Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

bảo vệ và phát triển rừng ở huyện - thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (207.25 KB, 27 trang )

Lời mở đầu
Rừng là một quần thể sinh học đa dạng phong phú, là tài nguyên quý
báu của đất nước, có khả năng tái tạo, là bộ phận quan trọng của môi trường
sinh thái, có giá trị to lớn nhiều mặt đối với nền kinh tế quốc dân, gắn liền với
đời sống của nhân dân và sự sống còn của dân tộc. Việc bảo vệ và phát triển
tài nguyên rừng là trách nhiệm và nghĩa vụ vô cùng quan trọng của các cấp,
các ngành và toàn xã hội.
Từ ngày xưa rừng do tự nhiên để lại, nhưng ông cha ta cũng đã từng
khẳng định “Rừng vàng, biển bạc” và lúc đương thời Bác Hồ kính yêu của
chúng ta cũng đã dạy “Rừng là vàng nếu mình biết bảo vệ, xây dựng thì rừng
rất quý”. Lời dạy đó cho chúng ta thấy được tác dụng to lớn của rừng đối với
mỗi lĩnh vực của đời sống con người.
Trong những năm qua, đặc biệt là những năm gần đây do nhu cầu lâm
sản ngày càng lớn, nên tình trạng phá rừng xảy ra rất nghiêm trọng, nhất là
các vùng rừng nguyên sinh, rừng đặc dụng, rừng phòng hộ đầu nguồn. Đây là
một trong những nguyên nhân làm cho diện tích rừng ngày càng thu hẹp,
nhiều loại lâm sản quý hiếm không còn khả năng tái tạo, nhiều loại động vật
quý hiếm đang đứng trước nguy cơ tuyệt chủng, lũ lụt hạn hán liên tục xảy ra,
môi trường sống bị tổn hại, là một trong những nguyên nhân làm cho nền
kinh tế phát triển không bền vững. Cứu và giữ lấy vốn rừng hơn bao giờ hết
đã và đang trở thành vấn đề tòan cầu, là nổi lo, mối quan tâm của nhân loại.
Trước tình hình đó, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều Nghị
quyết, Chỉ thị và các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực quản lý bảo
vệ rừng, nhằm phát huy tác dụng của rừng một cách có hiệu quả, đảm bảo đời
sống sinh hoạt và sản xuất của nhân dân.
Là một cán bộ đang công tác trong lĩnh vực này, qua nghiên cứu học
tập chương trình cao cấp lý luận chính trị, được trang bị kiến thức về đường
lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, nên tôi
mạnh dạn chọn đề tài: “Những biện pháp quản lý, bảo vệ rừng trên địa bàn
huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định” làm đề tài tiểu luận tốt nghiệp .
Tiểu luận có mục đích đề xuất các biện pháp quản lý, bảo vệ rừng và


phát triển rừng, nhằm giữ cho được diện tích rừng hiện có, xây dựng vốn
rừng, phát triển kinh tế lâm nghiệp, nâng cao đời sống nhân dân trong huyện,
góp phần vào sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước.
Trang 1
Tiểu luận thể hiện kết quả quá trình học tập, sự cố gắng nổ lực của bản
thân trong việc tiếp thu và vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn, giúp nâng
cao trình độ lý luận, quan điểm lập trường và năng lực công tác.
Trong quá trình thực hiện, với sự hướng dẫn, giúp đỡ tận tình của thầy
Phạm Thanh Khiết, Tiến sỹ - Trưởng khoa kinh tế phát triển.
Nhưng khả năng và trình độ bản thân có hạn cho nên không sao tránh
khỏi sai sót, rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của quý thầy cô giáo,
cùng các bạn đồng nghiệp để tiểu luận được hòan chỉnh hơn.
Sau một năm học tập, nghiên cứu và thực hiện tiểu luận tôi xin chân
thành cảm ơn sự giúp đỡ và tạo điều kiện của Ban Giám đốc - Học viện Chính
trị Quốc gia Hồ Chí Minh Phân viện Đà Nẵng cùng Quý thầy cô giáo, Tỉnh ủy
Bình Định, lãnh đạo Chi cục Kiểm lâm Bình Định tạo điều kiện giúp đỡ tôi
trong thời gian học tập.
Tiểu luận tốt nghiệp được chia thành 3 phần:
PHẦN I: NHỮNG CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN TRONG VIỆC
QUẢN LÝ BẢO VỆ RỪNG.
PHẦN II. TÌNH HÌNH QUẢN LÝ, BẢO VỆ RỪNG TRÊN ĐỊA BÀN
HUYỆN PHÙ MỸ TRONG NHỮNG NĂM QUA.
PHẦN III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ VỀ BẢO VỆ VÀ
PHÁT TRIỂN RỪNG.
Trang 2
PHẦN THỨ NHẤT
NHỮNG CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
TRONG VIỆC QUẢN LÝ, BẢO VỆ RỪNG
I. VAI TRÒ TÁC DỤNG CỦA RỪNG:
1. Cơ sở lý luận:

Rừng và tài nguyên rừng là sản phẩm vô giá của nhân loại, giá trị của
rừng vô cùng to lớn đối với nền kinh tế quốc dân. Rừng góp phần quan trọng
trong việc cân bằng, bảo vệ môi trường sinh thái, điều tiết nước cả mùa khô
lẫn mùa mưa, hạn chế lũ lụt, điều hòa khí hậu, giảm tiếng ồn trong không khí,
rừng cung cấp gỗ và lâm sản khác cho nhu cầu xã hội, là bảo tàng ghen quý
hiếm về động, thực vật và là một phương tiện chống giặc ngoại xâm, nên đã
gắn liền với đời sống của nhân dân và sự sống còn của dân tộc là vậy.
Như thi sĩ nổi tiếng nào đó đã từng khẳng định bằng vần thơ của mình:
“Hồn tổ quốc ở nơi rừng sâu thẳm
Rừng điêu tàn thì tổ quốc suy vong”
Trong kháng chiến, quân và dân ta đã lợi dụng núi rừng để tổ chức thế
trận đánh giặc ngoại xâm giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, “Rừng che
bộ đội, rừng bao quân thù”.
Trong xây dựng và phát triển đất nước, rừng góp phần không nhỏ trong
việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển, là một trong những thế mạnh của nền
kinh tế quốc dân, góp phần ổn định đời sống của một bộ phận lớn dân cư sống
ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa, cung cấp nhiều loại sản phẩm cho nhu cầu
xuất khẩu thu ngoại tệ về cho đất nước.
Căn cứ vào mục đích sử dụng, rừng được phân chia thành 3 loại:
- Rừng phòng hộ.
- Rừng đặc dụng.
- Rừng sản xuất.
+ Rừng phòng hộ: Được bảo vệ nghiêm ngặt để giữ nguồn nước, bảo
vệ đất, chống sói mòn, hạn chế lũ lụt, điều hòa khí hậu, bảo vệ môi trường.
Rừng phòng hộ được phân thành nhiều loại như: rừng phòng hộ đầu nguồn,
rừng phòng hộ chắn gió, chắn cát bay ven biển, rừng phòng hộ bảo vệ môi
trường sinh thái.
Trang 3
+ Rừng đặc dụng: Được sử dụng chủ yếu để bảo tồn thiên nhiên, bảo
vệ nguồn ghen thực vật, động vật rừng, nghiên cứu khoa học, bảo vệ di tích

lịch sử, danh lam thắng cảnh, phục vụ nghỉ ngơi du lịch, rừng đặc dụng được
phân thành các loại: vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên, khu rừng văn
hóa xã hội, nghiên cứu thí nghiệm (như vườn quốc gia Cúc Phương, Bạch
Mã, Cát Tiên, khu bảo tồn thiên nhiên Pù Mác, Bà Nà Núi Chúa Đà Nẵng )
+ Rừng sản xuất: Được sử dụng chủ yếu để sản xuất kinh doanh gỗ,
các lâm đặc sản khác, đặc sản rừng, động vật rừng và kết hợp phòng hộ bảo
vệ môi trường sinh thái.
Rừng và đất rừng ở nước ta thuộc rừng nhiệt đới, có diện tích khoảng
19 triệu ha, trong đó diện tích có rừng là: 11,5 triệu ha, bao gồm rừng tự nhiên
9,98 triệu ha, rừng trồng 1,52 triệu ha, độ che phủ của rừng là 33,2%, trữ
lượng gỗ khoảng 600 triệu m
3
. Rừng Việt Nam tuy trữ lượng gỗ không lớn,
song có nhiều loại gỗ quý hiếm như: thông lá dẹt, bách xanh, pơmu, hương,
gụ, cà te các loại lâm đặc sản có giá trị kinh tế như: hồi, cánh kiến, nhựa
thông , Các loại dược liệu qúy hiếm như: trầm hương, sa nhân, ba bích và
một số loài động vật hoang dã quý hiếm như: tê giác, voi, hổ, sư tử, sao la,
mang lớn
Nhờ có nhiều ánh sáng mặt trời, lượng mưa lớn, độ ẩm cao, nên thực
vật rừng, động vật rừng rất đa dạng về loài, phong phú về chủng loại, là một
trong những nước có đa dạng sinh học cao của thế giới. Theo thống kê sơ bộ
rừng Việt Nam có khoảng 12.400 lòai thực vật, là nơi cư trú của 275 loài thú,
800 loài chim, 180 loài bò sát, 80 loài ếch nhái, trên 2.400 loài cá và 5.500
lòai côn trùng. Hiện nay dã có 2.300 loài cây và nhiều động vật được sử dụng
để cung cấp lượng thực, thực phẩm, dược phẩm, nguyên liệu công nghiệp và
thủ công nghiệp.
Hàng năm, rừng cung cấp gần 1 triệu m
3
gỗ và một khối lượng lớn
song, mây, tre, nứa đáp ứng yêu cầu sinh hoạt và xuất khẩu.

Nguồn lợi thiên nhiên của rừng Việt Nam rất phong phú và đa dạng,
nếu khai thác hợp lý thì tài nguyên không những tồn tại mãi mãi mà còn có
thể phát triển thêm. Song những năm qua tài nguyên rừng của nước ta bị suy
giảm nghiêm trọng, nhiều khu rừng nguyên sinh bị tàn phá, nhiều loại lâm sản
quý hiếm không còn khả năng tái tạo, nhiều loại động thực vật quý hiếm đang
đứng trước nguy cơ tuyệt chủng.
Trước năm 1945, diện tích rừng của Việt Nam vào khoảng 14,3 triệu
ha, độ che phủ là 43,8%. Đến nay, chỉ mới hơn nửa thế kỷ diện tích rừng chỉ
còn 9,98 triệu ha (rừng tự nhiên). Trong giai đoạn từ năm 1980 - 1989 trung
bình mỗi năm mất khoảng 100.000ha rừng, từ năm 1989 đến nay mỗi năm
mất khoảng 60.000ha. Điều đáng lo ngại ở những vùng đầu nguồn của các
Trang 4
con sông với diện tích che phủ lại ở con số thấp nhất từ 10 - 13%, cùng với
diện tích rừng bị thu hẹp thì chất lượng rừng Việt Nam cũng đang ở trong tình
trạng báo động.
Rừng bị giảm sút trong các năm, là hệ quả của một quá trình tác động
phá rừng, đốt rừng để trồng cây lượng thực và cây công nghiệp, khai thác
rừng lấy gỗ và các lâm sản khác, mặt khác hàng năm nạn cháy rừng diễn ra
liên tục đe dọa ở mọi nơi, từ đó làm cho môi trường thiên nhiên bị suy thóai,
thời tiết, khí hậu thay đổi thất thường ảnh hưởng lớn đến sản xuất và đời sống
của nhân dân. Do đó, phát triển kinh tế xã hội phải luôn coi trọng việc bảo vệ
tài nguyên môi trường sinh thái, bảo vệ tính đa dạng sinh học của hệ thống
thực vật rừng. Thực tiễn nhiều năm qua trên thế giới cũng như nước ta nạn
phá rừng, cháy rừng (mà nguyên nhân trực tiếp là do con người ) đã làm cho
thời tiết thay đổi, hạn hán, lũ lụt xảy ra nghiêm trọng, mùa hè nóng gắt, mùa
đông rét đậm với cường độ lớn và kéo dài. Từ năm 1997 đến nay nước ta bị
thiên tai liên tục, rất nặng nề trên cả 3 miền: Bắc, Trung, Nam gây thiệt hại to
lớn về người và của cho hàng triệu đồng bào ta.
2. Cơ sở thực tiễn:
Môi trường có tầm quan trọng đặc biệt, gắn liền sự sống của mọi sinh

vật và sự phát triển kinh tế văn hóa xã hội của đất nước, của dân tộc trên khắp
hành tinh. Hiện nay thế giới rất quan tâm về vấn đề môi trường, tổ chức PAM
đã và đang hỗ trợ khuyến khích nước ta trong việc trồng rừng nhằm cải tạo
môi trường và cung cấp một phần nhu cầu gia dụng về gỗ, củi cho nhân dân.
Từ năm 1992 nước ta đã triển khai một chương trình quốc gia về lâm nghiệp
mang tính dài hạn hướng tới năm 2010 mà người dân đã quen gọi là chương
trình 327. Cấu thành của chương trình này bao gồm những hoạt động chính
mang tính chiến lược như:
+ Quy hoạch sử dụng đất lâm nghiệp theo 3 loại rừng: rừng đặc dụng,
rừng phòng hộ và rừng sản xuất tiến hành giao đất giao rừng.
+ Phổ cập kiến thức canh tác lâm nông kết hợp.
+ Phát triển tín dụng nông thôn với lãi suất ưu đãi thích hợp.
+ Tạo thị trường cho lâm nông sản và từng bước cải thiện cơ sở hạ tầng
ở địa bàn lâm nghiệp.
+ Bảo vệ môi trường.
Hiện nay nước ta đang tiếp tục thực hiện dự án 5 triệu ha rừng: Trong
đó :
- Trồng rừng phòng hộ và đặc dụng: 2 triệu ha. Gồm trồng rừng mới
1 triệu ha và khoanh nuôi tái sinh 1 triệu ha.
Trang 5
- Trồng rừng sản xuất: 3 triệu ha, trong đó trồng cây lâm nghiệp 2
triệu ha và trồng cây công nghiệp lâu năm, cây ăn quả 1 triệu ha.
Đây là điều kiện thuận lợi để nhân dân ta phát triển kinh tế lâm nghiệp,
trồng rừng, trồng cây công nghiệp, bảo vệ rừng, nhằm giải quyết việc làm, ổn
định đời sống của nhân dân, đặc biệt góp phần làm cân bằng sinh thái, bảo vệ
môi trường, tăng độ che phủ của rừng và tăng thêm sản phẩm hàng hóa cho xã
hội, như trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội năm 2001 - 2010” của Đại
hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ IX khẳng định “Bảo vệ và phát triển tài
nguyên rừng, nâng độ che phủ của rừng lên 43%, hoàn thành việc giao đất
giao rừng ổn định và lâu dài theo hướng xã hội hóa lâm nghiệp, có chính

sách đảm bảo cho người làm rừng sống được bằng nghề rừng, kết hợp lâm
nghiệp với nông nghiệp và có chính sách hỗ trợ định canh định cư, ổn dịnh
và cải thiện đời sống nhân dân miền núi, ngăn chặn nạn đốt rừng, phá rừng”.
Trang 6
II. NHỮNG CƠ SỞ PHÁP LÝ VỀ QUẢN LÝ, BẢO VỆ VÀ PHÁT TRIỂN
RỪNG CỦA NHÀ NƯỚC TA:
1. Pháp luật bảo vệ và phát triển rừng ở Việt Nam trước Cách
mạng tháng Tám:
Trong các triều đại phong kiến, rừng là sở hữu riêng của nhà vua, lãnh
chúa, quan lại trong triều. Tài nguyên rừng được khai thác để cung phụng
cuộc sống xa hoa của chúng, cho nên việc gìn giữ nguồn của cải quý hiếm
này được Nhà nước phong kiến quan tâm. Pháp luật bảo vệ rừng chủ yếu
được thể hiện ở các sắc thuế đánh vào các sản vật rừng, thông qua thuế mà
quản lý, bảo vệ rừng, pháp luật đã quy định các thể lệ, đăng ký vận chuyển,
mua bán lâm sản nhất là các loại lâm sản quý hiếm.
Thời kỳ Pháp thuộc: Chính quyền thuộc địa quan tâm quản lý và khai
thác rừng để phục vụ cho lợi ích của chúng. Năm 1939 và 1942 tòan quyền
Đông Dương ra sắc lệnh tổ chức Sở Thủy lâm Đông Dương và tạo thành hệ
thống quản lý bảo vệ rừng trên phạm vi tòan lãnh thổ Việt Nam. Cùng với
việc xây dựng bộ máy, chính quyền thuộc địa cũng chú ý đào tạo và nghiên
cứu khoa học về rừng. Nhìn chung chính sách về lâm nghiệp thời Pháp thuộc
tuy có chuyển biến nhưng cũng chỉ vì mục đích của chúng, không vì mục đích
chung của xã hội, cho nên việc quản lý - bảo vệ rừng không được thực hiện
tốt.
2. Pháp luật bảo vệ và phát triển rừng từ sau Cách mạng tháng
Tám đến nay:
Cách mạng tháng Tám thắng lợi, Nhà nước Công nông đầu tiên ở Việt
Nam ra đời, ngày 30/10/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh bãi bỏ hệ
thống quản lý về ngành lâm nghiệp của chế độ thực dân. Ngày 14/11/1945
Chính phủ lâm thời ký sắc lệnh thành lập Bộ Canh nông. Ngày 01/02/1954

Chính phủ ra Nghị định 08/CP quy định nhiệm vụ quyền hạn và tổ chức bộ
máy của Bộ Lâm nghiệp.
Hiến pháp năm 1959 tại Điều 12 quy định “Các hầm mỏ và rừng cây,
đất hoang, tài nguyên khác mà Pháp luật quy định là của Nhà nước được
thuộc sở hữu tòan dân”.
Năm 1972 Pháp lệnh bảo vệ rừng ra đời. Ngày 21/5/1973 Chính phủ ký
Nghị định số 101/CP quy định việc nhiệm vụ của lực lượng kiểm lâm nhân
dân.
Năm 1975 đất nước hòa bình độc lập thống nhất, nhiệm vụ bảo vệ và
phát triển rừng được triển khai ở hai miền.
Trang 7
Năm 1980 Hiến pháp sửa đổi và quy định “Đất đai, rừng núi, sông hồ,
hầm mỏ, tài nguyên thiên nhiên trong lòng đất , ở vùng biển và thềm lục
địa đều thuộc sở hữu của tòan dân (Điều 12)”. Các quy định trên được
Hiến pháp năm 1992 khẳng định .
Ngày 12/8/1991 Quốc hội thông qua Luật bảo vệ và phát triển rừng.
Ngày 19/8/1991 Chủ tịch Hội đồng Nhà nước nước Cộng hòa Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam đã ký sắc lệnh số: 58/LCT HĐNN công bố ban hành đạo luật
trên. Đây là đạo luật đầu tiên về rừng ở nước ta trong quá trình hơn 40 năm,
hình thành phát triển sự nghiệp bảo vệ rừng, đồng thời thể hiện chủ trương
đường lối đổi mới của Đảng ta trong việc xây dựng và phát triển rừng. Luật là
cơ sở pháp lý để ngăn chặn, điều chỉnh mọi hành vi xâm hại đến rừng và
hướng các hoạt động xây dựng bảo vệ và phát triển rừng đi vào nề nếp trật tự,
đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước trong giai đoạn mới.
Ngoài ra trong Bộ luật hình sự của nước ta tại Điều 181 cũng quy định
tội vi phạm các quy định về quản lý, bảo vệ rừng. Điều 194 quy định tội vi
phạm các quy định về phòng cháy, chữa cháy và Điều 216 quy định tội vi
phạm các quy định về bảo vệ và sử dụng di tích lịch sử, văn hóa danh lam
thắng cảnh gây hậu quả nghiêm trọng.
Ngoài ra, Chính phủ còn có các văn bản dưới Luật như: Nghị định, Chỉ

thị để thi hành Luật bảo vệ phát triển rừng. Bộ Lâm nghiệp, nay là Bộ Nông
nghiệp và phát triển nông thôn đã ban hành nhiều văn bản triển khai hướng
dẫn thi hành luật bảo vệ và phát triển rừng. Có thể nêu một số văn bản điển
hình được ban hành cụ thể như sau:
+ Nghị định số 18/HĐBT ngày 17/01/1992 quy định danh mục thực vật
rừng, động vật rừng quý hiếm và chế độ quản lý, bảo vệ.
+ Chỉ thị số: 90/CT ngày 13/9/1992 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng
về thực hiện những biện pháp cấp bách để chặn đứng nạn pháp rừng.
+ Chỉ thị số 130/TTg, ngày 17/3/1993 của Thủ tướng Chính phủ về
việc quản lý bảo vệ động, thực vật quý hiếm.
+ Chỉ thị số 462/TTg, ngày 11/9/1993 của Thủ tướng Chính phủ về
quản lý chặt chẽ, việc khai thác, vận chuyển và xuất khẩu gỗ.
+ Nghị định số 39/CP quy định hệ thống tổ chức và nhiệm vụ quyền
hạn của lực lượng Kiểm lâm ngày 18/5/1994.
+ Nghị định số 02/CP ngày 15/01/1994 của Chính phủ ban hành quy
định về giao đất lâm nghiệp cho tổ chức, hộ gia đình cá nhân sử dụng ổn định
lâu dài vào mục đích lâm nghiệp.
Trang 8
+ Nghị định số 22/CP ngày 09/3/1995 của Chính phủ ban hành quy
định về phòng cháy, chữa cháy rừng.
+ Nghị định số 77/CP ngày 29/11/1996 về xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực quản lý rừng, bảo vệ rừng, quản lý lâm sản.
+ Chỉ thị số 286/TTg ngày 02/5/1997 của Thủ tướng Chính phủ về việc
“Tăng cường các biện pháp cấp bách để bảo vệ và phát triển rừng”.
+ Chỉ thị số 287/TTg ngày 02/5/1997 của Thủ tướng Chính phủ về việc
“Tổ chức kiểm tra truy quét những cá nhân và tổ chức phá hoại rừng”.
+ Quyết định số 145/1998/QĐ TTg ngày 05/8/1998 của Thủ tướng
Chính phủ về chính sách quản lý và sử dụng rừng trồng bằng nguồn vốn tài
trợ của chương trình thực thế giới (PAM).
+ Quyết định số 245/1998/QĐ TTG ngày 21/12/1998 của Thủ tướng

Chính phủ về thực hiện trách nhiệm quản lý Nhà nước của các cấp về rừng và
dất lâm nghiệp.
+ Nghị quyết của Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam kỳ họp thứ 2
khóa X về dự án nuôi trồng mới 5 triệu ha rừng.
+ Quyết định số 661/QĐ TTG ngày 29/7/1998 của Thủ tướng Chính
phủ về mục tiêu, nhiệm vụ, chính sách và tổ chức thực hiện dự án trồng mới 5
triệu ha rừng.
+ Thông tư 56/1999/BNN-KL ngày 30/3/1999 của Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn, hướng dẫn xây dựng quy ước bảo vệ rừng và phát triển
rừng trong cộng đồng dân cư thôn, làng, buôn, bản, ấp.
+ Nghị định 163/1999/NĐ-CP ngày 16/11/1999 của Chính phủ về giao
đất, cho thuê đất lâm nghiệp cho tổ chức, hộ gia đình và cá nhân sử dụng ổn
định, lâu dài vào mục đích lâm nghiệp.
+ Quyết định số 08/2001/QĐ TTG ngày 11/01/2001 của Thủ tướng
Chính phủ về việc ban hành quy chế quản lý rừng đặc chủng, rừng phòng hộ,
rừng sản xuất là rừng tự nhiên.
+ Chỉ thị số 21/2002/CT TTg ngày 12/12/2002 của Thủ tướng Chính
phủ về tăng cường thực hiện công tác phòng cháy, chữa cháy rừng.
+ Chỉ thị số 12/2003/CT TTG ra ngày 16/5/2003 của Thủ tướng Chính
phủ về việc tăng cường các biện pháp cấp bách để bảo vệ và phát triển rừng.
Tóm lại: Nhà nước Việt Nam đang tích cực tăng cường pháp luật và
pháp chế trên lĩnh vực quản lý rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản, đặc biệt
đối với rừng tự nhiên nhằm tích cực bảo vệ diện tích rừng hiện có. Đồng thời
Trang 9
đẩy mạnh các chủ trương chính sách phát triển trồng cây gây rừng, kinh tế
trang trại, gắn kết với các chương trình kinh tế - xã hội có tính hỗ trợ cho bảo
vệ rừng định canh, định cư, xóa đói giảm nghèo, phát triển nông thôn, đặc
biệt ở vùng núi nhằm giảm sức ép dân số lên tài nguyên rừng, đảm bảo hai
chức năng của rừng về sản xuất và về xã hội, phòng hộ môi trường.
Trang 10

PHẦN THỨ HAI
TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN LÂM NGHIỆP
CỦA HUYỆN PHÙ MỸ TRONG NHỮNG NĂM QUA
I. ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN, KINH TẾ, XÃ HỘI:
1. Tự nhiên:
Phù Mỹ là huyện đồng bằng ven biển thuộc tỉnh Bình Định, nằm vào
khoản 14
0
32 - 15
0
22 vĩ độ Bắc và 105
0
55 - 109
0
51 kinh độ Đông. Cách trung
tâm Thành phố Quy Nhơn 55km về phía Bắc. Đông giáp biển Đông, Tây giáp
huyện Hòai Ân, nam giáp huyện Phù Cát, Bắc giáp huyện Hoài Nhơn, có
đường quốc lộ 1A và tuyến đường sắt thống nhất chạy qua và có đường chiến
lược quân sự chạy dọc theo các xã ven biển.
Toàn huyện có 17 xã, 2 thị trấn. Tổng diện tích tự nhiên 54.943 ha.
Trong đó diện tích rừng và đất lâm nghiệp 19.856,2 ha, bao gồm rừng tự
nhiên 2.129,3 ha, rừng trồng 4.554,1 ha, đất trống đồi núi trọc 13.172,8 ha, độ
che phủ toàn huyện 22% và đất khác 35.086,8 ha (theo số liệu kiểm kê rừng
năm 1999 của tỉnh Bình Định).
Địa hình: cao dần từ Tây sang Bắc, thấp dần theo hướng Đông, độ dốc
bình quân 20 - 25
0
.
Đất đai: qua số liệu điều tra của đoàn điều tra quy hoạch tỉnh cho thấy
Phù Mỹ có loại đất sau:

+ Đất đỏ vàng.
+ Đất cát.
+ Đất xám bạc màu.
+ Đất phù sa.
+ Đất đỏ vàng trên mác ma acid đá mẹ Granit.
+ Đất mặn.
+ Đất sói mòn trơ sỏi đá.
Nguồn nước: Phù Mỹ có 1 sông chính là sông La Tinh và hơn 24 hồ
đập chứa nước, có dung tích gần 30 triệu m
3
nước để phục vụ cho sản xuất
nông, lâm nghiệp và hạn chế lũ lụt.
Trang 11
Khí hậu thời tiết: Phù Mỹ mang tính khí hậu nhiệt đới gió mùa, trong
năm có 2 mùa rõ rệt, mùa khô và mùa mưa, mùa khô từ tháng 2 đến tháng 8
và mùa mưa từ tháng 9 đến tháng 12.
+ Nhiệt độ trung bình hàng năm là 17,5
0
C.
+ Lượng mưa trung bình hàng năm: 1.500mm (cao nhất là 2.300mm,
thấp nhất là 950 mm)
+ Độ ẩm bình quân 79,8% (thấp nhất 71%, cao nhất 82%)
+ Lượng bốc hơi bình quân năm 1.167mm.
+ Số lượng mưa trung bình trong năm: 155 ngày.
Qua số liệu về khí hậu và thủy văn cho thấy việc sản xuất nông, lâm
nghiệp ở Phù Mỹ có khả năng sinh trưởng và phát triển tốt.
2. Kinh tế - xã hội:
a. Dân số và lao động:
Huyện Phù Mỹ có 17 xã và 2 thị trấn, dân số 185.253 người, trong đó
nam: 89.892 người; nữ 95.361 người, với 39.415 hộ, lao động trong các

ngành kinh tế quốc dân: 94.813 người, số người trong tuổi lao động có khả
năng lao động đang không có việc làm: 2.960 người.
b. Kinh tế - xã hội:
Theo báo cáo chính trị của Ban chấp hành huyện Đảng bộ khóa XV,
trên lĩnh vực kinh tế tiếp tục có bước phát triển tòan diện và tăng trưởng khá,
giá trị tổng sản phẩm xã hội tăng bình quân hàng năm 7%, công nghiệp dịch
vụ tăng 32%, tỷ trọng nông nghiệp từ 83% xuống còn 67%. Tổng sản lượng
lương thực quy thóc năm 2002 đạt: 73.014 tấn, bình quân lương thực đầu
người đạt 394 kg/năm.
Nông nghiệp phát triển tòan diện cả nông- lâm - ngư nghiệp, từng
bước hình thành vùng cây chuyên canh sản xuất hàng hóa, tạo nguyên liệu
cho công nghiệp chế biến. Năng suất lúa từ 39,3 tạ/ha tăng lên 42,1 tạ/ha,
năng suất mì từ 106 tạ/ha tăng lên 108 tạ/ha. Diện tích cây công nghiệp, cây
ăn quả phát triển nhất là cây đào, cây xòai phát triển theo mô hình trang trại ở
các xã nằm ở phía Tây và phía Bắc của huyện.
Nghư nghiệp phát triển mạnh cả về đánh bắt và nuôi trồng, chế biến hải
sản, phương tiện đánh bắt tăng 15,4% so với năm 1995. Sản lượng khai thác
thủy hải sản tăng gấp 3 lần năm 1995.
Trang 12
Chăn nuôi đại gia súc, tiểu gia súc và gia cầm phát triển khá, có nhiều
hộ nuôi với quy mô lớn.
Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và giao thông vận tải tiếp tục phát
triển, tốc độ bình quân hàng năm 15%. Thị trường thương nghiệp hàng hóa đa
dạng phong phú, đáp ứng yêu cầu sản xuất và tiêu dùng của nhân dân. Bưu
chính viễn thông phát triển, bình quân 01 máy điện thoại/100 người dân.
Lĩnh vực văn hóa xã hội có nhiều tiến bộ, đời sống văn hóa tinh thần
của nhân dân ngày càng được nâng cao và ổn định.
II. TÌNH HÌNH QUẢN LÝ BẢO VỆ RỪNG CỦA HUYỆN PHÙ MỸ TRONG
NHỮNG NĂM QUA:
1. Thực trạng rừng Phù Mỹ:

Phù Mỹ là một huyện đồng bằng ven biển, có tổng diện tích rừng và đất
lâm nghiệp 19.856 ha trong đó đất có rừng 6.683 ha. Bao gồm rừng tự nhiên
2.129 ha, rừng trồng 4.554 ha, đất trống đồi trọc 13.172 ha, rừng phòng hộ
đầu nguồn 3.909 ha, tập trung ở các xã Mỹ Hiệp, Mỹ Hòa, Mỹ Trinh, Mỹ
Phong, Mỹ Lộc, Mỹ Đức. Độ che phủ của rừng 22%, thấp hơn tỷ lệ bình quân
của tỉnh (toàn tỉnh là 33,8%) điều này ảnh hưởng rất lớn đến tác dụng phòng
hộ của rừng.
Tài nguyên rừng Phù Mỹ nghèo, thực vật rừng có các loài cây bản địa
như: Muồng đen, Chò chỉ, Bằng lăng, Trắc gai động vật rừng có: heo rừng,
nai, mang, chồn, thỏ trữ lượng gỗ thấp. Với thực trạng như thế, cho nên
nhiệm vụ trọng tâm là quản lý, bảo vệ vốn rừng hiện có và phát triển thêm
diện tích rừng trên địa bàn huyện.
Ngoài diện tích đất có rừng thì phần lớn còn lại là đất trống đồi trọc ,
đây là điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế lâm nghiệp, đất rừng phong
phú đa dạng phù hợp với các loại cây trồng lâm nghiệp và công nghiệp như:
bạch đàn, keo, đào và các loại cây ăn quả khác.
Với dân số 185.253 người và còn có khả năng tiếp tục tăng thì nhu cầu
sử dụng lâm sản trong huyện rấ tnhiều, nhất là gỗ gia dụng và chất đốt. Vì
vậy, áp lực phá rừng rất lớn và rừng luôn luôn bị đe dọa, tình hình vi phạm
lâm luật tuy có giảm so với trước nhưng thủ đoạn phá rừng ngày càng tinh vi
và diễn biến phức tạp. Đây là điều đáng quan tâm của Đảng, Nhà nước của
các cấp, các ngành nhất là lực lượng kiểm lâm và của tòan thể xã hội vì sự
nghiệp bảo vệ rừng là sự nghiệp của tòan dân.
2. Những mặt làm được và tồn tại trong công tác quản lý bảo vệ và
phát triển rừng:
a. Những mặt làm được:
Trang 13
Sau chiến tranh, Phù Mỹ cũng như hầu hết các huyện trong tỉnh bị tàn
phá nặng nề, rừng bị bom đạn, chất độc hóa học tàn phá hủy diệt, biến thành
đồi trọc hoang hóa. Bắt tay vào việc xây dựng lại quê hương, việc đầu tiên

của huyện là khắc phục hậu quả của chiến tranh, ổn định và phát triển sản
xuất, trong đó việc trồng cây gây rừng, phủ xanh đất trống đồi trọc được quan
tâm chú trọng. Phát triển kinh tế lâm nghiệp, bảo vệ xây dựng vốn, rừng được
xem là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn của huyện. Hệ thống chuyên
trách về quản lý và sản xuất lâm nghiệp được thành lập như Phòng Lâm
nghiệp (nay là Phòng Nông nghiệp và phát triển nông thôn) lâm trường, Hạt
kiểm lâm, đây là cơ sở tạo tiền đề cho việc bảo vệ phát triển rừng.
Những năm qua công tác quản lý bảo vệ và phát triển rừng đã mang lại
những kết quả nhất định, đã phủ xanh phần lớn đất trống đồi núi trọc. Rừng
trồng ngày càng phát triển và được bảo vệ tốt, phát huy được chức năng
phòng hộ, bảo vệ môi trường (Như phòng hộ đầu nguồn, phòng hộ chắn cát
bay, chắn sóng ven biển) đem lại lợi ích thiết thực về kinh tế cho nhân dân
trong Huyện, góp phần xóa đói giảm nghèo ổn định xã hội. Điều quan trọng là
đã chuyển nhận thức của nhân dân lên một bước về rừng, từ chỗ cho rằng
rừng là của thiên nhiên vô tận đến nhận thức rừng là của Nhà nước, của xã hội
tức là của tòan dân, trong đó có bản thân chính mình.
Từ năm 1980 đến nay vấn đề bảo vệ rừng và phát triển lâm nghiệp ở
Phù Mỹ đã có những bước đổi mới quan trọng. Phong trào trồng cây trong
nhân dân phát triển mạnh, bình quân mỗi năm trồng mới 100ha rừng và 1
triệu cây phân tán. Đã chuyển dần một bước từ lâm nghiệp Nhà nước sang
lâm nghiệp xã hội trên cơ sở triển khai công tác giao đất lâm nghiệp, khoán
rừng để bảo vệ đến hộ gia đình theo phương châm: rừng phải có chủ cụ thể,
kinh tế trang trại phát triển thu hút nhiều người tham gia. Gắn phát triển lâm
nghiệp với phát triển tòan diện kinh tế xã hội nhằm phân bổ lại dân cư và ổn
định đời sống nhân dân.
Thực hiện đồng bộ các chương trình dự án lớn có hiệu quả như chương
trình 327, dự án PAM và hiện nay là chương trình trồng mới 5 triệu ha rừng
của Chính phủ.
Đến nay về công tác giao đất lâm nghiệp và khoán bảo vệ rừng đã giao
11.410ha, trong đó Ban Quản lý rừng phòng hộ 8.946ha, Cá nhân hộ gia đình

2.464ha.
Đây là chính sách lớn của Đảng, Nhà nước đang được tiếp tục thực
hiện trên địa bàn huyện.
Xác định cháy rừng là một thảm họa. Công tác phòng cháy, chữa cháy
rừng được quan tâm chú trọng, đã thành lập, kiện tòan ban chỉ đạo từ huyện
đến xã, xây dựng cấp dự báo cháy rừng, hàng năm đều xây dựng phương án
Trang 14
phòng cháy chữa cháy rừng. Trong đó xác định những vùng trọng điểm dễ
cháy, trình các cấp thẩm quyền phê duyệt, đồng thời hướng dẫn các địa
phương có rừng thành lập các tổ, đội quần chúng chuyên trách phòng cháy
chữa cháy để ứng cứu khi có tình huống xảy ra. Ngoài ra còn làm tốt công tác
tuyên truyền giáo dục pháp luật về rừng, về phòng cháy chữa cháy rừng, nhờ
đó mà trong các năm qua không có xảy ra cháy rừng.
Công tác dự báo phòng trừ sâu bệnh hại rừng được theo dõi thường
xuyên, các chủ rừng được trang bị kiến thức qua các chương trình khuyến
nông, khuyến lâm và các cuộc họp tuyên truyền chuyên đề bảo vệ rừng ở cơ
sở thôn xã và các phương tiện thông tin truyền thanh.
Công tác kiểm tra ngăn ngừa và xử lý các hành vi vi phạm luật bảo vệ
và phát triển rừng được tiến hành thường xuyên, với trách nhiệm của mình
trong việc bảo vệ nguồn tài nguyên quý giá của huyện. Hạt kiểm lâm đã có
nhiều cố gắng trong việc tham mưu, đề xuất, xây dựng kế hoạch quản lý bảo
vệ rừng. Đồng thời làm nòng cốt trong việc tổ chức, triển khai, phối hợp với
các ngành chức năng như Công an, Quân sự huyện ngăn chặn truy quét,
chống phá rừng mang lại nhiều kết quả tích cực. Chỉ tính hơn 5 năm, từ năm
1997 - 30/5/2003, lực lượng Kiểm lâm Phù Mỹ đã kiểm tra xử lý 306 vụ vi
phạm lâm luật, bao gồm các hành vi: phá rừng làm rẫy, chặt cây lấy gỗ, củi,
đốt than, mua bán, vận chuyển lâm sản, săn bắt động vật hoang dã trái phép.
Đã xử lý hành chính 306 vụ, tịch thu sung công quỹ Nhà nước 95m
3
gỗ từ

nhóm 1 đến nhóm 8 và nhiều lâm sản, đặc sản khác. Thu nộp cho Nhà nước
404 triệu đồng, ngoài những việc nêu trên, thực hiện chủ trương “Toàn dân
tham gia bảo vệ rừng ghi sâu lời Bác Hồ dạy” ngành Kiểm lâm của huyện đã
chủ động ký kết quy chế phối hợp bảo vệ rừng với các ngành đoàn thể như:
Công an, Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Đoàn thanh niên, Hội Cựu chiến binh
của huyện nhằm làm tốt hơn công tác tuyên truyền, giáo dục ý thức bảo vệ
rừng cho mọi ngành, mọi tầng lớp nhân dân góp phần phát triển sự nghiệp
bảo vệ rừng.
Đạt được những kết quả trên là nhờ những chủ trương chính sách,
những định hướng đúng đắn của Đảng và Nhà nước dưới ánh sáng của các
Nghị quyết của Đảng ta: Nghị quyết Đại hội VI, Nghị quyết 10 Bộ chính trị
(Khoá VI) về “Đổi mới quản lý Nông nghiệp”, Nghị quyết TW5 (khoá VII),
Nghị quyết 09 của tỉng uỷ Bình Định về “Tiếp tục đổi mới về phát triển kinh
tế nông nghiệp nông thôn”, Nghị quyết XV của huyện Đảng bộ về “Tập trung
phát triển nông nghiệp toàn diện theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá”.
b. Những tồn tại:
Như trên đã nói, rừng có một vị trí vai trò vô cùng quan trọng và to lớn
trong đời sống con người và cho xã hội, nhưng rừng là kho tàng không khoá,
dễ bị chặt phá, khai thác trái phép. Trong khi đó, việc tổ chức quản lý bảo vệ
Trang 15
chưa được coi trọng đúng mức, còn nhiều quan niệm cho rằng đó là việc của
Kiểm lâm, mà không nhận thức được rằng đây là sự nghiệp chung của toàn
dân, của toàn xã hội, của cả cộng đồng và rộng lớn hơn là của toàn nhân loại
khắp hành tinh vì lẽ không có cây, không có rừng thì con người không thể
sống được. Tài nguyên rừng là vô giá nhưng không phải là vô tận, nếu không
biết giữ gìn bảo vệ và phát triển thì rừng sẽ bị huỷ diệt, sẽ bị mất đi, hiểm hoạ
thiên tai đang chờ trước mắt, bắt con người chúng ta phải trả giá cho sự thiếu
trách nhiệm của mình, đó cũng là quy luật của “nhân quả”.
Thực tiễn ở Phù Mỹ trong nhiều năm qua tuy có làm công tác tuyên
truyền giáo dục, đấu tranh phòng chóng phá rừng nhưng nhìn chung hiệu quả

đạt chưa cao, rừng vẫn còn bị tàn phá nghiêm trọng do những người vô ý thức
thực hiện mà xã hội thường gọi là “lâm tặc”.
Việc phối hợp xử lý vi phạm phá rừng chưa đồng bộ, không thống nhất.
Pháp luật còn quá nhẹ nhàng với tội vi phạm nghiêm trọng và còn rất nhiều ý
kiến khác nhau trong việc xử lý vi phạm phá rừng. Vì vậy chỉ nặng nề hành
chính, nhẹ về hình sự, ít mang tính thuyết phục giáo dục.
Công tác giao đất, giao rừng và giao khoán bảo vệ rừng tuy có làm
nhưng chưa nhiều, chưa nhân rộng, nguyên nhân là do không có nguồn vốn
đầu tư, chưa có chính sách tài chính cụ thể, chủ yếu do nhân dân tự trồng,
thiếu sự kiểm tra giám sát hướng dẫn của cơ quan chức năng. Kinh phí khoán
bảo vệ rừng do Nhà nước chi từ nguồn các dự án nhưng quá thấp
(50.000đồng/ha/năm) không kích thích sự nhiệt tình của người nhận rừng,
việc giao quyền sử dụng đất lâm nghiệp tiến hành chậm.
Việc trồng rừng chưa đúng quy trình quy phạm, tỷ lệ cây sống thấp,
chưa xác định được tập đoàn cây bản địa phù hợp với điều kiện địa phương
cho nên nguồn giống không ổn định ảnh hưởng rất lớn đến việc phát triển lâm
nghiệp trong huyện.
Chính quyền địa phương cơ sở chưa thực sự quan tâm đến công tác
quản lý bảo vệ rừng theo Quyết định 245/TTg của Thủ tướng Chính phủ về
“Thực hiện trách nhiệm quản lý Nhà nước của các cấp về rừng và đất lâm
nghiệp”.
Lực lượng Kiểm lâm quá ít, toàn huyện chỉ có 13 người, trình độ
chuyên môn nghiệp vụ và năng lực công tác của một số cán bộ công chức
Kiểm lâm còn hạn, chế chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra.
3. Nguyên nhân:
Việc để xảy ra tình trạng phá rừng có nhiều nguyên nhân nhưng trước
hết là do các ngành , các cấp buông lỏng trách nhiệm quản lý Nhà nước về
Trang 16
rừng, không tổ chức thực hiện tốt những quy định của pháp luật về việc bảo
vệ và phát triển rừng.

Công tác tuyên truyền giáo dục và vận động quần chúng nhân dân chưa
được triển khai sâu rộng, nhận thức của nhân dân về rừng còn nhiều hạn chế.
Tình trạng dân số gia tăng, một bộ phận lớn nhân dân ở độ tuổi lao
động không có việc làm, nhất là ở khu vực nông thôn, dẫn đến việc dựa vào
rừng để mưu sống đã làm gia tăng áp lực phá rừng.
Một số chính sách của Nhà nước chưa kịp thời đồng bộ như tạo công
ăn việc làm, tín dụng vay vốn để sản xuất phát triển kinh tế, xoá đói giảm
nghèo, chế độ chính sách cho những người có công lao, thành tích trong công
tác bảo vệ phát triển rừng chưa thoả đáng.
Để bảo vệ và phát triển rừng cần có hệ thống các biện pháp toàn diện,
đồng bộ đồng thời triển khai thực hiện kịp thời, có hiệu quả.
Trang 17
PHẦN THỨ BA
MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ VỀ BẢO VỆ VÀ PHÁT TRIỂN
RỪNG Ở HUYỆN PHÙ MỸ TRONG NHỮNG NĂM ĐẾN
I. CÁC GIẢI PHÁP QUẢN LÝ:
1. Dân chủ hoá lĩnh vực bảo vệ và phát triển rừng:
Tăng cường pháp chế nói chung, trong lĩnh vực bảo vệ và phát triển
rừng nói riêng luôn đặt ra hai yêu cầu có quan hệ hữu cơ với nhau là xây dựng
pháp luật và bảo vệ pháp luật. điều kiện tiên quyết cho việc xác định nội
dung, xác định cơ chế thực hiện có hiệu quả các yêu cầu đó là vấn đề dân chủ,
dân chủ phải là môi trường cho việc triển khai các yêu cầu. Vì lẽ trên, dân chủ
hoá lĩnh vực bảo vệ và phát triển rừng trở thành giải pháp cơ bản, bao trùm
chi phối toàn bộ các giải pháp khác.
Trước hết trong việc giao đất, giao rừng cần phải thực hiện: không một
mét vuông rừng, đất rừng nào là không có chủ, đây là một chính sách lớn của
Đảng, Nhà nước trong bảo vệ và phát triển rừng đang phát huy tác dụng to
lớn, tuy nhiên để phát huy hơn nữa tính ưu việt của chính sách thì vấn đề có ý
nghĩa quyết định là phải có một cơ chế vận hành hợp lý. Trong đó việc giao
đất, giao rừng chỉ có thể được thực hiện và phát huy hiệu quả khi giao đúng

chủ và chỉ giao cho những người thực sự có ý thức và năng lực làm chủ, nếu
giao chỉ với mục đích xoá đói giảm nghèo thì chắc chắn mục tiêu của chính
sách không đạt được hiệu quả cao nhất. Vì vậy thể chế hoá một cách cụ thể
quyền và nghĩa vụ làm chủ là bước tiến quan trọng để đi tới khẳng định trong
thực tế địa vị làm chủ rừng, tài nguyên rừng của nhân dân theo quy định của
pháp luật.
Tiếp tục công tác cải cách thủ tục hành chính, thực hiện nguyên tắc tập
trung dân chủ trong lĩnh vực bảo vệ phát triển rừng, đặc biệt chú trọng việc
khiếu nại tố cáo của nhân dân trong lĩnh vực bảo vệ rừng, phát triển rừng,
thông qua đó để hoàn thiện cơ chế chính sách và làm trong sạch đội ngũ cán
bộ quản lý rừng, tạo niềm tin và lòng hăng hái của đông đảo nhân dân tham
gia vào công tác bảo vệ phát triển rừng.
2. Xây dựng và hoàn thành hệ thống Pháp luật về bảo vệ và phát
triển rừng:
Nhà nước ta cũng đã ban hành nhiều văn bản pháp quy về lâm nghiệp
để làm công cụ quản lý bảo vệ rừng, quản lý lâm sản. Tại kỳ họp thứ IX Quốc
hội Khoá VIII đã thông qua Luật bảo vệ và phát triển rừng. Ngày 17/01/1992
Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định số 17/HĐBT về thi hành Luật bảo vệ
Trang 18
và phát triển rừng, ngày 25/4/192 Bộ Lâm nghiệp ban hành Thông tư số
08/LNKL hướng dẫn thi hành việc kiểm tra, khai thác vận chuyển lâm sản.
Ngày 05/12/1992 Chính phủ ban hành Nghị định số 14/CP quy định xử phạt
hành chính trong lĩnh vực quản lý bảo vệ rừng quản lý lâm sản.
Qua thời gian thực hiện, một số văn bản quy phạm pháp luật không còn
phù hợp với yêu cầu thực tế đặt ra, một số văn bản này đã được thay thế như:
Nghị định số 14/CP được thay thế bằng Nghị định 77/CP, ngày 29/11/1996
của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính. Thông tư số 8/LNKL được
thay thế bằng thông tư số 11/LNKL ngày 31/10/1995 của Bộ Lâm nghiệp và
được tiếp tục thay thế bằng Quyết định số 47/1999/BNNKL, ngày 12/3/1999
của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quy định kiểm tra, vận chuyển

sản xuất kinh doanh gỗ và lâm sản Từ đó việc quản lý Nhà nước trong lĩnh
vực bảo vệ và phát triển rừng được tăng cường hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên
do được ban hành từ những thời kỳ đầu đổi mới, lại thêm tác động của các
chính sách mới như: chính sách giao đất giao rừng, kiểm tra kiểm soát việc
khai thác sản xuất chế biến sản phẩm từ rừng, đặc biệt là những yêu cầu đòi
hỏi mới trong việc triển khai thực hiện dự án 5 triệu ha rừng của Chính phủ và
những diễn biến mới của tình trạng vi phạm pháp luật trong quản lý bảo vệ
rừng. Vì vậy cần có sự tu chỉnh, hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ phát
triển rừng để phù hợp với tình hình mới.
3. Hoàn thiện cơ chế đảm bảo thực hiện nghiêm chỉnh luật bảo vệ
và phát triển rừng, đấu tranh chống các hành vi vi phạm lâm luật:
Cơ chế điều chỉnh Pháp luật các quan hệ xã hội nói chung, điều chỉnh
các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực quản lý bảo vệ rừng nói riêng của Nhà
nước bao gồm các yếu tố liên quan và quy trình khác nhau như ý thức pháp
luật, quy phạm pháp luật, văn bản áp dụng pháp luật, quan hệ pháp luật, chủ
thể, hệ thống trách nhiệm pháp lý sự vận hành của cơ chế thông qua tác
động của các yếu tố trên lên các quan hệ xã hội đảm bảo cho Nhà nước thực
hiện được tác động điều chỉnh các hành vi, hoạt động của các tổ chức, cá nhân
phù hợp với ý chí của Nhà nước.
Thực tiễn thi hành luật bảo vệ và phát triển rừng trong thời gian qua
cho thấy việc thiết lập cơ chế đưa Luật vào cuộc sống cần tập trung mấy vấn
đề sau đây:
- Một là: Tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền qua các hệ thống
thông tin đại chúng. Báo, đài phát thanh, truyền hình, phim ảnh và thông qua
các cán bộ làm côgn tác tuyên truyền trong quần chúng nhân dân, đặc biệt
phải đưa vào một cách có hệ thống trong trường học từ bậc Tiểu học đến bậc
Đại học làm cho mỗi quần chúng nhân dân học sinh, sinh viên hiểu biết về
Luật và tác dụng của rừng, xem bảo vệ rừng vừa là nghĩa vụ vừa là quyền lợi
của nhân dân, vừa là trách nhiệm của Nhà nước. Từ đó có ý thức tuân thủ
Trang 19

Pháp luật hình thành trận tuyến an ninh nhân dân trong quản lý bảo vệ và phát
triển rừng. Đồng thời phải tổ chức phong trào “Toàn dân ký cam kết thực hiện
lượng ước bảo vệ rừng” để hướng nhân dân vào những hoạt động bảo vệ rừng
nói chung và phòng cháy, chữa cháy rừng nói riêng ở từng thôn, bản.
- Hai là: Đề cao trách nhiệm tổ chức thực hiện Pháp luật của các cấp,
các ngành có thẩm quyền trên cơ sở quy định trách nhiệm quản lý, bảo vệ
rừng của các cấp đó.
- Ba là: Xử lý nghiêm minh mọi hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ
và phát triển rừng. Để thực hiện tốt vấn đề này, các tổ chức, cơ quan Nhà
nước và cán bộ được giao thực hiện nhiệm vụ quản lý bảo vệ rừng nhất là lực
lượng Kiểm lâm, phải nắm vững các quy định của Pháp luật về bảo vệ và phát
triển rừng của Nhà nước, các Nghị định, Chỉ thị của Chính phủ, các Thông tư
Liên bộ, đặc biệt là Bộ luật hình sự nước CHXHCN Việt Nam quy định các
tội phá rừng và pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính.
Nắm vững các quy định trên mới có căn cứ vận dụng để xử lý nghiêm
minh các hành vi vi phạm pháp luật, đảm bảo yêu cầu khách quan xử lý đúng
người, đúng tội và đúng quy định của Pháp luật nhằm mang tính giáo dục,
thuyết phục cao.
- Bốn là: Tổ chức quản lý tốt 3 loại rừng, xác định các khu rừng phòng
hộ, rừng đặc chủng và rừng sản xuất hiện có để tổ chức quản lý đúng quy
định.
- Năm là: Đổi mới và thực hiện tốt chính sách về lâm nghiệp. Nhà
nước có kế hoạch cấp đất cho nhân dân sản xuất lâm nghiệp và cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất để họ có thể vay vốn ngân hàng phục vụ cho
sản xuất nông - lâm nghiệp tốt hơn. Ưu tiên cho những gia đình thuộc diện
chính sách, những hộ thuộc dạng đói nghèo nhận đất, nhận rừng để sản xuất,
nhất là các dự án lâm nghiệp có sự hỗ trợ của Nhà nước hoặc vốn đầu tư nước
ngoài. Việc tuyển chọn đào tạo cán bộ lâm nghiệp cần ưu tiên cho đồng bào
dân tộc, con em trong ngành lâm nghiệp để họ yên tâm công tác phục vụ cho
sự nghiệp bảo vệ, phát triển rừng.

4. Tổ chức phòng cháy và chữa cháy rừng:
Cháy rừng là một thảm hoạ gây thiệt hại lớn về tài sản và tính mạng
của nhân dân. Do đó, việc phòng cháy và chữa cháy rừng là một yêu cầu hết
sức cấp bách trong sự nghiệp phát triển tài nguyên rừng, bảo vệ tính đa dạng
sinh học, bảo bệ môi trường, cảnh quan du lịch, nâng cao đời sống cộng đồng
dân cư. Vì vậy, các cấp, các ngành và tất cả các công dân, đặc biệt là các tổ
chức cá nhân hoạt động trên địa bàn rừng và ven rừng có nghĩa vụ bảo vệ
rừng theo Nghị định số 22/CP ngày 09/3/1995 của Chính phủ.
Trang 20
Trên tinh thần đó UBND huyện có trách nhiệm chỉ đạo các ngành, các
địa phương trong huyện triển khai và thường xuyên chú trọng theo dõi công
tác phòng cháy, chữa cháy rừng. Hạt kiểm lâm có trách nhiệm tham mưu
hướng dẫn, kiểm tra và phối hợp với Chính quyền cơ sở, thực hiện phòng
cháy chữa cháy rừng trên địa bàn mình quản lý, đồng thời xác định đây là
nhiệm vụ hàng đầu trong công tác bảo vệ và phát triển rừng .
5. Giải quyết tốt hơn vấn đề gỗ, củi:
Phải giảm việc sử dụng gỗ, củi làm nhiên liệu. Trước hết phải nghiêm
cấm việc dùng củi làm nhiên liệu ở đô thị, nghiêm cấm dùng củi đốt lò trong
sản xuất vật liệu xây dựng. Riêng về củi đun nấu ở nông thôn, phải xử lý theo
hướng dùng năng lượng thay thế dần từng bước. Nơi có than thì dùng than,
nơi có điều kiện dùng khi sinh học thì dùng khí sinh học, diện còn lại vẫn
dùng củi thì phải trồng cây lấy củi để có chất đốt nhưng cũng phải có biện
pháp sử dụng tiết kiệm.
Nhu cầu gỗ trong sản xuất xây dựng và đời sống cũng rất lớn. Trong
xây dựng, cần dùng các vật liệu khác để thay thế một phần gỗ. Đổi mới công
nghệ chế biến gỗ để tiết kiệm gỗ. Trong lúc rừng trồng chưa đáp ứng đủ, thì
cần nhập khẩu thêm gỗ để đảm bảo nhu cầu của thị trường. Từ đó có thể tiết
kiệm gỗ khai thác và ngăn chặn có hiệu quả tệ khai thác gỗ lậu.
6. Xây dựng lực lượng Kiểm lâm và các lực lượng có liên quan
trong lĩnh vực quản lý bảo vệ và phát triển rừng vững mạnh, đáp ứng

yêu cầu nhiều vụ mới:
Kiểm lâm là lực lượng chuyên trách thừa hành Pháp luật về quản lý bảo
vệ rừng, do vậy phải tăng cường công tác kiểm tra thanh tra, phát hiện xử lý
kịp thời những hành vi vi phạm Pháp luật về rừng. Thực hiện việc quản lý và
bảo vệ rừng, tuyên truyền vận động nhân dân bảo vệ và xây dựng vốn rừng.
Trong giai đoạn hiện nay muốn làm tốt chức năng nhiệm vụ của mình
cần phải củng cố, xây dựng và đổi mới công tác Kiểm lâm, trước hết là đổi
mới về công tác cán bộ là khâu then chốt quyết định hiệu quả công việc.
Người cán bộ Kiểm lâm ngoài phẩm chất đạo đức và sức khoẻ phải có trình
độ chuyên môn về kỹ thuật nghiệp vụ và năng lực công tác thực sự, vì vậy
cần phải có kế hoạch đào tạo và đào tạo lại. Kiên quyết loại trừ những kẻ
thoái hoá biến chất, tham ô tham nhũng và đưa ra khỏi lực lượng, từng bước
làm trong sạch và vững mạnh đội ngũ tương xứng với nhiệm vụ.
Hai là, đổi mới về công tác nghiệp vụ, trong đó xác định lại việc phân
công phân cấp quản lý rừng từ Trung ương xuống địa phương, đặc biệt là cấp
huyện và cấp xã.
Trang 21
Từ những vấn đề trên, việc xây dựng và đổi mới công tác kiểm lâm của
huyện là nhiệm vụ cấp bách. Trước hết là củng cố, kiện toàn tổ chức hạt
Kiểm lâm cả về năng lực và nghiệp vụ; thực hiện phương châm bám rừng,
bám dân, bám nhiệm vụ, tăng cường Kiểm lâm xuống địa bàn để tuyên truyền
vận động nhân dân và giúp địa phương trong công tác quản lý, bảo vệ rừng,
xây dựng mạng lưới Ban Lâm nghiệp xã, mạng lưới nhân dân tham gia quản
lý, bảo vệ rừng (đây là biện pháp ít tốn kém và hiệu quả nhất). Xây dựng quy
ước bảo vệ và phát triển rừng trong cộng đồng dân cư thôn, bản theo hướng
dẫn Thông tư số 56/1999/TT-BNN-KL ngày 30/3/1999 của Bộ Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn.
Ngoài ra, trên cơ sở chức năng nhiệm vụ quyền hạn của mình, hạt
Kiểm lâm phải thường xuyên tổ chức, phối hợp thanh tra kiểm tra việc khai
thác sử dụng rừng, sử dụng đất lâm nghiệp, sản xuất kinh doanh lâm sản,

phòng cháy chữa cháy rừng, tổ chức truy quét bọn phá rừng . Đồng thời theo
dõi diễn biến rừng và đất lâm nghiệp, trên cơ sở kiểm tra phát hiện và xử lý
kịp thời những vi phạm đúng pháp luật nhằm thực hiện tốt chức năng quản lý
bảo vệ rừng trên địa bàn huyện.
Trang 22
II. KIẾN NGHỊ:
Trên cơ sở lý luận đã được nghiên cứu và từ thực tế trong việc quản lý
bảo vệ rừng, để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ phát triển rừng trong tình
hình mới và qua những vấn đề trình bày trong tiểu luận tôi xin kiến nghị:
1. Quy hoạch lại đất lâm nghiệp ở địa phương, từ đó có cơ sở để giao
đất cho tổ chức hộ gia đình, cá nhân sản xuất kinh doanh lâm
nghiệp: quy hoạch rừng thành các loại như: rừng phòng hộ, rừng đặc
dụng và rừng sản xuất để có chế độ quản lý, bảo vệ cho phù hợp.
2. Những chương trình về lâm nghiệp của Nhà nước nhằm giải quyết
việc làm, xoá đói giảm nghèo phải được đầu tư trực tiếp cho nhân
dân.
3. Nhà nước từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật về lâm nghiệp để
làm hành lang pháp lý cho các đơn vị sản xuất kinh doanh và các cơ
quan chức năng thực thi pháp luật xử lý vi phạm.
4. Có những chế độ chính sách hợp lý đối với Ban Lâm nghiệp xã và
những người tham gia bảo vệ rừng vì nó có vai trò rất quan trọng
trong sự nghiệp quản lý, bảo vệ rừng.
5. Có những chế độ chính sách đãi ngộ cho lực lượng kiểm lâm khi
làm nhiệm vụ bị thương tật hoặc hy sinh. Đồng thời trang bị các
phương tiện, cơ sở vật chất kỹ thuật cho kiểm lâm để làm tốt nhiệm
vụ quản lý bảo vệ rừng.
6. Nhà nước có chính sách đãi ngộ đối với những người khi làm nhiệm
vụ phòng cháy, chữa cháy rừng bị thiệt hại về tài sản, tính mạng
(chết, bị thương) chi trả tiền công cho người lao động khi trực tiếp
đi chữa cháy rừng.

Trang 23
Kết luận
Công tác quản lý, bảo vệ rừng và đấu tranh phòng chống vi phạm pháp
luật là một việc làm hết sức khó khăn, phức tạp. Đặc biệt trước tình hình hiện
nay rừng đang bị tàn phá nghiêm trọng. Việc cứu rừng đòi hỏi toàn xã hội
phải ra tay, các cấp, các ngành cần phải xác định rõ vai trò, vị trí của mình
cần phải làm gì để góp phần cho sự nghiệp bảo vệ và phát triển rừng, coi bảo
vệ rừng là bảo vệ tổ quốc, bảo vệ sự phát triển bền vững của nền kinh tế.
Quá trình phát triển kinh tế là quá trình làm thay đổi đối tượng lao
động, biến các tài nguyên thiên nhiên thành các sản phẩm tiêu dùng cho con
người, sản xuất càng nhiều sản phẩm thì tài nguyên càng cạn kiệt. Nước ta đất
hẹp người người đông, tài nguyên nghèo nàn nên trong khai thác, sử dụng cần
phải tiết kiệm gắn với bảo vệ môi trường sinh thái. Nhưng để thực hiện nhiệm
vụ đó Nhà nước có vai trò rất quan trọng trong việc hoạch định các chính sách
và tổ chức bộ máy quản lý có đủ năng lực để thực hiện đồng bộ chiến lược
phát triển kinh tế xã hội gắn với việc bảo vệ tài nguyên môi trường và sinh
thái.
Tài nguyên rừng là tài sản xã hội chủ nghĩa tức là của toàn dân cho nên
trong công tác quản lý bảo vệ rừng, phát triển tài nguyên rừng cần phải thực
hiện một cách đồng bộ đúng pháp luật.
Trong cơ cấu kinh tế của huyện Phù Mỹ, lâm nghiệp có vai trò quan
trọng cho nên vấn đề đặt ra là làm thế nào để giữ được vốn rừng hiện có cả về
chất lượng lẫn diện tích mà vẫn đảm bảo được tốc độ tăng trưởng kinh tế của
huyện. Muốn đạt được mục tiêu trên không ngoài những giải pháp đã được
trình bày, trong đó vai trò quản lý của Nhà nước là đặc biệt quan trọng.
Phát huy truyền thống của một huyện anh hùng trong kháng chiến
chống Mỹ cứu nước, Huyện Phù Mỹ quyết tâm phấn đấu thực hiện thắng lợi
Nghị quyết Đại hội IX của Đảng, Nghị quyết đại hội XVI Đảng bộ tỉnh và
Nghị quyết XV Đảng bộ huyện về định hướng phát triển nông nghiệp và kinh
tế nông thôn, đưa sự nghiệp đổi mới của huyện tiến lên giành những thắng lợi

mới, thực hiện mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh”.
Trang 24
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hiến pháp Việt Nam năm 1946, 1959, 1980, 1992.
2. Luật bảo vệ và phát triển rừng ngày 19/8/1991.
3. Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính.
4. Nghị định 77/CP của Chính phủ về xử phạt hành chính trong lĩnh
vực quản lý bảo vệ rừng và quản lý lâm sản.
5. Bộ luật hình sự nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
6. Các văn bản quy phạm pháp luật về lâm nghiệp.
7. Văn kiện Đại hội Đảng lần thức VI, VII và Đại hội IX, Đại hội tỉnh
Đảng bộ lầm thứ XVI, Đại hội Huyện Đảng bộ lần thứ XV.
8. Tạp chí lâm nghiệp số 3 - 2001 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn.
9. Niên giám thống kê Huyện Phù Mỹ năm 2003.
Trang 25

×