Vấn đề xử lý phòng trừ mối cho công trình thủy lợi ở
Việt Nam hiện nay
Nguyễn Tân Vương
1. Đặt vấn đề
Mối là một nhóm các loài côn trùng xã hội. Các cá thể trong một đàn sống quần tụ
trong một tổ. Tổ của nhiều loài là các khoang rỗng lớn trong lòng đất, đường kính
khoang tổ có thể tới hàng mét. Một tổ có thể có tới hàng trăm khoang, hàng trăm
hang giao thông đi ra từ các khoang tổ, tổng thể tích rỗng của một tổ mối có thể tới
vài chục mét khối. Chính thể tích rỗng của tổ mối là nguyên nhân gây tác hại đối
với các công trình thủy lợi bằng đất; vào mùa lũ nước chảy qua thân đê, thân và
nền đập theo hệ thống rỗng của tổ mối. Theo ghi nhận của Phòng quản lý công
trình – Ty thủy lợi điện lực Quảng Châu và nhiều tác giả khác cho thấy mối đã gây
ra hàng chục vụ vỡ đê, đập, hàng trăm vụ sự cố rò rỉ trên thân đê đập ở tỉnh Quảng
Đông Trung Quốc [1;5,]. Ở Việt Nam, nhiều vụ tổ mối gây ra sập mái đê, rò rỉ
thân đê như vụ ô tô bị sập và chui vào tổ mối ở đê Tả Hồng huyện Đông Anh, Hà
Nội vào năm 1969 (theo lời kể của cán bộ quản lý đê Đông Anh, Hà Nội). Chúng
tôi đã từng chứng kiến một vụ tổ mối gây rò rỉ thân đê sông Hồng, khi chúng tôi
đến đội quản lý đê đã cắm biển báo sự cố do tổ mối, từ lỗ rò vẫn thỉnh thoảng thây
mối chui ra và xung quanh có nhiều xác mối (xem hình 1, 2). Trước đấy 12 giờ,
nước trong sông vượt mức báo động 3, nước phun ra ở mái phía đồng thành vòi
trong đó có xác mối (theo lời kê của người quản lý đê). Tóm lại, tác hại của mối
đối với các công trình thủy lợi là rất lớn, việc xây dựng giải pháp xử lý mối để bảo
vệ công trình thủy lợi, thủy điện bằng đất là rất quan trọng. Công tác xử lý mối
cho công trình thủy lợi hiện nay chủ yếu là 2 biện pháp đào bắt mối chúa và khoan
phụt xử lý tại tổ mối.
2. Hiện trạng xử lý phòng trừ mối cho công trình đê đập ở Việt Nam hiện nay
2.1. Về tiêu chuẩn và định mức kỹ thuật
Nhận thấy rõ tác hại của mối đối với công trình thủy lợi, Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn đã ban hành một số tiêu chuẩn định mức liên quan đến công tác
khảo sát và xử lý mối như sau:
Tiêu chuẩn ngành 14TCN 89-93 qui định rõ về “Thành phần và khối lượng khảo
sát và xử lý mối cho đập đất”. Trong đó nêu rõ các cấp độ đập cần được khảo sát
và xử lý mối, phạm vi cần khảo sát và xử lý mối, các loài mối cần được xử lý.
Tiêu chuẩn ngành 14TCN 182: 2006 về”Qui trình kỹ thuật khảo sát, phát hiện tổ
mối và ẩn họa trong thân đê, đập”. Trong đó qui định các nội dung tiến hành khảo
sát xác định tổ mối và ẩn họa trong thân đê, đập.
Tiêu chuẩn ngành 14TCN 167:2006 về “Mối gây hại công trình thủy lợi – Phân
loại và đặc điểm sinh học, sinh thái”. Trong đó qui định rõ các loài gây hại cần xử
lý và công trình có các dấu hiệu về mặt sinh học, sinh thái mối cần được tiến hành
khảo sát và xử lý mối.
Định mức 221 qui định về “Định mức dự toán cho công tác điều tra, khảo sát và
xử lý mối” (QĐ 221/1998/Q Đ/BNN-XDCB).
Tóm lại, các tiêu chuẩn và định mức kỹ thuật để thực hiện công tác xử lý mối cho
công trình thủy lợi là tương đối đầy đử.
2.2. Về thực tế xử lý phòng trừ mối
Trong 20 năm qua, nhiều tuyến đê và hàng trăm đập thủy lợi, thủy điện, đã được
tiến hành xử lý phòng trừ mối cho đập xây dựng mới và đập đang vận hành. Qua
quá trình thực hiện chúng tôi thấy còn một số điều bất cập sau:
Công tác xử lý phòng trừ mối đối với đập đang vận hành thường được tiến hành
đồng thời với các dự án sửa chữa nâng cấp đập. Nói như vậy có nghĩa là các đập
không thuộc diện cần nâng cấp, sửa chữa thì dù có mối hại cũng không được xử lý
phòng trừ mối, như: đập Xạ Hương (Vĩnh Phúc), Đạ Hàm (Lâm Đồng), EaKao
(ĐakLak)…hiện nay có nhiều mối nhưng không có dự án để xử lý mối. Điều này
không hợp lý vì mối hại âm thầm trong thân đập nên dễ gây ra sự cố bất ngờ. Điều
này có thể được giải quyết bằng hai cách yêu cầu các cán bộ quản lý đập trực tiếp
kiểm tra giám sát đập theo tiêu chuẩn ngành 14TCN 167:2006 về “Mối gây hại
công trình thủy lợi – Phân loại và đặc điểm sinh học, sinh thái”. Khi có các dấu
hiệu sinh học, sinh thái học cho thấy cần xây dựng kế hoạch phòng trừ thì báo cáo
lên các cấp có thẩm quyền để xây dựng kế hoạch xử lý.
Đối với đập đang vận hành, nhiều đập thường được tiến hành xử lý tổ mối bằng
cách đào bắt mối chúa như ở đập Núi Một (Bình Định), Dầu Tiếng (Tây Ninh), Xạ
Hương (VĨnh Phúc)…. Kết quả của biện pháp này chỉ đạt được hiệu quả diệt các
tổ mối nổi là 35%, số tổ mối được xử lý bằng phương pháp này hoạt động trở lại
là 65% và các tổ hoạt động trở lại có khả năng đào khoét thân đập mạnh hơn trước
[2]. Điều quan trọng hơn là sau khi đào đất đầm lại khó đạt dung trọng cần thiết và
hệ thống hang giao thông của tổ mối trong thân đập vẫn chưa được lấp kín. Hơn
nữa, các tổ mối chìm trong thân đập hầu như chưa được phát hiện nên chưa được
xử lý. Trong thực tế, mật độ tổ mối ở các đập có khác nhau. Điều này phụ thuộc
vào điều kiện tự nhiên của từng đập. Nhiều đập có điều kiện thuận lợi cho mối làm
tổ nên sau khi xử lý một vài năm trên thân đập có nhiều tổ mối nhưng không có dự
án sửa chữa, nâng cấp nên công tác xử lý phòng trừ mối cũng không được tiến
hành, điển hình như các đập Dầu Tiếng (Tây NInh), Vân Trục (Vĩnh Phúc), Đạ
Hàm (Lâm Đồng), Phú Ninh (Quảng Nam)…. Điều này có thể giải quyết bằng
cách xây dựng một tiêu chuẩn về quản lý an toàn về mối cho đập trong đó qui định
rõ chu kỳ khảo sát và xử lý phòng trừ mối đối với từng loại đập.
Đối với đập xây dựng mới, hiện nay nhiều dự án thiếu công tác khảo sát và xử lý
mối cho nền đập như đập Phước Hòa (Bình Dương), Sông Ray (Đồng Nai)….
VIệc này xảy ra do các nhà thiết kế không phải là các nhà sinh học, nên trong quá
trình khảo sát thực địa để lập báo cáo trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư không thấy
được dấu hiệu tổ mối ở nền công trình nên không đưa công tác khảo sát và xử lý
mối vào công tác xây lắp. Thực tế cho thấy, một số dự án khi triển khai, ban quản
lý thấy nền đập có nhiều mối lúc đó mới tiến hành bổ xung hạng mục xử lý mối
như đập Suối Đá (Khánh Hòa), việc bổ xung hạng mục sẽ gây rất nhiều vấn đề
phức tạp về tiến độ cũng như chế độ chính sách. Việc này có thể giải quyết bằng
một qui định bắt buộc trong báo cáo chuẩn bị đầu tư có nội dung đánh giá về hiện
trạng mối.
Đối với đê, mỗi cung đoạn đê đều có đội quản lý đê. Hàng năm các đội quản lý đê
thường tiến hành đào bắt mối chúa, sau khi đào bắt mối chúa tổ mối được đổ thuốc
trừ sâu và hoàn trả mái đê như cũ, việc đào bắt mối chúa trên đê được sử dụng rất
phổ biến vào những năm 70-80 của thế kỷ trước [4] . Qua thực tế đào bắt mối chúa
ở nhiều đoạn đê cho thấy tỷ lệ bắt được chúa chỉ khoảng 30% số tổ đã đào, các tổ
đã bị bắt chúa vẫn có khả năng hoạt động trở lại, nguyên nhân của hiện tượng này
là do mối có khả năng thay thế mối chúa khi bị chết chúa [3]. Nhược điểm nữa của
giải pháp này là hang giao thông cũng vẫn không được xử lý, ẩn họa trong thân đê
vẫn còn và làm vỡ kết cấu của thân đê. Hiện nay, nhiều đoạn đê xung yếu đã được
tiến hành xử lý mối bằng công nghệ khoan phụt xử lý mối tại tổ. Hiệu quả của
công nghệ này chắc chắn là rất tốt, nó giúp cho việc lấp bịt khoang tổ và hang giao
thông bằng vữa sét mà không phải đào bới, hiệu quả xử lý hầu như đạt 100%. Tuy
nhiên, việc xử lý mối bằng công nghệ khoan phụt tại tổ mối mới được tiến hành
cục bộ ở từng đoạn, tổng chiều dài các đoạn đê đã được xử lý nhỏ hơn rất nhiều so
với chiều dài toàn tuyến đê. Các các đoạn đê còn lại và môi trường xung quanh
chưa được xử lý mối. Do đó mối hàng năm mối cánh từ các đoạn đê chưa xử lý và
môi trường xung quanh sẽ bay vào các đoạn đê đã xử lý để làm tổ. Theo nghiên
cứu của chúng tôi, số lượng tổ mối thành lập mới sau 1 năm khoảng 15% so với số
lượng tổ đã xử lý, như vậy khoảng 6 năm sau khi xử lý, số lượng tổ mối sẽ tương
đương với số lượng tổ mối đã xử lý. Như vậy, sẽ hiệu quả hơn nếu tiến hành xử lý
mối cho cả tuyến đê dài. Điều này cho thấy cần có giải pháp phòng mối cho đê sau
khi xử lý. Ví dụ, hàng năm cho tiến hành xử lý bổ xung ở các tuyến đê đã xử lý,
hoặc tiến hành triệt tiêu các tổ mối ở môi trường xung quanh.
3. KIến nghị
Để công tác xử lý phòng trừ mối cho công trình thủy lợi được thực hiện đầy đủ,
chúng tôi đưa ra các kiến nghị sau:
Cần có qui định bắt buộc đối với các cơ quan quản lý đập theo dõi các dấu hiệu
sinh học, sinh thái mối theo tiêu chuẩn ngành 14TCN 167:2006 về “Mối gây hại
công trình thủy lợi – Phân loại và đặc điểm sinh học, sinh thái” để đánh giá mức
độ mối hại và cần tổ chức các lớp tập huấn cho các cán bộ quản lý đập.
Không tiến hành xử lý mối bằng phương pháp đào bắt mối chúa, mà chỉ tiến hành
xử lý phòng trừ mối bằng công nghệ khoan phụt tại tổ mối.
Cần nghiên cứu và đưa qui trình quản lý mối hại vào qui trình vận hành từng loại
đập hồ chứa.
Cần có giải pháp xử lý phòng từ mối toàn diện cho các tuyến đê sông và nghiên
cứu giải pháp phòng mối cho đê.
Tài liệu tham khảo
1. Lý Đống, Nguyên Tường, 1993. Đê Thiên Lý Kim bị vỡ do mối – Mối là kẻ
thù lớn đối với công trình thủy lợi. Tuyển tập luận văn về mối ở Trung quốc, Nhà
xuất bản Thiên Tắc, trang 998-1000, (bản dịch từ tiếng Trung).
2. Nguyễn Tân Vương, 1999. Một só vấn đê về biện pháp đào bắt mối chúa trong
đê đập. Viện khoa học thủy lợi - Tuyển tập kết quả khoa học và công nghệ 1994-
1999, 256-258.
3. Coaton X,G,H, 1949. Queen removal in termite control. Farrming in South of
Africa: No24;335-338.
4. Cục đê điều – Bộ Thủy lợi, 1975. Kỹ thuật tìm diệt và xử lý tổ mối trong thân
đê, 1- 59.
5. Phòng Quản lý công trình, Ty thủy lợi điện lực Quảng Đông, 1993. Biện pháp
ký thuật phòng trừ mối hại đê đập tỉnh Quảng Đông. Tuyển tập luận văn về mối ở
Trung quốc, Nhà xuất bản Thiên Tắc, trang 612-616, (bản dịch từ tiếng Trung).