LỜI MỞ ĐẦU
Cà phê là một trong những mặt hàng tiêu dùng phổ biến trong nước cũng như là
mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Với những điều kiện thuận lợi trong việc
trồng trọt và chế biến, bên cạnh đó, nhu cầu càng ngày càng tăng cả trong nước và thế
giới đã biến thị trường cà phê đã trở thành một thị trường lớn của toàn cầu. Những biến
động về giá cả thị trường trong năm 2011 không chỉ là mối quan tâm dành cho các nhà
kinh tế vi mô, các doanh nghiệp, người nông dân mà là của tất cả những ai có cuộc sống
gắn liền với cà phê.
Việc giá cả, sản lượng một hàng hóa biến động hằng ngày, hằng tháng, hằng quý,
… có ảnh hưởng rất nhiều đến thị trường của hàng hóa đó trong niên vụ hiện tại và cả
niên vụ tiếp theo, cà phê cũng không ngoại lệ. Với kiến thức về kinh tế vi mô của mình,
chúng tôi sẽ đánh giá thị trường một cách khách quan nhất, dùng kiến thức về mối quan
hệ Cung – Cầu để giải thích vì sao trong sáu tháng đầu năm 2011 giá cà phê biến động.
Mặt khác, chúng tôi cũng đưa ra những dự đoán và dự báo về tình hình thị trường cà phê
trong năm 2012.
Bên cạnh đó, chúng tôi sẽ đề ra những thuận lợi, những thách thức cho thị trường
cà phê Việt Nam, những chiến lược cạnh tranh hiệu quả cũng như tầm quan trọng của sự
quản lý Nhà Nước trong vấn đề cạnh tranh của thị trường trong nước.
Vì thế, với những kiến thức thực tế cùng với sự đam mê học hỏi, tìm tòi, nhóm
chúng tôi quyết định phân tích đề tài “Giá cà phê – những biến động năm 2011 và dự báo
năm 2012”.
Trong quá trình thực hiện đề tài, mặc dù đã cố gắng hết sức, song không thể không
tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Rất mong nhận được sự đóng góp chân thành của
cô và tất cả các bạn để bài tiểu luận có thể hoàn thành một cách tốt nhất.
Xin chân thành cảm ơn.
1
MỤC LỤC:
Lời mở đầu
1
Mục lục
2
I. Biến động giá cà phê năm 2011
3
1. Giá cà phê Việt Nam năm 2011
3
a. Thị trường cà phê thế giới năm 2011
3
b. Thị trường cà phê Việt Nam năm 2011
5
Giá cà phê nội địa
5
Các yếu tố ảnh hưởng đến cung-cầu thị trường cà phê Việt Nam
6
Các yếu tố của thế giới
6
Các yếu tố của Việt Nam
7
2. Thách thức đối với thị trường cà phê Việt Nam hiện nay
10
a. Thách thức đặt ra
10
2
b. Giải pháp
11
Những giải pháp về mặt kĩ thuật
11
Đối với cơ quan quản lý Nhà Nước
12
Giải pháp cho xuất khẩu cà phê
13
II. Những dự báo về cà phê năm 2012
13
Lời kết
15
I. Biến động giá cà phê năm 2011:
Sáu tháng đầu năm 2011 là thời gian mà thị trường cà phê thế giới cũng như Việt
Nam có nhiều biến động rõ nét nhất. Do vậy, nhóm thuyết trình xin chỉ tập trung vào
những biến động của thị trường cà phê năm 2011 trong giai đoạn này.
1. Giá cà phê Việt Nam năm 2011:
a) Thị trường cà phê thế giới năm 2011:
3
Hình 1.1. Biểu đồ thể hiện giá cà phê thế giới 6 tháng đầu năm 2011.
Giá cà phê kỳ hạn trên thị trường thế giới trong tháng đầu năm 2011 có diễn biến
hết sức phức tạp. Nếu như trong tháng 12/2010 diễn biến chủ yếu trên thị trường là tăng
giá thì trong tháng 1/2011 giá cà phê liên tục biến động tăng giảm với biên độ dao động
thấp hơn so với tháng trước.
Thị trường cà phê thế giới có sự biến động tăng mạnh trong tháng 2 vừa qua. Đầu
tuần thứ 2 của tháng 2, do những lo lắng về nguồn cung nên hoạt động giao dịch trên cả 2
thị trường London và New York khá sôi động. Điển hình tại thị trường London cà phê
robusta tăng 23 USD/tấn lên mức 2.305 USD/tấn, mức cao nhất kể từ tháng 7/2008 đến
nay cho cùng kỳ hạn.
4
Năm 2011
USD/tấn
Tháng 3/2011, giá cà phê trên thị trường thế giới biến động mạnh trong phiên giao
dịch đầu tháng. Tại London, giá cà phê robusta tăng mạnh đầu phiên, có lúc chạm 2.412
USD/tấn, nhưng sau đó đã quay đầu giảm và đóng cửa ở mức không đổi so với phiên
28/2. Thế nhưng, giá cà phê thế giới đã tăng trở lại trong phiên giao dịch ngày 03/3 do
những lo lắng về nguồn cung. Trong phiên này, thị trường liên tục trong thế giằng co
nhưng cuối cùng đà tăng đã chiếm ưu thế. Trong các phiên tiếp theo giá cà phê tiếp tục
giảm, đến phiên ngày 17/03 đã tăng trở lại. Để lí giải cho việc giá cà phê tăng mạnh thì 1
số thương nhân nước ngoài cho rằng là do nhu cầu từ các nhà rang xay và sức mua vào
mạnh của các quỹ hàng hoá. Thêm vào đó, nỗi lo nguồn cung thấp ở các quốc gia sản
xuất hàng đầu là Việt Nam và Indonesia cũng là yếu tố quan trọng. Từ đó, phần nào giải
thích được hiện tượng giá cà phê tăng cao trong thời gian này.
Giá cà phê thế giới trải qua phiên giao dịch đầu tháng 4/2011 sụt giảm mạnh do
hoạt động bán thanh lý của nhà đầu tư, kết hợp với nguồn cung tăng từ Ấn Độ, Indonesia
và Việt Nam. Giá cà phê thế giới quay đầu giảm trong phiên giao dịch 6/4 do hoạt động
chốt lời của nhà đầu tư. Giá cà phê vẫn đi xuống bất chấp những dự báo của các phân tích
kinh tế thế giới. Giá cà phê thế giới giảm mạnh trong phiên giao dịch ngày 18/4 do USD
tăng giá và dấu hiệu nguồn cung cải thiện.
Những ngày đầu tháng 5/2011, giá cà phê đã chạm mức cao nhất trong 34 năm qua
do lo ngại thời tiết xấu tại các nước sản xuất chủ chốt sẽ làm nguồn cung toàn cầu bị thắt
chặt. Việc Braxin - nước trồng cà phê lớn nhất thế giới đang có nguy cơ phải hứng chịu
tình trạng sương giá sau những đợt mưa rào trong tháng 4 vừa qua đã làm gia tăng giá cà
phê hạt tại nước này có thể tăng 40%. Từ sau khi lập kỉ lục vào những ngày đầu tháng 5
thì giá cà phê lại giảm sút vào giữa tháng 5 vì hoạt động bán tháo của nhà đầu tư khi
USD tăng giá cùng với thông tin có lợi cho nguồn cung.
Giá cà phê thế giới giảm mạnh trong phiên giao dịch đầu tháng 6/2011 do hoạt
động bán tháo của nhà đầu tư diễn ra 1 cách ồ ạt. Do được hỗ trợ bởi hai luồng thông tin
cơ bản là tiền tệ và nguồn cung thì giá cà phê đã hồi phục mạnh trở lại trong ngày 7/6.
Giá cà phê đã bất ngờ tăng trở lại trong phiên ngày 15/6 trước khi rơi xuống mức thấp
nhất trong 3 tháng gần nhất do nguồn cung cho thị trường dồi dào ở những ngày cuối
tháng 6.
b) Thị trường cà phê Việt Nam năm 2011:
Giá cà phê nội địa:
Giá cà phê trên thị trường thế giới biến động mạnh cũng đã ảnh hưởng không ít đến
thị trường Việt Nam. Giá cà phê năm 2011 biến động ngoài dự báo của nông dân lẫn nhà
phân tích thị trường. Cụ thể, giữa tháng 5, đầu tháng 6, không phải thời điểm giá thế giới
5
đạt đỉnh, nhưng giá cà phê trong nước có lúc lại đạt tới 52 triệu đồng/tấn, mức chưa từng
thấy bao giờ.
Ngày Giá cà phê nhân xô (đồng/kg)
T1 37.700
7/2 39.700 ~ 40.000
16/2 42.200
17/2 41.800
18/2 42.000
21/2 43.000
1/3 46.500
3/3 45.100 ~ 45.300
9/3 47.000
10/3 49.000
18/3 47.000
21/3 47.000
2/4 46.000
6/4 47.600 ~ 47.800
7/4 47.800
Ngày Giá cà phê nhân xô (đồng/kg)
13/4 47.800
21/4 48.500
4/5 50.000
6 - 7/5 49.700 ~ 49.800
9/5 50.000
10/5 50.100
11/5 52.000
17/5 48.000 ~ 48.600
20/5 49.700
1/6 51.600
7/6 49.000
13/6 50.200 ~ 50.300
15/6 48.600
16/6 49.400 ~ 49.500
6
A
Bảng 1.1: Giá cà phê nhân xô Việt Nam theo từng phiên trong 6 tháng đầu
năm 2011 (nguồn: thuongmai.vn).
P
P
1
P
0
0 Q
Q
1
Q
0
Hình 1.2.Biểu đồ thể hiện cung-cầu cà phê 6 tháng đầu năm 2011
Nhìn vào biểu đồ thể hiện cung-cầu cà phê 6 tháng đầu năm 2011 (hình 1.2) thì
chúng ta thấy đường cầu (Q
D
) không đổi và đường cung (Q
S
) dịch chuyển sang trái, giá
cân bằng tại A tăng và lượng cân bằng giảm (Q
1
<Q
0
). Chứng tỏ khi sản lượng cà phê
cung cấp cho thị trường thế giới giảm thì sẽ đẩy mức giá cà phê lên cao hơn mức giá cân
bằng. Nó ảnh hưởng trực tiếp đến người tiêu dùng và các doanh nghiệp nhập khẩu cà phê.
Các yếu tố ảnh hưởng đến cung-cầu thị trường cà phê Việt Nam.
Để lí giải tại sao cung về cà phê giảm xuống và đẩy giá cà phê lên cao ở thời điểm
giữa tháng 5 và đầu tháng 6 năm 2011, chúng ta cần quan tâm đến các yếu tố sau:
Các yếu tố của thế giới:
7
Q
D
Q
S
Q’
S
Thứ nhất, sự thắt chặt về lượng cung cà phê của các nhà đầu cơ đã vô tình đẩy giá
lên cao. Từ đầu năm 2011, thông tin chính xác về lượng tồn kho cà phê tại Châu Âu
giảm, từ 1 triệu tấn vào tháng 7/2009 chỉ còn trên 600.000 tấn vào ngay đầu tháng
1/2011. Thế là giá kì hạn robusta Life NYSE
1
không ngừng tăng cho đến tháng 6/2011.
Thực ra, ý đồ khi đẩy giá lên cao là để kéo giãn giá nhằm gom 200-300 ngàn tấn cà phê
robusta của các tay đầu cơ đã được hình thành từ lúc ấy. Song, bằng thủ thuật kinh
doanh, họ đã quyết định đẩy giá tháng giao dịch gần nhất trên robusta Liffe lên cao hơn
các tháng trước. Đây là sự quyết định khôn khéo. Một mặt tạo cao trào đưa hàng về kho
Liffe; mặt khác, khi hút được đủ lượng hàng thì hàng lưu chuyển trên thị trường sẽ thiếu.
Từ đó, họ sẽ dễ dàng khống chế giá và lại sử dụng được hàng của mình để bán ra với thị
trường với giá “cắt cổ” cho những ai cần hàng sử dụng. Trong giới kinh doanh thì hiện
tượng này gọi là “siết” hay “vắt giá”.
Thứ hai, tình hình thời tiết ở nhiều nước trồng cà phê trên thế giới có những diễn
biến bất thường. Chẳng hạn, thị trường xuất khẩu cà phê lớn nhất thế giới như Braxin
cũng chỉ đứng nhìn giá cà phê tăng đột biến do chịu ảnh hưởng của thời tiết khô hạn
trong những tháng đầu năm 2011. Đồng thời, lượng cà phê tồn kho của thế giới lại ở mức
thấp. Từ đó dẫn đến nguồn cung hạn chế trong khi nhu cầu vẫn tăng. Minh chứng cụ thể
là sản lượng xuất khẩu cà phê của Việt Nam sang các thị trường lớn giảm liên tục từ sau
khi đạt đỉnh vào giữa tháng 3/2011 (xem biểu đồ hình 1.3). Thêm vào đó là giá cả của
hầu hết các mặt hàng nông sản đều có xu hướng tăng.
Thứ ba, trong sáu tháng đầu năm 2011, kinh tế thế giới tuy có phục hồi, nhưng
mức độ tăng trưởng không đáng kể và còn tiềm ẩn nhiều rủi ro. Khủng hoảng nợ công ở
Châu Âu và suy thoái kinh tế ở Mĩ đã làm nhiều ngân hàng và hãng kinh doanh hàng hóa
cũng như môi giới rơi vào khó khăn. Hệ quả là tín dụng khắp nơi đều bị thắt chặt và lãi
suất ngân hàng cao chưa từng thấy. Ảnh hưởng tiêu cực đến giá cà phê xuất khẩu của
Việt Nam. Ở trong nước, các nhà xuất khẩu tiếp tục chịu cảnh khô hạn của tín dụng. Do
quyết tâm đẩy lùi lạm phát của Chính phủ, các ngân hàng đành nâng cao lãi suất để hạn
chế cho vay. Người nông dân trồng cà phê cũng như các doanh nghiệp thu mua cà phê
phải đối mặt nhiều khó khăn trong khi giá cà phê đang lên cao. Ảnh hưởng gián tiếp đến
sản lượng cà phê xuất khẩu của cả nước. Dựa vào hình 1.3 thì sản lượng cà phê xuất khẩu
giảm liên tục từ tháng 4 đến tháng 6/2011. Góp phần đẩy giá cà phê tăng cao và đạt mốc
52 triệu đồng/tấn vào cuối tháng 5, đầu tháng 6 năm 2011.
Các yếu tố của Việt Nam:
Thứ nhất, việc giá cà phê thị trường thế giới lên cao và tiếp tục lên cao bắt đầu từ
tháng 1 đến tháng 3 năm 2011 ảnh hưởng đến lượng cung cà phê của Việt Nam. Người
dân có tâm lý ghim hàng chờ giá lên, khiến nguồn cung trong nước không đủ. Cà phê
Việt Nam chủ yếu phục vụ cho xuất khẩu và Việt Nam cũng đứng thứ hai trên thế giới về
sản lượng cà phê thu hoạch hằng năm nên việc ghim hàng ảnh hưởng không nhỏ đến giá
thị trường thế giới trong thời điểm này, cụ thể giá vẫn tiếp tục tăng vì thiếu nguồn cung.
8
1. Robusta Life NYSE: Life là thị trường kì hạn (TTKH) của London. Còn NYSE là sở
giao dịch chứng khoán New York (Mỹ). Robusta Life NYSE là thị trường kì hạn
(TTKH) Life về cà phê robusta do sở giao dịch chứng khoán New York quản lí.
Thứ hai, cà phê Việt Nam sản lượng nhiều nhưng chất lượng thì không cao. Khi
xuất khẩu chủ yếu ở dạng nhân thô, chưa qua chế biến, chưa rang xay. Vì vậy, sản lượng
cà phê Việt Nam được lựa chọn để xuất khẩu không nhiều dẫn đến lượng cung cà phê
trên thị trường thế giới cũng giảm hẳn đi, góp phần đẩy giá cà phê Việt Nam tăng cao
trên thị trường thế giới.
Thứ ba, thời tiết nửa đầu năm 2011 không thuận lợi cũng là nguyên nhân cho việc
khiến lượng cung cà phê của Việt Nam giảm. Việc sản lượng giảm không ảnh hưởng
nhiều đến sản lượng xuất khẩu của Việt Nam trong năm tuy nhiên lại ảnh hưởng đến chất
lượng của cà phê xuất khẩu.
Thứ tư, đây là nguyên nhân mới, có lẽ còn ảnh hưởng lâu dài đến cà phê Việt
Nam: “Theo thống kê của Công ty cafecotrol cho thấy, niên vụ cà phê 2010-2011 Việt
Nam xuất khẩu 1,25 tấn cà phê, trong đó 20 doanh nghiệp cà phê xuất khẩu cà phê lớn
nhất của Việt Nam chỉ là 700.000 tấn, chiếm 56% tổng lượng cà phê xuất khẩu. Trong
khi đó, những năm trước tỷ lệ này vào khoảng 80%. Nguyên nhân của sự giảm sút như
vậy là do doanh nghiệp cà phê nước ngoài đã tìm cách mua trực tiếp từ người trồng cà
phê nên doanh nghiệp trong nước không thể cạnh tranh. Hiện các doanh nghiệp cà phê
nước ngoài chiếm 50% hệ thống đại lý mua cà phê, tăng 35% so với năm trước và với
tình hình này thì doanh nghiệp Việt Nam sẽ bị thua trên sân nhà.
Doanh nghiệp cà phê nước ngoài xâm nhập vào thị trường Việt Nam, bằng cách
mua rẻ khi giá giảm, bán ra kiếm lời khi giá tăng là một hình thức phổ biến của các doanh
nghiệp nước ngoài hiện nay. Việc mua rẻ bán mắc này được hậu thuẫn từ việc các doanh
nghiệp nước ngoài có một nguồn vốn vay dồi dào từ nước họ, vay nhiều, lãi ít,… là
nguyên nhân họ thâu tóm thị trường cà phê Việt Nam dễ dàng. Việc này ảnh hưởng
không nhỏ đến thị trường Việt Nam, cụ thể:
+ Với việc ghim hàng chờ giá tăng, trong một thời gian dài có thể ảnh hưởng đến
chất lượng cà phê, các doanh nghiệp nước ngoài thu mua cà phê với giá rẻ nhưng trên
một mặt bằng lớn cũng khiến cho người dân bán để kiếm lời mặc dù lời không cao.
+ Sản lượng xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam giảm đáng kể (số liệu như
trên) sẽ khiến cho thị trường xuất khẩu của Việt Nam đi theo chiều hướng xấu. Khi các
doanh nghiệp nước ngoài thu mua đồng nghĩa với việc sẽ có một lượng hàng họ bán
trong nước khi giá lên cao phục vụ thị trường trong nước vốn đang ưa chuộng cà phê sẽ
làm tăng lợi nhuận của họ trên mức sản lượng ấy, trong khi đó thị trường xuất khẩu của
Việt Nam lại giảm sản lượng rõ rệt.
+ Việc các doanh nghiệp nước ngoài dần dà thâu tóm, thao túng thị trường Việt Nam
cũng sẽ dẫn đến một hệ lụy, đó là sự cấu kết giữa các doanh nghiệp nước ngoài với các
9
nhà đầu cơ trên hai thị trường lớn là Luân Đôn và NewYork sẽ chi phối thị trường cà phê
của Việt Nam để hạ giá trong nước xuống, gây ra nhiều hậu quả lâu dài về xuất khẩu cho
nước ta.
Tình hình xuất khẩu cà phê Việt Nam trong 6 tháng đầu năm 2011:
Hình 1.3. Biểu đồ thể hiện khối lượng xuất khẩu và GTXT cà phê của Việt Nam 6
tháng đầu năm 2011.
Với giá xuất khẩu từ 2.200 – 2.500 USD/tấn, những tháng đầu năm 2011 cà phê
Việt Nam đã đạt được mức giá cao nhất trong vòng 13 năm qua và liên tục tăng. So với
cùng kì niên vụ 2010/11 thì sản lượng cà phê xuất khẩu niên vụ 2011/12 không những
tăng mà đạt sản lượng nhiều hơn. Tạo khởi sắc cho các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê và
là dấu hiệu đáng mừng cho thị trường xuất khẩu nông sản của Việt Nam trong năm mới.
Thế nhưng, sau khi xuất khẩu cà phê của Việt Nam tăng mạnh trong tháng 3/2011
thì sang tháng 4 đã chững lại và giảm liên tục trong các tháng tiếp theo.
10
Theo số liệu thống kê từ Tổng Cục Hải Quan Việt Nam, lượng cà phê xuất khẩu
trong tháng 6/2011 chỉ đạt hơn 67 nghìn tấn, trị giá 156,7 triệu USD. Giá cà phê xuất
khẩu tháng 6/2011 quay đầu giảm 1,3% so với tháng 5/2011.Tính đến hết tháng 6/2011,
lượng xuất khẩu mặt hàng này của nước ta lên 864,7 nghìn tấn, trị giá gần 1,9 tỷ USD.
Nhìn chung, xuất khẩu cà phê của nước ta trong nửa đầu năm 2011 sang hầu hết
các thị trường đều đạt mức tăng trưởng khá. Dẫn đầu vẫn là Mỹ đạt 86,4 nghìn tấn; tiếp
đến là thị trường Đức đạt 84,9 nghìn tấn; Bỉ đứng thứ 3 và có mức tăng trưởng rất cao.
2. Thách thức đối với thị trường cà phê Việt Nam hiện nay:
a. Thánh thức đặt ra:
Theo đánh giá của Hiệp hội cà phê Việt Nam (Vicofa), hiện ngành cà phê đang có
nhiều lợi thế cạnh tranh, có điều kiện tăng trưởng và phát triển. Năm 2011, giá cà phê
Việt Nam và thế giới tăng kỷ lục, dự báo ngành cà phê có thể xuất khẩu được 1,2 triệu
tấn với kim ngạch xuất khẩu đạt từ 2,4 – 2,5 tỷ USD. Đây là yếu tố thuận lợi cho người
trồng cà phê. Thị trường xuất khẩu cà phê của Việt Nam và nhu cầu sử dụng cà phê của
thế giới và trong nước tiếp tục tăng, tạo điều kiện để ngành cà phê phát triển. Thế nhưng,
ngành cà phê Việt Nam cũng đối mặt không ít thách thức.
Thánh thức đầu tiên phải kể đến là cà phê Việt Nam không được giá bằng cà phê
thế giới. Bởi do biến động về giá đã dẫn đến giá vật tư cao, những vấn đề về chất lượng
và thiếu chế biến sâu đang làm giới hạn mức giá được trao đổi của cà phê Việt Nam trên
thị trường quốc tế. Đồng thời, việc thẩm định cấp chất lượng, định giá cà phê chưa được
sự công bằng, hợp lý, còn có sự chênh lệch giá thu mua giữa cà phê có chất lượng tốt và
kém chất lượng. Việc áp dụng những tiêu chí cũ, không còn hiệu quả từ trước để đánh giá
về chất lượng của cà phê Việt Nam (độ ẩm, tỉ lệ hạt,…).
Thách thức thứ hai về cơ sở hạ tầng trồng cà phê thì hầu hết diện tích cà phê tại
các địa phương đều do nông dân tự quản lý và chăm sóc trong điều kiện khó khăn về
nguồn vốn đầu tư. Quy mô vốn đầu tư nhà xưởng, trang thiết bị, công nghệ chế biến cà
phê vẫn còn ở mức thấp so với nhiều nước xuất khẩu cà phê lớn trên thế giới như Braxin,
Indonexia. Đa phần các doanh nghiệp sản xuất, chế biến chủ yếu tập trung ở một số công
đoạn như sơ chế đánh bóng cà phê xuất khẩu, rang xay sản xuất cà phê bột với quy mô
nhỏ lẻ, manh mún dẫn đến hiệu quả và giá trị kinh tế mang lại không cao.
Thách thức thứ ba là một số doanh nghiệp hiện nay không đáp ứng đủ điều kiện
vay vốn như: năng lực tài chính hạn chế, không đủ vốn để tự có thể tham gia vào phương
án kinh doanh theo quy định. Vì thế, doanh nghiệp luôn đứng trước những thách thức lớn
về vốn, nhất là khi cà phê đến vụ. Mặt khác, ngân hàng cho vay vốn lưu động thu mua
11
với chu kỳ quay vòng của vốn chỉ ba tháng là quá ngắn, doanh nghiệp khó có thể quay
vòng kịp để đáp ứng được. Hơn nữa, với mức lãi suất như thời gian qua là cao, doanh
nghiệp thu mua cà phê không kham nổi, bởi một kí cà phê dự trữ mỗi tháng doanh nghiệp
phải trả 700 đồng tiền lãi ngân hàng. Trong vòng luẩn quẩn đó, thị trường xuất khẩu cà
phê của Việt Nam sẽ ra sao trong khi với mặt hàng này thì Việt Nam được đánh giá là thị
trường đầy tiềm năng.
Thách thức thứ tư, thị trường cà phê nước ta như đã nói ở trên là đang chịu sự
thao túng tuy chưa mạnh nhưng cũng đáng phải kể của các doanh nghiệp nước ngoài. Với
các văn bản pháp luật quy định chưa nghiêm về vấn đề các doanh nghiệp không được thu
mua trực tiếp từ các hộ sản xuất cộng với việc các doanh nghiệp có thể lách luật Việt
Nam để tiến hành thu mua cũng gây khó khăn cho người dân và doanh nghiệp trong
nước, gây bất ổn cho thị trường cà phê Việt Nam trong năm tới.
b. Giải pháp:
Những giải pháp về mặt kỹ thuật:
Đối với những diện tích cà phê già cỗi, bị sâu bệnh không có khả năng cưa ghép, cải
tạo cần chuyển sang trồng cây mới.
Cải tạo đất trồng cà phê để tăng sản lượng năm sau.
Đối với những diện tích cà phê đang trong giai đoạn kinh doanh có hiệu quả cần bón
phân hữu cơ, đồng thời hạn chế phân hóa học và thuốc bảo vệ thực vật, tránh thâm canh
quá mức làm giảm tuổi thọ của vườn cây.
Đối với những diện tích cà phê trồng không đúng quy hoạch trên những vùng đất
không thích hợp như độ dốc cao, tầng đất mỏng, xa nguồn nước tưới cần trang bị máy
bơm nước, các thiết bị khác… để đảm bảo tưới tiêu.
Nâng cao kĩ thuật thu hái và thu hoạch, không hái đồng loại cả quả chín lẫn quả xanh,
quả non để đảm bảo chất lượng của cà phê.
Các yếu tố đánh giá chất lượng cà phê cần phù hợp để đánh giá cà phê Việt Nam, các
yếu tố đánh giá hiện nay rất lạc hậu, có thể khắc phục nhưng không được thực hiện: Các
yếu tốt về độ ẩm (12,5%), tạp chất (0,5-1%), hạt đen, vỡ,…
Áp dụng tiêu chuẩn TCVN 4193:2005 để tạo điều kiện cải thiện chất lượng, nâng cao
uy tín và sức cạnh tranh của cà phê Việt Nam trên thi trường thế giới.
“TCVN 4193:2005 (mới) hạng R3
-Màu sắc: màu đặc trưng từng loại cà phê nhân
-Mùi: không có mùi vị lạ
-Độ ẩm: < + 12,5%
12
-Tạp chất, hạt đen, nâu, sâu, vỡ và hạt khuyết tật… bắt theo lỗi
*Xác định trị số lỗi cho phép: tối đa 250 lỗi trong 300 gam mẫu đối với cà phê vối và
150 lỗi trong 200 gam mẫu đối với cà phê chè.
-Tỷ lệ lẫn cà phê khác loại: (% khối lượng)
+Cà phê Arabica: được lẫn R: < = 5% + C: < = 1%
+Cà phê Robusta: được lẫn C: < = 5% + A: < = 5%
-Tỷ lệ trên sàng 4,75 ly/4 ly tối thiểu (%): 90/10.” (theo vinanet)
Nâng cao tỉ lệ giữa 2 loại cà phê Robusta và Arabica để tăng thị hiếu của người tiêu
dùng nhằm tăng lượng cung cà phê hằng năm.
Áp dụng yếu tố kĩ thuật nhưng cũng cần phải tiết kiệm chi phí nhằm không đẩy giá cà
phê lên mức quá cao, đảm bảo lợi nhuận vẫn như mong muốn nhưng giá thành phù hợp
với túi tiền người mua.
Tăng năng suất thì phải được đi đôi với tăng chất lượng cà phê, không thể vì năng
suất mà chất lượng không đảm bảo thâm canh phải phù hợp.
Phát triển cơ sở hạ tầng đảm bảo cho thâm canh được hiệu quả.
Đối với các cơ quan quản lý Nhà nước.
Nhà nước cần có chính sách khuyến khích người nông dân chuyển đổi những diện
tích cà phê già cỗi sang cưa ghép bằng các dòng cà phê vối chọn lọc; chuyển những diện
tích cà phê trồng trên những vùng đất không thích hợp sang vùng mới.
Xây dựng và ban hành quy chuẩn về trồng, chăm sóc, thu hái, chế biến đối với cây cà
phê để không ngừng nâng cao chất lượng, hiệu quả cũng như tính bền vững.
Tổ chức lại ngành cà phê Việt nam, trong đó xây dựng được các hình thức tổ chức
thích hợp như hợp tác xã; nhóm hộ sản xuất v.v… tránh hình thức phân tán, nhỏ lẻ như
hiện nay.
Nhà nước cần có chính sách miễn hoặc giảm thuế đối với những nguồn tài chính mà
các doanh nghiệp này phải đầu tư nhằm đổi mới trang thiết bị công nghệ, hộ trợ về mặt
ứng dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật cho nông dân thông qua các nhà khoa học.
Tăng cường hơn nữa trong việc xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng cho các vùng sản
xuất cà phê như đường xá, hồ đập thủy lợi, điện, nước
Tăng cường đầu tư cho nghiên cứu khoa học công nghệ một các toàn diện đối với cây
và ngành cà phê.
Khi giá xuống thấp, người dân có xu hướng ghìm hàng để chờ giá lên. Vì vậy, nhà
nước cần có biện pháp cho các doanh nghiệp vay vốn để mua cà phê của người dân với
lãi suất rất thấp hoặc không có lãi suất để tăng sản lượng ra thị trường, tăng sản lượng để
13
phục vụ cho xuất khẩu ra thế giới khi sản lượng ổn định sẽ góp phần đẩy giá lên, các
doanh nghiệp sẽ có lợi nhuận và hoàn trả toàn bộ vốn vay về cho ngân hàng.
Quy định luật chặt chẽ hơn trong việc thu mua cà phê của các doanh nghiệp nước
ngoài, để đảm bảo giữ vững thị trường cà phê ổn định hơn. Nhưng cũng chú trọng không
để luật Việt Nam gây ảnh hưởng hoặc thậm chí đi ngược lại với những cam kết về kinh
tế, về thị trường khi Việt Nam ta gia nhập WTO.
Giải pháp cho xuất khẩu cà phê:
Phải khuyến khích gia tăng vốn đầu tư, không chỉ ngân sách nhà nước mà còn chủ
động kêu gọi vốn đầu tư nước ngoài vào phát triển công nghiệp chế biến cà phê Việt
Nam. Nếu làm được như vậy thì chắc chắn lợi ích mà nó đem lại là không hề nhỏ. Một
mặt, giải quyết được bài toán nhức nhối về giá cà phê xuất khẩu quá rẻ hiện nay. Mặt
khác, góp phần không nhỏ vào việc nâng cao giá trị của sản phẩm cà phê Việt Nam trên
thị trường thế giới và phần nào khắc phục được tình trạng nhập siêu còn rất nghiêm
trọng. Từ đây, tạo ra công ăn việc làm cho một bộ phận không nhỏ người dân ở Tây
Nguyên.
Xem xét kĩ thị trường xuất khẩu cà phê Việt Nam ra các nước qua từng năm. Phải có
sự đánh giá đúng về thị trường, nắm bắt các cơ hội để phân phối và điều tiết sản lượng ra
bên ngoài một cách hợp lý. Không xuất khẩu ồ ạt có nguy cơ làm giảm giá thành cà phê.
Trữ hàng trong các kho chờ thời cơ giá lên nhưng không trữ quá lâu có nguy cơ ảnh
hưởng tới thị trường cà phê thế giới cũng như thị hiếu đối với cà phê Việt Nam (lượng cà
phê Việt Nam phải nói là sản lượng bù chất lượng, khi sản lượng cà phê Việt Nam xuất
khẩu ít có nguy cơ “khan hiếm” trên thi trường, người tiêu dùng có khả năng sử dụng cà
phê của các nước khác, khi thấy ngon hơn, chất lượng đảm bảo hơn cà phê Việt Nam thì
thị hiếu sẽ thay đổi, đến lúc ấy dù cho giá lên, cà phê Việt Nam bán tháo ra thị trường
nhưng thị hiếu không còn cũng làm cung dư dẫn đến giá cà phê Việt Nam giảm sút rõ
rệt).
Tất nhiên, đây là hướng đi không hề đơn giản, bởi chen chân được vào thị trường cà
phê chế biến mà các tập đoàn đa quốc gia thống trị từ nhiều thập kỉ nay là chuyện không
dễ. Nhưng đây là hướng tối ưu nhất, bởi vì Việt nam đang sở hữu hai yếu tố cực kì quan
trọng trong phát triển công nghiệp chế biến cà phê: đó là nguồn nguyên liệu dồi dào và
giá cũng rất rẻ.
II. Những dự báo về giá cà phê năm 2012:
Như vậy hiện tại do các yếu tố nêu trên, thị trường cà phê trong và ngoài nước có khá
nhiều biến động. Dĩ nhiên giá cà phê có thể ở mức này hoặc tăng cao, hoặc thậm chí còn
thấp hơn, vì chúng ta không biết rõ sự biến đổi về giá. Giá cà phê của Việt Nam từ trước
đến nay do các nhà đầu cơ bên ngoài định đoạt vì vốn dĩ nó là một thị trường sơ khai, tài
chính yếu ớt, thị trường nông sản Việt Nam chưa có một chiến lược định hướng rõ rệt,
14
doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam thì hoạt động theo kiểu mạnh ai nấy sống, nông dân
buồn còn dài.
Năm 2012, khối lượng xuất khẩu cà phê ước đạt gần 1,1 triệu tấn với trị giá hơn 2 tỷ
USD. Đó là những thông tin mới nhất về cà phê Việt Nam mà bản tin dự báo thị trường
nông sản của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn vừa đưa tin trong quý IV/2011.
Như vậy, so với 1,2 triệu tấn với giá trị 2,7 tỷ USD của xuất khẩu cà phê trong năm
2011 thì lượng cà phê xuất khẩu trong năm 2012 của Việt Nam sẽ thấp hơn 100.000 tấn,
theo đó, kim ngạch cũng giảm khoảng 700 triệu USD (theo dự báo của Vicofa).
Theo đánh giá của các chuyên gia thì sự sụt giảm của xuất khẩu cà phê Việt Nam
trong năm 2012 là do sự tác động của thị trường toàn cầu khi thị trường này đang diễn
biến theo một xu thế chung như trên.
Theo đó, do ảnh hưởng của thời tiết bất lợi làm cho sâu bệnh gia tăng, sản lượng sụt
giảm ở một số khu vực sản xuất cà phê nên Tổ chức cà phê quốc tế ICO dự báo, tổng sản
lượng cà phê toàn cầu trong năm 2012 so với năm 2011 sẽ có mức giảm 3,4%, một tỷ lệ
tương đối cao cho một ngành xuất khẩu nông sản như cà phê (theo Y5cafe đưa tin).
Thị trường xuất khẩu cà phê thế giới biến động mạnh kéo theo thị trường cà phê trong
nước có nhiều ảnh hưởng.
Theo ICO dự báo, trong niên vụ 2011-2012 sản lượng cà phê của nước ta sẽ chỉ đạt
18,5 triệu bao (tương đương 1,11 triệu tấn), giảm 5% so với sản lượng của niên vụ trước.
Tỷ lệ này cho thấy, sản lượng cà phê nước ta giảm mạnh hơn so với sản lượng chung của
cà phê thế giới.
Tuy nhiên, dự báo của Bộ Nông nghiệp Mỹ về mức sản lượng cà phê của nước ta
trong niên vụ 2011-2012 lại khiến người trồng cà phê nước ta thêm phần lạc quan. Theo
bộ này, niên vụ 2011/12 sản lượng cà phê của nước ta sẽ đạt 20,6 triệu bao (tương đương
1,24 triệu tấn).
Tình hình biến động giá cả của các loại mặt hàng nông sản trong nước cũng phần nào
tác động đến giá cà phê. Trong sáu tháng đầu năm 2012, dự báo giá cà phê sẽ tăng nhưng
không cao, so với cùng kỳ năm trước, đó là do ảnh hưởng của nhiều yếu tố: tình hình khí
hậu ảnh hưởng tới mùa vụ và chất lượng của cà phê, các mặt hàng tiêu dùng ngày càng
đa dạng về mẫu mã cũng như chất lượng, các biện pháp kĩ thuật công nghệ trong cải tiến
năng suất từ khâu trồng trọt.
Diện tích đất trồng cà phê già cỗi, trên 20 năm đang tăng, xấp xỉ 30%. Năng suất của
các vườn cà phê già thấp hơn các vườn cà phê trẻ.
15
Áp dụng kĩ thuật mới vào trồng, sản xuất và chế biến cà phê chưa thật sự hiệu quả.
Năng suất cà phê có thể tăng nhưng chất lượng thì chưa được cao. Điều này vẫn sẽ ảnh
hưởng đến thị hiếu của người tiêu dùng trong năm sau.
Ảnh hưởng của cơn bão số 7 vào cuối năm 2011 cũng sẽ ảnh hưởng đến sản lượng cà
phê trong năm 2012, cụ thể là niên vụ 2011/12 và dự báo cho niên vụ 2012/13 cũng sẽ
giảm.
Lời kết:
Năm 2011 đi qua với nhiều biến động của thị trường cà phê thế giới và Việt Nam.
Thách thức đặt ra nhiều hơn cho các hộ sản xuất và chế biến để làm sao có thể gia tăng
năng suất, sản lượng theo từng thời kì, từng vụ. Song song đó là sự gia tăng của chất
lượng cà phê, đảm bảo cho thị hiếu của người tiêu dùng được nâng cao, chất lượng cà
phê Việt Nam có chỗ đứng.
Sản lượng xuất khẩu phải đi đôi với giá thành, theo quy luật cung-cầu cơ bản. Khi sản
lượng tăng đồng nghĩa giá giảm, thị hiếu của người tiêu dùng càng cao, lượng cầu càng
nhiều sẽ góp phần đẩy giá sản phẩm đi lên. Doanh nghiệp nào cũng vậy, tiêu chí lợi
nhuận lúc nào cũng phải được đặt lên hàng đầu, vì vậy làm sao để cho sản lượng cà phê
xuất khẩu mỗi năm đều phải tăng nhưng giá thành phải ở mức tối đa, nghĩa là giá giảm
theo quy luật cung cầu không đáng kể, chỉ có thế mới kiếm được lợi nhuận cao. Nhưng
để làm được điều đó là một bài toán không phải dễ cho doanh nghiệp nhưng cũng không
quá khó trong những điều kiện như hiện nay.
Doanh nghiệp Việt Nam trong vấn đề cạnh tranh trong nước và cả xuất khẩu cũng cần
phải đề ra những chiến lược hiệu quả và an toàn. Đối mặt với những khó khăn trước mắt,
cụ thể với doanh nghiệp nước ngoài cần có hướng đi rõ ràng, phải vừa đảm bảo cạnh
tranh lành mạnh, không gây thù chuốc oán cũng như tranh chấp với các doanh nghiệp
nước ngoài đó, phải vừa đảm bảo những tiêu chuẩn, những hiệp ước mà ta đã kí kết với
các nước khi ta gia nhập WTO.
Quản lý Nhà Nước trong vấn đề thu mua cà phê của các doanh nghiệp nước ngoài
cũng cần được thắt chặt để đảm bảo tính công bằng cho doanh nghiệp Việt Nam. Mặt
khác là xây dựng một hệ thống pháp luật Việt Nam dễ đứng, dễ đi, dễ chấp hành nhưng
không lách được cho các doanh nghiệp nước ngoài. Quản lý chặt đồng nghĩa với việc
thao túng thị trường của các tay đầu cơ không còn hoặc còn nhưng không tác động xấu
đến thị trường nước ta.
Bên cạnh đó cũng có những thuận lợi trong năm 2011 sẽ tác động đến thị trường cà
phê năm 2012. Mong rằng trong năm 2012 thị trường cà phê sẽ có những tín hiệu tốt, lạc
quan hơn, sẽ là điều kiện thuận lợi cho Việt Nam gầy dựng cho thương hiệu cà phê nước
nhà một chỗ đứng vững vàng trên thị trường thế giới.
16
17