Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Phân tích ảnh hưởng của việc cung cấp dịch vụ ngoài kiểm toán đến tính độc lập của kiểm toán viên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (226.73 KB, 25 trang )

GVHD: Th.S Nguyễn Thị Thanh Huyền

1
MỤC LỤC
SVTH: Huỳnh Thị Mai Ly
Đề án môn học
GVHD: Th.S Nguyễn Thị Thanh Huyền

2
LỜI MỞ ĐẦU
Cùng với xu thế chung của thời đại quốc tế hoá và sự hợp tác hoá, nước ta cũng
đang cuốn theo dòng xoáy sự phát triển hội nhập nền kinh tế thế giới. Sự gia nhập của
nước ta vào WTO đánh dấu bước phát triển và thách thức lớn đó là sự cạnh tranh tự do
và mạnh mẽ của các tập đoàn kinh tế, thị trường chứng khoán ngày càng bùng nổ. Trong
bối cảnh đó, kiểm toán là một trong những ngành, một trong những lĩnh vực thương mại
dịch vụ được quan tâm. Việc công khai hoá các bản khai tài chính được chứng nhận trung
thực hợp lý bởi một bên hoàn toàn độc lập đã khiến cho kiểm toán ngày càng trở nên phổ
biến đối với doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế. Nhưng một thực tế hiện nay là do cạnh
tranh giữa các công ty kiểm toán nên họ đã đua nhau hạ phí kiểm toán và tất nhiên, điều
này làm cho chất lượng của cuộc kiểm toán không còn được đảm bảo. Trong khi đó, mức
phí thu được từ việc cung cấp các dịch vụ ngoài kiểm toán như tư vấn thuế, thiết kế hệ
thống kiểm soát nội bộ cho khách hàng lại chiếm phần lớn trong doanh thu của các công
ty kiểm toán. Vậy vấn đề đặt ra là việc cung cấp dịch vụ ngoài kiểm toán ảnh hưởng như
thế nào đến tính độc lập của kiểm toán viên chắc hẳn là điều mà đông đảo các nhà đầu tư,
cũng như ban quản lý nhà nước quan tâm.
Từ đó vấn đề kiểm toán viên, nâng cao tính độc lập của kiểm toán viên là hết sức
cần thiết cho việc một báo cáo tài chính minh bạch. Vì vậy em đã chọn đề tài “Phân tích
ảnh hưởng của việc cung cấp các dịch vụ ngoài kiểm toán (tư vấn thuế, thiết lập hệ
thống kiểm soát nội bộ, ) đến tính độc lập của kiểm toán viên” làm đề tài cho đề án
môn học của mình.
Những kiến thức có được và qua thời gian nghiên cứu trong đề án em xin được


trình bày trong 3 phần :
Phần I: Cơ sơ lý luận về tính độc lập của kiểm toán viên và những ảnh hưởng của
việc cung cấp dịch vụ ngoài kiểm toán đến tính độc lập của kiểm toán viên
Phần II: Liên hệ phân tích một sự kiện vi phạm tính độc lập đối với kiểm toán viên
do cung cấp dịch vụ ngoài kiểm toán cho công ty khách hàng.
Phần III: Một số đề xuất nhằm hạn chế ảnh hưởng của việc cung cấp dịch vụ ngoài
kiểm toán đến tính độc lập của kiểm toán viên
SVTH: Huỳnh Thị Mai Ly
Đề án môn học
GVHD: Th.S Nguyễn Thị Thanh Huyền

3
PHẦN I: CỞ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÍNH ĐỘC LẬP CỦA KIỂM TOÁN
VIÊN VÀ NHỮNG ẢNH HƯỞNG CỦA VIỆC CUNG CẤP DỊCH VỤ
NGOÀI KIỂM TOÁN ĐẾN TÍNH ĐỘC LẬP CỦA KIỂM TOÁN
VIÊN
1.1 Những yêu cầu và vai trò của kiểm toán viên
1.1.1 Vai trò của kiểm toán viên
Thông tin kế toán rất quan trọng đối với những người có liên quan đến doanh
nghiệp. Những người có nhu cầu sử dụng về các thông tin đó như là ngân hàng hay các
nhà đầu tư muốn đầu tư vào doanh nghiệp đó sẽ có những quyết định về việc có nên
đầu tư tiếp hay không với tình trạng tài chính của công ty như vậy, đối với các khách
hàng hoặc nhà cung cấp thì những thông tin kế toán về khả năng chi trả và hoạt động
kinh doanh của công ty sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến việc kinh doanh của họ, do vậy họ
cũng sẽ rất quan tâm đến những thông tin trên các báo cáo tài chính đã được kiểm toán.
Kiểm toán viên cung cấp cho chúng ta một sự xác nhận về tài sản, nguồn vốn, doanh
thu, chi phí… có trung thực khách quan hay không, dựa trên các ý kiến mà họ đưa ra
trên báo cáo kiểm toán.
Kiểm toán viên giúp cho những người bên ngoài có niềm tin đối với các thông tin
tài chính đã được kiểm toán, bởi vì nó được chứng thực bởi các kiểm toán viên sau khi

họ đã phát hiện ra sai sót và có ý kiến trên báo cáo kiểm toán.
Kiểm toán giúp cho đơn vị phát hiện ra các sai phạm và đề ra hướng giải quyết cho
doanh nghiệp, góp phần củng cố nề nếp tài chính. Thông qua việc thu thập bằng chứng
và các phương pháp phân tích tỷ suất, kiểm toán viên sẽ phát hiện ra những sai phạm
trong công tác kế toán, cũng như tình trạng tài chính của công ty, từ đó có những
hướng dẫn và tư vấn cho họ về công tác kế toán. Điều này được thể hiện trong chức
năng bày tỏ ý kiến.
Kiểm toán viên giúp cho doanh nghiệp cải thiện những chính sách và chiến lược để
đạt được hiệu quả kinh doanh cao.
Kiểm toán viên không những đánh giá về các sai phạm trong công tác kế toán và đề
ra hướng giải quyết mà họ còn cung cấp những dịch vụ khác như tư vấn tài chính, các
dịch vụ về kế toán…
Khi báo cáo tài chính được phát hành cùng báo cáo kiểm toán, nó khẳng định tính
chất pháp lý của những thông tin mà doanh nghiệp công bố ra bên ngoài. Nó đảm bảo
rằng những thông tin trên báo cáo tài chính là trung thực và khách quan hay không.
1.1.2 Những yêu cầu đối với kiểm toán viên
Kiểm toán viên là một nghề, giống những nghề khác như bác sĩ, giáo viên, kĩ sư. Nó
đòi hỏi trình độ chuyên môn cũng như đạo đức nghề nghiệp. Kiểm toán viên làm công
việc là kiểm tra độc lập, bày tỏ ý kiến về các thông tin trình bày trên báo cáo tài chính.
Đây là một lĩnh vực khoa học chuyên môn có phạm vi rộng, đòi hỏi người làm kiểm
SVTH: Huỳnh Thị Mai Ly
Đề án môn học
GVHD: Th.S Nguyễn Thị Thanh Huyền

4
toán có một trình độ chuyên môn nhất định. Có như vậy, kiểm toán viên mới có thể
đưa ra đuợc những ý kiến kiểm toán đúng đắn hữu ích trong việc ra quyết định của
người sử dụng báo cáo tài chính. Bên cạnh đó, có thể thấy kiểm toán là một lĩnh vực
hoạt động mang tính chủ quan, bởi căn cứ vào các bằng chứng thu thập được, kiểm
toán viên dựa trên các kinh nghiệm và óc xét đoán nghề nghiệp của mình để đưa ra ý

kiến về các thông tin trình bày trên báo cáo tài chính. Chất lượng của một cuộc kiểm
toán sẽ có ảnh hưởng lớn đến những người sử dụng kết quả kiểm toán trong việc ra
quyết định tài chính, trong khi những người sử dụng báo cáo tài chính thông thường
không thể đánh giá được công việc kiểm toán. Với tầm quan trọng của kiểm toán viên
trong vấn đề kiểm toán nên mỗi quốc gia đều có những yêu cầu về trình độ chuyên
môn và đạo đức nghề nghiệp đối với những người làm nghề kiểm toán.
1.1.2.1 Yêu cầu về trình độ chuyên môn
Năng lực chuyên môn là nhân tố quan trọng đối với kiểm toán viên. Năng lực
chuyên môn cao hay thấp sẽ ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng của cuộc kiểm toán, bởi
nó ảnh hưởng đến khả năng của kiểm toán viên trong việc đánh giá tính trung thực hợp
lý của các thông tin trên báo cáo tài chính, phát hiện ra các sai phạm và đưa ra ý kiến kiểm
toán hợp lý. Do đó kiểm toán viên phải có năng lực, kĩ thuật và kĩ năng đặc biệt. Điều đó
đạt được thông qua việc kết hợp giữa quá trình đào tạo phổ thông với các hiểu biết về
nghiệp vụ đạt được thông qua tự nghiên cứu và các chương trình đào tạo chính thức được
kết thúc bằng các kì thi có cấp chứng chỉ cũng như các kinh nghiệm thực tiễn đã được
kiểm nghiệm đúng đắn. Hơn nữa, kiểm toán viên phải tiếp tục nhận thức được sự phát
triển về kế toán, kiểm toán qua các văn bản chuyên ngành thích hợp do quốc gia và quốc
tế công bố cũng như các quy định có liên quan và các yêu cầu của pháp luật.
Ngoài ra, trong điều kiện nền kinh tế tài chính thế giới ngày càng quốc tế hóa sâu
rộng, kiểm toán viên cần phải thông thạo ngoại ngữ để có thể trao đổi với khách hàng
để công việc kiểm toán có thể diễn ra thuận lợi và các báo cáo kiểm toán có giá trị quốc
tế. Mặt khác khoa học kĩ thuật, công nghệ thông tin ngày càng phát triển, máy tính trở
nên phổ biến kiểm toán viên cần phải có kĩ năng tin học, thành thạo các phần mềm kế
toán… Kĩ năng giao tiếp cũng là một kĩ năng quan trọng của kiểm toán viên. Có được
một nghệ thuật giao tiếp tốt, kiểm toán viên sẽ tránh được những hiểu lầm, tạo thuận
lợi trong việc thu thập các số liệu làm bằng chứng kiểm toán và nhất là có thể duy trì
một mối quan hệ tốt đẹp và lâu dài giữa công ty kiểm toán và khách hàng kiểm toán.
1.1.2.2 Yêu cầu về đạo đức nghề nghiệp của kiểm toán viên
Trình độ chuyên môn là một yêu cầu không thể thiếu của kiểm toán viên trong việc
đưa ra ý kiến của mình đối với báo cáo tài chính. Song bên cạnh đó kiểm toán hoạt

động mang tính chủ quan, kiểm toán viên căn cứ vào những bằng chứng thu thập được
và kiểm toán viên dựa vào những kinh nghiệm nghề nghiệp và óc phán xét để đưa ra
những ý kiến nhận xét trên báo cáo tài chính. Do vậy thì chỉ trình độ chuyên môn chưa
đủ kiểm toán viên cần phải có một cái tâm trong sáng.
SVTH: Huỳnh Thị Mai Ly
Đề án môn học
GVHD: Th.S Nguyễn Thị Thanh Huyền

5
Vấn đề đạo đức nghề nghiệp của kiểm toán viên với niềm tin của công chúng đang
là vấn đề thách thức với nghề kiểm toán trong thế kỉ 21 này sau ảnh hưởng của vụ bê
bối tài chính năm 2001 và 2002. Đây không phải là vấn đề mà chỉ một số nước gặp
phải mà là vấn đề của tất cả các tổ chức của tất cả các nước.
Chuẩn mực kiểm toán số 200 về “Mục tiêu và nguyên tắc cơ bản chi phối kiểm toán
báo cáo tài chính” có quy định: “Kiểm toán viên phải tuân thủ các nguyên tắc đạo đức
nghề nghiệp kiểm toán như sau: độc lập, chính trực, khách quan, năng lực chuyên môn
và tính thận trọng, tính bí mật, tư cách nghề nghiệp, tuân thủ chuẩn mực chuyên môn”.
1.1.2.2.1 Tính độc lập
Tính độc lập được xem như là phẩm chất chủ yếu nhất của kiểm toán viên. Bởi thái
độ độc lập phụ thuộc vào hai yếu tố là bản chất thực của kiểm toán viên và cách nhìn
nhận công chúng đối với kiểm toán viên. Có thể bản chất của kiểm toán viên là không
cho phép bất cứ yếu tố nào ảnh hưởng tới tính độc lập của mình, ngay cả khi kiểm toán
viên có dính líu về mặt kinh tế hoặc tình cảm với đơn vị được kiểm toán. Tuy nhiên chỉ
bản chất thì vẫn chưa đủ mà phải đảm bảo về mặt hình thức thể hiện. Chẳng hạn, một
kiểm toán viên có dính líu về mặt kinh tế hoặc quan hệ nhân thân thì dù có thực bản
chất của kiểm toán viên là độc lập, công chúng vẫn cho rằng không đảm bảo tính độc
lập. Những người sử dụng báo cáo kiểm toán phải tin vào tính độc lập và sự vô tư của
kiểm toán viên trong việc đánh giá và đưa ra ý kiến trên báo cáo tài chính coi nó như là
một căn cứ về tính trung thực và hợp lý của các báo cáo tài chính của doanh nghiệp để
đưa ra những quyết định tài chính kinh tế đúng đúng đắn.

1.1.2.2.2 Tính chính trực, khách quan
Kiểm toán viên phải là người thẳng thắn, trung thực và có lương tâm nghề nghiệp,
phải là người trong sáng không được phép để cho sự định kiến thiên lệch lấn át tính
khách quan. Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp quy định chính trực là kiểm toán viên
phải thẳng thắn, trung thực trong tư tưởng, có chính kiến rõ ràng, đồng thời phải công
bằng, tín nhiệm, không có xung đột về lợi ích. Khách quan là kiểm toán viên phải công
bằng, tôn trọng sự thật và không được thành kiến thiên vị.
1.1.2.2.3 Tính thận trọng
Chuẩn mực này đòi hỏi kiểm toán viên phải luôn đa nghi nghề nghiệp chẳng hạn
như luôn đặt ra những câu hỏi cho các dấu hiệu nghi ngờ, phân tích các bằng chứng và
đánh giá hoặc để khẳng định, hoặc loại bỏ những nghi ngờ đó. Thận trọng nghề nghiệp
thích đáng cho phép kiểm toán viên đảm bảo một cách hợp lý rằng các các báo cáo tài
chính không còn tồn tại các sai phạm trọng yếu.
1.1.2.2.4 Tính bảo mật
Tính bảo mật của kiểm toán viên là phải tôn trọng các bí mật của những thông tin
đã thu thập được trong quá trình kiểm toán, không được để lộ bất cứ thông tin kiểm
toán nào cho người thứ ba khi không có sự ủy quyền đặc biệt hoặc có trách nhiệm pháp
lý, trách nhiệm nghề nghiệp yêu cầu phải công bố. Như vậy, trong quá trình tiến hành
cuộc kiểm toán, kiểm toán viên thu được một số lượng đáng kể thông tin bảo mật, gồm
SVTH: Huỳnh Thị Mai Ly
Đề án môn học
GVHD: Th.S Nguyễn Thị Thanh Huyền

6
cả lương của các viên chức, quá trình định giá sản phẩm, các kế hoạch quảng cáo, và
số liệu chi phí sản phẩm Nếu kiểm toán viên tiết lộ những thông tin này cho những
người ở bên ngoài hoặc cho các nhân viên của công ty khách hàng (là những người
không được quyền tiếp cận với các thông tin đó), thì mối quan hệ giữa kiểm toán viên,
công ty kiểm toán với ban giám đốc công ty khách hàng sẽ bị căng thẳng nghiêm trọng
và trong trường hợp cực đoan có thể sẽ làm tổn hại đến công ty khách hàng. Vì những

lý do trên, việc cẩn trọng để bảo vệ các bản tư liệu mật của công ty khách hàng là rất
quan trọng.
Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp quy định kiểm toán viên có nghĩa vụ tôn trọng
nguyên tắc bảo mật các thông tin về khách hàng thu được trong quá trình kiểm toán, kể
cả sau khi kết thúc hợp đồng kiểm toán. Trừ khi thông tin cần được cung cấp cho cơ
quan chức năng có liên quan hoặc trách nhiệm nghề nghiệp hoặc luật pháp yêu cầu
phải báo cáo, kiểm toán viên không được tiết lộ thông tin, không được sử dụng các
thông tin này để thu lợi cá nhân hoặc thu lợi cho bên thứ ba. Kiểm toán viên không
được công bố thông tin bảo mật về khách hàng kể cả thông tin khác nếu không được sự
đồng ý của công ty khách hàng. Như vậy, kiểm toán viên có thể cung cấp thông tin cho
người khác chỉ khi được sự cho phép của công ty khách hàng. Đây là một điều kiện bắt
buộc, kể cả trong trường hợp kiểm toán viên bán kết quả làm việc của mình cho một
công ty kiểm toán khác hoặc muốn cho phép người kiểm toán viên kế tục xem xét tư
liệu lập cho công ty khách hàng trước đây.
1.1.2.2.5 Tư cách nghề nghiệp và tuân thủ các chuẩn mực kiểm toán
Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp quy định kiểm toán viên phải trau dồi và bảo
vệ uy tín nghề nghiệp, không được gây ra những hành vi làm giảm uy tín nghề nghiệp.
Hành vi làm mất tín nhiệm không được định nghĩa rõ ràng trong các nguyên tắc
của chuẩn mực, một vài hành vi sau của kiểm toán viên có thể được xem là ví dụ (theo
văn bản hướng dẫn thi hành chuẩn mực đạo đức của Viện kiểm toán độc lập Hoa Kỳ):
• Kiểm toán viên giữ lại sổ sách của khách hàng sau khi một đòi hỏi không
được đáp ứng là một hành vi làm mất tín nhiệm. Ví dụ, giả sử ban quản trị công ty
khách hàng không trả thù lao cho công ty kiểm toán và do đó các kiểm toán viên từ
chối trả lại sổ sách của khách hàng.
• Một công ty kiểm toán phân biệt đối xử giữa các chủng tộc, màu da, tôn giáo,
giới tính, tuổi tác, hoặc quốc tịch cũng được xem là một hành vi làm mất tín nhiệm.
• Nếu một kiểm toán viên đồng ý thực hiện kiểm toán ở một cơ quan Nhà nước,
mà cơ quan này qui định các thể thức kiểm toán khác với các chuẩn mực kiểm toán đã
được thừa nhận, thì trách nhiệm đối với uy tín nghề nghiệp thể hiện ở chỗ kiểm toán
viên phải tuân thủ cả các thể thức của cơ quan Nhà nước đó và các chuẩn mực kiểm

toán đã được chấp nhận, trừ khi báo cáo kiểm toán được diễn đạt bằng một cách khác.
Trong tất cả mọi ngành nghề, chuẩn mực chính là những nguyên tắc hay quy tắc
tối thiểu mà các thành viên của một nghề tuân theo và xem đó như là cơ sở để đánh giá
chất lượng công việc. Chuẩn mực kiểm toán là những quy phạm pháp lý, là thước đo
SVTH: Huỳnh Thị Mai Ly
Đề án môn học
GVHD: Th.S Nguyễn Thị Thanh Huyền

7
chung chất lượng công việc kiểm toán và dùng để điều tiết những hành vi của kiểm
toán viên và các bên hữu quan theo hướng đạo và mục tiêu xác định. GAAS là những
chuẩn mực có hiệu lực mà kiểm toán viên phải tuân thủ khi tiến hành kiểm toán và là
cách thức đảm bảo chất lượng công việc kiểm toán. Có 3 nhóm chuẩn mực chính mà
kiểm toán viên cần phải tuân thủ là:
 Nhóm chuẩn mực chung
 Nhóm chuẩn mực thực hành
 Nhóm chuẩn mực báo cáo
1.2 Tính độc lập của kiểm toán viên
1.2.1 Khái niệm về tính độc lập của kiểm toán viên
Theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam:
Độc lập là nguyên tắc cơ bản của nghề kiểm toán, và trong quá trình hành nghề
kiểm toán, kiểm toán viên phải thực sự không bị chi phối hoặc tác động bởi bất kỳ lợi
ích vật chất hoặc tinh thần nào.
Kiểm toán viên phải luôn luôn tỏ ra có thái độ vô tư, độc lập trong khi tiến hành
công việc cũng như khi lập báo cáo kiểm toán. Nếu có sự hạn chế về tính độc lập của
kiểm toán viên thì kiểm toán viên phải tìm cách loại bỏ sự hạn chế đó, nếu không được
thì phải nêu vấn đề này trong báo cáo kiểm toán.
Chuẩn mực này cũng đồng thời khẳng định, kiểm toán viên không được nhận làm
kiểm toán cho đơn vị mà mình có quan hệ kinh tế hoặc có quyền lợi kinh tế như góp
vốn cổ phần, cho vay, hoặc vay vốn từ khách hàng, hoặc là cổ đông chi phối của khách

hàng…; kiểm toán viên không được nhận làm kiểm toán cho những công ty khách hàng
mà mình có quan hệ nhân thân; kiểm toán viên không được cung cấp dịch vụ kiểm toán
cho đơn vị khách hàng mà mình cung cấp các dịch vụ tư vấn khác.
1.2.2 Phân biệt tính độc lập thực sự và độc lập bề ngoài
Trong kiểm toán, điều cơ bản không phải là sự đòi hỏi kiểm toán viên bao giờ cũng
giữ một thái độ độc lập khi thực thi trách nhiệm của mình mà còn cả những người sử
dụng các báo cáo tài chính phải có niềm tin vào tính độc lập đó. Hai mục đích này
thường được coi là tính độc lập thực sự và tính độc lập bề ngoà i .
-Tính độc lập thực sự có khi mà kiểm toán viên thực tế có khả năng duy trì thái độ
vô tư trong suốt quá trình kiểm toán. Tính độc lập thực sự chịu ảnh hưởng bởi rất nhiều
yếu tố tuy nhiên có thể nói điều quan trọng nhất là bản thân người kiểm toán viên phải
tự tu dưỡng thì mới có được.
-Tính độc lập bề ngoài là kết quả của những lời giải thích của những người khác về
tính độc lập đó. Nó cũng chính là thái độ của những người khác về quá trình hành nghề
của kiểm toán viên.
Tính độc lập thực sự và tính độc lập bề ngoài là hai khía cạnh hoàn toàn khác nhau
nhưng chúng có mối quan hệ rất chặt chẽ với nhau. Chẳng hạn, nếu kiểm toán viên độc
lập thật sự nhưng những người sử dụng lại tin rằng họ là những người biện hộ cho
khách hàng thì phần lớn giá trị của cuộc kiểm toán sẽ bị mất.
SVTH: Huỳnh Thị Mai Ly
Đề án môn học
GVHD: Th.S Nguyễn Thị Thanh Huyền

8
1.2.3 Sự thể hiện của tính độc lập trong từng loại hình kiểm toán
1.2.3.1 Tính độc lập của kiểm toán viên nhà nước
Khác với kiểm toán độc lập, đối với loại hình kiểm toán Nhà nước thực hiện chức
năng kiểm toán dưới sự quản lý của Nhà nước. Tính độc lập không phải là khái niệm
dùng cho một cá nhân cụ thể mà để nói chung cho cả cơ quan kiểm toán, bởi vì họ
không thực hiện kiểm toán một cách độc lập như các kiểm toán viên độc lập.

Theo Tổ chức quốc tế các Cơ quan kiểm toán tối cao (INTOSAI) thì cơ quan kiểm
toán Nhà nước phải "duy trì tính độc lập” của mình trước những ảnh hưởng về chính
trị, không đáp lại cũng như không có biểu hiện phản ứng lại đối với các ý muốn về lợi
ích chính trị.
Chúng ta không quan niệm rằng, độc lập của kiểm toán Nhà nước Việt Nam là độc
lập về chính trị hay phi chính trị, bởi vì trên hành tinh này, các Nhà nước theo những
chế độ chính trị khác nhau, các cơ quan Nhà nước lập ra trước hết là phục vụ cho mục
đích chính trị của Nhà nước đó. Do đó, Kiểm toán Nhà nước Việt Nam không thể độc
lập về chính trị được.
Trong chế độ chính trị xã hội của nước ta, tính độc lập của Kiểm toán Nhà nước
cũng không phải là tính độc lập có ngoại trừ không bị kiểm tra lại, không được quyền
từ chối những yêu cầu của Quốc hội và Chính phủ, không được làm ngơ trước những
quan điểm hay lợi ích chính trị của cá nhân, cơ quan hay tổ chức nào trái với Hiến
pháp, pháp luật của Nhà nước và các quan điểm của Đảng cộng sản Việt nam. Vì vậy,
tính độc lập của Kiểm toán Nhà nước được thể hiện như sau:
 Độc lập ở việc điều hành tổ chức bộ máy và kiểm toán viên của mình để thực
hiện nhiệm vụ kiểm toán đã được phân giao trong các văn bản làm căn cứ pháp lý.
 Độc lập trong việc thực thi chức năng, ở đây có hàng loạt nội dung khác nhau
như: xác định mục tiêu kiểm toán, lựa chọn đối tượng, xác định quy trình kiểm toán,
phương pháp thực hiện, xác định giới hạn phạm vi kiểm toán, lập kế hoạch kiểm toán
 Độc lập trong việc bảo vệ chính kiến của mình, công bố thông tin kiểm toán
không thuộc bí mật quốc gia đối với các cơ quan mà Kiểm toán Nhà nước thấy cần
thiết cũng như công bố cho nhân dân biết, gửi các báo cáo kiểm toán đến các cơ quan
kiểm toán đến các cơ quan cũng như không bày tỏ ý kiến khi chưa có bằng chứng tin
cậy về một hiện tượng nào đó.
 Không tham gia vào các quyết định quản lý hành chính, quyết định về kinh tế
của các doanh nghiệp , không chịu trách nhiệm về các hành vi quản lý, sử dụng tài sản
Nhà nước, tình trạng lãi lỗ của các Doanh nghiệp Nhà nước, tự chịu trách nhiệm trước
Nhà nước và pháp luật Nhà nước về các kết luận kiểm toán, các thông tin kiểm toán đã
đưa ra và hành vi của đoàn và kiểm toán viên khi thực thi nhiệm vụ sai trái với pháp

luật.
 Độc lập với cơ quan xét xử: Kiểm toán Nhà nước không làm "quan tòa" xét xử
các vi phạm pháp luật, làm tổn thất công quỹ, nhưng là "quan tòa" phán quyết các hành
vi vi phạm pháp luật làm tổn thất công quỹ đã được kiểm toán lượng hóa và có quyền
SVTH: Huỳnh Thị Mai Ly
Đề án môn học
GVHD: Th.S Nguyễn Thị Thanh Huyền

9
yêu cầu các cơ quan, tổ chức được kiểm toán phải khắc phục sửa chữa các yếu kém và
kiểm tra lại việc sửa chữa đó như thế nào.
 Việc chuyển thông tin cho cơ quan xét xử là cần thiết nhưng việc thực hiện yêu
cầu kiểm toán của cơ quan xét xử hay không thì do Kiểm toán Nhà nước lựa chọn, cơ
quan Kiểm toán Nhà nước không can thiệp cũng như không tham gia vào việc xét xử
các vi phạm pháp luật về tài chính công.
 Độc lập với các hoạt động tài chính của các cơ quan tài chính, của các Bộ,
UBND, các Doanh nghiệp Nhà nước và tổ chức xã hội có nghĩa vụ nhận tài trợ của
ngân sách Nhà nước.
 Độc lập về các ý kiến tư vấn của mình cho quốc hội và chính phủ về những vấn
đề liên quan đến kế toán, báo cáo tài chính, nói rộng ra là các vấn đề liên quan đến tài
chính công khi Quốc hội và Chính phủ có yêu cầu.
 Độc lập trong việc tìm kiếm bằng chứng kiểm toán và phán quyết đúng sai,
không chịu một áp lực nào từ phía khác mà chỉ căn cứ vào pháp luật hiện còn hiệu lực
các nguyên tắc, chuẩn mực để đưa ra các kết luận trong các báo cáo kiểm toán cũng
như các kiến nghị, yêu cầu của mình.
 Trong quan hệ với các cơ quan kiểm toán tối cao của các Nhà nước và các tổ
chức kiểm toán quốc tế và khu vực, Kiểm toán Nhà nước Việt Nam là cơ quan công
quyền có tư cách pháp nhân để xử lý các mối quan hệ với các cơ quan tổ chức này.
1.2.3.2 Tính độc lập của kiểm toán viên độc lập
Đây là lĩnh vực mà tính độc lập được thể hiện rõ nét nhất vì công việc kiểm toán

được thực hiện bởi các kiểm toán viên độc lập do đó tính độc lập thể hiện ở chất lượng
kiểm toán.
Có ba cách để tính độc lập của kiểm toán viên được bộc lộ ra: độc lập trong việc lên
chương trình, độc lập điều tra và độc lập làm báo cáo. Mỗi điều này có ý nghĩa vô cùng
quan trọng đối với sự tin cậy của kiểm toán viên.
 Độc lập trong việc lên chương trình:
Thể hiện: kiểm toán viên có quyền độc lập lựa chọn chiến lược cơ bản vận dụng
vào cuộc kiểm toán.
Nhân tố ảnh hưởng: Một điều tất nhiên là báo cáo kiểm toán sẽ không có giá trị,
trừ khi nó được xác nhận bằng một kết quả điều tra kỹ lưỡng. Tuy nhiên, điều này cũng
có thể là những bất lợi cho ban quản trị đơn vị khách hàng khi họ có những điều cần
che giấu. Thực vậy, nếu ban quan trị đơn vị khách hàng muốn che giấu điều gì đó, thì
họ sẽ giảm đến mức tối thiểu khả năng khám phá ra nó. Ngay cả trong trường hợp
không có gì để che giấu, thì đơn vị khách hàng vẫn muốn giảm tối thiểu chi phí kiểm
toán cũng như công bố báo cáo tài chính của mình một cách sớm nhất khi kết thúc năm
tài chính. Nếu kiểm toán viên có thể bị thuyết phục giảm bớt công việc thực hiện trong
quá trình kiểm toán, thì điều đó có thể tác dụng đến việc giảm chi phí kiểm toán hay
đến thời hạn hoàn thành cuộc kiểm toán.
SVTH: Huỳnh Thị Mai Ly
Đề án môn học
GVHD: Th.S Nguyễn Thị Thanh Huyền

10
Như vậy, kiểm toán viên phải được tự do sắp xếp theo cách mà họ thấy là thích
hợp. Quyền tự do này đặc biệt quan trọng trong bối cảnh mối quan hệ của công ty kiểm
toán và đơn vị khách hàng đang trên đà phát triển. Cách tiếp cận của kiểm toán viên
cũng phải thay đổi cho phù hợp với tình hình khi mà công ty khách hàng phát triển lên
hay mở rộng ra các lĩnh vực mới. Hơn nữa, các kỹ thuật kiểm toán mới không ngừng
được phát triển lên. Không thể chấp nhận để một bên nào đó cản trở quá trình kiểm
toán trong việc lựa chọn chiến lược cơ bản mà kiểm toán viên có ý định sử dụng vào

công việc của họ.
 Độc lập điều tra:
Thể hiện: Việc độc lập trong việc lên chương trình đảm bảo cho kiểm toán viên có
thể lựa chọn chiến lược phù hợp nhất cho công việc kiểm toán của mình. Độc lập trong
điều tra, thực hiện kiểm toán sẽ đảm bảo cho họ thực hiện chiến lược của mình . Kiểm
toán viên phải có quyền tự do tiếp cận các tài liệu và sổ sách ghi chép của công ty. Mọi
câu hỏi đặt ra về hoạt động của công ty đều được phúc đáp đầy đủ.
Nhân tố ảnh hưởng: Việc chúng ta nhấn mạnh luận cứ cho rằng kiểm toán viên
không bị hạn chế trong việc thu thập bằng chứng kiểm toán là ý tưởng cho rằng công
việc kiểm toán cần được thực hiện với sự hợp tác đầy đủ của ban lãnh đạo cũng như
cán bộ công nhân viên của công ty đó. Nếu kiểm toán viên cho rằng họ gặp khó khăn
trong quá trình thu thập bằng chứng kiểm toán mà họ cần, thì công việc kiểm toán có
thể trở nên tốn kém hơn rất nhiều. Tuy nhiên, điều này cũng có thể gây ra những ấn
tượng xấu cho những người quan tâm, do vậy điều này sẽ làm cho uy tín của các giám
đốc không còn tốt nữa.
 Độc lập làm báo cáo:
Thể hiện: kiểm toán viên phải khách quan, trung thực trong việc nêu ý kiến trên cơ
sở kết quả công việc kiểm toán mà mình đã thực hiện.
Nhân tố ảnh hưởng: Nếu các giám đốc đã muốn lừa dối những người quan tâm
bằng cách công bố những thông tin sai lệch hay không đầy đủ, thì chắc chắn họ sẽ
không muốn để cho các kiểm toán viên công khai ra điều đó. Đó là lúc mà sự độc lập
của kiểm toán viên trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Phần lớn những bất đồng đều
bắt đầu từ những ý kiến, quyết định chủ quan, như cách giải quyết một tiêu chuẩn kế
toán hay là một con số ước tính, như khoản dự phòng cho những khoản khó đòi. Nếu
kiểm toán viên cứ khăng khăng không nhất trí với khách hàng thì điều đó cũng không
đảm bảo rằng kiểm toán viên sẽ nhận được sự ủng hộ của các cổ đông khi họ có những
quan điểm chung với giám đốc vì một mục tiêu nào đó. Kiểm toán viên thường hay bị
cám dỗ theo con đương ít bị chống đối một cách đơn giản là ngả theo ý kiến ban quản
trị khách hàng trong tất cả những mâu thuẫn, ngoại trừ những bất đồng cơ bản nhất.
Làm như vậy là kiểm toán viên tránh được sự trừng phạt có thể bị đe doạ bởi ban quan

trị doanh nghiệp. Tuy nhiên, lại có nguy cơ sẽ bị trừng phạt nghiêm khắc hơn nếu như
bị phát hiện, thế nhưng điều đó chưa chắc sẽ xảy ra. Dĩ nhiên, việc làm này sẽ gây ra
những sai lầm cho người sử dụng báo cáo tài chính đã được kiểm toán vì khi đó báo
SVTH: Huỳnh Thị Mai Ly
Đề án môn học
GVHD: Th.S Nguyễn Thị Thanh Huyền

11
cáo kiểm toán sẽ được trình bày một cách mơ hồ, khó hiểu.Trong trường hợp như vậy
việc tiến hành kiểm toán sẽ bị giảm thiểu ý nghĩa vốn có của nó.
1.2.3.3 Tính độc lập của kiểm toán viên nội bộ
Kiểm toán viên nội bộ có tính độc lập khi họ có thể tiến hành công việc một
cách tự do và khách quan. Tính độc lập cho phép kiểm toán viên nội bộ cung cấp phán
xét vô tư và không thiên vị, cần thiết cho sự điều hành đúng đắn cuộc kiểm toán.
Tính độc lập hiếm khi là vấn đề đối với các kiểm toán viên độc lập vì họ không
phải là nhân viên của công ty đang được kiểm toán nhưng kiểm toán viên nội bộ lại là
những người làm việc trong công ty đó, chính vì vậy tính độc lập có thể bị ảnh hưởng
do các yêu cầu của Ban quản trị và giám đốc công ty.
Kiểm toán viên nội bộ chỉ có trách nhiệm báo cáo với các cấp lãnh đạo mà
không chịu sự ràng buộc của bất kỳ bộ phận nghiệp vụ nào khác.
Tính độc lập của kiểm toán viên nội bộ phải được thể hiện ở trách nhiệm đối với
công ty, vì họ làm việc cho công ty nên phải có trách nhiệm phát hiện kịp thời những
thiếu sót trong hoạt động tài chính của công ty, để từ đó có nhứng kiến nghị với ban
quản trị nhằm xây dựng công ty ngày càng tốt hơn.
1.2.4 Các nhân tố ảnh hưởng đến tính độc lập của kiểm toán viên
1.2.4.1 Các lợi ích tài chính
-Các lợi ích tài chính được thể hiện trong các quan hệ sở hữu trực tiếp và quan hệ sở
hữu gián tiếp. Cụ thể, hai khái niệm này có thể được hiểu như sau:
 Quan hệ sở hữu trực tiếp: Là quan hệ mà kiểm toán viên có sở hữu một số cổ
phần trong công ty khách hàng hoặc là các thành viên khác trong gia đình của kiểm

toán viên đó.
 Quan hệ sở hữu gián tiếp: Là quan hệ gần nhưng không trực tiếp giữa công ty
khách hàng và kiểm toán viên. Thí dụ: Khi một công ty kiểm toán tiến hành kiểm toán
một quỹ tương trợ có cổ phần, mà một người chung vốn trong công ty kiểm toán lại có
trong danh mục đầu tư của công ty khách hàng của cá nhân người đó.
Mặc dù trước đây đã có lần chấp nhận cho các kiểm toán viên sở hữu một lượng
cổ phần giới hạn trong công ty khách hàng, nhưng ngày nay điều đó được xem như là
một yếu tố ảnh hưởng đến tính độc lập của công tác kiểm toán và chắc chắn có khả
năng ảnh hưởng đến những nhận thức của người sử dụng về tính độc lập của kiểm toán
viên.
Theo nguyên tắc 101 (Tính độc lập) trong điều lệ đạo đức của AICPA:
Một hội viên hoặc một công ty mà ở đó anh ta là người chung vốn hoặc là cổ đông thì
sẽ không được diễn đạt ý kiến về các báo cáo tài chính của một doanh nghiệp trừ khi
anh ta và công ty của anh ta độc lập với doanh nghiệp đó.
*Tính độc lập sẽ được xem là bị vi phạm nếu, ví dụ:
Trong thời kỳ mà hợp đồng chuyên nghiệp của anh ta còn hiệu lực, hoặc vào thời điểm
mà anh ta trình bày quan điểm, anh ta hoặc công ty của anh ta:
SVTH: Huỳnh Thị Mai Ly
Đề án môn học
GVHD: Th.S Nguyễn Thị Thanh Huyền

12
 Có hoặc được ủy thác để nhận bất kỳ một khoản lợi ích tài chính trực tiếp hoặc
khoản lợi ích tài chính trọng yếu gián tiếp nào ở doanh nghiệp đó, hoặc
 Là người được ủy thác của bất kỳ tài sản nào hoặc người chấp hành hoặc người
quản lý của bất kỳ bất động sản nào, nếu tài sản đó hoặc bất động sản đó có nhận hoặc
được gắn với bất kỳ một khoản lợi ích tài chính trực tiếp hoặc khoản lợi ích tài chính
trọng yếu gián tiếp nào ở doanh nghiệp đó, hoặc
 Có chung vốn đầu tư kinh doanh với doanh nghiệp hoặc với bất kỳ quan chức,
giám đốc hoặc cổ đông chính nào của doanh nghiệp đó mà có quan hệ quan trọng đối

với tổng giá trị tài sản ròng của anh ta hoặc công ty của anh ta, hoặc
 Có bất kỳ một khoản vay hoặc khoản nợ đối với doanh nghiệp hoặc với bất kỳ
quan chức, giám đốc, hoặc cổ đông chính nào của doanh nghiệp đó. Điều cấm cuối
cùng này không áp dụng cho các khoản vay từ một cơ quan tài chính khi thực hiện theo
các quy định, phương thức và thủ tục cho vay thông thường dưới đây:
• Khoản vay của một hội viên hoặc công ty của anh ta mà không trọng yếu so với
tổng giá trị tài sản ròng của người đi vay đó.
• Sự cầm cố trong nước.
• Các khoản vay có thế chấp khác ngoại trừ các khoản vay được đảm bảo bởi công
ty của một hội viên mà không được đảm bảo bằng cách nào khác.
1.2.4.2 Chi phí kiểm toán
Kiểm toán viên có thể duy trì tính độc lập thực sự hoặc độc lập bề ngoài hay
không nếu thù lao kiểm toán được thanh toán tùy thuộc vào Ban quản trị của công ty
được kiểm toán. Thực tế cho thấy, nếu một doanh nghiệp hoạt động, khi kiểm toán
phải trả một khoản chi phí lớn cho công ty kiểm toán thì có thể ảnh hưởng đến tính độc
lập của các kiểm toán viên vì các kiểm toán viên và công ty kiểm toán phần nào phụ
thuộc tài chính đối với công ty được kiểm toán. Chi phí kiểm toán có thể là yếu tố
khiến cho những ảnh hưởng của ban quản trị và giám đốc công ty đối với ý kiến của
kiểm toán viên là rất lớn. Tuy nhiên chúng ta không thể nói rằng kiểm toán viên phụ
thuộc hoàn toàn vào thù lao mà công ty khách hàng chi trả và chúng ta cũng không thể
đo lường được điều đó nhưng chúng ta vẫn có thể khẳng định rằng kiểm toán viên khó
có thể giữ được trạng thái độc lập
1.2.4.3 Mối quan hệ
Khi kiểm toán viên có mối quan hệ cá nhân của họ với những ngời trong bộ máy
quản lý của đơn vị được kiểm toán cho dù mối quan hệ này có thể là trực tiếp hay gián
tiếp do những người quen biết giới thiệu, tạo cho họ có một khoản lợi ích thì tính độc
lập cũng bị ảnh hưởng. Ngay cả khi điều này không tác động đến tính độc lập của kiểm
toán viên thì khó có ai tin rằng anh ta sẽ độc lập thật sự.
1.2.4.4 Sự kiêm nhiệm
SVTH: Huỳnh Thị Mai Ly

Đề án môn học
GVHD: Th.S Nguyễn Thị Thanh Huyền

13
Nếu kiểm toán viên vừa làm công tác kế toán như trực tiếp ghi sổ, giữ sổ kế toán
và lập báo cáo tài chính vừa làm công tác kiểm toán thì tính độc lập cũng bị ảnh hưởng.
Sự bất kiêm nhiệm luôn là yếu tố quan trọng trong việc quản lý. Kiểm toán và kế toán
là hai lĩnh vực độc lập hoàn toàn với nhau theo yêu cầu của quản lý, báo cáo tài chính
sẽ không còn đáng tin cậy khi nó do cùng được một cá nhân lập và sau đó là xác minh
và bày tỏ ý kiến. Tất nhiên, trong thời kỳ ngày nay, các nhân viên kiểm toán tất nhiên
sẽ không được làm việc tại công ty mà mình kiểm toán nếu như công việc đó hoàn toàn
không phải là công tác kiểm toán nhưng khó có thể kiểm soát được điều này.
1.2.4.5 Tranh chấp giữa công ty kiểm toán và khách hàng
Khi có một vụ kiện tụng hoặc khả năng sinh ra một vụ kiện tụng giữa công ty
kiểm toán và khách hàng của họ , khả năng công ty kiểm toán và khách hàng còn giữ
được tính độc lập, khách quan là rất đáng nghi vấn. Thí dụ: nếu Ban quản trị kiện công
ty kiểm toán, khiếu nại một khuyết điểm trong lần kiểm toán trước, công ty kiểm toán
sẽ không được xem là độc lập đối với lần kiểm toán trong năm hiện hành. Tương tự,
nếu công ty kiểm toán kiện Ban quản trị vì sự quản lý lừa đảo hoặc dối trá, tính độc lập
cũng bị mất.
Vụ kiện từ phía khách hàng liên quan tới thuế hoặc các dịch vụ không phải là
kiểm toán khác, hoặc vụ kiện cả công ty khách hàng và công ty kiểm toán từ một thành
phần khác, cũng thờng không làm hại đến tính độc lập. Tuy vậy, việc xem xét chính
trong tất cả các vụ kiện này thường không làm ảnh hưởng khả dĩ đến khả năng giữ
vững tính khách quan và bình luận một cách thoải mái của Ban quản trị công ty khách
hàng và toàn thể nhân viên của công ty kiểm toán.
1.2.5 Ảnh hưởng của tính độc lập đến chất lượng kiểm toán
Tính độc lập là yếu tố quan trọng hàng đầu đối với chất lượng kiểm toán. Do vậy, khi
đề cập đến chất lượng kiểm toán thì tính độc lập là vấn đề đầu tiên mà chúng ta cần
nhắc đến, ảnh hưởng của tính độc lập đến chất lượng kiểm toán được biểu hiện rất rõ

rệt:
 Trong quá trình thu thập bằng chứng, nếu kiểm toán viên không thực sự độc lập
với khách hàng thì các bằng chứng mà họ nhận được chắc chắn sẽ có độ tin cậy cao
hơn. Kiểm toán viên phải có quyền tự do tiếp cận với những tài liệu và sổ sách ghi chép
của công ty và có quyền đòi hỏi các kiểm toán viên nội bộ và Ban quản trị doanh nghiệp
phải cung cấp đầy đủ thông tin kế toán cũng như thông tin liên quan đến quản trị doanh
nghiệp, tuy nhiên họ không cần phải dựa hoàn toàn vào những thông tin ấy vì những
thông tin ấy có thể bị điều chỉnh theo ý muốn của Ban quản trị. Tất cả các câu hỏi đặt ra
cho công ty về hoạt động kinh doanh và hoạt động tài chính đều phải được trả lời, để từ
đó những thông tin nhận được là hoàn toàn chính xác, nếu không thì họ sẽ đưa ra những
ý kiến sai trái về các thông tin trong báo cáo tài chính từ đó ảnh hưởng đến kết quả của
cuộc kiểm toán.
 Khi kiểm toán viên có trình độ tay nghề kém, không tuân thủ các nguyên tắc
nghề nghiệp thì kết luận của kiểm toán viên sẽ có nhiều thiếu sót. Điều này thường xảy
SVTH: Huỳnh Thị Mai Ly
Đề án môn học
GVHD: Th.S Nguyễn Thị Thanh Huyền

14
ra với các kiểm toán viên mới vào nghề vì họ chưa có đủ kinh nghiệm thực tế để thu
thập các bằng chứng một cách chính xác và hiệu quả hơn. Công việc kiểm toán yêu cầu
kiểm toán viên phải luôn thực hiện theo đúng các chuẩn mực kế toán và kiểm toán. Nếu
họ không thực hiện theo trình tự lập kế hoạch, thực hiện kiểm toán và kết thúc kiểm
toán thì những ý kiến mà họ đưa ra sẽ thiếu xác đáng. Khi thu thập các bằng chứng,
kiểm toán viên đòi hỏi phải có kiến thức sâu rộng để nắm bắt được vấn đề và biết cách
giải quyết vấn đề một cách sáng suốt, phải dựa vào các ước lượng về rủi ro kiểm toán
để đánh giá chúng đồng thời xác định số lượng bằng chứng cần thu thập để phát hiện
những sai sót.
 Nếu kiểm toán viên có quan hệ mật thiết với công ty khách hàng khi có người
thân trong gia đình hoặc người quen làm việc trong công ty khách hàng, chắc chắn

kiểm toán viên sẽ bị đặt vào sức ép về tâm lý có thể là trong ý muốn hoặc ngoài ý muốn
nhưng chắc chắn sẽ có những hành vi thiên vị, che giấu cho những sai phạm trọng yếu
của công ty, bỏ qua những chi tiết quan trọng. Đây là chúng ta đang xét đến khía cạnh
độc lập thực sự. Ngoài ra, kiểm toán viên có thể giữ vững được thái độ độc lập của
mình nhưng cũng sẽ không được người khác tin tưởng vào kết quả làm việc của họ vì ai
cũng sẽ cho rằng anh ta làm việc cho những người quen của anh ta, như vậy chắc chắn
sẽ không làm việc một cách độc lập. Những người có liên quan và có quan tâm đến các
thông tin trên báo cáo tài chính vừa được kiểm toán sẽ không còn tín nhiệm với nó nữa,
họ có thể sẽ không tin vào khả năng tài chính của công ty nếu họ có ý định đầu tư vào
công ty đó hoặc cho rằng công ty có thể đang làm ăn thua lỗ và không nên tiếp tục quan
hệ mua bán với công ty này, nếu không có thể họ sẽ bị lỗ.
 Nếu như khi kiểm toán viên có quan hệ thân mật với đơn vị được kiểm toán thì
kết quả kiểm toán có thể có lợi cho các khách hàng kiểm toán thì khi giữa họ có sự
tranh chấp, kiện tụng nhau, kết quả kiểm toán có thể sẽ không có lợi gì cho khách hàng,
ý kiến mà kiểm toán viên đưa ra có thể không được khách quan, hoặc họ sẽ không có
những ý kiến tư vấn bổ ích cho công tác quản lý của công ty nữa.
 Tính độc lập của kiểm toán viên thường được thể hiện trên các khía cạnh: độc
lập trong việc lên chương trình, độc lập trong việc điều tra, độc lập trong việc làm báo
cáo.
Kết quả của báo cáo kiểm toán sẽ ít có giá trị nếu nó không được điều tra kỹ
lưỡng, tuy nhiên điều này là bất lợi cho các giám đốc nếu họ muốn che giấu điều gì đó,
nếu kiểm toán viên bớt việc điều tra, tìm hiểu thì không những khách hàng kiểm toán sẽ
che giấu được những thông tin cần che giấu mà còn bớt được chi phí kiểm toán. Do
vậy, nếu kiểm toán viên tự mình độc lập khỏi những yêu cầu của khách hàng thì chất
lượng công việc của họ sẽ cao hơn. Khi làm báo cáo, tính độc lập cực kỳ quan trọng vì
giám đốc có thể sẽ không muốn kiểm toán viên công khai những thông tin kế toán sai
lệch mà họ đang muốn giấu diếm.Vì vậy, họ sẽ làm mọi cách để khiến cho kiểm toán
viên phải có ý kiến có lợi cho họ.
SVTH: Huỳnh Thị Mai Ly
Đề án môn học

GVHD: Th.S Nguyễn Thị Thanh Huyền

15
Như vậy có thể nói rằng, tính độc lập của kiểm toán viên có ảnh hưởng trực tiếp
đến từng giai đoạn của cuộc kiểm toán, trong từng công việc của kiểm toán viên. Nếu
như kiểm toán viên không giữ được thái độ độc lập, khách quan thì những gì mà họ đưa
ra trong báo cáo kiểm toán đều không đáng tin cậy cho những người sử dụng nó.
1.3 Ảnh hưởng việc cung cấp dịch vụ ngoài kiểm toán đến tính độc lập của kiểm
toán viên
Các công ty kiểm toán đều có một khoản thu nhập ngày càng tăng từ việc cung ứng
các dịch vụ ngoài kiểm toán trong tổng thu nhập của mình. Ở Việt Nam tình hình phổ
biến hiện nay là rất nhiều công ty kiểm toán cung cấp các dịch vụ tư vấn thuế cũng như
làm quản lý trong các mảng kinh doanh khác nhau hay là cung cấp dịch vụ tư vấn nhân
sự. Trong khi phí kiểm toán phải được ghi và giải thích rõ ràng thì khoản thu nhập từ
các dịch vụ này rất ít khi được công bố. Đồng thời ban quản trị của đơn vị khách hàng
cũng có quyền khen thưởng trong những trường hợp nhất định mà không cần thông
qua toàn bộ doanh nghiệp. Điều này có nghĩa là kiểm toán viên, công ty kiểm toán có
thể bị phụ thuộc hoàn toàn vào thiện chí của đơn vị khách hàng đối với việc tiếp tục
một hợp đồng kinh tế có lợi, mà giá trị của nó ít khi được công bố và sự tồn tại của nó
có thể được giấu kín như là một bí mật.
Hơn nữa, khi kiểm toán viên cung cấp các dịch vụ khác nhau cho cùng một đơn vị
khách hàng thì công việc kiểm toán dường như bị mất đi rất nhiều ý nghĩa. Ví dụ, nếu
kiểm toán viên được thuê để giảm đến mức tối thiểu nghĩa vụ thuế của công ty, thì
nghiệp vụ này có thể làm cho việc kiểm toán của kiểm toán viên kém phần khách quan,
khó khăn thêm cho việc kiểm toán viên tỏ ra nghi ngờ về tính chính xác của các con số
trong báo cáo tài chính.
Để tìm hiểu sâu hơn, em xin phân tích ảnh hưởng của việc cung cấp dịch vụ ngoài
kiểm toán đến tính độc lập của kiểm toán viên ở hai giác độ đó là: ảnh hưởng đến tính
độc lập thực sự và tính độc lập bề ngoài của kiểm toán viên.
1.3.1 Ảnh hưởng của việc cung cấp dịch vụ ngoài kiểm toán đến tính độc lập

thực sự của kiểm toán viên
Khi công ty kiểm toán là cung cấp dịch vụ ngoài kiểm toán cho công ty, thì họ đã
có một mối quan hệ với nhau và nó tác động đến tính độc lập của kiểm toán viên. Kiểm
toán viên chỉ thực sự độc lập khi đảm bảo độc lập trong mối quan hệ đối với khách
hàng, song tính độc lập có nguy cơ bị ảnh hưởng do những nguy cơ: tư lợi, tự kiểm tra,
sự bào chữa, quan hệ khác và sự đe dọa :
• Nguy cơ do tư lợi: diễn ra khi công ty kiểm toán hoặc một thành viên nhóm
kiểm toán có thể thu được lợi ích tài chính hoặc các xung đột lợi ích cá nhân khác với
khách hàng sử dụng dịch vụ bảo đảm. Và ở đây khi cung cấp dịch vụ ngoài kiểm toán
cho công ty khách hàng thì việc tư lợi giữa kiểm toán viên với công ty khách hàng
nhằm thu được lợi ích tài chính cho các bên là rất dễ để diễn ra, và khó có thể kiểm
soát được.
SVTH: Huỳnh Thị Mai Ly
Đề án môn học
GVHD: Th.S Nguyễn Thị Thanh Huyền

16
• Nguy cơ tự kiểm tra: Khi mà kiểm toán viên vừa là nhân viên tư vấn cho công
ty khách hàng về hệ thống kế toán như tư vấn thuế, hoặc thiết kế hệ thống kiểm soát
nội bộ, lại chính là người kiểm toán cho báo cáo tài chính của công ty khách hàng thì
nguy cơ này rất dễ xảy ra, bởi vì chính kiểm toán viên lại xem xét lại những đánh giá
trước đây do mình chịu trách nhiệm và cung cấp.
• Nguy cơ về sự bào chữa: Khi kiểm toán viên đã cung cấp dịch vụ ngoài kiểm
toán cho khách hàng kiểm toán lại kiểm toán báo cáo tài chính cho chính công ty đó,
thì nguy cơ về sự bào chữa rất cao, bởi vì lúc này mức độ về tính khách quan có thể bị
ảnh hưởng.
• “Nguy cơ bị đe doạ” xảy ra khi một thành viên của nhóm kiểm toán bị đe doạ
(đe doạ thật hoặc cảm thấy bị đe doạ) nhằm ngăn cản hành động theo đúng nguyên tắc
khách quan và hoài nghi nghề nghiệp cần thiết. Hiện nay, khi mà thực trạng về giá phí
kiểm toán khi cung cấp dịch vụ kiểm toán lại rất thấp do sự cạnh tranh của các công ty

kiểm toán với nhau, trong khi đó phí thu được từ việc cung cấp các dịch vụ ngoài kiểm
toán lại lớn hơn rất nhiều lần, thì nguy cơ này rất có thể xảy ra, có thể là thực tế hoặc
chỉ là cảm thấy, bởi do kiểm toán viên sợ bị mất đi một nguồn phí lớn nếu đánh giá
đúng về những ẩn chứa không tốt trong doanh nghiệp và công bố ra bên ngoài. Vì vậy,
trong trường hợp này, tính độc lập cũng sẽ bị ảnh hưởng bởi nguy cơ bị đe dọa.
1.3.2 Ảnh hưởng của việc cung cấp dịch vụ ngoài kiểm toán đến tính độc lập bề
ngoài của kiểm toán viên
Như chúng ta đã biết, tính độc lập bề ngoài của kiểm toán viên dựa trên lời giải
thích của những người khác về tính độc lập đó. Nên khi, kiểm toán viên là người cung
cấp các dịch vụ như tư vấn thuế, hay thiết kế hệ thống kiểm soát nội bộ cho khách
hàng…, thì cho dù thực tế kiểm toán viên có giữ vững tính độc lập, khách quan của
mình thì người khác chưa hẳn đã tin đó là sự thật. Bởi không ai có thể dễ dàng tin
người khác khi họ không hiểu gì về họ, và hơn nữa ở đây, những người sử dụng báo
cáo kiểm toán chắc hẳn sẽ nghi ngờ đến chất lượng của báo cáo tài chính mà họ sử
dụng, bởi vì vô tình khi vừa cung cấp dịch vụ tư vấn, vừa là người kiểm toán thì kiểm
toán viên đã thiết lập một mối quan hệ đối với khách hàng, nên mọi người sẽ nghi ngờ
đến tính độc lập của kiểm toán viên. Và trong trường hợp này, báo cáo tài chính sẽ
giảm đi ý nghĩa vốn có của nó.
SVTH: Huỳnh Thị Mai Ly
Đề án môn học
GVHD: Th.S Nguyễn Thị Thanh Huyền

17
PHẦN II: LIÊN HỆ PHÂN TÍCH MỘT SỰ KIỆN VI PHẠM TÍNH
ĐỘC LẬP ĐỐI VỚI KIỂM TOÁN VIÊN DO CUNG CẤP DỊCH VỤ
NGOÀI KIỂM TOÁN CHO CÔNG TY KHÁCH HÀNG
Có rất nhiều những trường hợp trên thế giới và cả Việt Nam, các vụ việc kiểm toán
không tiến hành một cách minh bạch đã dẫn đến nhiều tác động hệ lụy xấu đến nền
kinh tế nói chung và các nhà đầu tư nói riêng. Nổi bật lên như ở Việt Nam chúng ta là
vụ việc kiểm toán bị vỡ lỡ khi kiểm toán công ty cổ phần Bông Bạch Tuyết, hay công

ty cổ phần Dược Viễn Đông,… và trên thế giới là các vụ vỡ lỡ kiểm toán gây chấn
động nền tài chính thế giới đó, chúng ta chắc hẳn không thể quên những bê bối kiểm
toán cho những tập đoàn hùng mạnh nhất nhì thế giới: tập đoàn Enron và Worldcom
của Hoa Kì, tập đoàn Parmalat của Ý, Và điểm nhấn mạnh ở đây là tất cả các vụ bê
bối kiểm toán này đều bắt nguồn từ những nguyên nhân xuất phát từ đạo đức nghề
nghiệp của kiểm toán viên, mà quan trọng nhất là xuất phát từ việc thiếu tính độc lập
của kiểm toán viên trong quá trình kiểm toán mà cụ thể hơn chính là xuất phát từ
nguyên nhân chính các công ty kiểm toán đồng thời cũng cung cấp cả dịch vụ tư vấn
quản lý, kế toán cho khách hàng.
Ở đây, em xin phân tích kĩ một vụ bê bối và có tác động rất lớn đến nền tài chính trên
thế giới, rất đáng để các công ty kiểm toán nói chung và kiểm toán viên nói riêng đã,
đang hành nghề và sẽ trở thành kiểm toán viên thấy rõ những ảnh hưởng của nó, và đây
cũng là bài học rất quí giá cho bất kì ai đã, đang và sắp hành nghề kiểm toán. Đó chính
là vụ bê bối “Enron-Arthur Andersen-Bài học về sự sụp đổ”
2.1 Giới thiệu về tập đoàn Enron và công ty kiểm toán Arthur Andersen
2.1.1 Khái quát về tập đoàn năng lượng Enron
Tập đoàn năng lượng Enron tên ban đầu là công ty Northern Natural Gas được
thành lập năm 1931 tại Omaha Nebraka và được tái cơ cấu năm 1979 khi công ty này
được sáp nhập Holding Company Inter-North. Năm 1985 công ty mua lại Houston Gas
Natural và đổi tên thành tập đoàn Enron. Sau này chính CEO của Houston đã chuyển
trụ sở của Enron về Houston, Texas, USA.
Enron ban đầu hoạt động trong lĩnh vực truyền tải và phân phối điện, gas trên toàn
nước Mỹ; xúc tiến, xây dựng, đưa vào hoạt động các nhà máy điện, các hệ thống
đường ống khí thiên nhiên. Enron sở hữu một mạng lưới lớn các đường ống khí thiên
nhiên xuyên biển, xuyên biên giới như: Northern Natural Gas, Florida Gas
Transmission , công ty Transwestern Pipenline cùng với 1 đối tác phía Canada. Doanh
thu của Enron chủ yếu thu từ các hoạt động trên và nó tài trợ cho các hoạt động đầu tư
mạo hiểm của Enron. Năm 1998 Tập đoàn này lấn sân sang lĩnh vực cung cấp nước và
thành lập tập đoàn Azurix. Tuy nhiên Azurix đã thất bại thảm hại đặc biệt tại Bunos
Aires. Thất bại này đã khiến Enron mất một khoản tiền lớn.

Enron đã từng là một công ty năng lượng tăng trưởng nhanh và tự chuyển đổi thành
một tập đoàn năng lượng lớn nhất thế giới. Tháng 12/2001 công ty tuyên bố có thể phá
sản và cho nghỉ việc hàng ngàn nhân viên. Tháng 1/2002 Bộ Tư pháp Hoa Kỳ bắt đầu
SVTH: Huỳnh Thị Mai Ly
Đề án môn học
GVHD: Th.S Nguyễn Thị Thanh Huyền

18
cuộc điều tra hình sự về công ty Enron. Trước khi sụp đổ năm 2001 Enron có khoảng
22000 công nhân và là một trong những tập đoàn năng lượng dẫn đầu trong lĩnh vực
cung cấp khí thiên nhiên, điện, truyền thông. Vậy nguyên nhân từ đâu?
2.1.2 Khái quát về công ty kiểm toán A&A
Công ty kiểm toán Arthur Anderson có trụ sở đặt tại Chicago đã từng là công ty
kiểm toán lớn thứ năm thế giới hoạt động trong lĩnh vực kiểm toán, thuế, dịch vụ tư
vấn Công ty do Arthur Andersen thành lập vào năm 1913 khi ông ở tuổi 28.
Vào năm 2002 do có sự sai phạm nghiêm trọng trong việc kiểm toán tập đoàn năng
lượng Enron công ty đã bị thu hồi giấy phép hành nghề kiểm toán độc lập và chính
điều này đã làm mất hơn 85000 việc làm của nhân viên trong công ty.
2.2 Diễn biến sự việc
Được thành lập từ năm 1985 trên cơ sở sáp nhập hai công ty Houston Natural Gas
và Internorth of Omaha, cái tên Enteron xuất phát từ ý tưởng cho rằng đó là bộ phận
không thể thiếu trong quá trình tiêu hóa. Nhờ những quy định mới về tự do hóa thị
trường năng lượng Mỹ trong thập niên 90, họ đã gây dựng từ một hãng làm ăn mờ nhạt
thành tập đoàn có thể thay đổi sự cân bằng trong lĩnh vực kinh doanh năng lượng. Luật
chính sách năng lượng năm 1992 buộc các công ty nhỏ phải mở cửa đường truyền tải
điện cho hệ thống phân phối của Enron. Ngoài ra, Enron kiếm rất nhiều tiền từ việc
mua bán trên thị trường năng lượng. Trên thực tế, họ chỉ là những nhà buôn sắp xếp
hợp đồng giữa người mua và bán rồi lấy tiền hoa hồng. Trong tay Enron, thị trường
năng lượng ngang hàng với một sự đầu cơ tài chính. Hãng này đã xây dựng những nhà
máy trị giá hàng triệu USD khắp thế giới nhưng chỉ sở hữu chúng khi giá năng lượng

lên ngôi, khi gặp khó khăn thì bán ngay lập tức. Nhờ hoạt động tài chính thuận lợi,
Enron đã vươn sang các mặt hàng như giấy, nước, nhựa, kim loại và phương tiện viễn
thông.
Năm 2000, Enron là một trong 7 công ty Mỹ có doanh số hơn 100 tỷ USD, lợi
nhuận lên tới 10 tỷ USD. Hệ thống thông tin đại chúng, điển hình là tạp chí Fortune,
luôn công bố những thông tin thiếu thực tế điều mà Enron là công ty có nhiều tiềm
năng nhất với số vốn kinh doanh 63 tỷ USD.
Sai lầm của công ty này chính là phụ thuộc quá nhiều vào các giao dịch tài chính.
Vào tháng 8/2001, Giám đốc Điều hành Jeffrey Skilling từ chức vì lý do cá nhân.
Enron công bố lỗ 618 triệu USD trong quý III nhưng thực tế lên tới 1,2 tỷ USD. Khi
công ty khó khăn, họ thuyết phục nhân công nhận lương và thưởng bằng cổ phiếu. Làm
cách đó, giá trị của Enron đã bị giảm sút nghiêm trọng. Khi Ủy ban Chứng khoán Mỹ
điều tra, Giám đốc tài chính Fastow phải ra đi, cổ phiếu của Enron tụt giá thảm hại,
lòng tin của khách hàng đã mất khiến họ không đầu tư nữa.
Chính những thông tin sai lệch về khả năng quản lý, Enron được quảng cáo rất
hiệu quả qua công ty kiểm toán Arthur Andersen, nhờ vậy số người mua cổ phiếu của
công ty cao kỷ lục. Chi nhánh Houston của Arthur Andersen đã đưa ra những Báo cáo
Kiểm toán sai lệch nhằm có lợi cho Enron nên đã nhận được 1 triệu USD/tuần còn
SVTH: Huỳnh Thị Mai Ly
Đề án môn học
GVHD: Th.S Nguyễn Thị Thanh Huyền

19
tham gia cả việc tìm kiếm đối tác cho Enron. Số tiền kếch xù trên đã làm mờ mắt các
nhân viên kiểm toán và họ dễ dàng bỏ qua nguyên tắc. Điều trần trước Quốc hội Mỹ ,
Tổng giám đốc điều hành Arthur Andersen, ông Joe Berardino thừa nhận họ đã phạm
sai lầm nghiêm trọng. Tuy khẳng định rằng Arthur Andersen đã làm tất cả để hạn chế
thấp nhất khả năng đổ vỡ của Enron, nhưng họ lại hủy hầu hết tài liệu có liên quan đến
vụ việc, ngay cả khi Ủy ban Chứng khoán đã mở cuộc điều tra.
Nhiều nhà phân tích chứng khoán tháng 11/2001 còn tư vấn cho khách hàng mua

cổ phiếu Enron. Nhiều người thừa nhận không hiểu sâu về công việc làm ăn của Enron
nhưng tin rằng đây là công ty có triển vọng bởi cổ phiếu của họ liên tục tăng giá trong
thời gian dài. Trong khi các chuyên gia phân tích phải đánh giá tình hình tài chính của
Enron một cách độc lập thì họ lại phụ thuộc chủ yếu vào báo cáo tài chính do Arthur
Andersen cung cấp. Đến khi công ty tuyên bố phá sản với số nợ 31,2 tỷ USD, không ít
nhà đầu tư bị mất trắng.
Mọi người cho rằng Enron là một công ty lâu đời với rất nhiều nhà máy thì họ có
thể bán bớt tài sản. Tuy nhiên, điều này là vô vọng.
Các chuyên gia cho rằng tình hình của Enron có thể khả quan hơn và rất có thể
không dẫn tới sụp đổ nếu như những báo cáo tài chính của Enron không được bảo kê
bởi một thương hiệu lớn: Công ty tư vấn và kiểm toán Arthur Andersen.
Lãnh đạo Enron đã không chịu đứng ở lĩnh vực sản xuất và buôn bán năng lượng
mà lại nhảy sang những lĩnh vực dịch vụ tài chính trong ngành năng lượng. Đây là
lĩnh vực kinh doanh đầy mạo hiểm và cần rất nhiều vốn. Để che giấu việc công ty đã
vay quá khả năng chi trả, lãnh đạo Enron đã lợi dụng kẽ hở luật pháp để lập ra các
công ty con mà không khai báo tài chính. Bằng cách này, Enron vừa không phải công
khai các khoản nợ, vừa che giấu được những khoản lỗ. Kết quả là Enron đã thổi phồng
lợi nhuận của mình và giá cổ phiếu của công ty cũng theo đó tăng lên vun vút. Khi mà
Enron phải thông báo chính thức rằng từ năm 1997 công ty đã thua lỗ trên 500 triệu
USD, những người "trong cuộc" đã kịp thời thu những món lợi khổng lồ từ cổ phiếu
của công ty.
Cụ thể, ông Chủ tịch kiêm Tổng Giám đốc đã giữ 138 triệu cổ phiếu của công ty.
Đầu năm 2001, Ken bán ra với giá 79 USD một cố phiếu. Hầu hết những vụ mua bán
này đều không được công bố. Cuối năm 2001, mỗi cổ phiếu chỉ còn giá 0,6 USD.
Những hoạt động tài chính của Enron đều được dựa trên sự thiết kế và vận hành
của nhiều nhà phân tích đặt tên là "những liên minh ma quái". Một mạng lưới chằng
chịt quan hệ giữa Enron, một số quan chức chính phủ và đặc biệt là Công ty kiểm toán
Arthur Andersen đã giúp cho Enron.
Kế toán trưởng của Enron là Richard Causey - Kiến trúc sư thiết kế ra hệ thống lừa
dối cổ đông - nguyên là kiểm toán viên của Andersen chuyển sang.

Điểm lý thú là Andersen đã ký hợp đồng làm tư vấn cho Enron, sau đó chính
mình lại đóng vai trò kiểm toán để xác nhận những báo cáo tài chính của Enron. Phí tư
SVTH: Huỳnh Thị Mai Ly
Đề án môn học
GVHD: Th.S Nguyễn Thị Thanh Huyền

20
vấn và kiểm toán đều là những con số khổng lồ. Ví dụ, năm 2000, phí tư vấn là 27 triệu
USD và phí kiểm toán là 25 triệu USD.
Tin vào danh tiếng của Arthur Andersen (hoặc cố tin), đến lượt các công ty phân
tích chứng khoán và ngân hàng đầu tư ở phố Wall cho đến trước cuộc khủng hoảng vẫn
khuyên các nhà đầu tư mua cổ phiếu của Enron.
2.3 Phân tích nguyên nhân
Có nhiều nguyên nhân trong sự kiện sụp đổ của Eron và A&A, tuy nhiên trong
phạm vi của đề án này, em xin phân tích những nguyên nhân đứng trên giác độ do ảnh
hưởng của đạo đức nghề nghiệp và cụ thể hơn là những nguyên nhân xuất phát từ tính
độc lập của kiểm toán viên:
Thứ nhất: Như chúng ta được biết Enron là một công ty năng lượng lớn của Mỹ-
khách hàng của Andersen. Năm 2000, Enron trả cho Andersen 25 triệu USD phí kiểm
toán và 27 triệu USD phí dịch vụ khác-một mức phí quá lớn. Bù lại, Enron được
Andersen bảo kê về tín nhiệm đối với nhà đầu tư khi báo cáo tính hình kinh doanh có
lãi của mình, nhưng thực chất là lỗ 500 triệu USD từ năm 1997.
 Andersen đã vi phạm trầm trọng nguyên tắc độc lập về mặt kinh tế, chạy theo
lợi nhuận kết xù thu được từ phí kiểm toán để công bố một báo cáo kiểm toán sai lệch
về Enron.
Thứ hai: Kế toán trưởng của Enron là kiến trúc sư trưởng của vụ lừa dối cổ đông lại
nguyên là kiểm toán viên của Andersen.
 Vi phạm nguyên tắc độc lập về mặt tình cảm
Thứ ba: Andersen đã kí hợp đồng làm tư vấn cho Enron, sau đó chính mình lại đóng
vai trò kiểm toán để xác nhận những báo cáo tài chính của Enron

 Vi phạm nguyên tắc độc lập về năng lực, chuyên môn.
Thứ tư: Tháng 1/2001, một nhân viên kiểm toán của Andersen cực lực phản đối
phương pháp kế toán của Enron thì ngay lập tức bị điều chuyển sang đơn vị khác. Một
nhân viên khác đánh giá cổ phiếu của Enron không có triển vọng, cũng lập tức bị
chuyển công tác
 Andersen đã vi phạm nguyên tắc chính trực, khách quan
Thứ năm: Theo thống kê thì lợi nhuận của các công ty kiểm toán ở Mỹ có được từ các
dịch vụ ngoài kiểm toán chiếm phần lớn trong thu nhập của các công ty này, có khi tỉ
lệ này lên tới 92%. Vì thế nên Andersen thường để các kiểm toán viên có kinh nghiệm
và năng lực làm dịch vụ tư vấn, còn các kiểm toán viên trẻ ít kinh nghiệm và năng lực
thường được Andersen giao nhiệm vụ kiểm toán các BCTC của Enron
 Chất lượng các cuộc kiểm toán bị ảnh hưởng bởi năng lực của kiểm toán viên,
các sai sót, gian lận của Enron hoặc là không thể phát hiện được hoặc là bị che đậy một
cách tinh vi. Các nhà đầu tư, cổ đông của Enron tin tưởng vào thương hiệu Arthur
Andersen nên ồ ạt mua cổ phiếu của Enron, để rồi lãi giả, lỗ thật, kéo theo sự sụp đổ
của Enron rồi đến Andersen.
SVTH: Huỳnh Thị Mai Ly
Đề án môn học
GVHD: Th.S Nguyễn Thị Thanh Huyền

21
PHẦN III: MỘT SỐ ĐỀ XUẤT NHẰM HẠN CHẾ ẢNH HƯỞNG VIỆC
CUNG CẤP DỊCH VỤ NGOÀI KIỂM TOÁN ĐẾN TÍNH ĐỘC LẬP CỦA
KIỂM TOÁN VIÊN
Trong phạm vi đề án của mình em xin đưa ra những đề xuất nhằm tăng cường tính độc
lập của kiểm toán viên độc lập, để hạn chế ảnh hưởng của việc cung cấp dịch vụ ngoài
kiểm toán đến tính độc lập của kiểm toán viên trong quá trình kiểm toán.
3.1 Thành lập ủy ban kiểm toán
Ủy ban kiểm toán là một số thành viên của Hội đồng quản trị ở một công ty được
chọn ra, có trách nhiệm giúp kiểm toán viên giữ vững tính độc lập về quản lý. Phần lớn

các ủy ban kiểm toán gồm từ 3 đến 5 người hoặc đôi khi lên đến 7 người, và họ phải
không có trách nhiệm điều hành trong việc quản lý tài chính. Nhiệm vụ chính là xét
duyệt các báo cáo tài chính, xem xét tính hiệu quả của các hệ thống kế toán và kiểm tra
nội bộ của công ty cùng các kết quả thu được của các kiểm toán viên, đưa ra kiến nghị
về việc chỉ định trả thù lao cho các kiểm toán viên bên ngoài.
Một ủy ban kiểm toán được xây dựng và vận hành tốt là yếu tố quan trọng trong
việc xác định tính độc lập của công ty kiểm toán. Nó sẽ quyết định những vấn đề như:
nên giữ lại công ty kiểm toán nào và phạm vi của các dịch vụ mà công ty kiểm toán
phải thực hiện. Ủy ban họp định kì với công ty kiểm toán để bàn về các phát hiện và
tiến trình kiểm toán, giúp giải quyết những mâu thuẫn giữa công ty kiểm toán với ban
quản trị. Các công ty tham gia thị trường chứng khoán cần có ủy ban kiểm toán và cần
xác định thành phần tham gia ủy ban.
Trên thế giới ủy ban kiểm toán được thành lập khá phổ biến và gần như bắt buộc.
Trong khi đó tại Việt Nam hiện nay các công ty tham gia thị trường chứng khoán vẫn
chưa thành lập ủy ban này. Điều này có thể hiểu là do thị trường chứng khoán tại Việt
Nam còn đang ở những bước đi chập chững do đó khái niệm ủy ban kiểm toán còn khá
mới mẻ. Nhưng hi vọng rằng trong một tương lai không xa điều này sẽ sớm phổ biến
rõ rệt.
3.2 Bổ sung các qui định, luật định cũng như cần có những chuẩn mực cụ thể rõ
ràng về việc các công ty kiểm toán đồng thời cung cấp dịch vụ kiểm toán và dịch
vụ ngoài kiểm toán
Cần công khai minh bạch rõ ràng, các khoản thu nhập từ việc cung cấp dịch vụ ngoài
kiểm toán. Đồng thời, nên nêu rõ những trường hợp nào nếu công ty đã cung cấp dịch
vụ ngoài kiểm toán thì sẽ không được cung cấp dịch vụ kiểm toán cho cùng công ty
khách hàng. Và đồng thời cũng cần đưa ra những chế tài xử phạt những vi phạm một
cách rõ ràng.
3.3Tổ chức các cuộc kiểm tra quá trình kiểm toán
Để đảm bảo tính độc lập của kiểm toán viên, hạn chế những ảnh hưởng của việc
cung cấp dịch vụ ngoài kiểm toán đến đạo đức của kiểm toán viên nói chung và tính
độc lập của kiểm toán viên nói riêng. Vai trò của các hiệp hội kiểm toán, và trách

SVTH: Huỳnh Thị Mai Ly
Đề án môn học
GVHD: Th.S Nguyễn Thị Thanh Huyền

22
nhiệm của công ty kiểm toán càng trở nên quan trọng trong việc kiểm tra, cũng như tư
vấn cho quá trình kiểm toán. Việc kiểm tra này có thể được thực hiện bởi các chuyên
viên không tham gia vào quá trình kiểm toán, những chuyên gia này có thể là một trong
những kiểm toán viên của cùng một công ty kiểm toán hoặc cũng có thể từ một công ty
kiểm toán khác để làm sao đạt được mục đích.
 Đảm bảo các kiểm toán viên đã thực hiện đúng với các chuẩn mực kế toán và
kiểm toán
 Đảm bảo rằng các kiểm toán viên đã giữ đúng thái độ độc lập của mình đối với
khách hàng.
 Đảm bảo biện pháp quản lý chất lượng quá trình kiểm toán đã được thực hiện
đúng đắn trong suốt quá trình kiểm toán.
3.4 Xoay vòng các công ty kiểm toán
Một công ty kiểm toán có thể thực hiện công việc kiểm toán cho một công ty trong
nhiều năm, do vậy họ có một mối quan hệ mật thiết với doanh nghiệp và có thể trở
thành cố vấn cho doanh nghiệp, do vậy từ đó giảm bớt tính độc lập của mình đối với
khách hàng. Điều này còn nguy hiểm hơn khi công ty kiểm toán vừa thực hiện kiểm
toán vừa cung cấp dịch vụ tư vấn về thuế, kế toán Để tránh tình trạng này, trong một
khoảng thời gian nào đó, cần phải xoay vòng luân phiên việc kiểm toán đối với các
công ty kiểm toán.
Tuy nhiên, biện pháp này có những hạn chế nhất định:
 Chi phí tìm hiểu doanh nghiệp tăng.
 Các công ty kiểm toán sẽ mất đi thiện ý của khách hàng vì phải thay đổi họ trong
một khoảng thời gian nhất định.
3.5 Đào tạo kiểm toán viên
Như đã phân tích ở trên, ảnh hưởng từ việc cung cấp dịch vụ ngoài kiểm toán có

thể tác động đến cả tính độc lập thực sự và tính độc lập bề ngoài. Cho nên việc đào tạo
để giúp kiểm toán viên nắm rõ những qui định về tính độc lập cũng như hiểu về những
yêu cầu về mặt đạo đức sẽ giúp hạn chế phần nào ảnh hưởng của việc cung cấp các
dịch vụ ngoài kiểm toán đến tính độc lập của kiểm toán viên.
Để tạo cho kiểm toán viên có tính độc lập trong công việc, cần phải đào tạo đội ngũ
kiểm toán viên một cách chính qui hơn và thường xuyên nâng cao tay nghề cho kiểm
toán viên. Hiện tại, đội ngũ kiểm toán viên của chúng ta mặc dù đã có nhiều tiến bộ về
mọi mặt nhưng vấn chưa đảm bảo nhu cầu đặt ra, do đó để tiến kịp với các nước trong
khu vực cũng như quốc tế, chúng ta cần có chính sách đúng đắn đối với vấn đề này.
Ngoài ra, để tránh tình trạng hạn chế tính độc lập trong quá trình kiểm toán, cần
phải xây dựng thêm những chuẩn mực kiểm toán về vấn đề tính độc lập để tạo dựng cơ
sở pháp lý đối với vấn đề này.
SVTH: Huỳnh Thị Mai Ly
Đề án môn học
GVHD: Th.S Nguyễn Thị Thanh Huyền

23
3.6 Trách nhiệm của kiểm toán viên
Để tăng cường tính độc lập trong kiểm toán nói chung và hạn chế những ảnh hưởng
từ việc cung cấp dịch vụ ngoài kiểm toán đến tính độc lập của kiểm toán viên, kiểm
toán viên phải tuân thủ các nguyên tắc nghề nghiệp:
 Phải luôn luôn trau dồi cho mình đầy đủ kiến thức về chuyên môn nghiệp vụ.
 Không được để cho các lợi ích vật chất chi phối đến sự khách quan và độc lập
nghề nghiệp.
 Kiểm toán viên không được nhận làm cho các công ty mà mình có quan hệ kinh
tế hoặc quyền lợi kinh tế.
 Không được nhận làm ở những nơi mà bản thân có quan hệ họ hàng thân thuộc.
 Trong quá trình kiểm toán, nếu có sự hạn chế về tính độc lập thì phải loại bỏ sự
hạn chế này và nếu không loại bỏ được thì phải nêu điều này trong báo cáo kiểm toán.
SVTH: Huỳnh Thị Mai Ly

Đề án môn học
GVHD: Th.S Nguyễn Thị Thanh Huyền

24
KẾT LUẬN
Thực tế cho thấy, hoạt động kiểm toán đang phát triển với một tốc độ nhanh. Tuy
nhiên, để có thể ngang tầm với các nước trong khu vực cũng như quốc tế, chúng ta phải
cải thiện được chất lượng dịch vụ kiểm toán. Chúng ta thấy rằng chất lượng kiểm toán
là yếu tố quan trọng nhất khi nhắc đến một cuộc kiểm toán báo cáo tài chính. Để chất
lượng kiểm toán ngày càng được đảm bảo chúng ta phải làm sao để từng bước cải thiện
những nhân tố ảnh hưởng đến nó.
Một trong những yếu tố quan trọng nhất đối với chất lượng kiểm toán là thái độ
làm việc độc lập của kiểm toán viên. Để chất lượng kiểm toán ngày càng tốt hơn, đáp
ứng yêu cầu sử dụng của những người có liên quan cũng như ngăn chặn những vi phạm
trong công tác quản lý tài chính doanh nghiệp thì cần phải tăng cường tính độc lập này.
Mặc dù đã rất quan tâm đến vấn đề nay nhưng hiện tại chúng ta mới chỉ ban hành quy
chế đối với kiểm toán viên trong đó có đề cập đến tính độc lập nhưng vẫn chưa xây
dựng được chuẩn mực cho vấn đề này. Trong tương lai, hy vọng là Nhà nước và các cơ
quan có thẩm quyền sẽ xây dựng được hệ thống pháp lý vững chắc hơn đối với tính độc
lập của kiểm toán viên.
Nghiên cứu vấn đề này đối với bản thân những sinh viên chúng em là thực sự bổ
ích vì qua đây chúng em có thể ý thức được trách nhiệm của mình khi trở thành một
kiểm toán viên trong tương lai.
SVTH: Huỳnh Thị Mai Ly
Đề án môn học
GVHD: Th.S Nguyễn Thị Thanh Huyền

25
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Lý thuyết Kiểm toán (ĐH KTQD)

2. Kiểm toán- Alvin A.Aren
3. Kiểm toán( ĐH Tài chính-Kế toán)
4. Kiểm toán-Lý thuyết và thực hành(JOHN DUNN- TS Vũ Trọng Hùng dịch)
5. Tạp chí Kiểm toán.
6. Tạp chí Kế toán.
7. Tạp chí Kinh tế và phát triển.
8. Tạp chí Tài chính.
9. Tạp chí Tổ chức Nhà nước.
10.Quyết định 87/2005/QĐ-BTC của Bộ tài chính ngày 01/12/2005 về việc ban hành
và công bố Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp kế toán, kiểm toán Việt Nam.
11. Các website
– Luật kiểm toán nhà nước của Việt Nam đạt chuẩn Quốc tế.
– Hoạt động kiểm toán phải độc lập
SVTH: Huỳnh Thị Mai Ly
Đề án môn học

×