Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

NIÊN LUẬN CHUYÊN NGÀNH VĂN HỌC ĐỀ TÀI: TÓM TẮT, NHẬN ĐỊNH TIỂU THUYẾT CỦA DƯƠNG TỬ GIANG, LÝ VĂN SÂM VÀ VŨ ANH KHANH potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (225.68 KB, 31 trang )

1
TP.Hoà Chí Minh Thaùng 7 - 2011
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA VĂN HỌC VÀ NGÔN NGỮ
  
NIÊN LUẬN CHUYÊN NGÀNH VĂN HỌC
ĐỀ TÀI:
TÓM TẮT, NHẬN ĐỊNH TIỂU THUYẾT CỦA DƯƠNG TỬ
GIANG, LÝ VĂN SÂM VÀ VŨ ANH KHANH
GVHD : Th.s Phan Mạnh Hùng
SVTH : Nguyễn Thị Min
MSSV : 08560101
Khóa : 2008-2012
2
Lớp : Ngữ văn 08
MỤC LỤC
MỤC LỤC
DẪN NHẬP 3
CHƯƠNG I: TIỂU THUYẾT “ TRANH ĐẤU” CỦA DƯƠNG TỬ GIANG
1.Tác giả 4
1.1.Tiểu sử 4
1.2.Sự nghiệp sáng tác 5
2.Tóm tắt tác phẩm 5
3.Nhận định nội dung 6
3.1.Tố cáo, lên án xã hội 6
3.2.Sự phản kháng và tình người trong tác phẩm 8
4.Nhận định nghệ thuật 10
CHƯƠNG II: TIỂU THUYẾT “SAU DÃY TRƯỜNG SƠN” CỦA LÝ VĂN SÂM
1.Tác giả 12
1.1.Tiểu sử 12


1.2.Sự nghiệp sáng tác 12
2.Tóm tắt tác phẩm 12
3. Nhận định nội dung 13
3
3.1.Tình yêu quê hương đất nước 13
3.2.Hình tượng người chiến sĩ cách mạng 14
4.Nhận định nghệ thuật 15
CHƯƠNG III: TIỂU THUYẾT “ĐẦM Ô RÔ” VÀ “CÂY NÁ TRẮC” CỦA VŨ ANH
KHANH
1.Tác giả 16
1.1.Tiểu sử 16
1.2.Sự nghiệp sáng tác 16
2.Tóm tắt tác phẩm 16
2.1. Đầm Ô Rô 16
2.2.Cây ná trắc 18
3.Nhận định nội dung 20
3.1.Những con người thiếu ý thức trong xã hội 21
3.2.Ca ngơị những con người ý thức được bổn phận của mình trong chiến tranh đối với
Tổ quốc 23
4.Nhận định nghệ thuật 26
TÀI LIỆU THAM KHẢO 30

4
DẪN NHẬP
1.Lý do chon đề tài
Trong lịch sử nghiên cứu văn học Việt Nam giai đoạn 1945-1975 có rất nhiều vấn
đề cần nghiên cứu.Một số vấn đề đã được các nhà nghiên cứu đi sâu vào tìm hiểu đánh
giá nhưng có những vấn đề chưa được chú ý nhiều. Trong số đó có vấn đề nghiên cứu các
tiểu thuyết văn học của giai đoạn này đặc biệt là các tiểu thuyết của nhóm văn học yêu
nước có rất ít thậm chí một số tiểu thuyết bị lãng quên. Vì thế việc tìm hiểu một số tiểu

thuyết trong thời kì này là một điều cần thiết. Ở đề tài này chúng tôi đi vào tìm hiểu tiểu
thuyết của Dương Tử Giang, Lý Văn Sâm, Vũ Anh Khanh, nhằm bổ sung tư liệu thêm
cho nền văn học Việt Nam và giúp người đọc nhìn nhận định, đánh giá chính xác hơn về
giá trị của tiểu thuyết trong giai đoạn đó. Từ đó góp phần bảo lưu, bảo tồn những tiểu
thuyết dưới thời Mỹ -Ngụy.
2.Lịch sử vấn đề
Thế kỉ XX là thế kỷ vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam .Đó là thế kỷ đấu
tranh quyết liệt giành độc lập dân tộc, tự do, thống nhất Tổ quốc từ gông xiềng nô lệ. Đây
là thế kỉ chuyển từ tư duy văn học trung đại với công cụ sáng tác là chữ Hán, chữ Nôm
sang tư duy văn học hiện đại với công cụ là chữ Quốc ngữ. Đây cũng là thế kỉ của nhiều
luồng, nhiều hướng, quan niệm, nhiều trường phái tư tưởng và nghệ thuật, trong đó tư
tưởng yêu nước và cách mạng cùng với văn học nghệ thuật yêu nước và cách mạng
chiếm ưu thế nổi bật.
Văn học Việt Nam thế kỉ XX là một nền văn học hiện đại, phát triển trong những
tình huống lịch sử cụ thể, chủ yếu là một nền văn học yêu nước và cách mạng. Nhưng
bên cạnh dòng chủ lưu đó, do những hoàn cảnh riêng vẫn tồn tại nhiều nhánh, nhiều chi
5
lưu văn học lành mạnh, tiến bộ, nhân bản. Nó bổ sung vào bức tranh toàn cảnh những
đường nét riêng. Năm 1945_1975 là thời kì văn chương cách mạng kháng chiến
Văn học kháng chiến và yêu nước khởi dậy từ Sài Gòn với các nhóm văn học yêu
nước như nhóm gồm Thẩm Thệ Hà, Vũ Anh Khanh, Sơn Khanh, Quốc Ấn, Lý Văn Sâm,
như Ngao Châu (Bùi Đức Tịnh), Phi Vân, Dương Tử Giang, Hoàng Tố Nguyên, Thiên
Giang, Khổng Dương, Bách Việt (Mai Văn Bộ),
2. Phạm vi nghiên cứu
-Tiểu thuyết “ Tranh đấu ” của Dương Tử Giang
-Tiểu thuyết “ Sau dãy Trường sơn ” của Lý Văn Sâm
-Tiểu thuyết “ Đầm Ô Rô ” và “ Cây ná trắc ” của Vũ Anh Khanh
3.Phương pháp nghiên cứu
Như tên đề tài của tiểu luận, đây không phải là công trình nghiên cứu về một tác
phẩm hay một tác giả mà là nhận định một số tiểu thuyết cụ thể. Nên đề tài đòi hỏi một

cách nhìn nhận và đánh giá hết sức tổng quát và khách quan trong từng tiểu thuyết. Vì thế
công việc đầu tiên cần làm là phải đọc văn bản, tóm tắt văn bản, sau đó đưa ra nhận định
về nội dung và nghệ thuật của từng tiểu thuyết.
Tóm lại đây là đề tài khá mới mẻ chưa được các nhà nghiên cứu quan tâm sưu tầm
và tìm hiểu toàn diện. Vì thế đề tài này góp phần nhìn nhận lại một số tiểu thuyết có
nhiều đặc sắc và thêm tư liệu cho văn học Nam Bộ giai đoạn kháng chiến chống Mỹ.
CHƯƠNG I: TIỂU THUYẾT “ TRANH ĐẤU” CỦA DƯƠNG TỬ GIANG
1.Tác giả
1.1. Tiểu sử
6
Dương Tử Giang (1918-1956). Tên khai sinh Nguyễn Tấn Sĩ, sinh năm 1918, quê
gốc: huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre. Nhà văn Dương Tử Giang tham gia kháng chiến
chống Pháp ở miền Nam. Năm 1956 ông cùng các tù chính trị nổi dậy phá nhà lao Tân
Hiệp ở Biên Hòa, và hy sinh trong cuộc đấu tranh đó.
1.2.Sự nghiệp sáng tác
Ông viết văn từ trước cách mạng tháng Tám, sở trường là tiểu thuyết
Các tác phẩm đã xuất bản: Định học (tiểu thuyết, 1937), Con gà và con chó (tiểu
thuyết, 1939), Tranh đấu (tiểu thuyết, 1949), Một vũ trụ sụp đổ (tiểu thuyết, 1949), Con
Sáu Tàu Thưng (truyện thơ, 1949)
2.Tóm tắt tác phẩm
Tiểu thuyết có ba phần:
Phần 1:Tuổi thơ
Ngọc Nga là con gái út của ông hương chủ trong làng đã lên 15 tuổi. Sống trong
gia đình giàu có nhưng Ngọc Nga rất thương và thông cảm cho nỗi khổ của tá điền. Một
lần Ngọc Nga nhìn thấy cảnh anh Sáu Lạ bị ông hương quản trong làng hành hạ để chiếm
đoạt vợ của anh. Cô đã giúp đỡ vợ chồng anh nhưng không cứu được họ. Vợ chồng anh
Sáu Lạ bị tù đày vì người vợ đã cự tuyệt và giết chết ông hương quản. Sau đó Ngọc Nga
lên chùa chơi và biết được nơi cửa phật cũng có những điều không tốt lành.
Phần 2: Vào trường trung học
Ngọc Nga thi đậu vào trường Nữ học đường Sài Gòn. Ở đây cô quen được với chị

Kim Huê, người Vĩnh Long. Vì nghèo nên bị mọi người trong lớp xa lánh và sống khép
kín. Chỉ có Ngọc Nga và chị Dung thông cảm với Kim Huê. Ngọc Nga và Kim Huê hiểu
nhau hơn qua những bức thư. Trong ngày lễ phục sinh Ngọc Nga về nhà và nhận được tin
Kim Huê tự tử vì bị mọi người nghi ngờ ăn cắp tiền của Loan, bị lời lăng mạ của cô giáo
7
sư Mai. Ngọc Nga sau đó đã tìm cách trả thù cho Kim Huệ, làm cho giáo sư Mai phải
nghỉ dạy.
Phần 3:Từ hôn nhơn đến tranh đấu
Cuối năm thứ tư ở trường, Ngọc Nga đậu Thành chung. Trở về nhà bố mẹ có ý gả
chồng cho Ngọc Nga nhưng cô không chịu. Ngọc Nga mở lớp dạy học cho trẻ em trong
làng. Một hôm viên Chủ tỉnh người Pháp và viên phó Chủ tỉnh người Việt đến dự lớp học
của Ngọc Nga. Sau đó phó Chủ tỉnh nhờ người làm mai cô cho ông ta. Nga từ chối lời
cầu hôn của phó Chủ tỉnh, sau đó quen và lấy anh Trọng một người mồ côi cha mẹ, nghèo
khổ. Ngọc Nga yêu anh Trọng và biết ông phó Chủ tỉnh là người không tốt. Chuyện xảy
đến với làng Giồng Trôn, người dân bị những tên có quyền chức chiếm đoạt đất trong đó
có đất của cha mẹ và chồng của Ngọc Nga. Cô tìm cách giúp dân làng và gặp lại chị
Dung là giáo sư để tư vấn nhưng cũng không giúp được gì. Dân làng Giồng Trôn quyết
sống chết với những người dành đất của họ. Kết quả cuộc chiến tranh ấy, cha và Trọng bị
bắt, gia đình sạt nghiệp. Trọng bị kết án hai mươi năm khổ sai. Từ đó Ngọc Nga lên Sài
Gòn sống với chị Dung và hoạt động cách mạng, gặp lại Trọng và vợ chồng anh Sáu Lạ ở
Côn Đảo. Năm 1945 chiến tranh xảy ra, họ cùng hăng hái làm phận sự công dân Việt
Nam.
3.Nhận định về nội dung
3.1.Tố cáo, lên án xã hội
Tiểu thuyết “ Tranh đấu” của Dương Tử Giang tố cáo, phê phán sự bóc lột vô nhân
đạo của bọn thực dân Pháp, hách dịch, tàn nhẫn của bọn cường hào địa chủ tay sai.
Tác giả đã làm hiện lên những hành vi bỉ ổi của viên chức làng xã. Bắt người đánh
đập tra khảo, vu oan chồng để cưỡng bức vợ. Bọn hương chức trong làng dùng thế lực
của mình để chà đạp lên cuộc sống của những người tá điền nghèo khổ. Những người có
chức quyền thì bênh vưc nhau,bao che cho nhau, kẻ yếu hơn thì không dám lên tiếng

8
Vậy chớ cậu hai con ông Tổng đó làm sao? Vợ tá điền, tá viên nào có sắc mà
thoát khỏi tay cậu!. Anh nào nhắm mắt thì thôi, bằng mà hó hé thì ở tù rục xương!.
(Tuổi thơ, trang 17)
Những người có quyền hạn trong tay tự cho mình cái quyền hành hạ người khác,
hành hạ những con người không có chút quyền lực gì:
Rồi hương hào trọng lại cho đánh đập thằng Sáu Lạ trước mặt vợ nó, bắt vợ nó
phải ký tên vào lá khai thứ hai, nếu không họ sẽ đánh chết chồng nó.
(Tuổi thơ, trang 27)
Và họ còn dùng thủ đoạn bất chính để cướp ruộng đất của những người dân nghèo
khổ, nhưng con người đó chỉ biết quan tâm đến lợi ích cá nhân, tính toán, mưu lợi:
Năm tháng sau khi ông kinh lý mới đến đo đất trong làng tôi, thình lình làng tiếp
mươi lăm mẫu đất hoang trong làng và đơn ông đã được chấp thuân….
… Nguy rồi ! Trong làng đất tốt cả, có đất hoang nào đâu. Đất hoang đó, chính là
phần đất “hượt” của cha mẹ tôi, của chông tôi và của bao nhiêu người khác.
(Từ hôn nhơn đến tranh đấu, trang 116)
Người nghèo bị coi thường và khinh bỉ, bị tước đi quyền sống và làm người. Tác
giả cho chúng ta biết được sự phân biệt giai cấp vần tồn tại trong xã hội ấy:
Hiện nay, chắc nhiều người vẫn còn nhớ dạo ấy, các báo đã công nhiên tố cáo
giáo sư Phan Thị Mai đã dùng lời mỉa mai ác độc giết chết một cô học trò giỏi chỉ mang
tội…nghèo.
( Vào trường đại hoc, trang 85)
Một xã hội loạn lạc, người nghèo bị áp bức dã man. Nơi thanh bình nhất là cửa
chùa, vậy mà ở đó cũng có những việc mà người ta không thể ngờ đến:
9
Hòa thượng này còn có vợ bé nữa là khác. Mà va nhậu toàn rượu tây ! Bữa ăn
nào cũng phải có rượu tây.
(Tuổi thơ, trang 44)
Sự quay lưng của xã hội, pháp luật thi thờ ơ trước tội ác của bọn có quyền thế,
không hề nhìn thấy tội ác của những kẻ cậy quyền cậy thế:

Khi tôi cho hay pháp luật hiện hành không những không bênh vực được họ, mà
còn là một lợi khí ác độc, nguy hiểm của kẻ nghịch họ là ông hội đồng Liên,…
(Từ hôn nhơn đến tranh đấu, trang 120)
3.2.Sự phản kháng và tình người trong tác phẩm
Qua tác phẩm, tác giả cũng cho ta thấy được hình ảnh đứng lên đấu tranh đòi lại
công lý của những người nông dân nghèo khổ, họ quyết chiến đấu tới cùng với những kẻ
cậy quyền cậy thế.
Khi dân làng Giồng Trôn bị hội đồng Liên cướp đất,họ không nhẫn nhịn, chấp
nhận để mất đất:
Những lời khuyên nên nhẫn nhịn của tôi không hiệu quả gì, họ quyết sống chết
với những kẻ đên đo đất, cắm ranh mới. Chồng tôi cũng giận dữ quyết liều mạng.
( Từ hôn nhơn đến tranh đấu, trang 120)
Dù có phản kháng đi chăng nữa, thì họ vẫn không thể đứng lên trong xã hội vô
nhân đạo đó. Bởi vì họ là thành phần thấp bé không có địa vị trong tay, mãi là nạn nhân
của những kẻ lắm quyền thế.
Chị Sáu Lạ ra tay giết hương quản để giữ nhân phẩm cho mình và trả thù cho
chồng, giết chết kẻ làm hại gia đình người khác, đòi công bằng. Nhưng mình chị thì đâu
làm được gì, chị chỉ là một người phụ nữ yếu ớt không ai bênh vực cho chị và cuối cùng
chị cũng phải chịu tội :
10
Thằng hương hào Trọng là con hương quản Kỉnh, nó đánh vợ chồng Sáu Lạ bầm
mình mẩy hết.
( Tuổi thơ, trang 26 )
Và khi sự phản kháng không có kết quả, những con người nhỏ bé cũng chỉ biết tìm
đến cái chết để tránh xa xã hội này. Tránh xa những con người xấu xa, tàn nhẫn chà đạp
lên danh dự của người khác:
Tôi cũng nghĩ đến sự trấn tĩnh để phấn đấu với nghịch cảnh, nhưng tay chơn tôi
rũ riệt, thân thể tôi như rã rời. Tôi cố gom góp tinh thần lại, thì đã tản mác đi đâu cả !
Tôi thấy tôi chỉ còn có cách…chết !
( Vào trường trung học, trang 83 )

Tiểu thuyết “ Tranh đấu ”, bên cạnh tố cáo tội ác của bọn hương hào địa chủ, tác
giả còn cho chúng ta thấy được trong cái xã hội mất tình người ấy vẫn còn có một người
biết yêu thương giúp đỡ người nghèo.
Ngọc Nga khi thấy anh Sáu Lạ bị đóng trăng, cô đã cho anh ăn trong khi đó ai
cũng để mặc kệ coi như không nhìn thấy anh Sáu Lạ. Cô luôn thương xót cho số phận
những người tá điền:
Lúc ấy hương quản đang xử kiện, mấy ông hương đang xúm nhau nhậu, không ai
để ý đến người bị đóng trăng nữa. Tôi ra quán gần đó, mua một cắt cốm, mười sáu
miếng, đem vào cho anh. Nhìn anh ngốn ngấu cốm cách ngon lành, tôi nghe tim mình
nhẩy mạnh, và chốt mũi hơi nhột nhột.
(Tuổi thơ, trang 16 )
Tuy là con gái của nhà khá giả, nhưng Ngọc Nga không ỷ lại mà luôn biết quan
tâm đến những người có hoàn cảnh khó khăn hơn mình. Sau khi học xong cô mở lớp dạy
học cho bọn trẻ nhỏ nghèo khổ trong làng. Trong bức thư viết cho Kim Huê, Ngọc Nga
11
đã nói lên suy nghĩ của mình về xã hội, về những gì cô chứng kiến từ trước đến nay. Tuy
là con nhà giàu nhưng cô không bao giờ ghét bỏ người nghèo:
Em tuy cũng là con nhà giàu, nhưng đời em đã thấy lắm chuyện trái tai gai mắt
của kẻ giàu sang gây ra, mà nạn nhân là những kẻ nghèo. Em thù ghét bọn người bất
công, bất nhân kia bao nhiêu thì em thương xót quý mến đám người vô tôi này bấy nhiêu.
( Vào trường trung học, trang 54 )
Khi học xong trở về làng, Ngọc Nga mở lớp dạy học cho trẻ em nghèo, khi chiến
tranh xảy ra cô giục giã lên đường đánh giặc, bảo vệ quê hương, cuộc sống của mình.
4.Nhận định về nghệ thuật
4.1. Xây dựng nhân vật
Tác giả xây dưng nhân vật Ngọc Nga, một cô gái trẻ, là người có tri thức trong
thời bấy giờ. Khi còn bé, Ngọc Nga là một cô bé nhút nhát, ít dám đi đâu, nhưng sau đó
tác giả đã phác họa cho chúng ta thấy mọt Ngọc Nga trưởng thành hơn sau bao năm
tháng . Khi biết tim Kim Huệ chết, cô đã tìm cách đòi lại công bằng cho người nghèo như
chị Huê

Tánh tôi nhút nhát, ít dám đi đâu một mình, chỉ đến trường rồi về nhà, đến trường
chăm học, về nhà rất ham đọc truyện Tàu.
Trong trí tôi nảy ra cái ý trả thù cho chị Kim Huê và vợ chồng anh Sáu Lạ
Khi chứng kiến cảnh anh Sáu Lạ bị hành hạ, Ngọc Nga đã không giấu nổi cảm
xúc của mình, tác giả đã miêu tả tâm lý nhân vật thật sắc sảo và tài tình:
Tôi vừa “dạ”, vừa cuối đầu, chạy ngang cha tôi để giấu vẻ mặt cảm động và hai
khóe mắt ướt rượt của mình
Bằng ngòi bút của mình, hình ảnh vợ chồng anh Sáu Lạ tuy xuất hiện không nhiều
nhưng họ được tác giả miêu tả thật tinh tế:
12
Trên đệm, anh Sáu và chị Sáu nằm dài, một chân đút trong lỗ trăng. A nh Sáu chỉ
mặc một quần cụt đen. Mặt, ngực và hai bắp thịt ở vai và cánh tay của anh sưng phồng
lên và bầm tím. Mắt anh nhắm nghiền lại. Chốc chốc anh lại cựa mình và rên nho nhỏ.
Chị Sáu mặc quần lãnh len, áo túi trắng, mặt cũng bầm nhưng không sưng.
Qua bút pháp miêu tả của mình, Dương Tử Giang đã cho chúng ta thấy được hình
ảnh của những con người nghèo khổ thật đáng thương.
4.2. Kết cấu chặt chẽ, hợp lý
Tác phẩm có ba phần với kết cấu chặt chẽ, hợp lý, câu chuyện của Ngọc Nga lúc
còn bé chứng kiến những việc làm sai trái của những kẻ có chức quyền, đến khi lớn lên
cô vẫn còn thấy sự bất công ấy vẫn tồn tại va khi Ngọc Nga trưởng thành cô lấy chồng và
hoạt động cách mạng. Cốt truyện đi theo trình tự của thời gian từ lúc nhân vật chính còn
bé đến lúc trưởng thành
4.3.Ngôn ngữ thích hợp thể hiện rõ tâm lý con người Nam Bộ
Nhà văn Dương Tử Giang là người Nam Bộ,nên ta thấy ngôn ngữ Nam Bộ thể
hiện trong tác phẩm
Đang khi ăn uống, bà ngoại tôi hỏi:
-Mẹ con ở chơi vài ngày chớ?
Mẹ tôi đáp:
-Xế lại đây, phải về chớ bỏ nhà được đâu…
Bà nội tôi lắc đầu nói:

-Con đang nắng bị nắng nó ăn đen thui, về mẹ con nó rầy chết, mà nó cằn rằng
ngoại nữa đa.
13
Với kết cấu chặt chẽ, hợp lý, văn chương súc tích, ngôn ngữ thích hợp thể hiện rõ
tâm lý con người Nam Bộ, tác phẩm đã để lại ấn tượng trong lòng đọc giả.
CHƯƠNG II: TIỂU THUYẾT “ SAU DÃY TRƯỜNG SƠN” CỦA LÝ VĂN
SÂM
1Tác giả
1.1 Tiểu sử
Lý Văn Sâm (1921 …) bút danh: Bách Thảo Sương, Thanh Lý. Tên khai sinh Lý
Văn Sâm sinh ngày 17 tháng 2 năm 1921, quê gốc Bình Long, Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai.
Là Đảng viên Đảng Cộng Sản Việt Nam, Hội viên hội nhà văn Việt Nam
Trước cách mạng tháng Tám năm 1945 làm nghề lâm sản và viết báo, viết văn ở
Sài Gòn. Sau năm 1945 làm cán bộ tuyên truyền tỉnh Biên Hòa và viết báo trong Sài Gòn
bị tạm chiếm, rồi làm cán bộ đặc khu Sài Gòn, Chợ Lớn. Sau năm 1954 tiếp tục hoạt
động tại Sài Gòn, làm thư ký tòa soạn báo Văn nghệ giải phóng. Tổng thư ký Hội Văn
nghệ giải phóng miền Nam. Sau năm 1975 ông làm phó Tổng thư ký Hội liên hiệp Văn
học nghệ thuật Việt Nam, Uỷ viên Ban chấp hành hội nhà văn khóa III, Đại biểu Quốc
hội khóa VI, Chủ tịch hội văn nghệ tỉnh Đồng Nai
1.2.Sự nghiệp sáng tác
Tác phẩm đã xuất bản: Sương gió biên thùy (truyện ngắn, 1948), Mười lăm năm
hận sứ ( truyện vừa, 1948), Sau dãy Trường Sơn (truyện dài, 1949), Ngoài mưa lạnh
(truyện ngắn, 1950), Bên xuân (truyện ngắn, 1982).
2.Tóm tắt tác phẩm
Sau khi lãnh việc xây một phi trường ở nơi miền rừng núi bên Lào cho quân đội
Nhật,với ý định giúp đỡ những người phu mộ Việt trốn về quê hương, Phú đưa vợ và con
trai tên Qúi đã mười sáu tuổi rời quê hương sang Lào. Qúi sang bên Lào vẫn thường
xuyên viết thư cho Ánh Mai,người ban gái người Việt gốc Lào về những việc xảy ra với
14
cậu. Phú kể cho Ánh Mai biết về nhũng ngôi chùa đẹp lộng lẫy, về tục hỏa táng của người

Lào, kể về đất nước Lào, về công việc mà ba Qúi phải làm.
Đến cuối tháng sáu, Phú bị bệnh nặng. Tùy, người bạn thân của Phú thay anh tiếp
tục công việc, nhưng một phần năm phu mộ tìm đường trốn mất, công việc đình đốn. Qúi
quen biết với Danh Sum, một phu mộ, hai người rất thân thiết với nhau. Vào một đêm ở
Phou Ta Cốc, một nhà cách mạng trước khi chết trao Phú một bản đồ vẽ một ngôi mộ
mang số 28 nằm trong nghĩa địa Việt Nam, nơi dấu sẵn súng chờ ngày khởi nghĩa. Tùy
tưởng đó là một bản đồ chỉ chỗ kho báu nên lén ám hại Phú nhưng Phú không chết. Phú
gặp lai Qúi,kể lai sự việc đã xảy ra với mình. Qua bức thư của Ánh Mai, Qúi biết được
chú Tùy đã chết trong sự hối hận về những gì đã làm với cha cậu. Vì sự nghiệp giải
phóng dân tộc, Phú tiễn Qúi và Danh Sum lên đường ra đi cứu nước.
3.Nhận định về nội dung
3.1.Tình yêu quê hương đất nước
Khi đất nước bị xâm lăng, những người Việt Nam yêu nước luôn canh cánh trong
lòng với nỗi niềm tha thiết quê hương đất nước sớm giành thắng lợi.
Họ chọn những việc nguy hiểm khó khăn để được thỏa chí hướng
Quê hương đất nước là nơi chôn nhau cắt rốn của mỗi người. Dù có đi đâu thì
những hình ảnh về quê hương mãi không phai trong mỗi con người chúng ta. Đất nước
loạn lạc do chiến tranh, những người yêu Tổ quốc ra đi tìm đường cứu nước luôn hướng
về quê hương với những hồi ức của mình. Qúi thấy nhớ quê hương khi nhìn thấy những
cơn sùi bọt nước Cửu Long bên xứ Lào, hình về quê hương đang trong chiến tranh loạn
lạc:
Rồi những ngày u-ám đã tới xứ Lào với những cơn sùi-bọt trên sóng nước Cửu-
Long, thì trong lòng Qúi cũng có một cảnh quê-hương chìm trong mưa gió.
15
Phú cùng vợ con sang bên Lào làm cai thầu cho Nhật. Trong lòng Phú luôn luôn ấp ủ sự
nghiệp giải phóng quê hương, đất nước khỏi ách thống trị của bọn thực dân trong lòng
chờ cơ hội đến sẽ hành động:
Ba tiếc vì con còn khờ quá. Ba không thể nói cho con nghe những điều ba muốn
nói.Hiện nay việc nước đã đến một giai đoạn mới. Không bao lâu nữa, người Nhật sẽ
bại-trận…Nhưng thôi tai vách mạch rừng. Ba không thể nói gì hơn nữa trong khi bóng

quân-đội Phù-Lang còn ở trong nước
3.2.Hình tượng người chiến sĩ cách mạng
Lý Văn Sâm đã xây dựng hình tượng nhân vật Phú là một người có trách nhiệm
với công việc dù bị bệnh nặng mới khỏi nhưng anh vẫn tiếp tục công việc mình đang làm
Phú gắt :
_ Mình nói dại ! Lương tâm nhà nghề không cho ta lơ là với phận sự. Không làm
việc thì thôi, khi đã làm thì phải tận tâm, tận lực. Ngày mai tôi sẽ bắt tay tiếp tục công
việc.
Khi ra đi chiến đấu trong chiến trường ác liệt đầy đạn bom, những người chiến sĩ
cách mạng luôn cố gắng chiến đấu hết mình để mang về vinh quang cho Tổ quốc thân
yêu:
Trọn mấy hôm nay có lẽ bà con lo lắng cho tánh mạng chúng tôi lắm. Xin bà con
cứ yên lòng bọn anh hùng ở Hòang Sơn thôn lúc nào cũng chiến đấu anh dõng, lúc nào
cũng sẵn sàng chết làm nấc thang cho toàn thể dân tộc bước tới thắng lợi cuối cùng.
Ông già ở Phou Ta Cốc, trước khi chết vẫn không quên nhiệm vụ đang dang dở
của mình, ông chết trao lại cho Phú tấm bản đồ cất giữ vũ khí, một con người cả đời vì sự
nghiệp giành độc lập dân tộc, đến lúc trút hơi thở cuối cùng ông vẫn mong sự nghiệp
cách mạng của ông sẽ tiếp tục vì Tổ quốc.
16
Ông già trao cho Phú một bản địa đồ có vẽ nhiều chữ bí mật, hình như là chữ
Phạn. Ông ra hiệu cho Phú cúi đầu xuống sát tai mình rồi phều phào nói:
-Nghĩa địa Việt Nam!
… Lễ an táng vị lão anh hùng được cử hành cấp tốc. Chung quanh mộ ông, tiến
súng vẫn còn lác đác nổ.
4.Nhận định về nghệ thuật
Tác giả xây dựng nhân vật có ý thức, biết yêu mến tổ quốc, quê hương nhưng vì
tác giả quá chú trọng đến cách diễn tả anh hùng, cao thượng nên nhiều khi tâm lý nhân
vật quá bộc lộ để trở thành tự cao. Chẳng hạn, lời than của một người cách mạng, có
khuynh hướng anh hùng cá nhân Phou Ta Cốc.
Cuộc đời tôi lận đận nhiều, khi còn ẩn náu ở quê người cho tới khi về nước, không

bao giờ tôi ngưng một phút chiến đấu.
Hoặc lời khoe khoang của Phú:
Tôi đã nghĩ ngay đến vợ con, nhưng đã can đảm đi theo việc lớn cho tròn sứ
mạng.
Với cái nhìn tinh tế của mình, tác giả đã miêu tả cảnh rừng núi sau dãy Trường
Sơn thật tuyệt đẹp, những hình ảnh thiên nhiên được tác giả vẽ nên ở nước Lào thật lãng
mạn:
Rừng chai mùa này thật đẹp. Hoa nở trắng rừng. Trên mặt đất, một lớp bông
rụng dày như một lớp nệm…
Dưới hông núi, một rừng hoa trang đang nở. Màu đỏ chói mắt
Và tác giả vẫn còn để ngòi bút mình đi lang thang, mô tả rừng núi, công việc,
nguồn gốc lịch sử giống người Thái, lòng nhớ thương, để rồi cuối cùng trước khi chấm
dứt câu chuyện, tác giả kéo ngòi bút về con đường chiến đấu, bằng cách diễn tả cảnh lên
đường của hai người thanh niên Quý và Danh Sum, bạn của Quý, với lời dặn của người
cha:
17
Giàu sang không hôn mê, võ lực không khiếp phục, nhớ nhé ! Ta ở bên nầy bờ
sông xây hy vọng dưới chân núi Trường Sơn, đợi các con mang huân nghiệp trở về
Chương III: Tiểu thuyết “Đầm Ô Rô” và “Cây ná trắc” của Vũ Anh Khanh
1.Tác giả
1.1.Tiểu sử
Vũ Anh Khanh (1926_1956) tên thật là Võ Anh Khanh, sinh năm 1926 tại Bình
Thuận. Ông là một nhà văn điển hình, xuất sắc nhất trong thời kháng chiến chống Pháp
Trong giai đoạn từ 1945 đến 1950, Vũ Anh Khanh là cây bút chuyên viết truyên
ngắn và tiểu thuyết. Trước năm 1945, ông sống ở Sài Gòn cùng hoạt động văn nghệ với
Lý Văn Sâm, Dương Tử Giang, Thẩm Thệ Hà trong nhóm văn học yêu nước.
Năm 1954, ông tập kết ra Bắc và mất ngoài đó năm 1956.
1.2.Sự nhiệp sáng tác
Tác phẩm của ông gồm: Nửa bồ xương khô (truyên dài, 1949), Cây ná trắc (tiểu
thuyết, 1947), Ngũ Tử Tư (truyện ngắn, 1949), Đầm Ô-rô (tiểu thuyết, 1949), Bên kia

sông (1949)…
2.Tóm tắt tác phẩm
2.1 Tiểu thuyết “Đầm Ô-Rô”
Miếng đỉnh-chung
Thơ và Hoàng là vợ chồng nhưng Thơ luôn coi Hoàng là người xấu, trọng tiền tài,
ham miếng đỉnh chung, những việc làm của Hoàng đều khó hiểu. Sau khi đọc bức thư
của Phổ người yêu cũ của Thơ nhờ Hoàng gởi lại cho Thơ trước lúc chết, Thơ mới biết
lâu nay nàng nghĩ sai vể chồng. Sau khi trò chuyện với chồng nàng biết đựơc Hoàng
hoạt động cách mang bí mật, Thơ cảm thấy yêu và tin tưởng chồng hơn bất cứ lúc nào.
. Hối tắc
18
Huyền là cô gái ham chơi bạc xỉu. Một hôm đánh thua hết tiền nhưng vẫn không
chịu về đứng lại xem người ta đánh cho đỡ ghiền. Huyền gặp ông khách cũng đánh bạc
xỉu như Huyền nhưng trúng đậm. Người khách lạ rủ Huyền đi với ông ta, Huyền đi theo
ông khách lạ như cái máy vào nhà nghỉ để qua đêm cùng người khách để có tiền bù lại số
tiền mà mình đã thua. Huyền vào nhà nghỉ với tâm trạng lo lắng, hồi hộp vì đây la lần
đầu Huyền đi với người đàn ông xa lạ, nhưng người đàn ông không làm gì cô cả mà đã
khuyên nhủ cho Huyền, giúp cho Huyền nhận ra giá trị cuộc sống và biết tránh xa cám dỗ
cuộc đời.
Đầm Ô Rô
Qúy là con gái lớn của bà Phú. Chiều ba mươi Tết, con gà để cúng tổ tiên bị mất,
bà Phú sai Qúy và em trai tên Nhân đi tìm gà. Hai chị em Qúy vào rừng tìm gà thấy nó đã
sạch nhẵn lông treo trên đống lửa. Hai chị em Qúy nhìn thấy hai người tù binh của Nhật
vừa thoát ngục đã làm thịt con gà. Một người bị thương nặng đang nằm rên rỉ và người
kia ngồi cạnh bên chăm sóc. Qúy và Nhân cảm động với số phận của họ, giấu mẹ giúp đỡ
hai người tù binh. Ngày mùng một Tết quân Nhật đang đi lung, Qúy dẫn ông khách ra
đầm Ô Rô trốn, ngươì bị thương ở lại trong kho thóc nhà mình. Đêm mùng hai Tết người
bạn ông khách lạ tắt thở trong gian nhà thóc. Ông khách lạ cùng với Qúy và Nhân chon
cất cho người bạn của mình , đám tang của người vô phước âm thầm dưới bầu trời sương
giá. Qúy và Nhân xót xa thương cho người đã chết. Ngày mùng ba Tết ông khách lạ tạm

biệt chị em Qúy ra đi trong sự quyến luyến của Qúy và Nhân
Ma-thiên-Lãnh
Son người phụ nữ đã có chồng ham mê cờ bạc ở Sài Gòn. Chồng Son không hay
biết gì những việc vợ làm. Son vốn hiền lành, xinh đẹp, chung thủy với chồng, chồng rất
yêu Son. Rồi Son quen với dì bảy đã đưa cô vào con đường cờ bạc và sống xa đọa từ lúc
nào không biết. Vào một đêm thua bạc, hết tiền Son đi tìm mối để có tiền xài tạm đỡ. Son
tìm được một ông khách qua đêm và cho cô một tờ giấy xăng xanh. Một ngày nọ khi
19
đang ở Ma-thiên-Lãnh chờ khách Son lại gặp chính người chồng của mình, chồng Son
bất ngờ về vợ đã bỏ đi, để lại Son trong đêm khuya lạnh giá.
Khổ nhục kế
Chúa Nguyễn Phúc Sãi sống trên đỉnh núi Bạch Mã, đứng nhìn kinh thành Thuận
Hóa sống trong cảnh yên bình, Chúa nghĩ đến những chuyện đã qua, mối thù của cha với
Trịnh Kiểm. Chúa theo cha vào đất Thuận Hóa, thấm bao nhiêu là máu căm hờn để có
được ngày bình yên như hôm nay. Lôc Khuê Hầu Đào Duy Từ nghe tin Chúa thâu nạp
một viên tướng Trịnh, chàng tỏ ý không đồng lòng vì mối thù xưa, kể cho Chúa nghe
chuyện Trọng Thủy, phụ tình yêu Mỵ Châu, phản cha vợ cắp nỏ thần đem về đất Triệu.
Lộc Khuê Hầu khuyên Chúa nên cẩn thận với tướng Trịnh. Chúa và Lộc Khuê Hầu quyết
định không giết tướng Trịnh vì lòng nhân của người Việt.
Tóc thề
Ba năm trước, Phấn trút bỏ bộ áo nữ sinh trường “Áo tím”, nàng theo đoàn
quân sống lăn lốc những ngày nhiều mưa để làm nữ cứu thương. Ngày hòa bình Phấn trở
về với mái tóc hớt ngắn, vẻ bề ngoài thay đổi nhiều. Đang rảo bước nhanh trên phố Phấn
bất chợt nghĩ tới hình ảnh người chiến sĩ tên Hương, một thi sĩ trẻ tuổi không gia đình,khi
Tổ quốc gặp nguy, chàng vất bút ra đi. Phấn yêu thầm Hương, hai người có những kỉ
niệm bên nhau. Hương cắt những sợi tóc của Phấn bỏ vào đĩa bạc cất kĩ. Nhưng chàng thi
sĩ vẫn lạnh lùng, đến khi trúng đạn gần chết, anh lấy ra cái hộp đựng tóc của Phấn và mẹ.
Anh rất quý những sợi tóc ấy, tóc thề của Phấn và người mẹ đáng kính. Trước khi chết
Hương nhờ Phấn đem cái hộp tóc ấy cùng vài giọt máu khô một chút đất ở mộ anh cùng
bài thơ của Phấn thêu đem về thành phố tìm người anh trai của Hương. Phấn về thành

phố không tìm được anh trai của Hương và đã khóc rất nhiều, nguyện mang theo chiếc
hộp mãi bên mình cho đến lúc chết.
2.2.Tiểu thuyết “Cây ná trắc”
20
Cây Ná Trắc là câu chuyện ghi lại một vài nếp sinh hoạt kháng chiến của người
dân làng Khánh Thiện ở miền duyên hải. Khi bọn Nhật tiến đến đây, những thanh niên,
thiếu nữ yêu nước đã tổ chức cuộc canh phòng, báo động, nghênh chiến để mong cản trở
phần nào sự phá hoại của địch, Bảo, Tảo, Đình là những công dân quan trọng của nhóm
dân quân này.
Từ ngày quân đội Nhật Bản tuân lệnh Đồng Minh trở về chiếm thành phố, làng
Khánh Thiện gần thành phố nên dân làng luôn sống trong cảnh phập phồng lo sợ. Chiều ở
làng Khánh Thiện, đường đất cát đang vắng bỗng có vẻ rộn ràng nhộn nhịp khi người dân
trong làng nghe một hồi tù và sừng trâu rúc dài, báo hiệu có lính nhảy dù làm mọi người
trong làng chạy thình thịch. Phụ nữ và trẻ em chạy ẩn nấp, thanh niên chuẩn bi vũ khí
đánh giặc, từng nhóm họp hành, thi nhau chạy nước rút. Tảo đang ăn cơm với vợ con
nghe thấy báo động cũng chạy ra đường xem tình hình rồi quay trở lại tìm cây dáo để đi
đánh giặc. Tảo gặp Bảo một ủy viên quân sự và biết được đó là tiếng báo động nhầm,
mọi người không phải lo lắng nữa. Đêm hôm đó Tảo ở lại cùng Bảo bàn kế hoạch phòng
thủ và chuẩn bị vũ khí.
Tảo từng thi vào lớp sĩ quan ở Thủ Dầu Một, với dáng người ốm dong dỏng cao
nhưng khỏe vô cùng. Vì bị nghi ngờ, chàng bị quân Nhật bắt và xem như tù binh. Tảo
bây giờ trở về làng sống với vợ con bằng nghề chài luới. Tảo làm thầy giáo của lớp bình
dân học vụ dạy chữ cho mọi người, xóa nạn mù chữ cho làng.
Một hôm Tảo và Bảo gặp Niềm, môt cậu thanh niên mồ côi cha mẹ, quê làng mọi
Bù Đốp.Cha chết để lại cho Niêm một cây ná trác, Niềm kể lại hoàn cảnh của mình và
xin vào giúp việc trong đoàn thanh niên. Anh em trong đoàn gọi Niềm là “thanh niên
mới” ai cũng thán phục tài sử dụng cây ná trắc của Niềm. Tảo thương và xem Niềm như
em dẫn về nhà nuôi, dạy cho học. Niềm mến và rất quý Tảo, kể cho Tảo nghe về tình cảm
của mình dành cho Nhàn, người con gái Niềm thầm yêu.
Bảo và Đình đến nhà Tảo bàn việc vẽ lên những vách tường vôi trắng trong làng

những câu châm ngôn, vẽ những vị anh hùng đã chết vị Tổ quốc. Tảo gặp Hồ, chị đã góp
21
ý cho Tảo vẽ thêm hình ảnh người đàn bà vào bức tranh sơn dầu trên tường để bức tranh
có ý nghĩa hơn. Tảo hỏi thăm Hồ về An đã đi bộ đội hai năm nay.
Có bộ đội sắp về, trai gái trong làng háo hức đón mừng chuẩn bị tiết mục văn
nghệ. Mấy chị em trong làng chăm chỉ vá lại mấy chiếc áo rách xin được từ những người
trong làng cho bộ đội.
Làng Khánh Thiện đang vui vẻ bỗng phủ trùm không khí sợ hãi nặng nề khi có
một chiếc tàu chạy gần bờ làm mọi người ai cũng chuẩn bị tư thế sẵn sàng chiến đấu
nhưng chiếc tàu chỉ trốn gió và nhổ neo đi ra khơi. Một ngày nọ, Tảo nhận được tin anh
An người yêu chị Hồ đi bộ đội đã chết vì bị phong đòn gánh. Tảo đến nhà cụ tổng Chánh
chia buồn và tìm chị Hồ an ủi.
Súng nổ dồn ở khắp các mặt trận, Biểu và chị Hồ từ giã anh em đi tác chiến. Tảo
và Đình tiễn biệt anh em quân sĩ lên đường lòng nặng trĩu. Tết gần đến nhưng phụ nữ
trong làng với trẻ em đi chạy giặc nơi khác, đàn ông trong làng ở lại bảo vệ làng chiến
đấu với giặc.Tảo, Bảo, Đình, Niềm đón tết trong hoàn cảnh loạn lạc nhưng đầy tình anh
em.Năm nay, một cảnh chết, tang thương vương vấn trong xóm, nhà nào cũng váng bóng
người
Tảo từ biệt vợ con lên đường nhập ngũ cùng Niềm, vợ Tảo khóc rất nhiều khi nghĩ
đến những người bạn của Tảo ra đi không có tin về. Tảo và Niềm ra đi trong niềm hy
vọng ngày hòa bình trở lại trên làng Khánh Thiện. Một thời gian sau đó Tảo nhận được
thư của Hồ và biết được mọi người vẫn bình an, lòng Tảo vui mừng khôn xiết.
Trong một trận chiến đấu với giăc. Niềm đã trúng đạn, vết thương nặng quá nên
Niềm không qua khỏi. Niềm ra đi trong sự tiếc thương của mọi người, trước khi chết
Niềm tặng Tảo cây ná trắc yêu quí và cũng thổ lộ luôn lòng mình rằng đến nay vẫn còn
yêu Nhàn, một người con gái không bao giờ yêu mình và đã đi lấy chồng. Tảo nhìn Niềm
xót xa, cầm cây ná trắc Niềm tặng trước lúc chết, hai dòng nước mắt của Tảo chảy dài
xuống má.
22





3.Nhận định về nội dung
Tiểu thuyết “Đầm Ô Rô” và “Cây ná trắc” của Vũ Anh Khanh cho chúng ta thấy
được tác phong những người kháng chiến là những người đã ý thức được bổn phận mình
để hy sinh mình cho vinh quang dân tộc. Bộ mặt trái của đô thành với những ung nhọt
ghẻ lở, bỉ ổi xấu xa, vì chứa đựng những người không có ý thức, không chú ý đến sự
nguy vong của Tổ quốc. Qua đó đề cao kháng chiến lý tưởng hoá người đi chống giặc, họ
thường hành động đẹp đẽ, đáng yêu không vụ lợi, hy sinh, bình tĩnh, biết bỏ những lợi
lộc cũng như những ràng buộc hiện tại để theo chánh nghĩa, họ chỉ biết Tổ quốc nặng và
ái tình nhẹ.Đặc biệt hình ảnh người con gái ở đây, chung thuỷ, thùy mỵ, có tình yêu bao
la và hướng về những người kháng chiến.
3.1.Những con người thiếu ý thức trong xã hội
Vũ Anh Khanh lên tiếng phản ánh những kẻ thờ ơ lúc Tổ quốc nguy vong, hay
chạy theo phú quý vinh hoa, tô đậm thêm những bỉ ổi do chính quyền thống trị đề xướng
trong đô thành như cờ bạc, đỉ điếm, làm nhục chí khí người dân. Bức tranh đô thị nhiều tệ
nạn đối lập với nông thôn đối măt với những khó khăn của chiến tranh.
Thành phố là nơi ồn ào, nơi tập trung của những thành phần ưu đãi của xã hội, họ
sống dễ dàng vì nơi đây đồng tiền dễ kiếm, chiến tranh cũng như lùi bước trước ánh sáng
kinh kỳ, người dân không có nỗi lo về đời sống khó khăn, nếu sinh kế bắt họ phải bon
chen với đời thì nỗi nhọc nhằn nầy cũng không phải là bao so với nỗi khổ của người dân
quê nơi thôn dã. Họ cũng không phải lo lắng đạn vô tình, có thể xuyên qua vách lá lúc
nào, để làm cho cảnh gia đình ly tán. Cảnh chiến trường hiếm lắm mới xảy ra ở đây, cho
nên họ dễ dàng quên để nghĩ rằng mình sống trong cảnh thanh bình. Từ đó, con người
buông trôi theo cuộc sống tranh đua nhau làm đẹp, làm sang, quên đi nhục vong quốc. Dễ
dãi đời sống, con người muốn tìm lúc căng thẳng thần kinh, họ đua nhau đùa giỡn với
23
tiền, từ đó lòng tham nổi dậy, buông trôi theo việc cờ bạc, ăn xài xa hoa. Họ không làm gì
hơn là chen chúc nhau trong xòng tài xỉu, xa xa tiếng súng nổ, người dân ngã gục dưới

họng súng của quân thù dường như là một cảnh xa lạ, không lien quan gì với họ. Người
ta chỉ chú ý mình, đến vận mệnh mình qua những con lúc lắc vô tri, qua những rủi may
vô nghĩa; để cuối cùng một chút tự do còn xót lại của đời mình cũng mất luôn.
Khi thua, người con trai làm bậy, thụt két, trộm cắp, cướp giựt, rồi vào tù. Đó là
nỗi khổ vật chất mà họ phải gánh chịu vì trót mê say cuộc đỏ đen. Người con gái gặp
cảnh nầy khổ sở hơn vì họ có thể nhơ nhớp cuộc đời vì túng phải làm tiền: đem thân
mình đổi như tờ giấy nhèo nhò, vô nghĩa lý, để rồi chuốc sự rẽ khinh của ngay cả người
cung cấp cho mình những tờ giấy ấy.
Ông khách ẳm Son lên lòng, khẽ nựng rằng:
- Em có chồng chưa?
Ngập ngừng, Son trả lời:
- Có rồi.
- Sao em làm nghề nầy?
- Vì em thua nhiều quá!
Ông khách cười:
- Hỏi các cô thì cô nào cũng vậy. Thua bạc, ai bảo đi đánh?
( Đầm Ô Rô, trang 41)
Nhưng không phải một người, hai người làm việc nầy, họ là căn bệnh của thời đại,
căn bệnh của những người vô trách nhiệm, không ý thức được nhưng việc minh đang
làm. Người ta lăn xả vào những cuộc vui có hại như những con thiêu thân lăn xả vào ánh
đèn…
… Nào có phải gì mình Son đâu? Saigon bây giờ cờ bạc thạnh hành, thì lẽ tất
nhiên theo luật tuần hoàn trai sinh ra trộm cắp, gái sinh ra điếm đàng.
Hàng trăm “hộp đêm” lén lút mở cửa và cứ mỗi chiều có năm, mười cô gái còn
trẻ thua bạc, ngẩn ngơ neo thuyền đậu lại một bến Tầm Dương.
Từ đấy, chờ giờ chồng đi làm, Son mặc áo hoa thêu gọi xe đi về phố X…tìm đường
vào Ma Thiên Lãnh để “bắt mối” kiếm tiền.
24
(Đầm Ô Rô – Ma Thiên Lãnh, trang 43)
Đó là những lời chê trách của Vũ Anh Khanh với những người đã buông trôi đời

mình vào vô nghĩa, lời chê trách còn khắt khe hơn khi ông nhìn đến những người dững
dưng trước cuộc tranh đấu của dân tộc. Họ chỉ mảy mê chạy theo đồng tiền, chạy theo
cách làm cho mình giàu hơn, khá hơn. Họ không biết rằng giữa lúc muôn người xả thân
cho tổ Quốc, đem máu xương của mình chống chọi với kẻ thù, mọi việc mưu tìm lợi lộc
cho chính mình là việc bần tiện khả ố, vì quốc gia là của chung mọi người, quốc gia mất
thì một vài cá nhân giàu có cũng không ích lợi gì và trước sau gì họ cũng bị áp bức, giết
chóc. Đó là chưa kể họ đã không làm tròn bổn phận với quốc gia, chưa xứng đáng với sự
hy sinh của những người đã ý thức…
Người chung quanh sẽ khinh bỉ họ, chán ghét, xa lánh, kể cả người đầu gối tay ấp
với mình, có một chút nghĩ suy
…Ba năm binh lửa, chàng ra đi, Thơ ở lại lấy chồng. Chồng Thơ là gã ngu phu,
thường trọng tiền tài hơn danh dự, thường quên chuyện lớn mà là lo việc cá nhân. Chồng
Thơ xấu, Thơ cũng phải mang tiếng xấu lấy.
… Những chuyện của chồng làm, Thơ không để ý đến. Thơ chỉ biết rằng chồng
Thơ thường đi nhiều, có đêm suốt sáng, thường nghĩ ngợi nhiều có vẻ lo lắng. Thơ cho
rằng chồng hay đi đêm với gái, nghĩ nhiều chắc là tìm cách làm tiền. Trong cơn quốc
biến biết bao nhiêu người đã đành lòng đứng ra ngoài lề mà chạy theo miếng đỉnh
chung, quên danh dự làm người, quên bao dòng máu đã chảy vì ai!
(Đầm Ô-Rô , Miếng Đỉnh Chung, trang 9)
3.2.Ca ngơị những con người ý thức được bổn phận của mình trong chiến tranh đối
với Tổ quốc
Bên cạnh phê phán những con ngừơi sống buôn thả, không ý thức được những gì
mình đã làm, tác giả đã ca ngợi những con người có ý thức, trách nhiêm với Tổ quốc, làm
tròn bổn phận của người công dân Việt Nam
Người ý thức là trai, gái, già, trẻ, không cần, điều quan trọng là họ biết nghĩ suy,
trong cơn quốc biến, không thể dửng dưng sống cho mình, vui thú cho bản thân. Họ là
25
những người tha thiết với quê hương mình, dám vứt bỏ tất cả để đi theo tiếng gọi của quê
hương, bỏ sau lưng mình cuộc đời đang lên, tươi đẹp, bỏ tất cả tuổi hoa mộng đang hé tay
chờ đọi để giúp đở phần nào những người chiến sĩ đã xả thân cho quê hương.

Một chiều thu tang tóc. Mây xám ngoẹn ở lưng chừng trời. Khói loạn ly bắt đầu
sấy đen những chiếc lá úa rụng xuống khắp các ngả đường.
Ngày ấy Phấn ra đi.
Nàng đã trút bỏ bộ áo nữ sinh trường “Áo tím”, thay vào một bộ vải ta đen to sợi
dệt. Phấn theo đoàn quân sống lăn lóc những ngày nhiều mưa gió Từ một nữ học sinh
nhảy qua đời nữ cứu thương, Phấn thấy mình thay đổi rất nhiều. Nàng đã tìm lẽ sống
trong một cuộc đổi thay, một đời sống mới. Ngày ngày, được băng bó những vết thương
cho các chiến sĩ tiền tuyến. Phấn hay để lòng xót xa cho họ và tìm được chân lý của sự
hy sinh: lòng thương người và tình yêu nước.
(Đầm Ô Rô – Tóc Thề, trang 55-56)
Hình ảnh sau đây còn đáng nể hơn nhiều, người thanh niên, sau khi bị thương, biết
mình sắp chết không ân hận, không buồn bã mà còn tìm trong đó một ý nghĩa, ý nghĩa họ
đã biết trước khi lao thân vào cuộc đời tranh đấu:
Tôi không còn sống được bao ngày nữa! Thầy thuốc đành bó tay trước vết thương
quá nặng. Thôi thế cũng hay, ít ra tôi cũng đã ghi lại trên đời một cái gì không để tủi cho
vong hồn tổ tiên. Còn việc sống hay chết đối với một chiến sĩ nào có nghĩa gì.
(Đầm Ô Rô - Miếng Đỉnh Chung – trang 11)
Đó là hành động và tư tưởng của người anh hùng, kẻ đã quyết chí hy sinh, không
phải lúc ấy chỉ có một người, hai người, mà là một con số rất lớn, gần như hầu hết những
người tay lấm chân bùn, những người rất ít được ân sủng của xã hội là được sống trong
cảnh yên lành, dễ dàng cuộc sống, tiện nghi của tiến bộ, họ là những dân quê, hiền lành,
chất phác, nhưng sức sống dồi dào mãnh liệt, ý chí cương quyết vô bờ, gặp cảnh ngửa
nghiêng, họ không suy nghĩ gì hơn là phải làm thế nào để ngăn chận bước đường tiến của
quân giặc, không cho bọn thực dân lộng hành

×