Tải bản đầy đủ (.doc) (76 trang)

giải pháp nâng cao hiệu quả sản xuất-kinh doanh của công ty cổ phần giầy cẩm bình-hải dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (792.45 KB, 76 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Không loại trừ bất cứ một doanh nghiệp nào khi tiến hành hoạt động
sản xuất kinh doanh lại không xem sản xuất kinh doanh có hiệu quả là điều
kiện sống còn của doanh nghiệp co dù đó là doanh nghiệp công ích hay
doanh nghiệp Nhà nước hoạt động kinh doanh và doanh nghiệp thuộc khu
vực tư nhân. Hiệu quả được xem là phương thức hữu hiệu nhất để thực hiện
mục tiêu của doanh nghiệp. Nếu các doanh nghiệp công ích hoạt động vì
mục tiêu phục vụ cộng đồng thì doanh nghiệp Nhà nước hoạt động kinh
doanh hay doanh nghiệp thuộc khu vực tư nhân lại vì mục đích bao trùm
là tối đa hoá lợi nhuận. Trong chuyên đề này tôi chỉ đề cập đến doanh
nghiệp Nhà nước hoạt động kinh doanh hay doanh nghiệp thuộc khu vực tư
nhân khi phân tích các chỉ tiêu hiệu quả.
Rõ ràng muốn tồn tại và phát triển trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa tiến tới hội nhập khu vực và quốc tế hiện nay, công
ty phải có biện pháp để nâng cao hiệu quả sản xuất –kinh doanh.
Thực tế đáng mừng là trong những năm gần đây các doanh nghiệp
Việt Nam đã nhận thức được tầm quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả
sản xuất-kinh doanh và đã được nhiều thành tựu trông thấy. Tuy không
phải là công việc có thể giải quyết ngay được mà đòi hỏi thực hiện đồng bộ
nhiều biện pháp có hướng đích, sự phối hợp nhịp nhàng của nhiều bộ phận
và để có được sự chyển biến tích cực thì cần phải có một thời gian dài.
Từ thực tiễn đó, cùng với sự chỉ dẫn của thầy giáo-Tiến sĩ Phạm
Ngọc Linh, bác Đinh Tuấn Dũng-PGĐ công ty, và các cô chú nhân viên
của công ty cổ phần giầy Cẩm Bình, em đã lựa chọn đề tài: “Giải pháp
nâng cao hiệu quả sản xuất-kinh doanh của công ty cổ phần giầy Cẩm
Bình-Hải Dương”.
Mục đích nghiên cứu của chuyên đề.
- Hệ thống hoá một số cơ sở lý luận về hiệu quả sản xuất-kinh doanh.
Sinh viên: Nguyễn Thị Liên Lớp KTPT 44A
- Phân tích thực trạng hiệu quả sản xuất-kinh doanh của công ty cổ
phần giầy Cẩm Bình.Từ đó đưa ra một số giải pháp và kiến nghị nhằm


nâng cao hiệu quả sản xuất-kinh doanh.
Với mục đích đó chuyên đề được chia làm 3 phần:
Chương I: Lý luận chung về hiệu quả sản xuất-kinh doanh, các
chỉ tiêu đánh giá và các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất-kinh
doanh của doanh nghiệp.
Chương II: Thực trạng hiệu quả sản xuất-kinh doanh tại công ty
trong thời gian qua.
Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất-
kinh doanh tại công ty.
Tuy nhiên, hiệu quả sản xuất-kinh doanh là phạm trù rộng lớn và
phức tạp, trình độ bản thân có hạn nên chuyên đề của em chắc chắn còn
nhiều thiếu sót.
Vì vậy em kính mong nhận được ý kiến đánh giá đóng góp của thầy
giáo và các cô chú tại công ty cổ phần giầy Cẩm Bình để giúp em nhận
thức thấu đáo hơn về vấn đề nghiên cứu.
Sinh viên: Nguyễn Thị Liên Lớp KTPT 44A
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ HIỆU QUẢ SẢN
XUẤT-KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP
I.KHÁI NIỆM, BẢN CHẤT VỀ HIỆU QUẢ SẢN XUẤT KINH DOANH
CỦA DOANH NGHIỆP.
1.Khái niệm hiệu quả kinh tế.
Mặc dù còn nhiều quan điểm khác nhau xung quanh vấn mục tiêu
của doanh nghiệp, song có thể nói trong cơ chế kinh tế thị trường ở nước ta
hiện nay, mọi doanh nghiệp sản xuất kinh doanh ( doanh nghiệp nhà nước,
doanh nghiệp thuộc khu vực tư nhân) đều có mục tiêu bao trùm, lâu dài là
tối đa hoá lợi nhuận. Để đạt được mục tiêu này doanh nghiệp phải xác định
được chiến lược và kế hoạch kinh doanh trong mọi giai đoạn phát triển phù
hợp với những thay đổi của môi trường kinh doanh; phải phân bổ và quản
trị có hiệu quả các nguồn lực và luôn kiểm tra quá trình đang diễn ra là có
hiệu quả. Muốn kiểm tra tính hiệu quả của hoạt động thì phải đánh giá

được hiệu quả sản xuất-kinh doanh ở phạm vi doanh nghiệp cũng như ở
từng bộ phận của nó. Và mặc dù có sự thống nhất quan điểm cho rằng
phạm trù hiệu quả sản xuất-kinh doanh phản ánh mặt chất lượng của hoạt
động sản xuất-kinh doanh của doanh nghiệp song lại khó tìm thấy sự thống
nhất trong quan niệm về hiệu quả sản xuất-kinh doanh.
Khái niệm hiệu quả sản xuất-kinh doanh của doanh nghiệp ở đây
không phải là hiệu quả tài chính mà là hiệu quả kinh tế. Tức là ngoài việc
quan tâm đến hiệu quả tài chính còn quan tâm đến tác động của hoạt động
sản xuất-kinh doanh của doanh nghiệp đến nền kinh tế-xã hội nói chung.
Điều này càng có ý nghĩa hơn bao giờ hết trong xu thế hiện đại ngày nay.
Trước khi đưa ra khái niệm về hiệu quả sản xuất-kinh doanh, cần tìm
hiểu xem hiệu quả kinh tế nói chung cũng như hiệu quả kinh tế của hoạt
động sản xuất-kinh doanh là gì?
Đã có sự thống nhất quan điểm cho rằng phạm trù hiệu quả kinh tế
phản ánh mặt chất lượng của hoạt động kinh tế, song rất khó tìm thấy sự
Sinh viên: Nguyễn Thị Liên Lớp KTPT 44A
thống nhất trong quan niệm về hiệu quả kinh tế. Có quan điểm cho rằng:
“Hiệu quả sản xuất diễn ra khi xã hội không thể tăng sản lượng một loại
hang hoá mà không cắt giảm sản lượng một loại hàng hoá khác. Một nền
kinh tế có hiệu quả nằm trên giới hạn khả năng sản xuất của
nó”(P.Samueleson và W.Nordhaus). Thực chất của quan điểm này đã đề
cập đến khía cạnh phân bổ có hiệu quả các nguồn lực của nền sản xuất xã
hội. Trên phương diện này, rõ ràng phân bố các nguồn lực của nền kinh tế
sao cho đạt được việc sử dụng mọi nguồn lực sản xuất trên đường giới hạn
khả năng sản xuất sẽ làm cho nền kinh tế có hiệu quả và có thể (và cần
phải) bổ sung thêm rằng quan niệm này đã đưa ra hiệu quả cao nhất (mức
hiệu quả lý tưởng) mà mỗi nền kinh tế có thể đạt được, không thể có mức
nào cao hơn. Một số quan điểm khác lại cho rằng hiệu quả kinh tế được xác
định bởi tỷ lệ giữa sự tăng lên của hai đại lượng kết quả và chi phí. Thực
chất các tác giả có quan niệm như thế chỉ đề cập đến hiệu quả kinh tế của

phần “tăng thêm” chứ không phải của toàn bộ phần tham gia vào quá trình
kinh tế. Nhiều quan điểm khác đề cập đến hiệu quả kinh tế ở dạng khái
quát, chẳng hạn rất nhiều quan điểm coi hiệu quả kinh tế được xác định bởi
tỷ số giữa kết quả đạt được và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó. Trong
từ điển kinh tế của Manfred Kuhn tính hiệu quả được xác định bằng cách
lấy kết quả (tính theo đơn vị giá trị) chia cho chi phí kih doanh…
Từ các quan điểm trên, có thể phát biểu khái quát: “Hiệu quả kinh tế
của một hiện tượng (hoặc một quá trình) kinh tế là một phạm trù kinh tế
phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực (nhân, tài, vật lực, tiền vốn) để
đạt được mục tiêu xác định”. Từ đó có thể hình thành công thức tổng quát
biểu diễn khái quát phạm trù hiệu quả kinh tế như sau:
H=K/C
Với H là hiệu quả kinh tế của một hiện tượng (quá trình kinh tế).
K là kết quả tu được từ hiện tượng (quá trình) kinh tế đó.
C là chi phí toàn bộ để đạt được kết quả đó.
Sinh viên: Nguyễn Thị Liên Lớp KTPT 44A
Và như thế cũng có thể phát biểu ngắn gọn: Hiệu quả kinh tế phản
ánh chất lượng hoạt động kinh tế và được xác định bởi tỷ số giữa kết quả
đạt được với chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó.
Quan điểm này đã đánh giá được tốt nhất trình độ lợi dụng các
nguồn lực ở mọi điều kiện “động” của hoạt động kinh tế. Theo quan niệm
như thế hoàn toàn có thể tính toán được hiệu quả kinh tế trong sự vận động
và biến đổi không ngừng của các hoạt động kinh tế, không phụ thuộc vào
quy mô và tốc độ biến đổi khác nhau của chúng.
Từ định nghĩa về hiệu quả kinh tế ở trên có thể hiểu được hiệu quả
kinh tế của hoạt động sản xuất kinh doanh với việc làm rõ từng khái niệm
hiệu quả sản xuất và hiệu quả kinh doanh nói riêng và hiệu quả sản xuất-
kinh doanh nói chung. Bởi lẽ trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp
không chỉ tạo ra sản phẩm mà còn phải bán được các kết quả đó cũng như
thu mua đầu vào… để phục vụ cho quá trình sản xuất.

Vậy hiệu quả sản xuất-kinh doanh là gì mà các doanh nghiệp lại luôn
theo đuổi? Câu hỏi này sẽ được làm rõ trong phần khái niệm, bản chất hiệu
quả sản xuất-kinh doanh và sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sản xuất-
kinh doanh.
2.Khái niệm hiệu quả sản xuất-kinh doanh
2.1.Khái niệm hiệu quả sản xuất.
2.2.Khái niệm hiệu quả kinh doanh.
Trước khi đi vào nội dung của khái niệm hiệu quả kinh doanh, cần
điểm qua đôi chút về khái niệm và nhiệm vụ của hoạt động kinh doanh.
Hoạt động kinh doanh, theo luật định, là việc thực hiện một, một số
hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, sản xuất, chế biến, các hoạt
động thương mại thuần tuý và các hoạt động cung cấp dịch vụ.
Hoạt động kinh doanh có thể được tiếp cận theo nhiều cách khác
nhau, chẳng hạn:
Sinh viên: Nguyễn Thị Liên Lớp KTPT 44A
• Theo tính chất của hoạt động chúng ta có hoạt động sản xuất (sản
phẩm hoặc dịch vụ).
• Theo bản chất kinh tế, chúng ta có thể có các doanh nghiệp công
nghiệp, thương nghiệp, nông nghiệp, tài chính,…
Do hoạt động kinh doanh có nội dung rất rộng, trong đó sản xuất lại là một
nội dung lớn nên trong chuyên đề này em đã tách nội dung sản xuất ra
thành một mảng nội dung phân tích riêng để làm rõ hơn bản chất hiệu quả
sản xuất-kinh doanh.
Hoạt động sản xuất-kinh doanh nhằm mục đích tạo ra của cải vật
chất cho xã hội và tạo ra lọi nhuận cho các chủ thể tham gia hoạt động sản
xuất-kinh doanh. Bản chất của hoạt động này là tạo ra giá trị cho các loại
sản phẩm hoặc dịch vụ. Giá trị của sản phẩm và dịch vụ được tạo ra nhờ
vào các giá trị sử dụng cho phép thoả mãn các nhu cầu khác nhau của
khách hàng. Những nhu cầu này có thể mang tính hữư hình (làm sạch quần
áo, vận chuyển hàng hoá từ địa điểm này đến địa điểm khác,…) và cũng có

thể là vô hình (mang lại danh tiếng cho người sử dụng sản phẩm hoặc dịch
vụ,…). Dù cho hoạt động kinh doanh có phục vụ nhu cầu nào đi chăng nữa,
thì nhiệm vụ cảu các đơn vị sản xuất kinh doanh là phải gia tăng giá trị cho
sản phẩm và dịch vụ. Bởi vì giá trị gia tăng (đạt được khi gía trị đầu ra lớn
hơn giá trị đầu vào) là nguồn gốc của mọi của cải vật chất xã hội.
II. Các chỉ tiêu hiệu quả sản xuất kinh doanh
1.Yêu cầu cơ bản trong phân tích và đánh giá hiệu quả sản xuất và
kinh doanh của doanh nghiệp.
Để đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp phải có hệ thống
các chỉ tiêu về hiệu quả kinh tế, một phương án kinh doanh chỉ được đưa ra
xem xét về hiệu quả nếu nó được xây dựng trên cơ sở những quy định của
nhà nước và đạt được những tiêu chuẩn sau:
- Phải tuân thủ sự quản lí vĩ mô của Nhà nước
Sinh viên: Nguyễn Thị Liên Lớp KTPT 44A
- Phải kết hợp hài hoà 3 lợi ích: cá nhân, tập thể và nhà nước-
- Lợi nhuận doanh nghiệp thu được phải dựa trên sự hoạt động có
hiệu quả, vận dụng linh hoạt các quy luật kinh tế.
- Mức thu nhập thuần tuý của doanh nghiệp (v+m) tính trên một lao
động phải thường xuyên tăng lên. Tiêu chuẩn này đạt được càng cao càng
chứng tỏ rằng hiệu quả kinh doanh, hiệu quả lao động được tăng lên.
Theo công thức xác định hiệu quả người ta sẽ luôn luôn xác định
được một dãy các giá trị cụ thể về hiệu quả cho bất kì chỉ tiêu hiệu quả nào.
Vì vậy vấn đề đặt ra là: trong dãy giá trị cụ thể đó thì giá trị nào được coi là
không có hiệu quả. Chính vì vậy, người ta xem xét tới phạm trù là tiêu
chuẩn hiệu quả.
Có thể hiểu tiêu chuẩn hiệu quả là giới hạn, là “mốc” xác định ranh
giới có hay không có hiệu quả, điều này có nghĩa là:
- ≥ tiêu chuẩn hiệu quả coi là có hiệu quả.
- < tiêu chuẩn hiệu quả coi là không có hiệu quả.
Vì có nhiều chỉ tiêu hiệu quả cho nên cũng dẫn tới có nhiều tiêu

chuẩn để phản ánh hiệu quả của mỗi chỉ tiêu.
Có nhiều phương pháp để xác định tiêu chuẩn hiệu quả. Trong thực
tế thì người ta hay sử dụng phương pháp tính trung bình để tính giá trị
trung bình của mỗi chỉ tiêu hiệu quả cụ thể của một ngành hoặc của nền
kinh tế quốc dân được coi là tiêu chuẩn hiệu quả của chỉ tiêu đó.
2.Các chỉ tiêu hiệu quả sản xuất.
2.1 Hiệu quả sử dụng lao động
Lao động là nhân tố sáng tạo trong kinh doanh, số lượng và chất
lượng lao động là nhân tố quan trọng tác động đến hiệu quả kinh doanh của
doanh nghiệp. Hiệu quả sử dụng lao động được biểu hiện ở các chỉ tiêu
năng suất lao động, mức sinh lời của lao động và hiệu suất tiền lương.
Sinh viên: Nguyễn Thị Liên Lớp KTPT 44A
2.1.1 Năng suất lao động
- Năng suất lao động bình quân của thời kì tính toán:
AP
N
= (1)
Với AP
N
: năng suất lao động bình quân của thời kỳ tính toán (hiện
vật, giá trị).
Q: Sản lượng đo bằng đơn vị hiện vật hay giá trị.
AL: Số lao động bình quân.
Thời gian của một thời kỳ tính toán thường là một năm. Năng suất
lao động năm chịu ảnh hưởng lớn của việc sử dụng thời gian lao động trong
năm. Số ngày làm việc trong năm, số giờ làm việc trong ngày và năng suất
bình quân của mỗi giờ. Vì vậy, năng suất lao động bình quân năm còn được
tính cho các khoảng thời gian ngắn hơn.
- Năng suất lao động bình quân/giờ
AG

G
= (2)
Với AP
G
: Năng suất lao động bình quân giờ
N: số ngày làm việc bình quân năm
G: Số giờ làm việc bình quân/ca làm việc
2.1.2.Chỉ tiêu mức sinh lời bình quân của lao động
Bên cạnh chỉ tiêu năng suất lao động chỉ tiêu mức sinh lời bình quân
của một lao động cũng thường được sử dụng. Mức sinh lời bình quân của
một lao động cho biết mỗi lao động tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận
trong một kỳ tính toán xác định. Chỉ tiêu này được xác định theo công thức
cụ thể sau:
Π
BQ
= (3)
Với π
BQ
: lợi nhuận bình quân do 1 lao động tạo ra trong kỳ tính toán.
L: số lao động làm việc bình quân trong kỳ
2.1.3.Chỉ tiêu hiệu suất tiền lương
Sinh viên: Nguyễn Thị Liên Lớp KTPT 44A
Hiệu suất tiền lương phản ánh một đồng tiền lương bỏ ra có thể đạt
được kết quả cụ thể nào đó. Kết quả có thể là doanh thu, lợi nhuận… nếu
lấy kết quả tính toán là doanh thu sẽ có:
H
W
= (4)
Với H
W

: Hiệu suất tiền lương của thời kỳ tính toán
ΣTL: Tổng quỹ tiền lương và tiền thưởng có tính chất tiền
lương trong kỳ.
Hiệu suất tiền lương tăng lên khi tốc độ tăng năng suất lao động lớn
hơn tốc độ tăng tiền lương bình quân.
2.2.Hiệu quả sử dụng nguyên vật liệu
2.2.1.Vòng luân chuyển nguyên vật liệu
SV
NVL
= (5)
Với SV
NVL
: số vòng luân chuyển nguyên vật liệu trong kỳ
NVL
SD
: Giá vốn nguyên vật liệu đã dùng
NVL
DT
: Giá trị nguyên vật liệu dự trữ của kỳ tính toán
2.2.2.Vòng luân chuyển vật tư trong sử dụng dở dang
SV
SPDD
= (6)
Với SV
SPDD
: số vòng luân chuyển vật tư trong sản phẩm dở dang
Z
HHCB
: tổng giá trị thành hàng hoá đã chế biến
VT

DT
: giá trị vật tư dự trữ trong kỳ tính toán
Hai chỉ tiêu trên có khả năng khai thác các các nguồn nguyên liệu
của doanh nghiệp. Các chỉ tiêu này có giá trị lớn phản ánh các doanh
nghiệp giảm được chi phí kinh doanh cho dự trữ nguyên vật liệu, giảm bớt
nguyên vật liệu tồn kho, tăng vòng quay của vốn lưu động. Tuy nhiên, nếu
quá chú ý đến các chỉ tiêu này có thể dẫn đến thiếu lượng nguyên vật liệu
dự trữ cần thiết.
Sinh viên: Nguyễn Thị Liên Lớp KTPT 44A
Ngoài ra, để sử dụng NVL có hiệu quả người ta còn đánh giá mức
thiệt hại mất mát nguyên vật liệu trong quá trình dự trữ, sử dụng chúng.
Chỉ tiêu này được xác định bằng tỷ số giữa giá trị nguyên vật liệu mất mát
trên tổng giá trị nguyên vật liệu sử dụng trong kỳ tính toán.
2.3.Chất lượng sản phẩm
Trong cơ chế thị trường, cùng với quá trình mở cửa hội nhập cùng
thế giới đã tạo ra sự cạnh tranh về mọi mặt ngày càng gay gắt và quyết liệt.
Sức ép của hàng nhập lậu, của người tiêu dung, của hàng nước ngoài buộc
các nhà kinh doanh cũng như các nhà quản lý phải hết sức coi trọng vấn đề
đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm. Chất lượng sản phẩm ngày nay
đang trở thành một nhân tố cơ bản để quyết định đến sự thành bại trong
cạnh tranh, quyết định sự tồn tại và phát triển của từng doanh nghiệp nói
riền cũng như sự tiến bộ hay tụt hậu của nền kinh tế nói chung.
3.Các chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh
3.1.Hiệu quả kinh doanh tổng hợp
Hiệu quả kinh doanh tổng hợp phản ánh khái quát và cho phép kết
luận về hiệu quả kinh doanh của toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp trong thời kỳ xác định.
3.1.1.Các chỉ tiêu doanh lợi
Các chỉ tiêu doanh lợi thường được các nhà quản trị, các nhà tài trợ,
… quan tâm xem xét. Đó thường là các chỉ tiêu cụ thể dưới đây.

-Doanh lợi của toàn bộ vốn kinh doanh :
D
VKD
(%) = (7)
Với :
D
VKD
(%): Doanh lợi của toàn bộ vốn kinh doanh của một thời kỳ
Π
R
: lãi ròng thu được của các thời kỳ tính toán
TL
W
: Lãi trả vốn vay của thời kỳ đó
V
KD
:Tổng vốn kinh doanh của doanh nghiệp
Sinh viên: Nguyễn Thị Liên Lớp KTPT 44A
-Doanh lợi vốn tự có:
D
VTC
(%) = (8)
Với:
D
TC
: Doanh lợi vốn tự có của một thời kỳ tính toán
V
TC
: Tổng vốn tự có của thời kỳ đó
Nhiều nhà quản trị học cho rằng phải xem xét xem liệu chỉ tiêu

doanh lợi vốn tự có có phải là mô hình lựa chọn kinh tế? Theo H.Hax thì
tối đa hoá doanh lợi vốn tự có không phải là không có vấn đề. Thực chất,
doanh thu bán của một thời kỳ tính toán cụ thể luôn là kết quả của việc sử
dụng toàn bộ lượng vốn kinh doanh hiện có chứ không thể là kết quả riêng
số vốn tự có của doanh nghiệp. Hơn nữa chỉ tiêu này còn có hạn chế nữa là
nếu đánh giá hiệu quả kinh doanh thong qua chỉ tiêu này thì doanh nghiệp
đi vay vốn càng nhiều hiệu quả kinh doanh sẽ càng cao.
-Doanh lợi của doanh thu bán hàng:
D
TR
(%) = (9)
Với:
D
TR
: doanh lợi của doanh thu bán hàng của một thời kỳ
TR: doanh thu bán hàng của thời kỳ tính toán đó
3.1.2.Các chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh theo chi phí.
-Hiệu quả kinh doanh theo chi phí của một thời kỳ:
H
CPKD
(%) = (10)
Với:
H
CPKD
: hiệu quả kinh doanh tính theo chi phí kinh doanh
TR: Doanh thu bán hàng của thời kỳ tính toán
TC
KD
: chi phí kinh doanh của sản phẩm tiêu thụ trong kỳ
Cần chú ý rằng trong những trường hợp không xác định được doanh

thu bán hàng có thể sử dụng chỉ tiêu giá trị tổng sản lượng của thời kỳ thay
Sinh viên: Nguyễn Thị Liên Lớp KTPT 44A
cho chỉ tiêu doanh thu bán hàng, chỉ tiêu chi phí kinh doanh của thời kỳ
thay cho chỉ tiêu chi phí kinh doanh của sản phẩm tiêu thụ trong kỳ.
-Hiệu quả kinh doanh theo tiềm năng của một thời kỳ:
H
TN
(%) = (11)
Với:
H
TN
: hiệu quả kinh doanh tính theo tiềm năng
TC
KDTT
: chi phí kinh doanh thực tế phát sinh của kỳ
TC
KDPĐ
: chi phí kinh doanh phải đạt.
Chi phí kinh doanh phải đạt của một thời kỳ xác định thường được
xác định trên cơ sở các mức tiên tiến (chi phí kinh doanh định mức) hoặc
chi phí kinh doanh kế hoạch của thời kỳ đó.
Cần chú ý rằng các chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh tổng hợp được sử
dụng để đánh giá hiệu quả kinh doanh ở phạm vi toàn doanh nghiệp cũng
như từng đơn vị bộ phận trên trong doanh nghiệp. Các chỉ tiêu trên cũng
được xác định dễ dàng, đặc biệt ở các đơn vị bộ phận hạch toán độc lập.
Tiêu chuẩn hiệu quả tốt nhất của các chỉ tiêu trên là giá trị bình quân đạt
được của ngành, của một khu vực hay của quốc tế trong một thời kỳ đánh giá.
Sinh viên: Nguyễn Thị Liên Lớp KTPT 44A
3.2 Một số chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh bộ phận
3.2.1.Nhóm chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh

Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh người ta thường sử
dụng các chỉ tiêu sau:
_Số vòng quay toàn bộ vốn kinh doanh.
SV
VKD
= (12)
Với:
SV
VKD
: số vòng quay của vốn kinh doanh
Số vòng quay càng lớn chứng tỏ hiệu quả sử dụng càng cao.
_ Hiệu quả sử dụng vốn cố định
Hiệu quả sử dụng vốn cố định được đánh giá bởi chỉ tiêu hiệu suất sử
dụng tài sản cố định:
H
TSCĐ
= (13)
Với:
H
TSCĐ
: hiệu suất sử dụng tài sản cố định
TSCĐ
G
: Tổng giá trị tài sản cố định bình quân trong kỳ.
Tổng giá trị bình quân của tài sản của tài sản cố định trong kỳ là tổng
giá trị còn lại của tài sản cố định được tính theo nguyên giá của tài sản cố
định sau khi đã trừ đi phần hao mòn tích luỹ đến thời kỳ tính toán.
TSCĐ
G
= nguyên giá tài sản cố định – giá trị đã hao mòn

Chỉ tiêu này cho biết một đồng giá trị TSCĐ trong kỳ tạo ra bao
nhiêu đồng lợi nhuận, thể hiện trình độ sử dụng tài sản cố định, khả năng
sinh lời của tài sản cố định trong sản xuất kinh doanh.
(1/H
TSCĐ
): chỉ tiêu này cho biết giá trị tài sản cố định cần thiết để tạo
ra một đồng lãi.
Phân tích chỉ tiêu hiệu quả sử dụng tài sản cố định để xác định tính
hiệu quả và nguyên nhân của việc sử dụng không có hiệu quả TSCĐ.
Sinh viên: Nguyễn Thị Liên Lớp KTPT 44A
Thông thường, trước hết là do đầu tư TSCĐ quá mức cần thiết, đầu tư vào
TSCĐ không dùng đến, sử dụng TSCĐ không hết công suất.
_Hiệu quả sử dụng vốn lưu động:
Hiệu quả sử dụng vốn lưu động của một thời kỳ tính toán được xác
định theo công thức:
H
VLĐ
= (14)
Với:
H
VLĐ
: hiệu quả sử dụng vốn lưu động
V

: vốn lưu động bìn quân của thời kỳ tính toán
_Số vòng luân chuyển của vốn lưu động:
SV
VLĐ
= (15)
Với:

TR: doanh thu bán hàng của thời kỳ tính toán
V

: số vòng luân chuyển của vốn lưu động tong năm
_Số ngày của vòng luân chuyển vốn lưu động
SN
LVĐ
= = 365 x (16)
Tuy nhiên các chỉ tiêu hiệu quả này cũng đang còn được nhiều nhà
quản trị học tranh cãi.
_Hiệu quả sử dụng vốn tính theo lợi nhuận:
Chỉ tiêu này được xác định bằng tích số của tỷ suất lợi nhuận trong
tổng giá trị kinh doanh với số vòng luân chuyển vốn lưu động.
H
VLĐ
= x (17)
3.2.2.Hiệu quả sử dụng tài sản cố định
Ngoài các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn cố định còn có thể đánh giá
hiệu quả sử dụng tài sản cố định thông qua chỉ tiêu hệ số tận dụng công
suất máy móc thiết bị.
M
mm
s
= (18)
M
mm
s
: hệ số tận dụng công suất máy móc thiết bị
Q
Tt

: sản lượng thực tế đạt được
Sinh viên: Nguyễn Thị Liên Lớp KTPT 44A
Q
TK
: sản lượng thiết kế
Cần chú ý rằng nhiều chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh tổng hợp được
tính toán và sử dụng không chỉ ở phạm vi doanh nghiệp mà còn ở phạm vi
các bộ phận nhỏ bên trong doanh nghiệp. Việc phân tích hệ thống chỉ tiêu
này xuyên suốt các cấp khác nhau trong doanh nghiệp sẽ xác định được
hiệu quả kinh doanh ở từng cấp, từng bộ phận.
II.CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ SẢN XUẤT-KINH
DOANH
1. Các nhân tố bên trong.
1.1 Lực lượng lao động.
Người ta thường nhắc tới luận điểm: ngày nay khoa học kĩ thuật
công nghệ đã trở thành lực lượng lao động trực tiếp, để tăng hiệu quả sản
xuất của các doanh nghiệp. Lực lượng lao động này bao gồm: lực lượng
nghiên cứu và phát triển, lực lượng lao động sản xuất, lực lượng lao động
quản trị. Cả ba lực lượng trên đều đóng vai trò quyết định đến hiệu quả sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Áp dụng kĩ thuật tiên tiến là điều kiện tiên quyết để tăng hiệu quả
sản xuất của các doanh nghiệp. Tuy nhiên, cần thấy rằng máy móc dù tối
tân đến đâu cũng là do sự sáng tạo của con người mà có. Máy móc dù có
hiện đại thì cũng phải phù hợp với trình độ sử dụng của người lao động.
Ngày nay, sự phát triển của khoa học kĩ thuật đã thúc đẩy sự phát
triển của nền kinh tế tri thức. Đặc trưng cơ bản của nền kinh tế tri thức là
hàm lượng khoa học kết tinh trong sản phẩm( dịch vụ) rất cao. Nó đòi hỏi
lực lượng lao động phải thực sự là lực lượng rất tinh nhuệ, có trình độ khoa
học kĩ thuật cao. Điều này càng khẳng định vai trò ngày càng quan trọng
của lực lượng lao động đối với việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh

của doanh nghiệp.
1.2 Trình độ phát triển cơ sở vật chất kĩ thuật và ứng dụng tiến bộ
kĩ thuật.
Sinh viên: Nguyễn Thị Liên Lớp KTPT 44A
Kĩ thuật công nghệ quyết định đến khả năng, năng suất, chất lượng,
chi phí kinh doanh của một doanh nghiệp( quá trình sản xuất của một
doanh nghiệp nào đó). Cơ sở vật chất kĩ thuật là nhân tố hết sức quan trọng,
nó tạo ra tiềm năng tăng năng suất, chất lượng, tăng hiệu quả sản xuất. Chất
lượng hoạt động của các doanh nghiệp chịu tác động mạnh mẽ của trình độ
khoa học kĩ thuật.
Cơ sở vật chất kĩ thuật công nghệ chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố
như: trình độ sang tạo của lực lượng lao động, chịu ảnh hưởng của nhân tố
chuyênr giao công nghệ ( chất lượng của hoạt động chuyển giao công
nghệ), làm chủ kĩ thuật công nghệ.
Thực tế trong những năm chuyển đổi cơ cấu kinh tế vừa qua cho
thấy doanh nghiệp nào được chuyển giao công nghệ sản xuất kinh doanh đã
đạt được kết quả và hiệu quả kinh doanh cao, tạo được lợi thế cạnh tranh so
với các doanh nghiệp cùng ngành và có khả năng phát triển. Ngược lại,
những doanh nghiệp vẫn sử dụng công nghệ, máy móc thiết bị cũ hoặc
được chuyển giao công nghệ lạc hậu, không thể tạo ra sản phẩm đáp ứng
đòi hỏi của thị trường về cả chất lượng và giá cả nên sản xuất ở doanh
nghiệp đó thường chững lại, đi xuống và trong nhiều trường hợp có thể
nhìn thấy trước việc đóng cửa sản xuất do kinh doanh không có hiệu quả.
Như vậy, sự phát triển cơ sở vật chất kĩ thuật và ứng dụng tiến bộ khoa học
kĩ thuật đóng vai trò quyết định đối với việc nâng cao năng xuất, chất
lượng và hiệu quả của doanh nghiệp. Thực tế này đặc biệt quan trọng trong
thời đại hiện nay khi mà kĩ thuật công nghệ phát triển nhanh chóng. Điều
này đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải tìm được giải pháp đúng đắn nhất là đầu
tư vào cơ sở vật chất kĩ thuật và ứng dụng tiến bộ kĩ thuật để làm cơ sở cho
việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.

1.3 Nhân tố quản trị doanh nghiệp.
Có thể khẳng định rằng, quản trị đóng vai trò quan trọng đối với
việc đảm bảo và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp.
Sinh viên: Nguyễn Thị Liên Lớp KTPT 44A
Việc xác định một hướng đi đúng đắn là nhân tố đầu tiên và quan
trọng nhất quyết định sự thành công hay thất bại của một doanh nghiệp.
Muốn tồn tại và phát triển doanh nghiệp phải chiến thắng trong cạnh tranh,
chiếm ưu thế về chất lượng, mẫu mã sản phẩm, giá cả và tốc độ cung ứng.
Điều này phụ thuộc chủ yếu vào khả năng quản trị của doanh nghiệp. Bên
cạnh đó việc khai thác và thực hiện phân bổ các nguồn lực sản xuất cũng là
một nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động doanh nghiệp.
Thật vậy, ở mọi doanh nghiệp kết quả và hiệu quả hoạt động đều phụ thuộc
rất lớn vào trình độ chuyên môn của đội ngũ các nhà quản trị cũng như cơ
cấu tổ chức bộ máy quản trị doanh nghiệp và việc xác định chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn của từng bộ phận, nhiệm vụ, quyền hạn của từng cá
nhân và thiết lập mối quan hệ giữa các bộ phận trong cơ cấu tổ chức đó.
1.4. Hệ thống trao đổi và xử lý thông tin.
Ngày nay với sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật đặc
biệt là công nghệ thông tin, nền kinh tế thị trường được coi như là nền kinh
tế thông tin. Để đạt được thành công trong kinh doanh, doanh nghiệp phải
cần rất nhiều thông tin chính xác về nhu cầu thị trường, về công nghệ kỹ
thuật, về đối tác, đối thủ cạnh tranh cũng như những thông tin về kinh
nghiệm thành công hay thất bại của các doanh nghiệp khác trong và ngoài
nước, các chính sách kinh tế của Nhà nước và của các nhà nước khác có
liên quan. Việc nắm bắt những thông tin chính xác, xử lý và sử dụng những
thông tin đó sẽ giúp cho doanh nghiệp xác định được phương hướng kinh
doanh, xây dựng chiến lược kinh doanh dài hạn cũng như hoạch định các
chương trình sản xuất ngắn hạn.
Do đó, thông tin,trao đổi và xử lý thông tin là một điều kiện quan
trọng đem lại hiệu quả kinh doanh cao, tổ chức khoa học hệ thống thông tin

nội bộ vừa đáp ứng nhu cầu thông tin kinh doanh vừa đảm bảo giảm thiểu
chi phí kinh doanh cho quá trình tu thập, xử lý, lưu trữ và sử dụng thông tin
dưới nhiều hình thức, đặc biệt là hệ thống thông tin quan trọng trong quản
Sinh viên: Nguyễn Thị Liên Lớp KTPT 44A
trị doanh nghiệp hiện nay- phù hợp với xu thế phát triển hệ thống thông tin
nội bộ, cục bộ và cao hơn nữa là nối mạng trong nước và quốc tế.
1.5.Nhân tố tính toán kinh tế.
Hiệu quả kinh doanh được xác định bởi tỷ số giữa kết quả đạt được
và hao phí nguồn lực để đạt được kết quả đó. Cả hai đại lượng trên của mỗi
thời kỳ cụ thể đều khó đánh giá một cách chính xác.
Ta đã biết: Π = TR – TC
Kinh tế học đã khẳng định tốt nhất là sử dụng phạm trù lợi nhuận
kinh tế vì lợi nhuận kinh tế mới là lợi nhuận “thực”, kết quả được đánh giá
bằng lợi nhuận kinh tế sẽ là kết quả “thực”. Song muốn xác định được lợi
nhuận kinh tế thì phải xác định chi phí kinh tế. Nhưng đến nay người ta vẫn
chưa tính toán được chi phí kinh tế mà chỉ sử dụng phạm trù chi phí tính
toán. Trên cơ sở đó chỉ xác định được lợi nhuận tính toán.
Hiện nay, chi phí tính toán được sử dụng có thể chỉ là chi phí tài
chính và chi phí kinh doanh. Chi phí tài chính được tính toán nhằm phục
vụ cho các đối tượng bên ngoài quá trình kinh doanh nên phải dựa trên
nguyên tắc thống nhất. Chi phí kinh doanh phục vụ cho bộ máy quản trị ra
quyết định, tiếp cận đem đến chi phí “thực” nên sử dụng nó sẽ xác định
được lợi nhuận thực hơn. Đây là lý do mà phạm trù hiệu quả ở đây gắn với
chi phí kinh doanh. Chỉ khi nào các doanh nghiệp triển khai tính toán và
quản trị chi phí kinh doanh, khi đó mới có thể tính toán được hiệu quả kinh
doanh tiếp cận tới độ chính xác cần thiết.
2.Nhân tố môi trường bên ngoài
2.1.Môi trường pháp lý.
Môi trường pháp lý bao gồm luật, các văn bản dưới luật… Mọi quy
định pháp luật về kinh doanh đều tác động trực tiếp đến kết quả và hiệu quả

Sinh viên: Nguyễn Thị Liên Lớp KTPT 44A
kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó việc tạo ra môi trường pháp luật lành
mạnh sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tiến hành hàng loạt
các hoạt động kinh doanh của mình bên cạnh việc điều chỉnh các hoạt động
kinh tế vĩ mô theo hướng không chỉ chú ý đến kết quả, hiệu quả riêng mà
còn chú ý đến lợi ích của các thành viên khác trong xã hội. Hơn nữa, nó
đảm bảo tính bình đẳng của mọi loại hình doanh nghiệp, tạo điều kiện cho
các doanh nghiệp cạnh trah một cách lành mạnh. Mặt khác, các doanh
nghiệp cũng phải có nghĩa vụ chấp hành nghiêm chỉnh mọi quy định của
pháp luật khi kinh doanh. Đặc biệt, khi kinh doanh trên thị trường quốc tế,
doanh nghiệp phải nắm chắc luật pháp của nước sở tại và tiến hành các
hoạt động kinh doanh trên cơ sở trên cơ sở tôn trọng luật pháp của nước đó.
Tính nghiêm minh của pháp luật thể hiện trong môi trường kinh
doanh, thực tế mức độ nào cũng có tác động mạnh mẽ đến kết quả và hiệu
quả kinh doanh. Kinh doanh sẽ đem lại hiệu quả tích cực nếu mọi thành
viên đều tuân thủ pháp luật. Nếu ngược lại, nó sẽ dẫn đến những thiệt hại
rất lớn về kinh tế, làm xói mòn đạo đức xã hội.
2.2.Môi trường kinh tế .
Môi trường kinh tế bao gồm các chính sách đầu tư, phát triển kinh tế,
chính sách cơ cấu… là nhân tố bên ngoài tác động rất lớn đến hiệu quả
kinh doanh của từng doanh nghiệp. Các chính sách kinh tế vĩ mô này tạo ra
sự ưu tiên hay sự kìm hãm phát triển của từng ngành, từng vùng kinh tế cụ
thể, do đó tác động trực tiếp đến kết quả và hiệu quả kinh doanh của các
doanh nghiệp thuộc ngành, vùng kinh tế nhất định. Bên cạnh đó, việc tạo ra
môi trường kinh doanh lành mạnh, các cơ quan quản lý Nhà nước về kinh
tế làm tốt công tác dự báo để điều tiết đúng đắn các hoạt động đầu tư, hạn
chế độc quyền, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, việc đưa ra các chính
sách thuế phù hợp với trình độ kinh tế và đảm bảo tính công bằng, tác động
mạnh đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
2.3.Các yếu tố thuộc cơ sở hạ tầng.

Sinh viên: Nguyễn Thị Liên Lớp KTPT 44A
Các yếu tố thuộc cơ sở hạ tầng như hệ thống đường giao thông,
thông tin liên lạc, điện nước cũng như sự phát triển của giáo dục đào tạo là
những nhân tố tác động mạnh mẽ đến hiệu quả kinh doanh của doanh
nghiệp. Ở những khu vực giao thông thuận lợi, điện nước đầy đủ, dân cư
đông đúccó tình độ dân trí cao, doanh nghiệp có điều kiện phát triển phát
triển tốc độ tiêu thụ sản phẩm, nâng cao hiệu quả kinh doanh. Ngược lại, ở
những nơi cơ sở hạ tầng yếu kém, kết quả kinh doanh sẽ không cao.
Trình độ dân trí cũng tác động rất lớn đến chất lượng của lực lượng
lao động xã hội nên tác động trực tiếp đến nguồn lực của mỗi doanh
nghiệp. Chất lượng của đội ngũ lao động lại là nhân tố bên trong ảnh hưởng
quyết định tới hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Sinh viên: Nguyễn Thị Liên Lớp KTPT 44A
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ SẢN XUẤT – KINH
DOANH CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN CẨM BÌNH HẢI DƯƠNG.
I.Sơ lược quá trình hình thành và phát triển của công ty
1.Tình hình chung
Công ty cổ phần giầy Cẩm Bình - Hải Dương trước đây là xí nghiệp
dệt Hải Hưng trực thuộc sở nông nghiệp Hải Hưng, chuyên sản xuất các
laọi khăn bông xuất khẩu, đến 01/10/2000 được sự cho phép UBND Tỉnh
Hải Dương, công ty đã chuyển đổi thành công ty cổ phần giầy Cẩm Bình -
Hải Dương và hiện nay là sản xuất các loại giầy thể thao xuất khẩu, sản
lượng hàng năm đạt trên tới 1.500.000 đôi/năm. Nguyên vật liệu chính là:
da, giả da, vải lót, mút xốp, hoá chất…Sự đóng góp của công ty đối với nhà
nước là rất to lớn.
+Với tổng số vốn hiện nay có: 24.600.Trđ
+Vốn cố định : 15.400.trđ
+Vốn lưu động : 9.200.trđ
+Tổng số cán bộ công nhân viên theo biên chế : 1.748 người
+Số cán bộ thực tế công nhân viên thực tế làm việc: 1.485 người

+Trong đó số lao động nữ chiếm 1.485/1.748 = 84,9% tổng số LĐ
+Lao động nam chiếm:263/1.748=15,1 % tổng số LĐ
Công ty được xây dựng nằm cạnh quốc lộ 5A nối liền với thành phố
Hà Nội với thành phố Hải Phòng, thuộc địa bàn thị trấn Lai Cách, huyện
Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương, nên rất thuận tiện cho việc nắm bắt các thông
tin kinh tế cần thiết. Công ty với tổng diện tích nhà máy 56.206 m2. Phần
đường đi bộ khoảng 9000 m2, diện tích đất trồng cây xanh tạo cảnh quan
bóng mát chiếm tỷ lệ 10% tổng diện tích mặt bằng của công ty.
2. Quá trình phát triển của công ty cổ phần giầy Cẩm Bình - Hải Dương
 Giai đoạn I ( Năm 1988-1990 ):
Sinh viên: Nguyễn Thị Liên Lớp KTPT 44A
Phương án sản phẩm của xí nghiệp là sản xuất kinh doanh hàng dệt
khăn mặt, khăn tắm xuất khẩu sang các nước Đông Âu với quy mô nhỏ,
công nghệ, thiết bị lạc hậu ( với hơn 200 máy dệt vải đã qua sử dụng từ
những năm 1960 của nhà máy dệt 8/3 được cải tiến để dệt khăn mặt, khăn
tắm ). Cùng một số máy chuẩn bị ( là máy thủ công, bán cơ khí) cán bộ
công nhân cón rất hạn chế, tổng số lao động có 255 người, sản xuất kinh
doanh kém hiệu quả, trong khi đó vốn lưu động chỉ có: 177.000.000đ, vốn
cố định chỉ có: 834.000.000đ.
 Giai đoạn II ( Năm 1991-5/1995 ):
Sau khi các nước Đông Âu có biến động, mặt khác để phú hợp với
cơ chế mới ( chuyển từ hành chính quan liêu bao cấp sang hạch toán kinh
doanh theo cơ chế thị trường). Từ năm 1991-5/1995 Công ty lại chuyển đổi
từ sản xuất kinh doanh khăn mặt, khăn tắm xuất khẩu sang sản xuất kinh
doanh mặt hàng may mặc quần áo xuất khẩu với tên gọi : “ Công ty dệt
may Cẩm Bình” song vẫn trong vòng luẩn quẩn, vẫn không thoát ra khỏi
những khó khăn của ngành may mặc nói chung vào thời điểm này, nhất lại
là đơn vị lần đầu tiên chân ướt chân ráo bước vào ngành may mặc.
 Giai đoạn III: (5/1995-30/9/2000):
Xuất phát từ những đặc điểm khó khăn trên, cộng với ngành sản xuất

giầy lúc này đang có xi hướng phát triển trong cả nước. Nắm bắt thời cơ
kịpp thời. Từ tháng 5/1995 Công ty lại một lần nữa mạnh dạn thay đổi
phương án sản phẩm: Từ sản xuất kinh doanh mặt hàng may mặc quần áo
xuất khẩu sang sản xuất kinh doanh giầy thể thao, giầy vải, dép, đế giầy
cao su xuất khẩu các loại với quy mô từ nhỏ đến lớn.
Tóm lại: Qua mỗi một giai đoạn chuyển đổi là mỗi một khó khăn
chồng chất đè năng lên đôi vai của từng cán bộ, công nhân viên, lao động
công ty, bởi hàng trăm hàng ngàn người lao động sẽ mất việc làm, nếu một
quyết định chuyển đổi sai? Như ông cha ta đã dạy “Sai một ly – đi một
dặm”. Song, được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát của Tỉnh Uỷ -
Sinh viên: Nguyễn Thị Liên Lớp KTPT 44A
UBND tỉnh ngành chủ quản ( Sở Nông nghiệp ) cũng như sự giúp đõ của
các ngành hữu quan trong và ngoài tỉnh cộng với tính quyết đoán của BGĐ
Công ty (đứng đầu là đồng chí giám đốc Nguyễn Trọng Tiến ) cuối cùng đã
lái con tàu vượt qua mọi thác ghềnh tới bến vinh quang.
 Giai đoạn IV: (30/9/2000 đến nay)
Thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước về việc cổ
phần hoá các doanh nghiệp, đồng thời được sự chỉ đạo trực tiếp của UBND
tỉnh đến 30/9/2000, công ty lại là một trong những đơn vị đầu tiên của tỉnh
đã mạnh dạn thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp ( theo quyết định số :
2940/QĐ-UB ngày 25/9/2000 của UBND Tỉnh ) với lần thứ ba có tên gọi: “
Công ty cổ phần giầy Cẩm Bình” từ đó đến nay Công ty liên tục đầu tư quy
mô sản xuất , nhập thêm nhiều máy móc hiện đại tiên tiến nhất hiện nay,
từng bước khép kín dây chuyền công nghệ, mở rộng mặt bằng nhà xưởng,
diện tích công ty ( từ 2,5 ha lên 05 ha). Từ chỗ chỉ có: 1.323 lao động(năm
2000) lên 1.830 lao động (năm 2004),triển vọng sẽ là 2000-2200 lao động
năm 2005 giải quyết tích cực về công việc làm cho người lao động trong
tỉnh nói chung và khu vực 2 huyện (Cẩm Giàng + Bình Giang) nói riêng,
điều đó góp phần không nhỏ trong việc phát triển kinh tế thuộc địa bàn và
hạn chế những tiêu cực những tệ nạn xã hội có thể phát sinh.Nhìn một cách

tổng thể nhãn tiên,một điều thấy rất rõ cán bộ,CNVC,lao động Công ty
luôn có việc làm ổn định, đời sống người lao động luôn được đảm bảo về
vật chất lẫn tinh thần, thu nhập bình quân hàng năm của người lao động :
trên 600.000đ/người/tháng, đó là mức thu nhập khá trong khu vực.Thêm
một sự thật hiển nhiên là sau 03 năm cổ phần hoá,lợi tức được chia cho cổ
đông là :15%,ngoài ra còn có tích luỹ để đầu tư mới từ 10323 triệu đồng
(năm 2000)lên 9.300 triệu đồng(năm 2003).từ chổ nhà xưởng lúc đầu chỉ
có:6.800m2 đến nay đã là :21.340m2.tiếp tục tăng cường mở rộng thị
trường đối tác (kể cả trong và ngoài nước).do đó cán bộ,cvnc,lao động ngày
càng thêm tin tưởng vào sự lãnh đạo của đảng uỷ - HĐQT-BGĐ công ty,từ
Sinh viên: Nguyễn Thị Liên Lớp KTPT 44A
đó mang hết sức mình phấn đấu,xây dựng công ty ngày một không ngừng
lớn mạnh.
-Tên doanh nghiệp :Công ty cổ phần giày Cẩm Bình-Tỉnh Hải Dương
-Tên viết tắt :Công ty cổ phần giày Cẩm Bình
-Tên giao dịch:Cam Binh shoes join-stock Company
-Địa chỉ:Thị trấn Lai Cách -Cẩm Giàng-Hải Dương
-Điện thoại(0320)786414-(0320)785416
-Fax(0320)786104
-Email: CamBinhShoes co.2001.hm@.vnn.vn
(Công ty cổ phần giày Cẩm Bình chính thức đi vào hoạt động từ ngày
06/10/2000).
II.Các đặc điểm kinh tế kĩ thuật có ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất
kinh doanh của công ty.
1. Đặc điểm về sản phẩm và thị trường
a. Đặc điểm về sản phẩm
Sản phẩm của công ty cổ phần giầy Cẩm Bình là giầy thể thao xuất
khẩu,dép sandal. Sản phẩm được sản xuất chủ yếu theo đơn đặt hàng của
nước ngoài như Đài Loan, Hồng Kông, Đức, Mĩ, Ý…vì vậy các loại sản
phẩm này đòi hỏi tiêu chuẩn khá cao, chất lượng phải đảm bảo, mẫu mã

đẹp, sản xuất phải theo đúng yêu cầu của khách hàng. Đặc điểm của loại
sản phẩm tiêu dùng này là có thể để lâu, không bị hao hụt nên cũng dễ dàng
trong việc quản lý. Đơn vị tính thường là đôi. Do yêu cầu của quản lý và
theo đơn đặt hàng của khách hàng nên khi sản xuất xong sản phẩm thường
được đóng thành kiện. Số đôi giầy trong một kiện và kích cỡ giầy, mầu sắc
giầy đóng vào kiện hoàn toàn theo yêu cầu của khách hàng.
Về số lượng: Hàng tháng số lượng sản phẩm sản xuất của công ty
nhiều hay ít căn cứ vào các đơn đặt hàng của khách hàng, các hợp đồng
kinh tế đã kí kết với khách hàng và tình hình tiêu thụ sản phẩm trên thị
trường, từ đó bộ phận kế hoạch sẽ lên kế hoạch sản xuất giầy trong tháng.
Sinh viên: Nguyễn Thị Liên Lớp KTPT 44A
Quá trình vận động của thành phẩm rất ngắn và nhanh kết thúc để có thể
kịp thời gian giao hàng cho khách như trong hợp đồng đã kỹ kết.
Về chất lượng: Do công ty có dây chuyền sản xuất giầy tiên tiến,
tương đối hiện đại, đạt tiêu chuẩn quốc tế nên sản phẩm sản xuất ra đạt chất
lượng khá cao. Ngoài ra, nhiều loại nguyên vật liệu nhập về từ nước ngoài
đề phục vụ cho sản xuất sản phẩm cũng góp phần nâng cao chất lượng sản
phẩm. Công ty đã sản xuất được rất nhiều loại giầy khác nhau. Mỗi loại
giầy chia thành nhiều loại giầy khác nhau. Giầy của công ty có hình thức
mẫu mã khá đẹp và rất đa dạng. Chính vì vậy, nhiều loại giầy đã chiếm lĩnh
được thị trường ngoài nước. Sản phẩm của công ty được bạn hàng tín
nhiệm nên số lượng đặt hàng ngày càng nhiều.
Với đặc điểm sản phẩm của công ty như vậy nên để thực hiện tốt
công tác tiêu thụ sản phẩm thì nhất thiết cần phải tổ chức công tác tiêu thụ
sản phẩm một cách khoa học, hợp lý, phải có các biện pháp thích hợp, kịp
thời đẩy mạnh công tác tiêu thụ sản phẩm nhằm đảm bảo thu hồi vốn nhanh
và thu được nhiều lợi nhuận.
b. Đặc điểm tiêu thụ sản phẩm
Việc tiêu thụ sản phẩm của công ty có đặc điểm rất riêng biệt, khác
với nhiều công ty trong nước. Sản phẩm sản xuất ra chủ yếu để xuất khẩu

sang các nước khác theo đơn đặt hàng của khách hàng.
Đối với thị trường xuất khẩu: Việc xuất khẩu sản phẩm ra nước
ngoài do phòng kinh doanh xuất nhập khẩu phụ trách. Công ty sẽ xuất giao
hàng dựa trên các hợp đồng kí kết với nước ngoài. Công ty có quan hệ hợp
đồng với một số Công ty khác ở các nước như: Đài Loan, Hông Kông,
Trung quốc. Những công ty này đóng vai trò trung gian và công ty cổ phần
Giầy Cẩm Bình nhận được các đơn hàng của nước ngoài chủ yếu thông qua
các công ty này. Theo như hợp đồng, Công ty sẽ xuất hàng cho bên trung
gian và bên trung gian sẽ thanh toán tiền hàng cho công ty sau khi đã nhận
hàng. Nguyên vật liệu để sản xuất sản phẩm do công ty mua trong nước
Sinh viên: Nguyễn Thị Liên Lớp KTPT 44A

×