tồn bộ Tiệp Khắc, Liên Xơ
đã đề nghị triệu tập một hội nghị để bàn về vấn đề bảo vệ an ninh châu Âu,
ngăn chặn chiến tranh xâm lược của chủ nghĩa phát xít. Trước áp lực mạnh
mẽ của dư luận trong và ngồi nước, chính phủ Anh, Pháp đã bắt đầu các
cuộc đàm phán với Liên Xô từ giữa tháng 4 -1939 tại Matxcơva. Do thái độ
thiếu thiện chí và chủ trương "bắt cá hai tay'' của Anh, Pháp, cuộc đàm phán
khơng đạt được kết quả và hồn tồn bế t ắc. Trong khi đó, từ tháng 6 - 1939,
cuộc đàm phán bí mật Anh - Đức đã được tiến hành ở Luân Đôn để thảo luận
về việc hợp tác Anh - Đức chống Liên Xô, Trung Quốc và phân chia khu vực
ảnh hưởng ở đây.
Lúc này ở Viễn Đông, sau khi gây ra cuộc xung đột quân sự chống Liên Xô ở
khu vực hồ Khaxan bị thất bại, ngày 12 - 5 - 1939 phát xít Nhật mở cuộc tấn
công vào khu vực sông Khankhin - Gôn (Khalkhin-Gol) thuộc địa phận
Mông Cổ, nhằm uy hiếp con đường huyết mạch của Liên Xô ở Viễn Đông và
chuẩn bị cho việc mở rộng cuộc chiến chống Liên Xô sau này. Mặc dù kế
hoạch của Nhật ở Khankhin - Gôn thất bại nhưng toàn bộ những sự kiện diễn
ra ở Viễn Đông làm cho giới cầm quyền Anh và Pháp vẫn hy vọng về một
cuộc chiến tranh chống Liên xô từ phía Nhật. Chính trong lúc này Đại sứ Anh
ở Tơkiơ Craigi (Craigie) đã kí với Ngoại trưởng Nhật Arita một hiệp ước (7 1939), theo đó Anh thừa nhận cuộc chiến tranh của Nhật ở Trung Quốc và
tuyên bố không can thiệp vào cơng việc của Nhật ở đây.
Tình hình phức tạp nói trên ở cả phương Tây và phương Đơng khiến cho mọi
cố gắng kiên trì của Liên Xơ nhằm đạt tới một thoả thuận với Anh và Pháp
trong cuộc đấu tranh chống sự xâm lược của chủ nghĩa phát xít đều thất bại.
Trong bối cảnh đó, Liên Xơ buộc phải có những giải pháp kiên quyết để tự

bảo vệ nền an ninh quốc gia. Ngay từ tháng 5 - 1939 với ý đồ kéo dài thời

Sưu t m b i: www.daihoc.com.vn


gian để xâm lược châu Âu trước, Chính quyền Đức đã thăm dị Liên Xơ về
khả năng kí kết một hiệp ước không xâm lược nhau Xô - Đức. Lúc đầ u Liên
Xơ đã bác bỏ đề nghị đó, nhưng sự tan vỡ không thể cứu vãn nổi của cuộc
đàm phán Xô - Anh - Pháp đã khiến Liên Xô thay đổi ý định và tiếp nhận đề
nghị của Đức. Ngày 23 - 8 - 1939, Hiệp ước không xâm lược nhau Xơ - Đức
đã được kí kết, theo đó Liên Xô và Đức cam kết không tấn công nhau, không
gia nhập một liên minh nào thù địch với một trong hai nước kí hiệp ước,
khơng giúp đỡ một nước thứ ba nào chống lại nước kia... Sau đó một ngày,
Liên Xơ và Đức cịn kí thêm một Nghị định thư bí mật phân chia ph ạm vi
ảnh hưởng ở Đơng Âu.
Việc kí kết Hiệp ước Xơ - Đức khơng xâm lược nhau đã làm thất bại chính
sách hai mặt của các nước phương Tây, phá tan âm mưu thành lập mặt trận
thống nhất chống Liên Xô do các nước đế quốc dựng lên ở Muyních. Đồng
thời sự kiện này cũng phá vỡ âm mưu của Nhật muốn dựa vào sự ủng hộ của
Đức để xâm lược Liên Xô.
Một tuần sau đó, đêm 30 rạng ngày 31 - 8 - 1939, Đức gửi tới Ba Lan một
bản tối hậu thư về vấn đề Đăng dích và hành lang Ba Lan. Chính phủ Ba Lan
bác bỏ những yêu sách của Đức. Rạng sáng ngày 1 - 9 - 1939, phát xít Đức
tấn công Ba Lan. Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ.

Từ những sự kiện đã nêu ở trên, có thể đi đến những tổng kết sau đây:
• Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ trước hết là do những mâu thuẫn về
quyền lợi, về lãnh thổ hết sức gay gắt giữa các nước đế quốc với nhau. Sự
phân chia thế giới theo Hệ thống Vécxai - Oasinhtơn chứa đựng những mâu
thuẫn khơng thể dung hồ được giữa các nước đế quốc. Những mâu thuẫn đó

đã dẫn tới một cuộc chiến tranh mới giữa các nước đế quốc để phân chia lại
thế giới.
• Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 - 1933 đã làm sâu sắc thêm những

Sưu t m b i: www.daihoc.com.vn


mâu thuẫn của chủ nghĩa đế quốc, dẫn tới việc lên cầm quyền của các thế lực
phát xít ở Đức, Italia và Nhật Bản. Chủ nghĩa phát xít ở ba nước nêu trên là
thủ phạm gây ra Chiến tranh thế giới thứ hai.
• Tuy nhiên, chính sách hai mặt của các cường quốc phương Tây đã tạo điều
kiện cho phe phát xít gây chiến. Do vậy, khác với Chiến tranh thế giới thứ
nhất, Chiến tranh thế giới thứ hai còn gắn liền với mâu thuẫn giữa chủ nghĩa
đế quốc với chủ nghĩa xã hội và âm mưu tiêu diệt nhà nước xã hội chủ nghĩa
đầu tiên trên thế giới. Khối các nước đế quốc mặc dù có mâu thuẫn với khối
phát xít nhưng đều thống nhất với nhau trong âm mưu chống Liên Xơ và
phong trào cách mạng thế giới.
• Chiến tranh được bắt đầu từ cuộc chiến giữa hai khối đế quốc nhằm tranh
giành lãnh thổ và quyền thống trị thế giới. Tuy vậy, từ tháng 6 - 1941, khi
phát xít Đức tập trung lực lượng tấn cơng Liên Xô, nhằm tiêu diệt chế độ xã
hội chủ nghĩa, thực hiện tham vọng chinh phục tồn cầu, tính chất của cuộc
chiến tranh đã thay đổi căn bản. Đó là cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại của
Liên Xô và các dân tộc u chuộng hồ bình trên thế giới nhằm tiêu diệt chủ
nghĩa phát xít, giải phóng nhân loại khỏi những thảm hoạ của chế độ phát xít
man rợ.

Sưu t m b i: www.daihoc.com.vn




×