ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI
BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG QUẢN LÍ
Ở VIỆT NAM
Mục Lục
PHẦN I. MỞ ĐẦU
I.1. Lí do chọn đề tài.
"Bình đẳng giới" chính là bình đẳng nam nữ và là một trong những vấn đề
cơ bản của quyền con người. Xã hội ngày càng phát triển và văn minh thì
bình đẳng giới càng được chú trọng và thể hiện ở mọi lĩnh vực của đời sống
- xã hội, trong đó có lĩnh vực quản lí. Bình đẳng giới trong hoạt động quản
lí, không đơn giản là nam - nữ có số lượng ngang nhau tham gia vào quản lí;
cũng không có nghĩa coi nam, nữ là giống nhau, không tính đến yếu tố tâm
sinh lý, yếu tố xã hội của từng giới trong hoạt động quản lí. Bình đẳng giới
trong hoạt động quản lí thể hiện ở chỗ nam và nữ cùng có vị thế xã hội như
nhau khi tham gia và thực hiện quản lí; sự tương đồng và khác biệt của nam
và nữ (dưới góc độ giới và giới tính) được thừa nhận và được coi trọng như
nhau để phát huy đầy đủ các tiềm năng của từng giới; cả cán bộ nam và cán
bộ nữ đều có cơ hội, nghĩa vụ và quyền lợi như nhau trong quá trình thực
hiện quản lí, được hưởng các lợi ích bình đẳng như nhau theo các nguyên tắc
nhất định.
Vấn đề bình đẳng giới đã và đang trở thành mối quan tâm chung của hầu hết
mọi quốc gia trên thế giới. Nhận thức được tầm quan trọng của việc nâng
cao bình đẳng giới, Đảng và Nhà nước ta đã xác định đây là một trong
những mục tiêu quan trọng trong chương trình phát triển của nước nhà.
Sinh thời Hồ Chủ tịch đã từng căn dặn: "Đảng và Chính phủ phải có kế
hoạch thiết thực để bồi dưỡng, cân nhắc và giúp đỡ sao cho ngày càng nhiều
phụ nữ phụ trách mọi công việc, kể cả công việc lãnh đạo". Hiện nay
Việt Nam là một trong những nước được Liên hợp quốc đánh giá cao trong
việc nỗ lực rút ngắn khoảng khách bình đẳng giới trong giáo dục, việc làm,
kinh tế, chăm sóc sức khoẻ sinh sản/ kế hoạch hoá gia đình. Một trong
những lĩnh vực đáng chú ý hơn đó là vấn đề giới trong lãnh đạo quản lý.
Ðảng và Nhà nước ta luôn quan tâm phát huy vai trò của phụ nữ trong xã hội
và trong quản lý nhà nước. Chỉ thị 37/CT-T.Ư ngày 16-5-1994 khẳng định:
"Nâng cao tỷ lệ cán bộ nữ tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã
hội là một yêu cầu quan trọng để thực hiện quyền bình đẳng, dân chủ của
phụ nữ, là điều kiện để phát huy tài năng, trí tuệ và nâng cao địa vị của phụ
nữ". Phụ nữ tham gia quản lý nhà nước là một bảo đảm để các vấn đề giới
được phản ánh trong quá trình ra quyết định, là sự khẳng định về năng lực,
trí tuệ của mình. Tuy nhiên, kết quả đó chỉ là bước đầu, nó chưa thực sự
mang tính bền vững và đang đặt ra nhiều vấn đề cần lời giải đáp. Qua thực tế
cho thấy, công tác quy hoạch cán bộ nữ chưa được các cấp ủy đảng chú
trọng đúng mức, bản thân cán bộ nữ chưa phát huy hết vị trí, vai trò trong
công tác quản lí, còn mang tính thụ động; nhận thức về giới còn hạn chế.
Xuất phát từ cơ sở lí luận và thực tiễn trên tôi nghiên cứu thực trạng bình
đẳng giới trong quản lý ở nước ta, qua đó đề xuất một vài kiến nghị nhằm
góp phần cải thiện sự bình đẳng giới trong lĩnh vực này
I.2. Mục đích nghiên cứu.
Tìm hiểu thực trạng bình đẳng giới trong quản lí ở Việt Nam hiện
nay.Từ đó đề xuất một vài kiến nghị nhằm góp phần cải thiện sự bình đẳng
giới trong lĩnh vực quản lí ở nước ta hiện nay.
1.3. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu.
* Đối tượng Nghiên cứu về thực trạng bình đẳng giới trong quản lí ở
Việt Nam hiện nay.
* Khách thể nghiên cứu: Những người phụ nữ Việt Nam tham gia công tác
lãnh đạo, quản lý.
* Phạm vi nghiên cứu:
+ Truy cập internet với các trang web có liên quan .
+ Các văn bản, các báo cáo của các tổ chức như văn phòng quốc hội, Bô nội
vụ, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam.
+ Những bài viết về chủ đề phụ nữ và bình đẳng giới trên các trang báo điện
tử
+ Các sách báo, tạp chí chuyên ngành có liên quan tới: Tạp chí Xã hôi học,
Tạp chí Giáo dục và lý luận, tạp chí khoa học xã hội…
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
Để thực hiện đề tài này tôi sử dụng ba nhóm phương pháp nghiên cứu cơ
bản:
1.4.1 Nhóm phương pháp nghiên cứu lí thuyết.
Mục đích nhằm phân tích, thu thập thông tin khách quan, khoa học để
tổng hợp cơ sở lý luận của đề tài, là cơ sở là công cụ nền tảng cho vấn đề
cần nghiên cứu.
1.4.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn.
1.4.2.1. Phương pháp điều tra.
Là phương pháp cơ bản, với việc xây dựng và sử dụng mẫu phiếu điều tra về
thự trạng bình đẳng giới trong lĩnh vực chính tri – xã hội.
1.4.2.2. Phương pháp nghiên cứu và tổng kết kinh nghiệm.
Nghiên cứu các báo cáo tổng kết của các kỳ họp Quốc hội của Đảng và
nhà nước, từ các chỉ thị của các cấp chính quyền, các công văn, chính
sách của Đảng và nhà nước ta về vấn đề bình đẳng giới trong quản lí,
lãnh đạo của đất nước.
1.4.2.3. Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia.
Lấy ý kiến của các chuyên gia về mẫu phiếu, cách xử lí, phân tích các số
liệu thu thập được….
1.4.3. Nhóm phương pháp toán học.
Sử dụng các phương pháp toán học để xử lí các số liệu thu được từ mẫu
phiếu điều tra, từ đó đưa ra những kết quả và sự đánh giá chính xác.
PHẦN II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU.
Chương I.
CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1. Khái niêm cơ bản về giới.
1.1. khái niệm giới.
Là phạm trù chỉ quan niệm, vai trò và mối quan hệ xã hội giữa nam giới và
phụ nữ. Xã hội tạo ra và gán cho trẻ em gái và trẻ em trai, cho phụ nữ và
nam giới các đặc điểm giới khác nhau. Bởi vậy, các đặc điểm giới rất đa
dạng và có thể thay đổi được.
1.2. Khái niệm giới tính
Là sự khác biệt về mặt sinh học giữa nam giới và phụ nữ. Giới tính là
những đặc điểm đồng nhất mà khi chúng ta sinh ra đã có và không thể thay
đổi được.
1.5. Khái niệm quan hệ giới:
Là các mối quan hệ xã hội giữa phụ nữ và nam giới, đặc biệt là cách thức
phân chia quyền lực giữa nam và nữ.
1.4. Khái niệm vai trò giới:
Là những hoạt động khác nhau mà xã hội mong muốn phụ nữ và nam giới
thực hiện.
1.5. Khái niệm phân công lao động trên cơ sở giới:
Là sự phân công việc và trách nhiệm khác nhau giữa phụ nữ và nam giới
1.6. Khái niệm bình đẳng giới:
Là sự thừa nhận và coi trọng như nhau các đặc điểm giống và khác nhau
giữa phụ nữ và nam giới.
Phụ nữ và nam giới có vị thế bình đẳng như nhau và cùng:
+ Có điều kiện bình đẳng để phát huy hết khả năng và thực hiện các nguyện
vọng của mình.
+ Có cơ hội bình đẳng để tham gia, đóng góp và thụ hưởng các nguồn lực xã
hội và thành quả phát triển.
+ Được bình đẳng trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình.
2. Khái niệm quản lí.
Trong tất cả các lĩnh vực của dời sống xã hội, con người muốn tồn tại và
phát triển đều phải dựa vào sự nổ lực của một tổ chức, từ một nhóm nhỏ đến
phạm vi rộng lớn ở tầm quốc gia, quốc tế và đều phải thừa nhận và chịu một
sự quản lí nào đó.
Ngày nay, thuật ngữ quản lí đã trở nên phổ biến nhưng chưa có một định
nghĩa thống nhất. Có người cho quản lí là hoạt động thiết yếu nhằm đảm bảo
sự hoàn thành công việc thông qua sự nỗ lực của người khác.
Cũng có người cho quản lí là một hoạt động thiết yếu nhằm đảm bảo phối
hợp những nổ lực cá nhân và nhằm đạt được mục đích của nhóm.
“ Quản lí là quá trình làm việc cùng nhau thông qua các cá nhân, các nhóm
cũng như nguồn lực khác để hoàn thành các mục đích tổ chức”(P. hersey –
K. B Hard, 1995:12)
Định nghĩa chung nhất về quản lí đó là: “Quản lí là quá trình tác động liên
tục, có tổ chức, có kế hoạch, có hướng đích của chủ thể lên đối tượng theo
một quy trình nhất định nhằm đạt hiệu quả tối ưu so với yêu cầu đặt ra”
(Học viện CTQGHCM, 2000: 321)
3. Nội dung quản lí trong lĩnh vực chính trị.
Khoản 1, 2, 3, 4 điều 11 Luật Bình đẳng giới qui định bình đẳng giới
trong lĩnh vực chính trị như sau:
- Nam, nữ bình đẳng trong tham gia quản lý nhà nước, tham gia họat
động xã hội.
- Nam, nữ bình đẳng trong tham gia xây dựng và thực hiện hương ước,
quy ước của cộng đồng hoặc quy định, quy chế của cơ quan, tổ chức.
- Nam, nữ bình đẳng trong việc tự ứng cử và được giới thiệu ứng cử đại
biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân; tự ứng cử và được giới thiệu
ứng cử vào cơ quan lãnh đạo của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị–xã
hội, tổ chức chính trị xã hội-nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội–
nghề nghiệp.
- Nam, nữ bình đẳng về tiêu chuẩn chuyên môn, độ tuổi khi được đề bạt,
bổ nhiệm vào cùng vị trí quản lý, lãnh đạo của cơ quan, tổ chức.
4. Vai trò của phụ nữ trong quản lí.
Số phụ nữ tham gia quản lý nhà nước hiện nay đã tăng nhiều so với trước
đây nhưng tỷ trọng lại có xu hướng giảm. Bên cạnh đó, phụ nữ chủ yếu đảm
nhiệm cấp phó.
Ðảng và Nhà nước ta luôn quan tâm phát huy vai trò của phụ nữ trong
xã hội và trong quản lý nhà nước. Chỉ thị 37/CT-T.Ư ngày 16-5-1994 khẳng
định: "Nâng cao tỷ lệ cán bộ nữ tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế -
xã hội là một yêu cầu quan trọng để thực hiện quyền bình đẳng, dân chủ của
phụ nữ, là điều kiện để phát huy tài năng, trí tuệ và nâng cao địa vị của phụ
nữ". Phụ nữ tham gia quản lý nhà nước là một bảo đảm để các vấn đề giới
được phản ánh trong quá trình ra quyết định, là sự khẳng định về năng lực,
trí tuệ của mình.
Phụ nữ Việt Nam chiếm 51,48% số dân và 48% lực lượng lao động
toàn xã hội, và chiếm khoảng 20% cán bộ làm công tác lãnh đạo và quản lý
nhà nước các cấp từ Trung ương đến cơ sở. Trong đó, số nữ Ủy viên Trung
ương Ðảng khóa VII là 12, khóa VIII tăng lên 18 (tuy vậy khóa IX lại còn
12). Ở cấp tỉnh, tỉnh ủy viên là nữ cũng tăng từ 182 ở khóa VII lên 280 trong
khóa VIII. Phụ nữ tham gia các cấp ủy địa phương đạt 10-11%, trong đó bí
thư, phó bí thư, ủy viên thường vụ đạt từ 3% đến 8%. Phần lớn các chị tham
gia thường vụ cấp ủy đều được phân công công tác kiểm tra và dân vận. Về
chính quyền, trong khóa VIII, tỷ lệ nữ Bộ trưởng và tương đương chiếm
13,1%, nữ Thứ trưởng và tương đương chiếm 7,4%; nữ vụ trưởng, vụ phó và
tương đương chiếm 13%. Chủ tịch UBND cấp tỉnh, huyện và xã có khoảng
1,6% là nữ. Phó Chủ tịch UBND là 2 - 4%. Khóa 1999 - 2004, số nữ là đại
biểu HÐND cấp tỉnh chiếm 22,5%, cấp huyện chiếm 20,7%, cấp xã chiếm
17%. Nữ đại biểu QH khóa X là 26,22%, khóa XI là 27,31%. Việt Nam là
nước có tỷ lệ nữ đại biểu QH cao thứ hai trong khu vực châu Á - Thái Bình
Dương (sau New Zealand).
Sự gia tăng số lượng nữ tham gia quản lý nhà nước chứng tỏ chất
lượng, trình độ cán bộ lãnh đạo của nữ giới ngày càng nâng cao. Hiện nay,
phụ nữ chiếm tỷ lệ 61% những người có trình độ cao đẳng, 34% những
người có trình độ đại học, 30% những người có trình độ thạc sĩ, 21% những
người có trình độ tiến sĩ và 4% những người là tiến sĩ khoa học. Mặt bằng
học vấn này đã giúp phụ nữ tham gia ngày càng tốt hơn công tác quản lý nhà
nước. Theo đánh giá của Văn phòng QH, việc tham gia xây dựng pháp luật
và chính sách, đóng góp ý kiến cho công tác quản lý nhà nước và tọa đàm
với cử tri của các nữ đại biểu QH ngày càng có chất lượng. Vì vậy, các chị
càng thêm tự tin, trình bày ý kiến đại diện cho người dân và cho chính giới
nữ trong các kỳ họp của QH.
Hiện nay, số cán bộ công chức (CBCC) nữ tham gia công tác quản lý
nhà nước trong hệ thống chính quyền các cấp nhiều hơn so với trước: Một
Phó Chủ tịch nước, ba Bộ trưởng, 26 thứ trưởng và tương đương, hai Chủ
tịch UBND, 22 Phó Chủ tịch UBND tỉnh. Tuy nhiên, tỷ lệ CBCC nữ tham
gia lãnh đạo ở cấp bộ, vụ còn thấp, mới khoảng 8 - 15%, chưa tương xứng
lực lượng lao động và năng lực đóng góp của phụ nữ.
Trong thực tế, phụ nữ Việt Nam đang có mặt ở hầu hết cơ quan quản
lý hành chính, sự nghiệp và doanh nghiệp. Phụ nữ chiếm 50,3% số người
làm công ăn lương và 32,4% các chủ doanh nghiệp.
Trong số hơn 300 nghìn doanh nghiệp hoạt động theo Luật Doanh
nghiệp, có khoảng 15% do phụ nữ đứng đầu hoặc nắm giữ cương vị chủ
chốt. Tỷ lệ phụ nữ làm quản lý doanh nghiệp của một số ngành: dệt, may
mặc, giày dép, thực phẩm, đồ uống chiếm hơn 50%, ở các ngành giao
thông - vận tải, xây dựng, khai khoáng có 20% người quản lý doanh
nghiệp là nữ. Trong số 900 nghìn hộ kinh doanh gia đình, có 27% do phụ nữ
điều hành.
Mặc dù Ðảng, Nhà nước đã có chủ trương cụ thể, chính sách rõ ràng,
song tỷ lệ nữ CBCC tham gia quản lý nhà nước còn ít. Tỷ lệ nữ CBCC là
lãnh đạo trong các cấp ủy đảng, chính quyền, các ngành và các cơ quan
nghiên cứu khoa học lại càng thấp. Hơn nữa, nữ lãnh đạo thường chỉ liên
quan các lĩnh vực xã hội. Rất hiếm nữ CBCC làm lãnh đạo trong lĩnh vực
quản lý kinh tế, kế hoạch, nghiên cứu khoa học. Tỷ lệ cán bộ nữ trong các
cấp ủy đảng từ Trung ương đến cơ sở chỉ chiếm khoảng 10 - 11%. Trong các
cấp ủy đảng, số nữ CBCC giữ vị trí trọng trách rất ít. Tỷ lệ trung bình nữ
CBCC ở vị trí chủ chốt như bí thư, phó bí thư, ủy viên thường vụ chỉ khoảng
3-8% ở mọi cấp. Phần lớn các ủy viên thường vụ trong các cấp ủy đảng chỉ
được phụ trách những công việc hành chính liên quan đến động viên hơn là
những nhiệm vụ chiến lược. Sự khác biệt này đã hạn chế ảnh hưởng của phụ
nữ trong nhiều lĩnh vực công tác. So với yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất
nước, số lượng nữ ở các cương vị quản lý nhà nước chưa tương xứng vai trò,
vị trí và những đóng góp của họ trong các hoạt động phát triển. Trước đây,
tỷ lệ nữ CBCC tham gia quản lý nhà nước trong ngành công nghiệp chiếm
gần 20%, nay giảm xuống còn 10%. Có thể nói, đội ngũ cán bộ nữ giảm sút
không chỉ ở các cơ quan dân cử mà còn ở các bộ, ngành và cơ quan chính
quyền. Sự thiếu hụt cán bộ nữ trên một số lĩnh vực quan trọng làm cho việc
hoạch định kế hoạch, chính sách không có tiếng nói đại diện của phụ nữ, dẫn
đến thực hiện bình đẳng giới về mọi mặt chưa đạt kết quả mong muốn.
Cán bộ nữ đã ít, lại bị hạn chế bởi tuổi về hưu và tuổi đề bạt. Hiện
nay, cơ cấu tuổi của cán bộ nữ khá cao, hầu hết cán bộ nữ làm quản lý đều ở
tuổi trên dưới 50, trong khi nhiều nữ thanh niên hiện nay ngại làm chính trị,
chỉ thích làm chuyên môn. Trong khi tỷ lệ cán bộ nữ vốn đã thấp, thì lãnh
đạo là nữ chủ yếu đảm nhiệm cấp phó giúp cho trưởng (nam). Ở những vị trí
này, phụ nữ không có thực quyền, quan niệm trọng nam, khinh nữ vẫn còn
phổ biến và coi phụ nữ chỉ là "giúp việc" cho nam giới. Còn có hiện tượng
xem xét, cất nhắc chị em vào các vị trí lãnh đạo diễn ra khó khăn hơn so với
nam giới. Trong một cơ quan, phụ nữ thường bị nhìn nhận xét nét hơn, cơ
quan chủ quản chưa nhận thấy ở chị em một cách đầy đủ những điểm mạnh
nổi bật về chuyên môn, uy tín.
Hiện nay, đội ngũ nữ chỉ chiếm 4% giáo sư, 25% tiến sĩ và 9% số
người được trao tặng các giải thưởng về khoa học - công nghệ, chứng tỏ việc
đào tạo nhân lực trong giới nữ chưa tương xứng yêu cầu của sự nghiệp giải
phóng phụ nữ và nguyện vọng chị em. Những năm qua, tuy số lượng phụ nữ
tham gia quản lý nhà nước tăng lên về con số tuyệt đối, song tỷ trọng lại có
xu hướng giảm.
Chương II.
THỰC TRẠNG VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG QUẢN LÍ Ở VIỆT
NAM
1. Thực trạng về bình đẳng giới trong quản lí ở Việt Nam.
Nhiều năm qua, Đảng, Nhà nước đã ban hành các chủ trương, chính sách
về bình đẳng giới để phụ nữ Việt Nam có cơ hội phát huy tài năng của mình
và tham gia những vị trí lãnh đạo chủ chốt các cơ quan Đảng, Nhà nước,
chính quyền các địa phương, các đơn vị, doanh nghiệp… Hàng loạt văn bản
pháp luật được ban hành nhằm nâng cao vị thế của phụ nữ trong xã hội và
thực hiện bình đẳng giới như Bộ luật Dân sự, Bộ luật Lao động, Luật Hôn
nhân và Gia đình, Luật Phòng chống bạo lực gia đình, Luật Bình đẳng giới.
Đặc biệt, Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội, Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng
nhân dân các cấp đã quy định rõ phụ nữ có quyền bầu cử, ứng cử, cũng như
các cơ chế để đảm bảo phụ nữ được thực hiện những quyền đó.
Gần 2 thập kỷ qua, Việt Nam luôn có một Phó Chủ tịch nước là nữ. Trong
Quốc hội, tỷ lệ nữ đại biểu 3 nhiệm kỳ gần đây đều đạt trên 25%. Tỷ lệ đại
biểu nữ từ năm 2005 đến 2011 tại các cơ quan dân cử ở địa phương, như Hội
đồng nhân dân cấp tỉnh tăng từ 22,3% lên 23,8%, cấp huyện tăng từ 20,1%
lên 23,2%; cấp xã tăng từ 16,6% lên 20,1%. Mặc dù tỷ lệ này chưa cao,
nhưng đã chứng minh được vai trò quan trọng của phụ nữ trong việc đảm
nhận những trọng trách quan trọng trong bộ máy cơ quan Nhà nước từ Trung
ương đến địa phương.
Bảng 1: Tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội Việt Nam qua các kỳ bầu cử
Nhiệm kỳ Nữ Đại biểu Tổng số Đại biểu Tỷ lệ nữ/ Tổng số
Khoá XII (2007-2011) 127 493 25,76%
Khoá XI (2002-2007) 136 498 27.31%
Khoá X (1997-2002) 118 450 26.22%
Khoá IX (1992-1997) 73 395 18.48%
Khoá VIII (1987-
1992)
88 496
17.74%
Khoá VII (1981-1987) 108 496 21.77%
Khoá VI (1976-1981) 132 492 26.83%
Khoá V (1975-1976) 137 424 32.31%
Khoá IV (1971-1975) 125 420 29.76%
Khoá III (1964-1971) 62 366 16.94%
Khoá II (1960-1964) 49 362 13.54%
Khoá I (1946-1960) 10 333 3.00%
Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân, nguyên Chủ tịch Uỷ ban
Quốc gia vì sự tiến bộ phụ nữ Việt Nam khẳng định: “So với các nước trong
khu vực Đông Nam Á, vị thế của phụ nữ Việt Nam đứng trong tốp đầu. Có
thể ít chỗ này, hạn chế chỗ nọ, nhưng tựu trung lại thì chỉ số phát triển giới
và phụ nữ tham gia Quốc hội của chúng ta đứng đầu trong 8 nước có Nghị
viện ở Đông Nam Á. Còn ở châu Á- Thái Bình Dương, chúng ta cũng đứng
hàng thứ 4. Và trên toàn thế giới, trong tất cả 155 nước được xếp hạng thì
chúng ta ở trong nhóm khá”.
Ngoài việc tham gia vào bộ máy cơ quan Nhà nước, phụ nữ Việt Nam còn
tham gia vào các tổ chức chính trị xã hội, tổ chức nghề nghiệp và đặc biệt
tham gia vào hầu hết các ngành nghề, công việc, kể cả những lĩnh vực trước
đây chỉ dành cho nam giới. Với hơn 50% tỷ trọng lao động trong sản xuất
nông - lâm - ngư nghiệp, đội ngũ cán bộ nữ khoa học, phụ nữ nông dân đã
đóng góp rất lớn vào thành tựu sản xuất, phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước. Sự đóng góp của đội ngũ lao động nữ trên lĩnh vực công nghiệp, tiểu
thủ công nghiệp, kinh doanh dịch vụ cũng là động lực để phát triển kinh tế.
Nhiều chị đã phấn đấu vươn lên, giữ những cương vị chủ chốt trong hoạt
động quản trị doanh nghiệp. Đội ngũ nữ trí thức Việt Nam đã có bước
trưởng thành cả về số lượng và chất lượng, với 36,64% trong khoa học tự
nhiên; 43,42% trong lĩnh vực khoa học nông - lâm - thủy sản; 33% trong
khoa học công nghệ. Ngày càng có nhiều tập thể và cá nhân khoa học nữ có
công trình nghiên cứu được nhận giải thưởng VIFOTEC của Liên hiệp các
Hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam, Giải thưởng Phụ nữ Việt Nam, Giải
thưởng Kovalevskaia Nhiều nhà khoa học nữ đã lập ra các hội nghề
nghiệp, câu lạc bộ, trung tâm nghiên cứu, tư vấn để tiếp tục phát huy trí tuệ,
tài năng của mình đóng góp vào sự nghiệp phát triển chung của đất nước.
Tuy nhiên, bất bình đẳng giới ở Việt Nam vẫn tồn tại trong nhiều lĩnh vực
của đời sống xã hội và là rào cản đối với sự phát triển của phụ nữ. Theo
đánh giá của Ban tổ chức Trung ương, sau 5 năm tổng kết Chỉ thị 37 và 2
năm thực hiện Nghị quyết số 11 của Bộ chính trị về công tác phụ nữ thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, tỷ lệ nữ tham gia cấp ủy
đảng, chính quyền, đại biểu dân cử vẫn còn thấp, chưa ổn định.
Để phụ nữ ngày càng khẳng định vị thế của mình trong gia đình và xã hội,
nhất là vai trò trong quản lý lãnh đạo, các cấp uỷ Đảng từ Trung ương đến
cơ sở, cần nhìn nhận, đánh giá đúng vị trí và tài năng của phụ nữ cũng như
sự đóng góp của họ để đưa vị thế xã hội của người phụ nữ Việt Nam lên một
tầm cao mới.
Theo số liệu của Hội Phụ nữ, tỷ lệ nữ trong các tổ chức Đảng nhiệm kỳ
2010-2015 cấp T.Ư là 8,57%, tỉnh/thành là 11,37%, quận/huyện 15,01%,
xã/phường 18,01%, tăng không đáng kể so với nhiệm kỳ trước và không đạt
tiêu chuẩn 15% ở cấp T.Ư và tỉnh/thành. Còn trong Quốc hội, nhiệm kỳ
2011-2016 chỉ đạt 24,4%. Đây là nhiệm kỳ thứ 2 tỷ lệ nữ Đại biểu Quốc hội
bị tụt giảm. Nhiệm kỳ 2002-2007 là 27,3%, nhiệm kỳ 2007-2011 là 25,76%.
Bảng 2: Tỷ lệ phân bố nữ đại biểu trong một số cơ quan của Quốc hội
Khoá 2002-2007 Khoá 2007 - 2011
Nữ Nam Nữ Nam
Uỷ ban văn hoá, giáo dục, thanh
niên, thiếu niên và nhi đồng
43,2 56,8 28,2 71,8
Hội đồng dân tộc 43,6 56,4 56,4 43,6
Uỷ ban về các vấn đề xã hội 40,5 59,5 37,5 62,5
Uỷ ban pháp luật 11,7 88,3 14,3 85,7
Uỷ ban đối ngoại 17,6 82,4 16,7 83,3
Uỷ ban khoa học, công nghệ và môi
trường
19,4 80,6 32,4 67.6
Uỷ ban quốc phòng và an ninh 2,6 97,4 0 100
Uỷ ban kinh tế và ngân sách/Uỷ ban
kinh tế
12,5 87,5 8,3 91,7
Uỷ ban tư pháp 14,7 85,3
Uỷ ban tài chính-ngân sách 11,4 88,6
Bảng 3: Tỷ lệ phụ nữ tham gia hội đồng nhân dân các cấp
Các cấp Khoá 1999-2004 Khoá 2004-2011
Nữ Nam Nữ Nam
Tỉnh/thành phố 22,33 76,67 23,8 76,2
Quận/huyện 20,12 79,88 23,2 76,8
Xã/phường 16,56 83,44 20,1 79,9
Nguồn: Ủy ban quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam, 2004.
Bảng 4: Tỷ lệ nữ chủ tịch, phó chủ tịch hội đồng nhân dân các cấp (%)
Nhiệm kỳ 1999-2004 Nhiệm kỳ 2004-2011
Chức danh Cấp tỉnh Cấp
huyện
Cấp xã Cấp tỉnh Cấp
huyện
Cấp xã
Chủ tịch 1,64 5,46 3,46 1,56 3,92 4,09
Phó chủ tịch 8,19 11,42 5,57 26,56 19,64 10,61
Như vậy có một nghịch lý, bất chấp sự nỗ lực tuyên truyền của Hội LHPN
Việt Nam và Vụ Bình đẳng giới – Bộ LĐTBXH, càng hô hào bầu cử cho đại
biểu nữ, tỷ lệ càng tụt giảm.
Tỷ lệ phụ nữ tham gia chính trị còn quá nhỏ so với tổng số “một nửa thế
giới”. Tuy nhiên, phụ nữ giữ vị trí chủ chốt trong cơ quan Đảng, dân cử và
chính quyền còn ít ỏi, hiếm hoi hơn nữa. Ở cấp T.Ư nhiệm kỳ 2011-2016 chỉ
có 1 nữ Ủy viên Bộ Chính trị và 2 nữ Bí thư. Cấp địa phương, phụ nữ là Bí
thư Tỉnh ủy, Huyện ủy và Đảng ủy xã chỉ đạt 0,25%; 5,5% và 7,25%. Thậm
chí, 9/35 tỉnh thành không có nữ lãnh đạo chủ chốt.
“Không chỉ là tỷ lệ thấp, chủ yếu giữ chức “phó”, mà phụ nữ còn được giao
cho các mảng “chung chung” ở lĩnh vực xã hội nên tiếng nói của phụ nữ
trong quá trình lập pháp và quyết định những vấn đề thiết yếu như kinh tế,
ngân sách, đối ngoại, an ninh quốc gia càng hạn chế” – bà Ngô Thị Thu Hà -
Phó Giám đốc Trung tâm Hỗ trợ giáo dục và nâng cao năng lực cho phụ nữ
nói.
Bà Hà chỉ ra một trong những nguyên nhân khiến phụ nữ ít được đề bạt lên
vị trí cao hơn là vì Luật Lao động quy định tuổi nghỉ hưu của phụ nữ sớm
hơn nam giới (55 tuổi với nữ và 60 tuổi với nam). Điều này trái với khoản 4,
điều 11, Luật Bình đẳng giới: “Nam nữ bình đẳng về chuyên môn, độ tuổi
khi được đề bạt, bổ nhiệm vào cùng vị trí, quản lý, lãnh đạo của cơ quan tổ
chức”. Đồng thời cũng mâu thuẫn với Nghị quyết 11-NQ/TƯ của Bộ Chính
trị: “Thực hiện nguyên tắc bình đẳng giữa nam và nữ về độ tuổi trong quy
hoạch, đào tạo, đề bạt và bổ nhiệm.
Trong nhiệm kỳ Công đoàn 2008-2010 (cấp cơ sở), 2008 – 2013 (cấp trên cơ
sở), tỷ lệ nữ tham gia Ban Chấp hành Công đoàn cơ sở và cấp trên cơ sở
chiếm tỷ lệ 26.6%; Trong đó số nữ là Chủ tịch, Phó Chủ tịch công đoàn cơ
sở, trên cơ sở là 14%, số nữ tham gia UBKT công đoàn các cấp là 29%. Tỷ
lệ nữ tham gia BCH Công đoàn các cấp hiện nay ở khối viễn thông thấp, chỉ
khoảng 25%. Khối bưu chính khoảng 48%. Tuy nhiên tại một số đơn vị viễn
thông, công ty cổ phần, liên doanh, TNHH số nữ tham gia BCH Công đoàn
rất ít. Đòi hỏi công đoàn các cấp cần quan tâm hơn nữa trong việc đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ nữ để tăng cường sự tham gia của nữ trong hoạt động công
đoàn ở các đơn vị này.Trong nhiệm kỳ Công đoàn 2008-2010 (cấp cơ sở),
2008 – 2013 (cấp trên cơ sở), tỷ lệ nữ tham gia Ban Chấp hành Công đoàn
cơ sở và cấp trên cơ sở chiếm tỷ lệ 26.6%; Trong đó số nữ là Chủ tịch, Phó
Chủ tịch công đoàn cơ sở, trên cơ sở là 14%, số nữ tham gia UBKT công
đoàn các cấp là 29%. Tỷ lệ nữ tham gia BCH Công đoàn các cấp hiện nay ở
khối viễn thông thấp, chỉ khoảng 25%. Khối bưu chính khoảng 48%. Tuy
nhiên tại một số đơn vị viễn thông, công ty cổ phần, liên doanh, TNHH số
nữ tham gia BCH Công đoàn rất ít. Đòi hỏi công đoàn các cấp cần quan tâm
hơn nữa trong việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ để tăng cường sự tham gia
của nữ trong hoạt động công đoàn ở các đơn vị này.
Đến năm 2001 số cán bộ nữ có học hàm học vị là gần 18.000 người
song tỷ lệ những người chủ trì các đề tài, dự án khoa học và công nghệ các
cấp, nhất là cấp nhà nước là rất thấp. Trong giai đoạn 1991 – 1995 trong
tổng số trên 500 đề tài thuộc 31 chương trình KHCN trọng điểm cấp nhà
nước chỉ có 21 cán bộ nữ đảm đương cương vị chủ trì đề tài (chiếm dưới
4%). Ơ giai đoạn sau 1996 – 2000, số phụ nữ chủ trì đề tài tuy có tăng lên
tới 10% song vẫn còn rất thấp và chưa phản ánh đúng năng lực và khả năng
đóng góp của phụ nữ trong những nhiệm vụ khoa học và công nghệ quan
trọng tầm quốc gia . (Báo cáo của Bộ Khoa học công nghệ và Môi trường,
2005). Năm 2008 - 2009 trong ngành khoa học xã hội có hai nữ phó giáo sư,
tiến sỹ là chủ nhiệm đề tài cấp nhà nước. Tình trạng phổ biến hiện nay là nữ
cán bộ khoa học là lực lượng tham gia (đôi khi là lực lượng chính) vào các
công trình khoa học công nghệ cấp nhà nước, còn người chủ trì các công
trình này chủ yếu lại là cán bộ nam. Điều nghịch lý là trong nhiều trường
hợp, trình độ năng lực và kiến thức khoa học công nghệ của phụ nữ đã
không thua kém nam giới, thậm chí chính những người đang điều hành các
công trình này.
Bảng 11: Tỷ lệ nam, nữ giữ các chức danh, học vị khoa học
Chức danh 1999 2004 2006
Nữ Nam Nữ Nam Nữ Nam
Thạc sĩ 29,11 70,89 39,1 60,9 30,53 69,47
Tiến sĩ khoa học 13,04 86,96 17,50 82,50 9,76 90,2
Tiến sĩ 15,44 84,58 17,02 82,98
Giáo sư 4,3 95,70 3,10 96,90 5,10 94.90
Nguồn: Hội đồng chức danh giáo sư, Bộ Giáo dục-Đào tạo qua các năm
2. Nguyên nhân của thực trạng.
Có khá nhiều nguyên nhân dẫn tới tình trạng phụ nữ ít tham gia quản
lí, và dưới đây là một số nguyên nhân cơ bản.
Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng, giữa phụ nữ và nam giới không có sự
khác biệt về mặt xã hội, mà chỉ có sự khác biệt về mặt sinh học. Tuy nhiên,
trong thực tế, cho đến bây giờ các định kiến giới vẫn còn tồn tại và có thể
gặp ở nhiều nhóm xã hội: cả phụ nữ và nam giới, cả trong cán bộ lãnh đạo -
những người có vai trò quyết định đối với việc hoạch định và thực hiện
chính sách đối với phụ nữ và người dân.
Vậy thế nào là định kiến giới? Các định kiến giới là một tập hợp các
đặc điểm mà một nhóm người, một cộng đồng cụ thể nào đó gán cho là
thuộc tính của nam giới hay phụ nữ. Các quan niệm này thường sai lệch và
hạn chế những điều mà một cá nhân có thể làm. Ví dụ: một số định kiến coi
phụ nữ là phụ thuộc, yếu đuối, thụ động, dịu dàng và thứ yếu. Một số định
kiến coi nam giới là độc lập, mạnh mẽ, có năng lực, quan trọng hơn và là
người ra quyết định tốt hơn; hoặc "trai anh hùng, gái thuyền quyên", hay
"trai tài, gái sắc". Trong thực tế, những đặc điểm tính cách này không chỉ
của riêng nam giới hay phụ nữ, mà cả nam giới và phụ nữ đều có thể mang
những đặc điểm này. Tuy nhiên, những đặc tính đó lại thường bị gán cho
nam hay nữ dưới góc độ phê phán và làm cho họ bị thiệt thòi xét theo một
khía cạnh nào đó. Ví dụ, người ta hay cho rằng: phụ nữ không đủ mạnh để
làm lãnh đạo, hay nam giới không có khả năng chăm sóc con cái. Chính định
kiến đó đã hạn chế phụ nữ hoặc nam giới tham gia vào những công việc mà
họ có khả năng hoàn thành một cách dễ dàng. Các định kiến giới hiện nay
không chỉ gây bất lợi cho phụ nữ mà ngay cả nam giới cũng bị bất lợi, như
hạn chế cơ hội của nam giới tham gia vào công việc chăm sóc gia đình hay
lựa chọn một hành vi lành mạnh là không hút thuốc hay không uống nhiều
rượu.
Một trong những định kiến giới biểu hiện khá rõ là gắn phụ nữ với vai trò
gia đình, coi việc nội trợ, chăm sóc gia đình, nuôi dạy con cái là của phụ nữ.
Đáng chú ý là, hiện nay nhiều người đang cổ suý cho tư tưởng đưa phụ nữ
quay trở về với gia đình. Từ suy nghĩ đó nhiều phụ nữ đã bị hạn chế trên con
đường học tập, lao động, phấn đấu và vươn lên trong sự nghiệp, giảm khả
năng đóng góp nhiều hơn về sức lực và trí tuệ cho xã hội.
Nhìn bề ngoài của cuộc sống hầu như thấy rằng phụ nữ đã được “lên
ngôi”, họ được bình đẳng lắm rồi. Trong tư tưởng của nam giới, với tư cách
là người chồng, có lẽ cũng khá nhiều người ủng hộ vợ tham gia hoạt động xã
hội. Nhưng không ít nam giới cho phép vợ “thoải mái” tham gia công việc
xã hội nhưng vẫn phải làm tốt việc nhà. Đàn ông Việt Nam có định kiến giới
gì đâu! Nhưng vấn đề là họ muốn vợ của họ vừa là người xuất sắc ở cơ
quan, vừa là người bà, người mẹ chăm chỉ trong gia đình. Trong tình hình
hiện nay, do yêu cầu công việc, nhiều phụ nữ phải đầu tư nhiều thời gian
mới nâng cao được chuyên môn, nghiệp vụ. Nếu chỉ cần có thêm một ít thời
gian trong ngày công việc của họ sẽ tốt hơn, có thể đem lại rất nhiều lợi ích
cho nhiều người. Nếu vừa làm tốt bổn phận trong gia đình vừa làm tốt công
việc xã hội thì như vậy, nhiều phụ nữ phải gánh vác gấp đôi trách nhiệm, bởi
họ không những làm việc để kiếm thu nhập, mà còn là người chủ yếu đảm
đương các vai trò làm mẹ, làm vợ trong gia đình. Nếu xét tương quan thời
gian lao động trong một ngày giữa phụ nữ và nam giới cho thấy, thời gian
lao động của phụ nữ nhiều hơn, bởi họ phải làm các công việc gia đình nhiều
hơn (thời gian làm việc trung bình của phụ nữ là 13 giờ/ngày trong khi của
nam giới chỉ khoảng 9 giờ). Do vậy, phụ nữ ít có thời gian để học tập, nghỉ
ngơi, giải trí và tham gia hoạt động xã hội so với nam giới.
Gánh nặng công việc gia đình đã làm cho nhiều phụ nữ không thể
vươn xa trong sự nghiệp. Chúng ta đều biết ở thời kỳ CNH – HĐH và hội
nhập kinh tế quốc tế, cũng như nam giới, phụ nữ cần phải có kiến thức chiều
sâu, trình độ ngoại ngữ, tin học, sự nhạy bén và lăn lộn thực tế cuộc sống
Trong khi đó, công việc gia đình vẫn là trách nhiệm nặng nề của người phụ
nữ. Và cũng chính vì vậy mà hậu quả là nhiều người phụ nữ giỏi giang, được
học hành tử tế đã phải nhường bước cho chồng và lui về chăm sóc gia đình,
để giữ tròn hạnh phúc.
Vì những lý do gia đình mà nhiều phụ nữ chấp nhận tụt hậu, hoặc
phấn đấu có chừng mực, chỉ ở mức độ hoàn thành công việc. Đó cũng là lý
do cùng được đào tạo như nhau mà nam giới phát triển tốt hơn, có vị trí cao
hơn, được học hành đào tạo chuyên môn cao hơn. Đó cũng là nguyên nhân
tụt hậu của giới nữ trong giáo dục, đào tạo, trong khoa học, công nghệ và cả
trong lãnh đạo và quản lý.
Tại không ít tổ chức, cơ quan, một số phụ nữ không được đề bạt làm
lãnh đạo (ngay cả khi người phụ nữ này có trình độ và kinh nghiệm phù
hợp) bởi mọi người vẫn cho rằng, chỉ có nam giới mới nên làm việc “đại
sự”, phụ nữ thì chỉ nên làm việc công việc nhẹ nhàng để có thời gian dành
cho gia đình. Tư tưởng này không chỉ ở người dân, mà cả trong lãnh đạo, và
đặc biệt ngay cả trong một bộ phận phụ nữ cũng có định kiến với giới nữ của
mình. Ngoài hiện tượng níu kéo áo nhau ở một số phụ nữ, thì vấn đề ở đây
vẫn là do định kiến giới, coi nam giới ở vị trí lãnh đạo tốt hơn là phụ nữ nên
trong các kỳ bầu cử, những người gạt phụ nữ khỏi danh sách bầu cử có khi
không phải là nam, mà lại là nữ.
Không ủng hộ phụ nữ làm công tác xã hội là một trong những nguyên
nhân dẫn tới tỷ lệ phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý còn thấp, chưa tương
xứng với năng lực và sự phát triển của lực lượng lao động nữ. Phụ nữ chiếm
tỷ lệ không thua kém trong nhiều ngành nghề và học tập trong các trường,
lớp đào tạo (đại học 47,23%; cao đẳng 50,01%), nhưng số nữ tham gia lãnh
đạo, quản lý đạt tỷ lệ thấp. Nữ lãnh đạo, quản lý ở cấp Trung ương, cấp vụ
trở lên và cán bộ nữ chủ chốt cấp tỉnh hiện nay hầu hết ở độ tuổi trên 50; tỷ
lệ cán bộ nữ cấp phòng ở huyện, quận giảm tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội
khóa XII thấp hơn tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội khóa XI (khóa XI là
27,31%, khóa XII là 25,76%).
Công việc gia đình và thiên chức làm mẹ cũng gây bất lợi cho phụ nữ
trong tuyển dụng lao động. Theo Sở LĐ &TBXH TP Hà Nội, cho biết, trong
hàng trăm doanh nghiệp ở Hà Nội, từ đầu năm đến nay, chỉ có 4 trong số
hàng trăm doanh nghiệp đăng ký sử dụng nhiều lao động nữ. Đó mới chỉ là
đăng ký. Vì nhận một phụ nữ vào làm, sự đóng góp của phụ nữ cho lợi
nhuận của doanh nghiệp chưa thấy đâu đã thấy phải chi ra rất nhiều thứ như,
chế độ thai sản, giờ cho con bú, xây nhà vệ sinh Chính vì điều này mà
ngay cả chủ doanh nghiệp là nữ cũng rất ngại khi nhận lao động nữ. Mặc dù
ở những xí nghiệp đông lao động nữ, doanh nghiệp đó được miễn giảm thuế
thu nhập và được tiếp cận các nguồn vốn ưu đãi. Nhưng vấn đề miễn, giảm
thuế và tiếp cận vốn ưu đãi không phải doanh nghiệp nào cũng biết được thủ
tục để tiếp cận. Trong mục tuyển dụng lao động đăng trên các báo cho thấy,
nhiều công ty chỉ tuyển lao động nam mặc dù công việc đó cũng phù hợp
với phụ nữ, hoặc có những thông báo tuyển dụng cùng một công việc như
nhau, ngành học nhưnhau, nhưng yêu cầu đối với nữ phải có bằng tốt nghiệp
loại khá, giỏi, cònnam chỉ cần tốt nghiệp loại trung bình.
3. Một số giải pháp nâng cao bình đẳng giới trong quan lí ở Việt
Nam.
Một là, nâng cao nhận thức về bình đẳng giới cho người dân, cộng đồng và
xã hội thông qua công tác tuyên truyền về giới góp phần thay đổi nhận thức
về giới. Những hình ảnh phụ nữ gắn với vai trò xã hội, nam giới làm công
việc gia đình đang dần làm thay đổi nhận thức trong công chúng rằng, nam
hoặc nữ đều có thể làm bất cứ công việc gì phù hợp với khả năng của họ
nhằm đáp ứng nhu cầu của xã hội mà không có sự phân định rõ ràng cho
một giới nào khác. Từ nhận thức giới được thay đổi thông qua hình tượng
giới, hành vi giới sẽ thay đổi dần theo hướng tiến bộ bình đẳng nam nữ. Một
mặt chúng ta khẳng định khả năng trí tuệ của hai giới như nhau nhưng mặt
khác chúng ta cũng thừa nhận sự khác biệt về giới tính để đưa phụ nữ vào
đúng vị trí, làm tốt chức năng của mình. Phụ nữ ngày nay trong xu thế phát
triển sẽ ngày càng bộc lộ những phẩm chất mới. Tất cả những phẩm chất ấy
cần được phát huy, nếu không bị định kiến trói buộc thì sẽ trở thành sự tiến
bộ, phát triển và họ sẽ đóng góp được rất nhiều cho sự phát triển của đất
nước.
Hai là, để có thể phát huy được vai trò và khả năng của phụ nữ, các dịch vụ
xã hội dành cho gia đình cần được phát triển một cách rộng rãi và phù hợp
với thu nhập để phụ nữ dễ dàng được tiếp cận. Tạo điều kiện cho phụ nữ đầu
tư sản xuất, kinh doanh, cải thiện thu nhập, có tiếng nói trong gia đình và từ
đó ít lệ thuộc hơn vào người chồng. Khắc phục về cơ bản tình trạng bất bình
đẳng trong một số lĩnh vực như: quyền sử dụng đất, sở hữu nhà ở, các phúc
lợi xã hội, chế độ bảo hiểm …
Ba là, phụ nữ cần được giảm bớt gánh nặng gia đình. Muốn vậy, không chỉ
chia sẻ, nam giới cần phải tham gia vào công việc gia đình cùng với phụ nữ.
Tuy nhiên, trong khi bình đẳng giới đang là một quá trình thì việc nam giới
chia sẻ công việc gia đình với phụ nữ cũng có một ý nghĩa to lớn. Chính sự
chia sẻ và cảm thông của người chồng đã làm cho nhiều người phụ nữ đạt
được thành công trong sự nghiệp.
Bốn là, lãnh đạo ở những cơ quan, đơn vị có nhiều phụ nữ cần được nâng
cao nhận thức giới để từ đó có được công bằng giới trong tuyển dụng, đào
tạo, đề bạt. Đặc biệt, trên phạm vi toàn xã hội, cần tạo điều kiện để người
phụ nữ có thời gian làm công việc gia đình, không nên coi phụ nữ cũng như
nam giới trong việc phân công, đòi hỏi, yêu cầu mà không tính đến việc
người phụ nữ phải thực hiện thiên chức làm mẹ.
Năm là, đối với bản thân phụ nữ, cũng cần có sự kết hợp hài hòa chức năng
xã hội và gia đình. Bởi đây là nét đặc trưng của phụ nữ nước ta. Là phụ nữ
thường phải có gia đình, phải sinh con và nuôi dạy con. Đối với phụ nữ,
dung hòa giữa gia đình và công việc xã hội là điều không mấy dễ dàng. Tuy
nhiên đã có nhiều phụ nữ biết cách giải quyết tốt hai chức năng này và đã trở
thành người mẹ hiền, vợ đảm, lại là nhà quản lý giỏi, nhà khoa học thành
đạt. Kinh nghiệm của họ mà nhiều phụ nữ cần học tập là, cố gắng thu xếp
một cách khoa học để vừa có thời gian cho gia đình, vừa hoàn thành tốt công
việc xã hội.
Các giải pháp trên đây tưởng chừng không khó lắm khi thực hiện, nhưng
thực sự đây là cả một vấn đề đòi hỏi phải có sự thống nhất cao trong tư
tưởng và hành động của các nhà hoạch định chính sách, lãnh đạo, quản lý,
của người dân, đặc biệt của cả nam và nữ. Bởi vì, như Bác Hồ đã từng nói,
trọng trai, khinh gái là thói quen mấy ngàn năm để lại, nó ăn sâu trong nếp
nghĩ việc làm của người dân…, giải phóng phụ nữ đó là cuộc cách mạng to
và khó.
PHẦN III. KẾT LUẬN – KIẾN NGHỊ
1. KẾT LUẬN
Bình đẳng giới đã mở ra cơ hội cho phụ nữ phát huy sáng tạo, đóng góp
công sức, trí tuệ cho đất nước. Tuy nhiên, bên cạnh những kế quả bước đầu,
do nhiều nguyên nhân, công tác bình đẳng giới vẫn còn nhiều bất cập. Nhận
thức, thái độ và hành vi mang tính định kiến giới vẫn tồn tại ngay trong cán
bộ công chức. Khoảng cách giữa quy định của pháp luật về bình đẳng giới
với việc thực thi còn khá lớn, nhiều cán bộ vẫn lúng túng trong việc lồng
ghép giới vào các lĩnh vực đang quản lý hoặc đang thực hiện.
Chênh lệch về tỷ lệ nam nữ tham gia quản lý, lãnh đạo ở các cấp còn
cao (bằng 1/3 nam giới). Tỷ lệ nữ lao động phổ thông và công nhân chưa
qua đào tạo cao hơn nam giới 1,5 lần. Lao động nữ có trình độ cao đẳng, đại
học trở lên chỉ bằng 42% so với lao động nam, thu nhập chỉ bằng 80% nam
giới…
Đấu tranh cho mục tiêu bình đẳng giới là việc làm thường xuyên và không ít
khó khăn. Bởi trở ngại, nhiều khi lại ở chính phụ nữ. Theo tài liệu của Ủy
ban Quốc gia Vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam xuất bản năm 2004
thì "bình đẳng giới là sự thừa nhận và coi trọng như nhau các đặc điểm
giống và khác nhau giữa phụ nữ và nam giới".
Với khái niệm này thì bình đẳng giới không phải là sự hoán đổi vai trò của
nam, nữ từ thái cực này sang thái cực khác và cũng không phải là sự tuyệt
đối hóa bằng con số hoặc tỷ lệ 50/50 mà là sự khác biệt về giới tính trong
các vai trò sản xuất, tái sản xuất, vai trò chính trị và cộng đồng, đặc biệt là
sự chia sẻ công việc gia đình, chăm sóc các thành viên gia đình để tạo cơ hội
và điều kiện cho nam, nữ phát triển toàn diện. Đồng thời tạo điều kiện và cơ
hội cho phụ nữ bù đắp những khoảng trống do việc mang thai, sinh con và
gánh vác phần lớn lao động gia đình
“Đàn ông xây nhà, đàn bà xây tổ ấm”, mỗi giới có vai trò riêng của mình.
Song để phụ nữ được bình đẳng với nam giới, không thể chỉ nghĩ giản đơn là
chuyện “hôm nay anh nấu cơm, quét nhà, rửa bát; ngày mai em rửa bát, quét
nhà, nấu cơm. Quyền bình đẳng của phụ nữ phải được giải quyết trên cơ sở
các biện pháp tổng hợp về kinh tế, văn hóa xã hội”.
Nhưng quan trọng nhất vẫn là phụ nữ cần biết bứt phá ra khỏi những ràng
buộc mang tính định kiến của xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh thời từng
nói: “Giành lại quyền bình đẳng cho phụ nữ là cuộc cách mạng lâu dài, to
lớn và khó nhất. Phụ nữ muốn được bình đẳng không phải bảo Đảng và
Chính phủ hay nam giới giải quyết mà phải tự đấu tranh phấn đấu giành
lấy”.
Bình đẳng là một trong những quyền cơ bản của phụ nữ một nước độc lập,
tự do. Nhưng muốn được bình đẳng, phụ nữ cần phải học. Học để có tri
thức, kỹ năng nghề nghiệp, năng động sáng tạo, có lối sống văn hóa, có lòng
nhân đạo, để tự tin khẳng định mình. Chỉ có tự do, bình đẳng, phụ nữ mới
thoát khỏi những rào cản mang tính định kiến của xã hội, mới có điều kiện
phát huy sáng tạo cá nhân mà thể hiện được tài năng, nhiệt tình cống hiến
ngày càng nhiều hơn cho đất nước.