Từ tứ thanh tiếng Hán đến tám thanh Hán-Việt
Từ một số cứ liệu thống kê về nguồn gốc của 8 thanh trong cách đọc Hán-Việt,
chúng ta có bảng tổng kết sau:
Hán Toàn thanh Thứ thanh Toàn trọc Thứ trọc
Hán-Việt
B
T
K
N
B
T
K
N
B
T
K
N
B
T
K
N
Ngang
736
12
22
351
12
33
503
14
19
Huyền 33
25
561
11
22
Hỏi 12
358
39
130
15
28
19
10
Ngã
16
56
22
181
28
Sắc khứ 12
34
406
10
18
172
10
27
19
12
N
ặng khứ 20
13
118
224
17
23
222
SẮC NHẬP
328
126
20
12
N
ẶNG NHẬP 17
200
182
B (Bình) – T (Thượng) – K (Khứ) – N (Nhập)
(Chỉ tính những trường hợp có 10 ví dụ trở lên)
# Chú giải thuật ngữ
Nếu gạt bỏ những trường hợp không đủ nhiều thì có thể nói rằng quy luật diễn biến
từ hệ thống tứ thanh của tiếng Hán trung cổ đến hệ thống thanh điệu Hán-Việt như
sau:
Toàn thanh Thứ thanh Toàn trọc Thứ trọc
Bình
Ngang
Ngang
Huyền
Ngang
Thượng
Hỏi Hỏi
N
ặng//Ngã
Ngã
Khứ
Sắc khứ Sắc khứ
N
ặng khứ
N
ặng khứ
Nhập
SẮC NHẬP SẮC NHẬP
N
ẶNG NHẬP
N
ẶNG NHẬP
* Nhận xét:
Qua bảng tổng kết trên, điều đầu tiên mà chúng ta nhận thấy là hệ thống tứ thanh
tiếng Hán đã nhân đôi số lượng, chuyển thành hệ thống tám thanh trong cách đọc
Hán-Việt. Sự nhân đôi này là một sự nhân đôi căn cứ về mặt âm vực. Cụ thể là:
Bình
Ngang
Thượng
Hỏi
Khứ
Sắc khứ
Nhập
sắc nhập
(Cao)
Huyền Ngã
Nặng khứ nặng nhập
(Thấp)
Nói như vậy không có nghĩa là ở Thiết vận, trong tứ thanh của tiếng Hán hoàn toàn
không có sự khác nhau về cao độ. Tuy nhiên, sự xuất hiện của các thanh cao, thanh
thấp lại nằm trong thế phân bố bổ túc (khi có phụ âm vô thanh thì thanh điệu thuộc
âm vực cao, khi có phụ âm hữu thanh thì thanh điệu thuộc âm vực thấp). Nhưng
khi sang đến Hán-Việt, do sự đối lập vô thanh/hữu thanh bị thủ tiêu nên sự đối lập
về cao độ của các thanh điệu lúc này lại trở thành yếu tố khu biệt. Và vì vậy, ở
cách đọc Hán-Việt phải tính là có 8 thanh điệu chứ không phải là 8 biến thể của 4
thanh.