Tải bản đầy đủ (.doc) (92 trang)

chiến lược thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành công nghiệp dầu khí của việt nam giai đoạn 2010 - 2025

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (531.5 KB, 92 trang )

Kho¸ luËn tèt nghiÖp
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngành công nghiệp dầu khí là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn
của đất nước. Điều đó được xác định rõ: “Đất nước ta có nguồn tiềm năng dầu
khí đáng kể ở thềm lục địa. Đảng, Nhà nước và nhân dân ta phải tập trung cố
gắng đến mức cao nhất để biến tiềm năng đó thành hiện thực, từng bước đưa
dầu khí trở thành một ngành kinh tế kỹ thuật quan trọng trong chiến lược phát
triển kinh tế trong những thập kỷ tới” (Nghị quyết 15, Bộ Chính trị, khóa VI).
Đến nay, qua hơn 30 năm xây dựng và phát triển, ngành công nghiệp dầu khí
của Việt Nam đã hoàn thành tốt hoạt động tìm kiếm, thăm dò và khai thác
cũng như chế biến một số sản phẩm từ dầu khí nhằm đảm bảo an ninh năng
lượng, xứng đáng là ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước. Những thành tựu
lớn lao đó của ngành đạt được là nhờ phần đóng góp quan trọng của nguồn
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài bởi chỉ có nguồn vốn này mới có thể đáp ứng
những yêu cầu mang tính đặc thù của ngành công nghiệp dầu khí về vốn,
công nghệ cũng như hợp tác quốc tế, nhất là đối với một nước đang phát triển
như Việt Nam.
“Chiến lược phát triển ngành Dầu khí Việt Nam đến 2015 và định
hướng đến 2025” của Đảng và Nhà nước đã đặt ra mục tiêu “Phát triển
ngành Dầu khí trở thành một ngành kinh tế - kỹ thuật quan trọng, đồng bộ,
bao gồm tìm kiếm thăm dò, khai thác, vận chuyển, chế biến, tàng trữ, phân
phối, dịch vụ và xuất, nhập khẩu. Xây dựng Tập đoàn Dầu khí mạnh, kinh
doanh đa ngành trong nước và quốc tế”. Để đạt được mục tiêu to lớn đó,
ngành dầu khí Việt Nam cần được đầu tư một lượng vốn rất lớn mà trong đó
đầu tư trực tiếp nước ngoài có vai trò vô cùng quan trọng. Vì vậy, việc đề ra
chiến lược cụ thể nhằm thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành công
1
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
nghiệp dầu khí cho giai đoạn tương ứng 2010 - 2025 là vô cùng cấp thiết
nhằm góp phần hiện thực hóa mục tiêu mà chiến lược trên đây đã đề ra.


Với những lí do đó, em đã chọn đề tài “Chiến lược thu hút đầu tư
trực tiếp nước ngoài vào ngành công nghiệp dầu khí của Việt Nam giai
đoạn 2010 - 2025” làm đề tài nghiên cứu cho khóa luận tốt nghiệp của mình
với hi vọng tìm hiểu, nâng cao hiểu biết và nghiên cứu sâu hơn về đầu tư trực
tiếp nước ngoài nói chung, đặc biệt là sự cần thiết phải thu hút đầu tư trực tiếp
nước ngoài vào ngành công nghiệp dầu khí của Việt Nam nói riêng. Trên cơ
sở đó mạnh dạn kiến nghị một số giải pháp cụ thể góp phần thực hiện những
giải pháp cơ bản đặt ra trong chiến lược này.
2. Mục đích nghiên cứu
- Hệ thống hóa lý luận về đầu tư trực tiếp nước ngoài.
- Nêu ra những đặc trưng cơ bản của ngành công nghiệp dầu khí từ đó
phân tích tầm quan trọng của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với ngành công
nghiệp dầu khí Việt Nam nhằm khai thác triệt để tiềm năng dầu khí dồi dào
của Việt Nam, khẳng định vị trí mũi nhọn của ngành dầu khí trong nền kinh
tế quốc dân và phục vụ cho công cuộc Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa đất
nước.
- Phân tích và đánh giá thực trạng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài
vào ngành công nghiệp dầu khí của Việt Nam từ trước đến nay.
- Đề xuất một số giải pháp cụ thể nhằm thực hiện Chiến lược thu hút
đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành công nghiệp dầu khí của Việt Nam giai
đoạn 2010-2025.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng: nghiên cứu khả năng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài
vào ngành công nghiệp dầu khí Việt Nam từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm
2
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
thực hiện chiến lược thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành công
nghiệp dầu khí của Việt Nam trong giai đoạn 2010 - 2025
- Phạm vi: Nghiên cứu hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành
công nghiệp dầu khí Việt Nam kể từ năm 1987 khi Luật Đầu tư nước ngoài

được ban hành cho đến nay được thay thế bằng Luật Đầu tư 2005.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu đề tài bao gồm phương pháp phân tích, tổng
hợp, thống kê, so sánh và đối chiếu.
5. Bố cục của khóa luận
Ngoài mở đầu, kết luận, nội dung chính của đề tài kết cấu gồm 3 chương.
Chương I. Lý luận chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài và khái quát
về ngành công nghiệp dầu khí của Việt Nam
Chương II. Thực trạng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào
ngành công nghiệp dầu khí của Việt Nam
Chương III. Chiến lược thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào
ngành công nghiệp dầu khí của Việt Nam giai đoạn 2010 - 2025
Tuy nhiên, do kiến thức, khả năng, kinh nghiệm và thời gian nghiên
cứu còn hạn chế nên khoá luận không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em rất
mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo để khoá luận tốt
nghiệp được hoàn thiện hơn.
Đặc biệt, Em xin chân thành cảm ơn cô giáo-Thạc sỹ Phạm Thị Mai
Khanh đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi cho em hoàn
thành khóa luận tốt nghiệp này.
Em xin trân trọng cảm ơn!
3
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
Chương I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀ
KHÁI QUÁT VỀ NGÀNH CÔNG NGHIỆP DẦU KHÍ CỦA VIỆT NAM
I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
1. Khái niệm và đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.1. Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài
Theo Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign
Direct Investment - FDI) là một hoạt động đầu tư được thực hiện nhằm đạt

được những lợi ích lâu dài trong một doanh nghiệp hoạt động trên lãnh thổ
của một nền kinh tế khác nền kinh tế nước chủ đầu tư, mục đích của chủ đầu
tư là giành quyền quản lý thực sự doanh nghiệp. (Nguồn Balance of Payments
Manuals, 5
th
edition, IMF)
Định nghĩa này nhấn mạnh vào 2 yếu tố bao gồm:
- Lợi ích lâu dài: Khi tiến hành đầu tư trực tiếp nước ngoài, các nhà đầu
tư thường đặt ra các mục tiêu lợi ích dài hạn. Mục tiêu lợi ích dài hạn đòi hỏi
phải có mối quan hệ lâu dài giữa nhà đầu tư và doanh nghiệp nhận đầu tư
đồng thời phải có mức độ ảnh hưởng đáng kể đối với việc quản lý doanh
nghiệp này.
- Quyền quản lý thực sự doanh nghiệp: chính là quyền kiểm soát doanh
nghiệp tức là quyền tham gia vào các quyết định quan trọng ảnh hưởng đến sự
tồn tại và phát triển của doanh nghiệp như thông qua chiến lược hoạt động
của công ty, quyết định việc phân chia lợi nhuận doanh nghiệp, quyết định tỷ
lệ vốn góp của các bên Đó là những quyền ảnh hưởng đến sự sống còn và
phát triển của doanh nghiệp.
4
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
Tại Việt Nam, Luật Đầu tư nước ngoài ban hành năm 1987 đã đưa ra
khái niệm: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc tổ chức, cá nhân nước ngoài
đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền nước ngoái hoặc bất kì tài sản nào được
chính phủ Việt Nam chấp thuận để hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng
hoặc thành lập xí nghiệp liên doanh hoặc doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
theo quy định của luật này”. Sau đó, Luật Đầu tư 2005 đã đưa ra các khái
niệm về “đầu tư”, “đầu tư trực tiếp”, “đầu tư nước ngoài” nhưng lại không
đưa ra khái niệm về “đầu tư trực tiếp nước ngoài”. Tuy nhiên, có thể hiểu
rằng FDI là hình thức đầu tư do nhà đầu tư nước ngoài bỏ vốn đầu tư và tham
gia quản lý hoạt động đầu tư tại Việt Nam hoặc nhà đầu tư Việt Nam bỏ vốn

đầu tư và tham gia quản lý hoạt động đầu tư ở nước ngoài theo quy định của
luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
Vậy từ những khái niệm trên chúng ta có thể hiểu một cách khái quát
về FDI là hình thức đầu tư dài hạn của chủ đầu tư nước này vào nước khác
theo một phương thức mà đôi bên thoả thuận nhằm tìm kiếm lợi ích và giành
quyền quản lý nhất định trong lĩnh vực đầu tư.
1.2. Đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài chủ yếu là đầu tư tư nhân với mục đích
hàng đầu là tìm kiếm lợi nhuận.
- Các chủ đầu tư nước ngoài phải đóng góp một tỉ lệ tối thiểu trong vốn
pháp định hoặc vốn điều lệ theo quy định của pháp luật từng nước để có thể
giành quyền kiểm soát doanh nghiệp nhận đầu tư.
- Tỷ lệ đóng góp của các bên trong vốn điều lệ hoặc vốn pháp định sẽ
quy định quyền và nghĩa vụ của mỗi bên, đồng thời lợi nhuận và rủi ro cũng
được phân chia theo tỷ lệ này.
- Thu nhập của chủ đầu tư phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của doanh
5
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
nghiệp nhận đầu tư và mang tính chất thu nhập kinh doanh chứ không phải lợi tức.
- Chủ đầu tư tự quyết định đầu tư, quyết định sản xuất kinh doanh và tự
chịu trách nhiệm về lỗ lãi.
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài thường kèm theo chuyển giao công nghệ
cho nước tiếp nhận đầu tư.
2. Phân loại đầu tư trực tiếp nước ngoài
Đầu tư trực tiếp nước ngoài thường được thực hiện theo một số hình
thức, phương thức chủ yếu sau đây.
- Công ty liên doanh: là hình thức công ty được hình thành với sự tham
gia của một hoặc nhiều bên của nước nhận đầu tư và nước đầu tư; cho ra đời
một pháp nhân mới ở nước nhận đầu tư và hoạt động dưới sự chi phối của
pháp luật của nước nhận đầu tư.

- Hình thức công ty 100% vốn nước ngoài: là hình thức công ty hoàn
toàn thuộc quyền sở hữu của tổ chức, cá nhân nước ngoài và do bên nước
ngoài tự thành lập, tự quản lý và hoàn toàn chịu trách nhiệm về kết quả kinh
doanh; cho ra đời một pháp nhân mới ở nước nhận đầu tư và hoạt động dưới
sự chi phối của pháp luật của nước nhận đầu tư.
- Hợp đồng hợp tác kinh doanh: là hình thức đầu tư được ký giữa một
hoặc nhiều nhà đầu tư nước ngoài với một hoặc nhiều doanh nghiệp Việt Nam
thuộc mọi thành phần kinh tế để tiến hành một hay nhiều hoạt động kinh
doanh ở nước chủ nhà trên cơ sở quy định về trách nhiệm và phân phối kết
quả kinh doanh mà không thành lập một công ty, xí nghiệp hay không ra đời
một tư cách pháp nhân nào mới.
- Hợp đồng Xây dựng - Kinh doanh - Chuyển giao (BOT): là văn bản
ký kết giữa cơ quan Nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam và nhà đầu tư
nước ngoài về phương thức xây dựng, kinh doanh các công trình kết cấu hạ
6
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
tầng trong một thời hạn nhất định; hết thời hạn, nhà đầu tư nước ngoài chuyển
giao không bồi hoàn công trình đó cho Nhà nước Việt Nam.
- Hợp đồng Xây dựng - Chuyển giao - Kinh doanh (BTO): là văn bản
ký kết giữa cơ quan Nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam và nhà đầu tư
nước ngoài về phương thức xây dựng công trình kết cấu hạ tầng, sau khi xây
dựng xong nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao công trình đó cho Nhà nước
Việt Nam, Chính phủ Việt Nam dành cho nhà đầu tư quyền kinh doanh công
trình đó trong một thời gian nhất định để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận hợp
lý.
- Hợp đồng Xây dựng - Chuyển giao (BT): là văn bản ký kết giữa cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam và nhà đầu tư nước ngoài về
phương thức xây dựng công trình kết cầu hạ tầng, sau khi xây dựng xong nhà
đầu tư nước ngoài chuyển giao công trình đó cho Nhà nước Việt Nam, Chính
phủ Việt Nam tạo điều kiện cho nhà đầu tư nước ngoài thực hiện dự án khác

để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận hợp lý.
3. Vai trò của FDI đối với các nước đang phát triển
3.1. Tác động tích cực
3.1.1. Bổ sung nguồn vốn và công nghệ
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là nguồn vốn đầu tư dài hạn, tồn tại
chủ yếu dưới hình thức công nghệ, đất đai, nhà xưởng nên có độ ổn định
cao hơn rất nhiều so với đầu tư chứng khoán nước ngoài, vì vậy ít có khả
năng gây sốc cho nền kinh tế khi có khủng hoảng. Bên cạnh đó FDI chủ yếu
là nguồn vốn đầu tư tư nhân, các chủ đầu tư tự tiến hành hoạt động đầu tư và
tự chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất kinh doanh vì vậy hiệu quả của FDI
thường cao hơn so với các hình thức đầu tư khác đồng thời FDI cũng không
để lại gánh nặng về nợ cho ngân sách nhà nước như vay thương mại hay gây
7
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
ra các sức ép về kinh tế, chính trị, xã hội như ODA. Không chỉ có vậy, FDI
cũng góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả của các nguồn vốn trong
nước cũng như tạo điều kiện cho nguồn vốn của Nhà nước tập trung vào các
vấn đề kinh tế - xã hội ưu tiên như cơ sở hạ tầng, các công trình phúc lợi xã
hội
Ngoài ra, đi kèm với nguồn vốn FDI thường có sự chuyển giao công nghệ
dành cho các nước nhận đầu tư mà công nghệ cũng là một yếu tố mà các nước
đang phát triển còn đang rất thiếu và rất cần cho quá trình phát triển của mình.
3.1.2. Tạo việc làm và phát triển nguồn nhân lực
Đầu tư trực tiếp nước ngoài giúp các nước đang phát triển tận dụng
được lợi thế về nguồn lao động dồi dào song song với việc góp phần đào
tạo, nâng cao trình độ nguồn nhân lực với một đội ngũ lao động lành
nghề, có tác phong công nghiệp, kỉ luật và đặc biệt là có khả năng tiếp thu
khoa học kĩ thuật hiện đại trong lao động sản xuất. Ngoài ra, ở các doanh
nghiệp liên doanh, chủ đầu tư nước chủ nhà còn có cơ hội được tiếp cận
và học tập kinh nghiệm quản lý tiên tiến của nhà đầu tư nước ngoài trong

sản xuất kinh doanh.
3.1.3. Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực
Hiện nay, đầu tư trực tiếp nước ngoài đang trở thành một yếu tố tạo ra
sự chuyển biến tích cực trong cơ cấu kinh tế của nước nhận đầu tư. FDI chủ
yếu tập trung vào các ngành công nghiệp và dịch vụ do đó nguồn vốn này có
thể đáp ứng được nhu cầu phát triển các ngành này ở các nước đang phát
triển.Với tỷ trọng nguồn vốn FDI vào các ngành công nghiệp và dịch vụ ngày
càng tăng, nguồn vốn này đã góp phần làm tăng tỷ trọng về sản lượng, việc
làm cũng như giá trị xuất khẩu của các ngành này trong nền kinh tế của các
8
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
nước nhận đầu tư trong khi tỉ trọng của các ngành sản xuất truyền thống như
nông nghiệp và khai thác giảm mạnh.
3.1.4. Nâng cao năng lực xuất khẩu và mở rộng thị trường xuất khẩu
Sự xuất hiện của các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đi kèm với công
nghệ, máy móc, thiết bị hiện đại đã giúp các nước nhận đầu tư nâng cao chất
lượng và đa dạng hóa các mặt hàng xuất khẩu. Bên cạnh đó, thông qua các
mối quan hệ sẵn có của các nhà đầu tư nước ngoài, hàng hóa của các doanh
nghiệp FDI có thể tiếp cận thị trường thế giới dễ dàng hơn. Như vậy, FDI vừa
làm tăng năng lực xuất khẩu vừa mở rộng thị trường xuất khẩu cho các nước
nhận đầu tư.
3.1.5. Mở rộng hợp tác quốc tế, đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế
Trong các hoạt động kinh tế đối ngoại, đầu tư trực tiếp nước ngoài ngày
càng có ý nghĩa quan trọng với vai trò thúc đẩy thu hút các nguồn vốn đầu tư
nước ngoài khác như ODA hay tín dụng quốc tế Quan hệ thương mại của
các nước cũng mở rộng theo quá trình phát triển của các doanh nghiệp có FDI
và song song với đó là sự tham gia từng bước vào phân công lao động quốc tế
của nước nhận đầu tư. Có thể nói, hoạt động FDI đã làm phong phú, đa dạng
thêm các quan hệ kinh tế đối ngoại của nước nhận đầu tư. Nền kinh tế trong
nước dần hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế khu vực và thế giới, tạo điều kiện

tham gia vào các hiệp định hợp tác kinh tế song phương và đa phương.
3.2. Tác động tiêu cực
3.2.1. Nguy cơ chịu sự lệ thuộc về kinh tế
Nguồn vốn FDI chủ yếu do các tập đoàn, công ty đa quốc gia và xuyên
quốc gia chi phối. Vì vậy các nước tiếp nhận phải phụ thuộc vào vốn, công
nghệ, thị trường và hệ thống mạng lưới tiêu thụ của các đối tượng này. Nếu
các nước tiếp nhận đầu tư chỉ biết dựa vào nguồn vốn FDI mà không chú
9
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
trọng đúng mức đến việc khai thác các nguồn vốn đầu tư khác từ nội lực của
nền kinh tế thì nguy cơ lệ thuộc và mất độc lập về kinh tế là khó tránh khỏi.
Các công ty đa quốc gia có thể dùng quyền lực kinh tế của mình gây ảnh
hưởng bất lợi đến tình hình kinh tế - xã hội của nước chủ nhà.
3.2.2. Những hạn chế trong quá trình chuyển giao công nghệ
Mục tiêu của bất kỳ nhà đầu tư nào cũng đều muốn thu hồi vốn nhanh
và có được nhiều lợi nhuận. Do đó việc chuyển giao công nghệ cũng cơ bản
nhằm hai mục đích này và thường diễn ra theo hai khuynh hướng chủ yếu đều
gây ra những tác động tiêu cực cho nước chủ nhà:
- Đưa các thiết bị công nghệ hiện đại vào nhằm thu hồi vốn và lợi
nhuận nhanh mà không tính đến chất lượng và số lượng lao động hiện có của
nước sở tại. Kết quả là mặc dù tăng vốn đầu tư, mở rộng sản xuất, có thêm
nhiều ngành nghề mới nhưng người lao động vẫn thiếu việc làm, số lao động
dư thừa vẫn không được giải quyết.
- Tận dụng các công nghệ cũ, lạc hậu để chuyển giao cho các nước
nhận đầu tư. Do máy móc thiết bị lạc hậu nên chi phí sản xuất lớn, giá thành
sản phẩm cao dẫn đến khả năng cạnh tranh thấp làm cho các nước nhận đầu tư
khó có thể đuổi kịp các nước phát triển. Bên cạnh đó còn là các tác hại khác
như ô nhiễm môi trường, không có điều kiện để tiếp nhận khoa học, công
nghệ cũng như đào tạo nguồn nhân lực hiện đại.
3.2.3. Sức ép cạnh tranh lớn đối với các doanh nghiệp trong nước

Do sở hữu ưu thế về vốn, về công nghệ hiện đại, thị trường tiêu thụ
cũng như trình độ tổ chức quản lý các chủ đầu tư hoàn toàn có đủ điều kiện
để giành thế chủ động trong sản xuất kinh doanh ngay tại nước tiếp nhận đầu
tư. Do đó bằng con đường cạnh tranh hợp quy luật, các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài hoàn toàn có thể thôn tính các công ty nội địa hoặc ngay
10
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
bản thân trong nội bộ các doanh nghiệp liên doanh có vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài, sau một thời gian hoạt động, do hạn chế về trình độ quản lý cũng
như thiếu kinh nghiệm, phía nước nhận đầu tư thường bị phía đối tác nước
ngoài mua lại cổ phần và doanh nghiệp liên doanh trở thành doanh nghiệp có
100% vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đó là một thực tế mà nước nhận đầu tư
cần phải cân nhắc khi thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài.
3.2.4. Nguy cơ đối với cán cân thanh toán của nước nhận đầu tư
Ảnh hưởng của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với cán cân thanh toán
của nước nhận đầu tư là một vấn đề cần phải được chú ý. Thông thường nhà
nước sở tại rất khó kiểm soát được giao dịch ngoại thương của các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, bởi vì hầu hết các giao dịch này là giao dịch
nội bộ công ty của các tập đoàn tư bản đa quốc gia. Nhờ giao dịch trong nội
bộ, các công ty này có thể định giá các sản phẩm do mình sản xuất ra hoặc
các nguồn đầu tư theo mức giá có lợi nhất cho họ nhằm để trốn thuế hoặc né
tránh sự kiểm soát của nhà nước sở tại. Đặc điểm này đã khiến các nước tiếp
nhận đầu tư khó có khả năng kiểm soát nguồn ngoại tệ để duy trì và làm chủ
cán cân thanh toán, gây trở ngại cho việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài
và làm giảm tác động tích cực của dòng vốn này lên cán cân thanh toán của
nước chủ nhà.
Như vậy đối với các nước tiếp nhận đầu tư, tác dụng của đầu tư trực
tiếp nước ngoài phải được nhìn nhận thấu đáo trên cả hai mặt tích cực và tiêu
cực của nó. Những mặt trái của đầu tư trực tiếp nước ngoài hoàn toàn không
có nghĩa là phủ nhận những lợi thế cơ bản của nó mà chỉ để các nước nhận

đầu tư lưu ý rằng không nên hy vọng quá nhiều vào nguồn vốn này và cần
phải có những chính sách hợp lý, những biện pháp quản lý hữu hiệu để phát
huy những mặt tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực của đầu tư trực tiếp
nước ngoài. Bởi vì mức độ thiệt hại mà đầu tư trực tiếp nước ngoài gây ra cho
11
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
nước chủ nhà nhiều hay ít phụ thuộc rất nhiều vào chính sách, năng lực, trình
độ quản lý, trình độ chuyên môn của nước nhận đầu tư.
4. Các nhân tố tác động đến hoạt động thu hút đầu tư trực tiếp
nước ngoài của một quốc gia
Việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của một quốc gia sẽ chịu sự
ảnh hưởng của các yếu tố về tình hình chính trị, chính sách, pháp luật, vị trí
địa lý, điều kiện tự nhiên, trình độ phát triển kinh tế, các đặc điểm văn hoá-xã
hội bởi các nhóm yếu tố này có thể làm tăng khả năng sinh lãi hoặc rủi ro cho
các nhà đầu tư nước ngoài khi đầu tư ở quốc gia đó. Vì vậy chính những yếu
tố này trở thành những chỉ tiêu quan trọng để nhà đầu tư cân nhắc và lựa chọn
địa điểm đầu tư và đưa ra quyết định đầu tư.
4.1. Tình hình chính trị
Có thể nói ổn định chính trị của nước chủ nhà là yếu tố hấp dẫn hàng
đầu đối với các nhà đầu tư, yếu tố này lại càng đặc biệt đối với các nhà đầu tư
nước ngoài. Bởi vì tình hình chính trị ổn định là điều kiện tiên quyết để đảm
bảo các cam kết của chính phủ đối với các nhà đầu tư về sở hữu vốn đầu tư,
các chính sách ưu tiên đầu tư và định hướng phát triển của nước nhận đầu tư.
Đồng thời, sự ổn định chính trị còn là tiền đề cần thiết để ổn định tình hình
kinh tế-xã hội, nhờ đó giảm được tính rủi ro cho các nhà đầu tư. Một nước
không thể thu hút được nhiều FDI nếu tình hình chính trị luôn bất ổn định.
Một vấn đề khác cũng được các nhà đầu tư nước ngoài quan tâm, đó là
định hướng đầu tư của nước chủ nhà. Vì các nhà đầu tư nước ngoài thường có
chiến lược kinh doanh dài hạn nên họ rất cần sự rõ ràng, ổn định trong định
hướng đầu tư của nước chủ nhà.

4.2. Chính sách - pháp luật
12
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
Vì quá trình đầu tư có liên quan rất nhiều các hoạt động của các tổ
chức, cá nhân và được tiến hành trong thời gian dài nên các nhà đầu tư nước
ngoài rất cần có một môi trường pháp lý hợp lý và ổn định của nước chủ nhà.
Môi trường này gồm các chính sách, quy định đối với đầu tư nước ngoài và
tính hiệu lực của chúng trong thực hiện. Một môi trường pháp lý hấp dẫn đầu
tư nước ngoài nếu có các chính sách, quy định hợp lý và tính hiệu lực cao
trong thực hiện. Đây là những căn cứ pháp lý quan trọng không chỉ để đảm
bảo quyền lợi của các nhà đầu tư nước ngoài mà còn là những cơ sở cần thiết
cho họ tính toán làm ăn lâu dài ở nước chủ nhà.
4.3. Vị trí địa lý - điều kiện tự nhiên
Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên bao gồm các yếu tố về khoảng cách,
địa điểm, khí hậu, tài nguyên thiên nhiên, dân số Đây là những yếu tố tác
động quan trọng đến tính sinh lãi hay rủi ro của các hoạt động đầu tư.
Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên thuận lợi sẽ giảm được các chi phí
vận chuyển, đa dạng hoá các lĩnh vực đầu tư, cung cấp được nguồn nguyên
liệu phong phú với giá cả rẻ và tiềm năng tiêu thụ lớn. Các yếu tố này không
những làm giảm được giá thành sản phẩm mà còn thu hút được các nhà đầu tư
tìm kiếm nguyên liệu tự nhiên và thị trường tiêu thụ. Đây là lợi thế nổi bật của
nhiều nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, mức độ hấp
dẫn còn phụ thuộc vào chất lượng của thị trường lao động và sức mua của dân
cư.
4.4. Trình độ phát triển kinh tế
Trình độ phát triển kinh tế là các mức độ phát triển về quản lý kinh tế
vĩ mô, cơ sở hạ tầng, chất lượng cung cấp dịch vụ cho các hoạt động kinh
doanh của nhà đầu tư nước ngoài và mức độ cạnh tranh của thị trường nước
13
Kho¸ luËn tèt nghiÖp

chủ nhà. Có thể nói đây là các yếu tố có tác động mạnh hơn các chính sách ưu
đãi về tài chính của nước chủ nhà đối với các nhà đầu tư.
4.5. Đặc điểm phát triển văn hoá - xã hội
Đặc điểm phát triển văn hoá-xã hội của nước chủ nhà được coi là hấp
dẫn đầu tư nước ngoài nếu có trình độ giáo dục cao và nhiều sự tương đồng
về ngôn ngữ, tôn giáo, các phong tục tập quán với các nhà đầu tư nước ngoài.
Các đặc điểm này không chỉ giảm được chi phí đào tạo nguồn nhân lực cho
các nhà đầu tư nước ngoài mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho họ hoà nhập
vào cộng đồng nước sở tại.
Như vậy, qua phân tích trên cho thấy một môi trường đầu tư được gọi
là thuận lợi nếu các yếu tố trên tạo được sức hấp dẫn cho các nhà đầu tư. Mức
độ thuận lợi của môi trường đầu tư sẽ tạo ra các cơ hội đầu tư cho nhà đầu tư
nước ngoài.
II. KHÁI QUÁT VỀ NGÀNH CÔNG NGHIỆP DẦU KHÍ CỦA VIỆT NAM
1. Tầm quan trọng của ngành công nghiệp dầu khí đối với nền kinh
tế Việt Nam
Dầu mỏ và khí thiên nhiên là nguồn năng lượng quý giá và có giá trị
kinh tế cao. Đây là nguồn năng lượng mới và có tính vượt trội so với các
nguồn năng lượng khác. Dầu mỏ được chế biến thành các dạng năng lượng
như xăng, dầu được sử dụng rộng rãi trong ngành giao thông vận tải (đường
bộ, đường sắt, đường thủy, đường hàng không) cũng như ngành công nghiệp
điện năng phục vụ cho sản xuất và đời sống xã hội. Mặt khác, các sản phẩm
chế biến từ dầu mỏ là nguồn nguyên liệu cho các ngành công nghiệp hóa chất
và ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng. Ngoài ra, khí thiên nhiên còn
là nguồn năng lượng sạch rất quan trọng có thể thay thế cho các loại chất đốt
truyền thống như than, củi, dầu hỏa… góp phần làm giảm bớt ô nhiễm môi
14
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
trường. Với những ưu điểm đó, dầu khí đã trở thành một nguồn năng lượng
quan trọng, giữ vị trí chiến lược trong nền kinh tế quốc dân của nhiều quốc

gia trên thế giới cũng như nền kinh tế toàn cầu.
Đối với Việt Nam, nhu cầu đối với dầu khí và các sản phẩm từ dầu khí
đối với công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là ngày càng lớn.
Trung tâm khoa học công nghệ quốc tế đã tính toán nhu cầu dầu thô của nước
ta tính đến năm 2005 là 13,7 triệu tấn, năm 2010 là 18 triệu tấn và năm 2020
là 31,2 triệu tấn. Cùng với đó, nhu cầu khí đốt năm 2005 là 4,5 tỉ m
3
, năm
2010 là 8,8 tỉ m
3
và năm 2020 là 16,7 tỉ m
3
. Số liệu trên đã cho thấy nhu cầu
rất lớn về dầu thô và khí đốt của Việt Nam trong vòng 10 năm tới.
Cụ thể hơn, dầu khí và các sản phẩm dầu khí là nguồn năng lượng,
nguồn nguyên liệu quan trọng đối với các ngành khác như công nghiệp điện,
công nghiệp chế biến, phân bón cho nông nghiệp, vật liệu cho ngành xây
dựng cơ bản… Có thể nói ngành dầu khí là động lực thúc đẩy sự phát triển
của nền kinh tế quốc dân. Không chỉ có vậy, dầu thô còn là một sản phẩm
xuất khẩu giữ vị trí chiến lược đối với rất nhiều nước trong đó có Việt Nam.
Nguồn thu nhập khổng lồ từ xuất khẩu dầu thô góp phần tăng đầu tư phát
triển đối với các ngành khác. Ngành dầu khí phát triển sẽ làm tăng tổng sản
phẩm quốc dân, tăng kim ngạch xuất khẩu, khắc phục tình trạng nhập siêu,
mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế, tạo công ăn việc làm cho người lao động…
Do đó, để ngành dầu khí thực sự trở thành ngành công nghiệp mũi nhọn
phục vụ cho công nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế, việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, một nguồn vốn
rất quan trọng đối với các nước đang phát triển như Việt Nam, trở nên ngày
một cấp thiết bởi vì chỉ có vốn đầu tư nước ngoài mới có thể đáp ứng được
những yêu cầu mang tính đặc thù của ngành công nghiệp dầu khí.

2. Đặc thù của ngành công nghiệp dầu khí
15
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
2.1. Hoạt động của ngành công nghiệp dầu khí đòi hỏi khối lượng
vốn đầu tư lớn so với các ngành khác
Do hoạt động của ngành công nghiệp dầu khí được tiến hành theo
nhiều quá trình khác nhau: Quá trình tìm kiếm, thăm dò dầu khí; quá trình
khoan và khai thác dầu khí, quá trình chế biến và phân phối sản phẩm dầu khí.
Trong đó, quá trình tìm kiếm, thăm dò và khoan khai thác dầu khí phải đầu tư
nhiều nhất. Do đó, quy mô vốn đầu tư lớn là đặc trưng của ngành công nghiệp
dầu khí khác biệt so với các ngành công nghiệp khác. Mỗi lĩnh vực hoạt động
của ngành dầu khí lại đòi hỏi lượng vốn đầu tư thích hợp để đạt hiệu quả kinh
tế cao. Do tính chất đặc thù chứa đựng nhiều rủi ro nên ngoại trừ ở những
nước có trữ lượng dầu khí lớn với xác suất thành công trong thăm dò khai
thác cao như Vênêzuêla, Iraq, Kuwait… giá thành khai thác dầu khí ở các
nước khác thường rất cao và được thể hiện qua bảng 1.1
Bảng 1.1: Giá thành khai thác dầu thô (Đơn vị: USD/thùng)
Nước/Khu
vực
Mỹ
Châu Mỹ
La-tinh
Tây Âu
Trung
Cận
Đông
Đông Á,
Đông
Nam Á,
châu Phi

Giá thành khai
thác trung
bình
14,88 4,08 10,51 0,83 2,53
Giá thành khai
thác thấp nhất
và cao nhất
2-20 3-15 5-20 0,4-4 2-12
Nguồn: Tạp chí dầu khí - Số 3 (2001)
Để hình dung rõ hơn về sự đòi hỏi nguồn vốn đầu tư khổng lồ của
ngành dầu khí chúng ta có thể thấy qua bảng 1.2
16
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
Bảng1.2:Chi phí cho các hoạt động thăm dò và khai thác dầu khí của Việt
Nam
Công việc Chi phí
1 giếng khoan thăm dò trên đất liền 3-5 triệu USD
1 giếng khoan thăm dò ngoài biển 8-15 triệu USD
Thẩm lượng tính thương mại của mỏ Khoan 7-10 giếng
Phát triển 1 mỏ dầu tầm trung (50 triệu tấn) 3 tỷ USD
1 ngày khoan ngoài biển 150 ngàn USD
Thu nổ, xử lý 1000 km địa chấn 4-5 triệu USD
Xử lý sự cố kẹt cần khoan, phun trào không khống
chế được, mất dung dịch khoan
Hàng chục triệu USD
Nguồn : PetroVietnam
Công tác vận chuyển dầu khí vào bờ cũng đòi hỏi một lượng vốn đầu tư
rất lớn, vì hầu hết các mỏ dầu khí đều nằm ở xa bờ. Quá trình vận chuyển dầu
khí vào bờ phải sử dụng hệ thống thiết bị chuyên dụng và phương tiện kỹ
thuật hiện đại với giá thành hàng trăm triệu USD. Một đề án xây dựng công

trình dầu khí từ mỏ vào đất liền cần một lượng vốn đầu tư trung bình 1 triệu
USD cho 1 km đường ống. Ngay cả từng công trình nhỏ, hạng mục nhỏ cũng
đòi hỏi lượng vốn đầu tư khổng lồ nếu so sánh với các ngành công nghiệp
khác. Lĩnh vực chế biến các sản phẩm dầu khí như : hóa dầu, sản xuất dầu
mỡ, chất dẻo, phân bón… cũng đòi hỏi lượng vốn đầu tư ban đầu rất lớn với
thời gian thu hồi vốn dài. Chính đặc điểm này đòi hỏi ngành dầu khí phải huy
động vốn bằng các nguồn vốn từ cả trong nước và nước ngoài.
2.2. Hoạt động dầu khí thường gặp nhiều rủi ro
Dầu khí là ngành có phạm vi hoạt động rất rộng từ vài chục đến vài
trăm km
2
; các mỏ dầu phân bố không đều giữa các vùng khác nhau nên quá
trình đầu tư bị phân tán, độ rủi ro cao do phụ thuộc vào điều kiện địa chất. Có
những quốc gia phải mất hàng chục năm mới có thể phát hiện ra những mỏ
17
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
dầu có giá trị công nghiệp (Canada mất 40 năm, Việt Nam mất gần 30 năm
tìm kiếm và thăm dò mới phát hiện ra các mỏ như mỏ Bạch Hổ, mỏ Đại
Hùng, Lan Tây, Sư tử Đen…). Bên cạnh đó, xác suất thành công trung bình
trong tìm kiếm thăm dò dầu khí trên thế giới hiện nay rất thấp, chỉ khoảng
10%.
Ngoài những rủi ro về địa hình, địa chất ảnh hưởng đến xác suất phát
hiện mỏ, rủi ro về kỹ thuật và các rủi ro khác như chiến tranh, thiên tai, hỏa
hoạn, thời tiết, tỷ giá hối đoái, tỷ lệ lạm phát, giá cả thị trường… thường hay
xảy ra dẫn tới sự thua lỗ của các nhà đầu tư vào lĩnh vực dầu khí. Do đó việc
đầu tư vào ngành công nghiệp dầu khí phải chấp nhận mạo hiểm với những
rủi ro mang tính đặc thù của lĩnh vực này.
2.3. Ngành công nghiệp dầu khí là ngành đòi hỏi trình độ khoa học -
công nghệ cao
Hoạt động của ngành công nghiệp dầu khí thường hay gặp rủi ro rất lớn

nhất là trong giai đoạn thăm dò và khai thác. Do đó, để giảm thiểu rủi ro,
ngành công nghiệp dầu khí phải sử dụng các phương tiện kĩ thuật hiện đại với
hàm lượng công nghệ cao nhằm tăng độ chính xác trong quá trình thăm dò và
xác định vị trí cũng như đánh giá trữ lượng của các mỏ dầu và mỏ khí, cũng
như để có thể chế biến dầu thô thành các sản phẩm thương mại có giá trị lớn.
Có thể nói, kĩ thuật hiện đại và công nghệ tiên tiến là đặc trưng nổi bật của
ngành công nghiệp dầu khí từ thăm dò, khai thác cho đến chế biến.
2.4. Hoạt động của ngành công nghiệp dầu khí thường mang tính
quốc tế cao
Do mang các đặc trưng cần vốn đầu tư lớn, có độ rủi ro cao và yêu cầu
áp dụng khoa học - công nghệ hiện đại nên ngành dầu khí đòi hỏi phải có sự
18
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
hợp tác quốc tế giữa các quốc gia trên cơ sở chia sẻ rủi ro và các bên cùng có
lợi.
Hiện nay trên thế giới, không có một nước nào kể cả một cường quốc
như Mỹ có khả năng tự mình sản xuất tất cả các loại máy móc thiết bị phục vụ
cho ngành công nghiệp dầu khí. Bởi vậy, hoạt động dầu khí thường có nhiều
công ty mang quốc tịch khác nhau cùng tham gia đầu tư vào các khâu khác
nhau từ tìm kiếm - thăm dò, khai thác đến chế biến dầu khí. Bên cạnh đó các
công ty cung cấp dịch vụ cũng như các sản phẩm, thiết bị phục vụ ngành công
nghiệp dầu khí cũng tham gia và giữ vai trò quan trọng trong hoạt động dầu
khí.
Ngoài ra, xu hướng toàn cầu hóa, cạnh tranh quốc tế đang ngày một
mạnh mẽ buộc các quốc gia phải tính đến yếu tố này trong chính sách thu hút
vốn đầu tư vào ngành công nghiệp dầu khí của mình.
3. Tiềm năng về dầu khí, khả năng tự thăm dò, khai thác và chế
biến các sản phẩm dầu khí của Việt Nam
3.1. Tiềm năng về dầu khí của Việt Nam
Việt Nam là quốc gia có tiềm năng dầu khí. Các mỏ dầu khí đã được

phát hiện ở đồng bằng sông Hồng, bể Nam Côn Sơn, và Cửu Long thuộc
thềm lục địa Nam Việt Nam từ năm 1975, nhưng với trữ lượng không đáng kể
nên đến trước năm 1990, trữ lượng dầu khí của Việt Nam vẫn chưa được
thống kê trên thế giới. Chỉ sau khi phát hiện và khai thác dầu từ móng nứt nẻ
trước Đệ Tam của mỏ Bạch Hổ ở bể Cửu Long và phát hiện mỏ khí Lan Tây -
Lan Đỏ ở bể Nam Côn Sơn, trữ lượng dầu khí của Việt Nam mới được đưa
vào bảng thống kê của thế giới vào năm 1992. Theo thống kê của BP (BP
Statistical Review of World Energy), trữ lượng dầu của khu vực châu Á -
Thái Bình Dương trong đó có Việt Nam là 47,7 tỷ thùng chiếm chỉ khoảng
19
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
4% trữ lượng dầu thế giới. Mặc dù trữ lượng dầu của Việt Nam tăng khoảng
1,7 lần vào năm 2004 so với năm 1992 từ 250,9 triệu tấn lên 420 triệu tấn
nhưng vẫn rất nhỏ và chỉ chiếm 7,8% trữ lượng của khu vực châu Á - Thái
Bình Dươngvà đứng thứ 6 sau Malaysia. Về khí, trữ lượng khí của Việt Nam
dù đã tăng 3 lần từ 120 tỷ m
3
năm 1992 lên 395 tỷ m
3
năm 2004 nhưng chỉ
chiếm 2,4% trữ lượng của khu vực châu Á - Thái Bình Dương và xếp thứ 9,
sau Papua New Guinea.
Tổng trữ lượng và tiềm năng dầu khí có khả năng thu hồi của Việt Nam
vào khoảng 4300 triệu tấn dầu quy đổi, đã phát hiện 1208,89 triệu tấn, chiếm
khoảng 28% tổng tài nguyên dầu khí của Việt Nam trong đó trữ lượng dầu khí
có khả năng thương mại là 814,7 triệu tấn chiếm khoảng 67% tài nguyên dầu
khí đã phát hiện. Trữ lượng dầu khoảng 420 triệu tấn và 394,7 tỷ m
3
khí. Trữ
lượng dầu đã khai thác là 169,94 triệu tấn, khí đồng hành và không đồng hành

đã khai thác khoảng 37,64 tỷ m
3
trong đó lượng khí đưa vào bờ sử dụng chỉ
đạt 18,67 tỷ m
3
(50%), số khí còn lại được dùng tại mỏ và đốt bỏ để bảo vệ
môi trường. Tính đến 31/12/2004, trữ lượng còn lại là 250,06 tấn dầu và 357
tỷ m
3
khí.
Nghiên cứu xu hướng biến động trữ lượng dầu khí cho thấy Việt Nam
có sự tăng nhanh trữ lượng đối với cả dầu và khí. Sự gia tăng này có được là
do sự hình thành hàng loạt hợp đồng dầu khí đã được kí kết và hoạt động
thăm dò sôi nổi mở rộng ra toàn thềm lục địa đến vùng nước sâu 200m. Mặt
khác khoan thăm dò và phát hiện mỏ Bạch Hổ đầu tiên đã phát hiện dầu trong
móng trước Đệ Tam bổ sung trữ lượng lớn nhằm duy trì và tăng sản lượng
khai thác.
Hiện tại Việt Nam có 8 mỏ/cụm mỏ đang khai thác dầu thô với sản
lượng khai thác chủ yếu từ đá móng granite nứt nẻ (khoảng 80%) trong đó có
3 mỏ/khu vực mỏ có khí đồng hành và 2 mỏ/khu vực mỏ đang khai thác khí
20
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
thiên nhiện. Hiện trạng trữ lượng của các mỏ dầu và khí đang khai thác được
minh họa qua bảng 1.3
Bảng 1.3: Hiện trạng trữ lượng của các mỏ dầu, khí đang khai
thác
Tên
mỏ
Trữ
lượng

dầu
(triệu
m
3
)
Tr

lượng
khí
Tổng
dầu
đã
khai
thác
Tổn
g
khí
đã
khai
thác
Trữ
lượng
dầu còn
lại
Trữ
lượng
khí
còn
lại
Bạch

Hổ
208.50
25.10
15
11.45
50.48
13.65
Rồng
81.40
0.00
5
11.69
Rạng
Đông
131.50
22.50
14.15
1.35
117.35
21.15
Ruby
57.30
7.50
6.81
50.49
7.50
Sư Tử
Đen
75.85
3.51

9.03
66.82
3.51
Lan
Tây
1.80
46.00
0.13
2.8
1.6
43.20
Rồng
Đôi
3.60
24.00
Đại
Hùng
12.30
3.59
8.7
0.00
Tiền
Hải
0.9
0.55
0.0
0.35
PM3-CAA
136.40 97.60
5.25

2.92
130.56 94.24
46CN
0.59
0.44
Nguồn: PetroVietnam
Mặc dù sản lượng khai thác tăng nhanh từ 5,5 triệu tấn năm 1992 lên
20,34 triệu tấn vào năm 2004, nhưng trữ lượng vẫn duy trì tăng nhanh hơn sản
lượng khai thác cho thấy sự thành công trong thăm dò gia tăng trữ lượng đã
bù đắp được sản lượng khai thác. Sự thành công này là do nhà nước đã có
chính sách thu hút đầu tư nước ngoài nhằm đẩy mạnh và mở rộng hoạt động
khai thác ra các vùng mới có tiềm năng và sự thành công trong thăm dò, thẩm
lượng sự gia tăng trữ lượng ở các mỏ đã phát hiện cũng như các mỏ đã phát
triển. Đồng thời giải pháp tăng hệ số thu hồi dầu (bơm ép nước duy trì áp suất
vỉa) cũng đã được nghiên cứu áp dụng lần đầu ở mỏ Bạch Hổ và sau đó được
triển khai ra các mỏ khác như Đại Hùng, Sư Tử Đen… góp phần đáng kể làm
tăng trữ lượng bổ sung. Bên cạnh đó các giải pháp công nghệ mới trong thăm
dò như công nghệ thu nổ, xử lý, minh giải tài liệu địa chấn 3D… để làm rõ
21
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
cấu trúc của đối tượng thăm dò là chìa khóa cho sự thành công trong thăm dò
nhằm gia tăng trữ lượng dầu khí trong tương lai.
3.2. Khả năng tự thăm dò, khai thác và chế biến các sản phẩm dầu
khí của Việt Nam
Như đã trình bày ở phần trên, với các đặc trưng nổi bật là đòi hỏi nguồn
vốn đầu tư khổng lồ cùng với hàm lượng khoa học công nghệ cao và đặc biệt
lại kèm theo tỉ lệ rủi ro lớn, thì ngay cả với Mỹ, nền kinh tế lớn nhất thế giới
với trình độ khoa học kĩ thuật tân tiến nhất, cũng chưa thể tự mình thực hiện
tất cả các khâu trong thăm dò, khai thác và chế biến dầu khí. Do đó, đối với
một nước đang phát triển mà nông nghiệp vẫn là ngành sản xuất chủ lực, tiềm

lực kinh tế vẫn còn thấp và đặc biệt là trình độ khoa học kĩ thuật lạc hậu so
với thế giới rất nhiều như Việt Nam thì dù có tiềm năng về dầu khí khá dồi
dào so với các quốc gia khác trong khu vực thì việc có thể tự thăm dò, khai
thác và chế biến dầu khí là không thể do thiếu vốn, thiếu công nghệ, thiếu
nguồn nhân lực trình độ cao. Với những nguyên nhân như thế, trong xu
hướng hội nhập kinh tế quốc tế ngày một sâu rộng trên thế giới, việc thu hút
đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành công nghiệp dầu khí là một tất yếu đối
với Việt Nam để ngành này có thể phát triển tương xứng nhằm khai thác tiềm
năng về dầu khí dồi dào của quốc gia, hoàn thành vai trò là ngành sản xuất
chủ lực trong nền kinh tế quốc dân, góp phần quan trọng vào thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế và quá trình Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa đất nước mà Đảng
và Nhà nước đã đặt ra cho ngành.
22
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
Chương II
THỰC TRẠNG THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀO
NGÀNH CÔNG NGHIỆP DẦU KHÍ CỦA VIỆT NAM
I. NHỮNG YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP
NƯỚC NGOÀI VÀO NGÀNH CÔNG NGHIỆP DẦU KHÍ CỦA VIỆT NAM
1. Các yếu tố tự nhiên, kinh tế, xã hội
Việt Nam có điểm mạnh về vị trí địa lý chiến lược ở khu vực Đông
Nam Á, có đường bờ biển trải dài là một trong những điều kiện thuận lợi để
nhà đầu tư nước ngoài hình thành và xây dựng cơ sở sản xuất, vận tải, lưu
thông hàng hoá trong các mối quan hệ với thế giới bên ngoài. Đặc biệt, với
nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú nói chung và đặc biệt là tiềm năng về
nguồn tài nguyên dầu khí vẫn còn dồi dào, Việt Nam là một điểm đến hấp dẫn
đối với các nhà đầu tư nước ngoài muốn đầu tư vào lĩnh vực dầu khí. Bên
cạnh đó, Việt Nam có lực lượng lao động đông đảo với phẩm chất cần cù,
chăm chỉ và nhanh nhạy với kỹ thuật mới, dám nghĩ dám làm, cùng với giá
nhân công rẻ so với nhiều nước trên thế giới. Đó là những nhân tố thực sự thu

hút các nhà đầu tư nước ngoài.
Hơn thế nữa, Việt Nam là một trong những quốc gia có tình hình an
ninh và chính trị ổn định, cùng với đó là việc đứng trong hàng ngũ những
nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế vào loại nhanh và ổn định nhất trên thế
giới nói chung và ở khu vực châu Á nói riêng nhờ có đường lối phát triển
kinh tế - xã hội đúng hướng, đã qua thực tiễn kiểm nghiệm và được đánh giá
cao trên trường quốc tế. Chính những yếu tố này đã xây dựng được lòng tin
cho các nhà đầu tư nước ngoài an tâm đầu tư vốn vào Việt Nam nói chung và
vào một ngành công nghiệp mang nhiều tính đặc thù là ngành dầu khí nói
riêng.
23
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
2. Các chính sách điều chỉnh đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành
công nghiệp dầu khí của Việt Nam
2.1. Chính sách về đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
Nhìn lại hơn 20 năm trước, Việt Nam là một nước nông nghiệp lạc hậu,
bị tàn phá nặng nề bởi chiến tranh, nền kinh tế ở tình trạng kém phát triển, sản
xuất nhỏ, mang nặng tính chất tự cấp tự túc, cơ chế quản lý tập trung quan
liêu bao cấp, nền kinh tế lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng, mức lạm
phát lên tới trên 700% vào năm 1986, sản xuất đình trệ, cơ sở kỹ thuật lạc hậu
và lâm vào tình trạng thiếu vốn trầm trọng. Với bối cảnh trong nước và quốc
tế như vậy, để khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội, Đảng ta đã chủ trương
mở cửa nền kinh tế, thực hiện công cuộc “đổi mới” toàn diện, trong đó có
việc hoàn thiện, nâng Điều lệ Đầu tư năm 1977 thành Luật Đầu tư nước ngoài
tại Việt Nam năm 1987, đã khẳng định sự đúng đắn của chủ trương, đường lối
mở cửa nền kinh tế của Đảng, góp phần quan trọng vào thành công của sự
nghiệp Đổi Mới trong chặng đường vừa qua.
Sự ra đời của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987 đã tạo
môi trường pháp lý cao hơn để thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt
Nam. Luật này đã bổ sung và chi tiết hoá các lĩnh vực cần khuyến khích kêu

gọi đầu tư cho phù hợp với hoàn cảnh mới.
Đây là một trong những đạo luật đầu tiên của thời kỳ đổi mới. Việc ban
hành Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đã thể chế hóa đường lối của
Đảng, mở đầu cho việc thu hút và sử dụng hiệu quả nguồn vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài, theo phương châm đa dạng hoá, đa phương hoá các quan hệ
kinh tế đối ngoại; góp phần thực hiện chủ trương phát huy nội lực, nâng cao
hiệu quả hợp tác quốc tế.
24
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
Kể từ khi ban hành năm 1987 đến nay, Luật Đầu tư nước ngoài đã được
sửa đổi, bổ sung 4 lần với các mức độ khác nhau vào các năm 1990, 1992,
1996, 2000; cùng với các văn bản dưới Luật đã được cộng đồng quốc tế đánh
giá là một đạo luật thông thoáng, hấp dẫn, về cơ bản phù hợp với thông lệ
quốc tế. Pháp luật đầu tư nước ngoài và các văn bản pháp luật liên quan đến
đầu tư nước ngoài được ban hành đã tạo môi trường pháp lý đồng bộ cho các
hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Cùng với việc hoàn thiện hệ thống
pháp luật, khung pháp lý song phương và đa phương liên quan đến đầu tư
nước ngoài cũng không ngừng được mở rộng và hoàn thiện với việc nước ta
đã ký kết 51 hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư với các nước và vùng
lãnh thổ. Vì vậy, ngay trong điều kiện cơ chế thị trường của Việt Nam chưa
hoàn thiện, các nhà đầu tư nước ngoài vẫn có thể tiến hành các hoạt động đầu
tư thuận lợi ở Việt Nam mà không có sự khác biệt đáng kể so với một số nước
có kinh tế thị trường truyền thống.
Nhằm cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, môi trường pháp lý, tạo
sự thống nhất trong hệ thống pháp luật về đầu tư và tạo "một sân chơi" bình
đẳng, không phân biệt đối xử giữa các nhà đầu tư; đơn giản hoá thủ tục đầu
tư, tạo điều kiện thuận lợi để thu hút và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn đầu
tư; đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế; tăng cường sự quản lý của Nhà
nước đối với hoạt động đầu tư, năm 2005 Quốc hội đã ban hành Luật Đầu tư
có hiệu lực từ ngày 01/7/2006 và thay thế Luật Đầu tư nước ngoài và Luật

Khuyến khích đầu tư trong nước. Sự thay đổi này thể hiện sự quan tâm của
Đảng và Nhà nước ta đối với thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài,
một bộ phận quan trọng của nền kinh tế. Mặt khác, đó cũng là yêu cầu phù
hợp với quy luật chung, nhằm đáp ứng kịp thời sự biến đổi khách quan của
tình hình phát triển kinh tế trong nước cũng như quốc tế trong từng thời kỳ, để
tiến tới một đạo luật ngày càng hoàn chỉnh phù hợp với xu thế hội nhập, nâng
25

×