Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Công ty Cổ phần Đầu tư Công nghệ Giáo dục IDJ 2011        BỐI CẢNH LỊCH docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (409.13 KB, 7 trang )

Công ty Cổ phần Đầu tư Công nghệ Giáo dục IDJ


Biên tập viên : Hoàng Thị Hằng


2011
1
BỐI CẢNH LỊCH SỬ NƯỚC TA TRƯỚC NGÀY ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI
1. Việt Nam từ nước phong kiến độc lập trở thành nước thuộc địa
Dân tộc Việt Nam sớm hình thành trong quá trình dựng nước và giữ nước. Với truyền
thống đoàn kết và bất khuất, dân tộc ta từng đánh bại nhiều kẻ thù xâm lược lớn mạnh. Từ

đâu thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản phương Tây, trong đó có đế quốc Pháp, đã nhòm ngó,
xâm lược nước ta, mở đâu bằng việc khai thông buôn bán và truyền giáo. Nǎm 1858, đế
quốc Pháp vũ trang xâm lược nước ta. Vua quan triều đình nhà Nguyễn từng bước đầu hàng
chúng. Ngày 6 tháng 6 nǎm 1884, triều đình nhà Nguyên đã ký Hiệp ước Patơnốt, hoàn
toàn dâng nước ta cho đế quốc Pháp. Từ đó, Việt Nam trở thành thuộc địa c
ủa đế quốc
Pháp. Dưới chế độ thống trị của đế quốc Pháp và tay sai của chúng, xã hội Việt Nam có
nhiều thay đổi.

Về chính tri
thực dân Pháp thi hành chính sách chuyên. Mọi quyền hành đêu nằm
trong tay người Pháp, vua quan nhà Nguyễn chỉ đóng vai trò bù nhìn. Chúng thi hành chính
sách chia để trị. Chúng chia rẽ giữa ba dân tộc trên bán đảo Đông Dương, rồi lập ra xứ
Đông Dương thuộc Pháp nhằm xoá tên các nước Việt Nam, Lào, Campuchia trên bản đồ thế
giới. Đánh giá về chính sách này, đồng chí Nguyễn ái Quốc đã viết: "Chủ nghĩa thực dân
Pháp không hề thay đổi cái châm ngôn "chia để trị" của nó. Chính vì thế mà nước An Nam,
mộ
t nước có chung một dân tộc, chung một dòng máu, chung một phong tục, chung một


lịch sử, chung một truyền thống, chung một tiếng nói, đã bị chia nǎm sẻ bảy. Lợi dụng một
cách xảo trá sự chia cắt ấy, người ta hy vọng làm nguội được tình đoàn kết, nghĩa đồng bào
trong lòng người An Nam và tạo ra những mối xung khắc giữa anh em ruột thịt với nhau.
Sau khi đẩy họ chống lại nhau, người ta l
ại ghép một cách giả tạo các thành phần ấy lại, lập
nên một "Liên bang" gọi là Liên bang Đông Dương"

Về kinh tế
tư bản Pháp không phát triển công nghiệp ở nước ta, mà chỉ mở mang
một số ngành trực tiếp phục vụ cho bộ máy thống trị và khai thác tài nguyên để cung cấp
nguyên liệu cho nền công nghiệp của nước Pháp. Chính sách độc quyền kinh tế Pháp đã
biến Việt Nam thành thị trường của chính quốc, nơi vơ vét tài nguyên và bóc lột nhân công
rẻ mạt. Bên cạnh sự bóc lột nhân công và cướp đoạt tài nguyên, đất đai, bọn th
ực dân Pháp
còn duy trì chế độ phong kiến để giúp chúng bóc lột địa tô, lợi tức và các hình thức thuế
khoá rất nặng nề. Các mâu thuẫn xã hội ngày càng trở nên sâu sắc. Mâu thuẫn giữa nhân
dân, chủ yếu là nông dân, với giai cấp phong kiến địa chủ chưa được giải quyết, thì mâu
thuần giữa dân tộc ta với bọn đế quốc Pháp thống trị và phong kiến tay sai của chúng lại
phát sinh, càng đẩy nhanh quá trình cách mạng của nhân dân ta. Đánh giá về hi
ện tượng xã
Công ty Cổ phần Đầu tư Công nghệ Giáo dục IDJ


Biên tập viên : Hoàng Thị Hằng


2011
2
hội nói trên, đồng chí Nguyễn ái Quốc viết: "Sự tàn bạo của chủ nghĩa tư bản đã chuẩn bị
đất rồi: chủ nghĩa xã hội chỉ còn phải làm cái việc là gieo hạt giống của công cuộc giải

phóng nữa thôi" Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa của tư bản Pháp trùm lên phương
thức sản xuất phong kiến lỗi thờ
i đã làm
phân hoá các giai cấp cũ, tạo ra kết cấu giai cấp
mới.

2. Giai cấp địa chủ phong kiến bị phân hoá, giai cấp công nhân ra đời
Giai cấp địa chủ phong kiến trong những thế kỷ trước đã từng giữ vai trò tiến bộ
nhất định trong lịch sử. Từ khi triều đình nhà Nguyễn đầu hàng đế quốc Pháp thì bản thân
giai cấp này cũng bị phân hóa. Một bộ phận can tâm làm tay sai cho đế quốc Pháp để duy
trì quyền lợi của bản thân, một bộ phậ
n không ít tiếp tục truyền thống dân tộc, đề xướng và
lãnh đạo các phong trào Vǎn thân, Cần vương chống đế quốc Pháp xâm lược, khôi phục
triều đình phong kiến. Một số trở thành những lãnh tụ của phong trào quần chúng nông
dân, vừa đấu tranh chống đế quốc Pháp, vừa chống lại triều đình bán nước. Một bộ phận
nhỏ chuyển sang kinh doanh theo lối tư bản chủ nghĩa. Giai cấp t
ư sản Việt Nam xuất hiện
từ trong thời gian Chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914-1918), vừa ra đời đã bị sự chèn
ép của tư bản Pháp và phân hoá thành hai bộ phận. Một số ít ôm chân đế quốc, tham gia
vào các cơ quan chính trị và kinh tế của đế quốc Pháp, trở thành lớp tư sản mại bản. Một bộ
phận khác tuy có mâu thuẫn nhất định với tư bản Pháp và triề
u đình phong kiến, nhưng thế
lực kinh tế yếu ớt, què quặt, phụ thuộc, khuynh hướng chính trị cải lương. Do vậy, giai cấp
tư sản dân tộc Việt Nam tuy có tinh thần yêu nước, chống phong kiến và đế quốc, nhưng họ
không có khả nǎng lãnh đạo cách mạng. Họ chỉ có thể tham gia cuộc đấu tranh ấy trong
điều kiện nhất định. Tầng lớp trí thức và tiểu tư
sản là những người vốn được chế độ phong
kiến và thực dân đào tạo. Nhưng do truyền thống yêu nước chi phối, họ khao khát độc lập,
tự do, dân chủ, nên cũng bị phân hoá. Một số ít cam tâm làm tay sai. Số đồng vẫn giữ được
khí tiết dù ở hoàn cảnh nào cũng không nguôi lòng cứu nước. Khi có điều kiện, những trí

thức yêu nước thường đóng vai trò truyền bá những tư tưởng m
ới và là ngòi pháo của các
cuộc đấu tranh chống thực dân, phong kiến. Giai cấp nông dân khao khát độc lập và ruộng
đất, hǎng hái chống đế quốc và phong kiến. Sau phong trào Vǎn thân, Cần vương, nhất là
sau thất bại của cuộc khởi nghĩa Yên thế (1913), phong trào nông dân bị phân tán. Nông
dân là một lực lượng đông đảo, yêu nước, nhưng không thể tự vạch ra đường lối đúng đắn
để tự giải phóng và không thể đóng vai trò lãnh đạo cách m
ạng. Giai cấp công nhân Việt
Nam là sản phẩm trực tiếp của chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp. Lớp công
nhân đầu tiên xuất hiện vào cuối thế kỷ XIX, khi thực dân Pháp xây dựng một số cơ sở công
Công ty Cổ phần Đầu tư Công nghệ Giáo dục IDJ


Biên tập viên : Hoàng Thị Hằng


2011
3
nghiệp, đôn trại và thành phố phục vụ cho cuộc xâm lược và binh định nước ta. Trước Chiến
tranh thế giới lần thứ nhất (1914-1918), giai cấp công nhân còn ít, chỉ 10 vạn người và trình
độ còn thấp. Qua thời kỳ khai thác thuộc địa lần thứ hai (1924-1929), số lượng công nhân
chuyên nghiệp đã có 22 vạn người, chiếm 1,2% số dân. Nếu tính số người làm thuê trong
các hãng kinh doanh tư nhân vừa, nhỏ và số người vô sản, n
ửa vô sản sống ở thành thị và
nông thôn, thì đội quân vô sản ở Việt Nam trước nǎm 1930 có đến hàng triệu người.
Sinh trưởng trong một nước thuộc địa, nửa phong kiến, cũng như nông dân và các
tầng lớp lao động khác, giai cấp công nhân Việt Nam bị ba tầng áp bức, bóc lột của đế
quốc, phong kiến và tư sản, phần lớn xuất thân từ nông dân. Đó là cơ sở khách quan thuận
lợi cho hai giai cấp c
ơ bản này có sự liên minh tự nhiên từ khi ra đời và phát triển trong quá

trình đấu tranh cách mạng. Ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc, không có cơ sở xã hội cho
chủ nghĩa công đoàn và chủ nghĩa cải lương thâm nhập, lũng đoạn từ bên trong, do vậy,
giai cấp công nhân Việt Nam) tuy còn trẻ, số lượng ít, trình độ vǎn hoá, kỹ thuật còn thấp,
nhưng ở nước ta đó là giai cấp đại biểu cho lự
c lượng sản xuất tiến bộ nhất, sống tập trung,
có ý thức kỷ luật, có nǎng lực cách mạng triệt để và có tinh thần quốc tế vô sản. Là con đẻ
của một dân tộc anh hùng, lớn lên trong thời đại mới, khi mà giai cấp công nhân Nga dưới
sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Bônsêvích đã giành được chính quyền, Quốc tế cộng sản đã
thành lập, lại được lãnh tụ Nguy
ễn ái Quốc giác ngộ, giai cấp công nhân Việt Nam đã từ
giác ngộ dân tộc đến giác ngộ giai cấp, nhanh chóng phát triển từ tự phát đến tự giác.
Tháng 11 nǎm 1922, 600 thợ nhuộm ở Chợ Lớn (Nam Bộ) đã bãi công. Từ nǎm 1920 đến
nǎm 1925, có đến 25 cuộc bãi công trong cả nước. Nổi bật nhất là cuộc bãi công của công
nhân Ba Son nổ ra từ ngày 4 tháng 8 đến ngày 28 tháng 11 nǎm 1925 để "kìm chân" chiếc
tàu J.Misơlê của đế quốc Pháp chu
ẩn bị đưa quân sang đàn áp cách mạng Trung Quốc.
Cuộc đấu tranh này có tổ chức, chỉ đạo và biểu hiện tinh thần quốc tế cao cả. Tuy vậy, chỉ
đến những nǎm 1928-1929, khi Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội chủ trương
"vô sản hoá" mới tạo điều kiện cho phong trào công nhân chóng trưởng thành, phát triển
lên trình độ tự giác.
3. Cuộc khủng hoảng đường lối giải phóng dàn tộc, nhiều đảng phái xu
ất
hiện
Lịch sử nước ta từ khi đế quốc Pháp xâm lược đến những nǎm hai mươi của thế kỷ
này đã chứng kiến hơn 300 cuộc đấu tranh hết sức anh dũng của dân tộc ta chống đế quốc
Pháp xâm lược.
Nhưng cuối cùng đều không giành được thắng lợi vì không có một đường lối
cứu nước đúng đắn.
Công ty Cổ phần Đầu tư Công nghệ Giáo dục IDJ



Biên tập viên : Hoàng Thị Hằng


2011
4

Trước kia, chế độ phong kiến khi đang ở giai đoạn hưng thịnh, giai cấp phong kiến
đã từng lãnh đạo dân tộc đánh thắng bọn phong kiến phương bắc lớn mạnh xâm lược.
Nhưng khi chế độ phong kiến đã suy tàn và phải đối phó với một kẻ thù mới, một đế quốc
thuộc loại cường quốc thế giới, thì giai cấp phong kiến bất lực và tr
ở thành phản động. Thất
bại của phong trào Cần vương là do thiếu đường lối đúng, thiếu một tổ chức cách mạng có
khả nǎng dắt dẫn dân tộc đến thắng lợi. Thất bại của phong trào này đánh dấu sự chấm dứt
thời kỳ dấu tranh chống ngoại xâm trong khuôn khổ hệ tư tưởng phong kiến. Thất bại của
cuộc khởi nghĩ
a Yên Thế dưới sự lãnh đạo của cụ Hoàng Hoa Thám cũng chứng tỏ đó không
phải là con đường giành thắng lợi. Khi các phong trào trên chấm dứt thì cuộc khủng hoảng
đường lối cứu nước ở nước ta bộc lộ sâu sắc.
Sau khi từng bước ly khai con đường giải phóng dân tộc theo hệ tư tưởng phong
kiến, nhiều người yêu nước Việt Nam hướng ra nước ngoài, tìm đến nhưng con đường mới
để mư
u sự nghiệp giải phóng dân tộc như: con đường Duy Tân của Nhật Bản (1860), con
đường Cách mạng tư sản Pháp (1789), con đường Cách mạng Tân Hợi của Trung Quốc
(1911) Vào đâu thế kỷ này, nước Nhật từ sau cuộc vãn động Duy Tân đã trở thành nước
đế quốc chủ nghĩa, đã đánh bại Nga Hoàng trong cuôc chiến tranh Nga - Nhật (1905). Cách
mạng 1905 ở Nga nổ ra nhưng không thắng lợi. Cách mạng Tân Hợi ở Trung Quốc (nǎm
1911) đã đánh đổ triều đình Mãn Thanh, lập ra nước Trung Hoa dân quốc. Những sự kiện
trên đây đã ảnh hưởng đến phong trào yêu nước Việt Nam. ý thức hệ tư sản phương Tây đã
thâm nhập vào Việt Nam. Một số sĩ phu tiến bộ tiếp thu tràn lưu tư tưởng này, mong muốn

nước mạnh, dân giàu theo con đường tư bản chủ nghĩa. Họ muốn noi theo con đường phát
triển của Nh
ật Bản, dựa vào Nhật để đánh Pháp.
Tiêu biểu cho khuynh hướng này là hội Duy Tân do cụ Phan Bội Châu sáng lập, với
mục đích cổ động phong trào, tổ chức lực lượng chống Pháp theo tôn chỉ "mở mang dân trí,
chấn hưng dân khí, vun trồng nhân tài". Số khác như các cụ: Lương Vǎn Can, Nguyễn
Quyền mở trường Đông Kinh Nghĩa Thục ở Hà Nội nhằm cổ động tinh thần yêu nước, bài
xích chính sách cai trị của th
ực dân Pháp, khuyến khích cải cách, chế diễu lũ phong kiến,
cường hào v.v Là một nhà yêu nước nhiệt thành, nhưng chủ trương của cụ Phan Chu Trinh
khác hẳn với cụ Phan Bội Châu.
Cụ Phan Chu Trinh tiêu biểu cho xu hướng cải cách dân chủ tư sản (1789), phản đối
việc vũ trang bạo động chống Pháp. Cụ nói: "Bất bạo động, bạo động tắc tử, bất vọng
ngoại, ngoại vọng tất vong".
Đó là lời tuyên bố của cụ Phan Chu Trinh sau khi đi Nhật về
(15-8-1906). Sau này trong thư "thất trảm" gửi vua Khải Định khi y sang Pháp (1922), cụ
Công ty Cổ phần Đầu tư Công nghệ Giáo dục IDJ


Biên tập viên : Hoàng Thị Hằng


2011
5
Phan Chu Trinh viết: "Mau mau quay đâu lại mà thoái vị đi, đem chính quyền trả lại cho
quốc dân để quốc dân được trực tiếp với chính phủ Pháp mà làm việc đặng mưu lợi ích sau
này". Phong trào Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục, chống đi phu, nộp thuế ở Trung Kỳ là
kết quả của khuynh hướng tư tưởng tư sản.
Tính chất phong trào dân tộc ở thời kỳ này có chuyển biế
n khác trước Một số tổ chức

yêu nước ra đời như hội Duy Tân (1904), trường Đông Kinh Nghĩa Thục (1907), hội Đông á
đồng minh (1908), Việt Nam quang phục Hội (1912-1924) v.v Song, vì đường lối chính trị
của các tổ chức này không rõ ràng, nhất là không dựa vào quần chúng lao động, mà dựa
vào uy tín cá nhân, nên không tạo ra được sự thống nhất trong những người đề xướng
phong trào. Vì vậy, khi những người thủ lĩnh bị đế quốc Pháp bắt thì phong trào c
ũng tan rã
theo. Cách mạng tháng Mười Nga thành công (1917) đánh dấu bước phát triển mới trong
lịch sử nhân loại. Quốc tế cộng sản, bộ tham mưu của giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp
bức toàn thế giới được thành lập. ở Trung Quốc, sau phong trào Ngũ Tứ, Đảng cộng sản
Trung Quốc ra đời (1921). ở Pháp, Đảng cộng sản Pháp được thành lập (1920), sự kiện lịch
sử này không chỉ là thắng l
ợi của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Pháp, mà còn là
thắng lợi của các dân tộc thuộc địa Pháp.
Đồng thời, với những chuyển biến trên thế giới, cách mạng Việt Nam lúc này cũng
bắt đâu có những chuyển biến mới. Đồng chí Nguyễn ái Quốc thay mặt tổ chức những
người Việt Nam yêu nước ở Pháp đưa bản "yêu sách 8 điểm" đến Hội nghị các nước đế quốc
th
ắng trận ở thành phố Vécxây (6-1919); đồng chí Nguyễn ái Quốc bỏ phiếu tán thành gia
nhập Quốc tế cộng sản tại Đại hội lần thứ 18 của Đảng xã hội Pháp ở thành Tua và tham
gia thành lập Đảng cộng sản Pháp (1920). Đồng chí Nguyễn ái Quốc được bầu vào đoàn chủ
tịch Hội nông dân Quốc tế (l0-1923), và dự Đại hội lần thứ V Quốc tế cộng sản (1924).
Tiếng bom Phạ
m Hồng Thái mưu sát toàn quyền Méclanh (6-1924) ở Quảng Châu (Trung
Quốc) v.v Tất cả như sự báo hiệu bước chuyển biến mới về chất của phong trào cách
mạng Việt Nam. Tháng 4 nǎm 1921, trên Tạp chí Cộng sản của Đảng cộng sản Pháp, đồng
chí Nguyễn ái Quốc viết: "Người Đông Dương giấu một cái gì đang sôi sục, đang gào thét và
sẽ bùng nổ một cách ghê gớm, khi thời cơ đến". Đúng nh
ư nhận xét của đồng chí Nguyễn ái
Quốc, từ những nǎm 1920 trở đi, phong trào cách mạng Việt Nam có những chuyển biến
mạnh mẽ. Bên cạnh những đảng cách mạng theo xu hướng tư tưởng tư sản, đã xuất hiện

những tổ chức yêu nước tiếp thu tư tưởng tiến bộ mới. Đặc biệt là chủ nghĩa Mác-Lênin - hệ
tư tưởng của giai cấ
p công nhân ngày càng có tác động mạnh mẽ vào phong trào yêu nước
và phong trào công nhân. ở Việt Nam, giai cấp tư sản dân tộc chưa bao giờ giương được
Công ty Cổ phần Đầu tư Công nghệ Giáo dục IDJ


Biên tập viên : Hoàng Thị Hằng


2011
6
ngọn cờ giải phóng dân tộc. Đảng lập hiến của Bùi Quang Chiêu (1919) về cǎn bản là một
tập đoàn địa chủ "tư sản hoá". Nǎm 1926, họ đưa ra thuyết "Pháp Việt đề huề" thì mặt nạ
làm tay sai cho đế quốc Pháp lộ rõ. "Thuyết trực trị" của Nguyễn Vǎn Vĩnh, "Thuyết bảo
hoàng lập hiến" của Phạm Quỳnh đã bộc l
ộ chân tướng ôm chân đế quốc Pháp. Xu hướng
quốc gia cải lương của nhóm Huỳnh Thúc Kháng cũng ít tiếng vang. Phong trào đấu tranh
trong những nǎm 1923-1927, đòi tự do, dân chủ theo kiểu cách mạng tư sản, nhưng động
lực của nó là những người tiểu tư sản chứ không phải do đảng của giai cấp tư sản lãnh đạo.
Biểu hiện của phong trào này là nhiều hội, đảng yêu nước của thanh niên trí thức kế
tiếp
nhau ra đời: Tân Việt thanh niên đoàn - tức Tâm tâm xã (1923-1925), hội Phục Việt (1925),
Đảng thanh niên của Trần Huy Liệu (1926), Thanh niên cao vọng đảng của Nguyễn An Ninh
(1926-1929), Tân Việt cách mạng đảng (1926-1930), Việt Nam thanh niên cách mạng đồng
chí Hội (1925-1929), Việt Nam quốc dân đảng (1925-1930) v.v Những tổ chức yêu nước
cách mạng nói trên đã có tác dụng nhất định trong việc truyền bá tư tưởng mới, giáo dục
lòng yêu nước và tập hợp số quần chúng thanh niên trí thức, tiể
u tư sản. Nhưng, họ chưa
vạch ra được một đường lối cách mạng phù hợp với yêu cầu của dân tộc. Tâm tâm xã nêu

cao quyết tâm "khôi phục quyền làm người của người Việt Nam", nhưng "chưa bàn đến
chính thể". Tân Việt cách mạng đang nhận rõ mục đích giải phóng dân tộc, nhưng chưa
thấy vị trí lịch sử của giai cấp công nhân, Việt Nam quốc dân đảng chủ trương ch
ống đế
quốc, chống phong kiến, nhưng lại sao chép rập khuôn chủ nghĩa Tam dân của Tôn Dật
Tiên (Trung Quốc). Nhìn chung, các hội và đảng yêu nước nói trên có tinh thần chống đế
quốc, nhưng chưa nhận thức được xu thế phát triển khách quan của thời đại sau Cách mạng
tháng Mười Nga, nên không thấy được giải phóng dân tộc phải gắn liền với giải phóng nhân
dân lao động, giải phóng xã hội, chủ nghĩa yêu nước chân chính phải g
ắn liền với chủ nghĩa
quốc tế vô sản, chưa thấy độc lập dân tộc phải gắn liền với chế độ mới để đi đến xoá bỏ
mọi sự bất công và áp bức bóc lột. Những người trong các tổ chức này cũng không thấy hết
bản chất của chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc, không nhận thức
được vai trò lãnh đạo
của giai cấp công nhân, vai trò của quần chúng nhân dân, trước hết là nông dân trong cách
mạng. Bởi những hạn chế đó, những người yêu nước trong các tổ chức này chưa thể xác
định được một đường lối cách mạng đúng đắn. Riêng Việt Nam thanh niên cách mạng đồng
chí Hội do đồng chí Nguyễn ái Quốc sáng lập, là một tổ chức cách mạng, phần lớn gồm
những người trí thức, tiểu tư
sản, sớm tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin, sớm có khuynh
hướng cộng sản chủ nghĩa. Đảng Tân Việt, sau những nǎm 1926-1927 đã chịu ảnh hưởng
về đường lối của Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội. Cuộc đấu tranh về ý thức hệ
Công ty Cổ phần Đầu tư Công nghệ Giáo dục IDJ


Biên tập viên : Hoàng Thị Hằng


2011
7

và về đường lối cứu nước giữa Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội và các tổ chức
yêu nước nói trên đã diễn ra từ những ngày đầu đồng chí Nguyễn ái Quốc trực tiếp chuẩn bị
về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho việc thành lập đảng vô sản kiểu mới ở Việt Nam, từng
bước khắc phục sự khủng hoảng v
ề đường lối cứu nước.
(Nguồn: )

×