MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Hoà cùng với xu thế khu vực hoá, toàn cầu hoá, hội nhập và hợp tác kinh tế
đang nổi trội, với sự phát triển mạnh của kinh tế thị trường, với tính phụ thuộc lẫn
nhau về kinh tế và thương mại giữa các quốc gia ngày càng sâu sắc, Việt nam đã và
đang không ngừng cố gắng đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước đưa nền kinh tế hoà nhập vào sự năng động của khu vực Đông Nam Á, hay
nói rộng hơn là khu vực vành đai Châu Á - Thái Bình Dương.
Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang gia tăng áp lực cạnh tranh đối
với các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh
vực xuất nhập khẩu nói riêng, đặc biệt là hoạt động nhập khẩu máy móc và phụ
tùng.
Trong cơ chế thị trường, năng lực cạnh tranh là yếu tố mang tính quyết định sự
thành bại của doanh nghiệp, đòi hỏi các doanh nghiệp phải nắm được các lợi thế,
năng lực cạnh tranh của mình để các sản phẩm, dịch vụ cung cấp ra thị trường được
nổi bật, nổi trội so với các đối thủ trong cùng lĩnh vực, ngành kinh doanh.
Với xuất phát điểm từ một nước nông nghiệp lạc hậu, còn nhiều hạn chế về
trình độ khoa học và kỹ thuật thì con đường nhanh nhất để tiến hành công nghiệp
hoá hiện đại hoá đất nước là nhanh chóng tiếp cận những công nghệ và kỹ thuật tiên
tiến của nước ngoài. Để làm được điều này thì nhập khẩu nói chung và nhập khẩu
máy và phụ tùng nói riêng đóng góp một vai trò vô cùng quan trọng cho phép phát
huy tối đa nội lực trong nước đồng thời tranh thủ được các tiến bộ khoa học kỹ
thuật, công nghệ của thế giới. Nhập khẩu thúc đẩy tái sản xuất mở rộng liên tục và
có hiệu quả vì vậy khuyến khích sản xuất phát triển
Nâng cao năng lực cạnh tranh trong lĩnh vực nhập khẩu máy và phụ tùng là
một việc làm vô cùng cần thiết và cấp bách hiện nay nhằm đem về những công nghệ
tốt nhất, hiện đại nhất với thời gian và chi phí ít nhất, đạt hiệu quả cao, góp phần
nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như góp phần phát triển kinh
tế nói chung. Mặc dù là một doanh nghiệp có bề dày truyền thống về nhập khẩu
1
máy móc và phụ tùng nhưng Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Máy và Phụ Tùng
chưa tận dụng khai thác được những thế mạnh vốn có nên năng lực cạnh tranh trong
hoạt động nhập khẩu máy móc và phụ tùng chưa tốt, còn nhiều hạn chế. Vì vậy, tác
giả đã chọn đề tài “Nâng cao năng lực cạnh tranh trong họat động nhập khẩu
máy và phụ tùng của Công ty Cổ phần xuất nhập khẩu Máy và Phụ Tùng
(SPJ)” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu:
Cho đến nay, vấn đề cạnh tranh, năng lực cạnh tranh nói chung đã có nhiều
công trình nghiên cứu, sách, luận văn, khoá luận đề cấp tới, cụ thể như:
- Sách: Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong điều kiện toàn cầu hoá -
Trần Sửu – NXB Lao động 2005.
- Sách: Nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp trong tiến trình hội
nhập kinh tế quốc tế – TS. Vũ Trọng Lâm - NXB Chính trị Quốc gia 2006
- Luận văn: Thực trạng và định hướng nhập khẩu máy móc thiết bị phụ tùng ở
Việt Nam – SV. Lê Thu Trang – Trường ĐH Ngoại Thương 2006
- Luận văn: Xây dựng chiến lược quản trị marketing góp phần nâng cao năng
lực cạnh tranh của Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Máy và Phụ Tùng – Ths.
Nguyễn Thanh Tùng – Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Máy và Phụ Tùng 2006
- Đề tài “Nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trong bối cảnh
toàn cầu hoá”, Hội thảo khoa học Hà Nội 01/2004
Các tài liệu trên mới chỉ đề cập đến năng lực cạnh tranh, nâng cao năng lực
cạnh tranh nói chung, vai trò và thực trạng của hoạt động nhập khẩu máy móc và
phụ tùng và việc nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty cổ phần xuất nhập khẩu
Máy và Phụ Tùng thông qua một khía cạnh là xây dựng chiến lược quản trị
marketing mà chưa đề cập một cách đầy đủ, chi tiết tới việc nâng cao năng lực cạnh
tranh trong hoạt động nhập khẩu máy móc thiết bị phụ tùng của Công ty cổ phần
xuất nhập khẩu Máy và Phụ Tùng. Trong bối cảnh nền kinh tế hiện nay, khi mà nhu
cầu nhập khẩu máy móc phụ tùng phục vụ sản xuất trong nước ngày một gia tăng,
cạnh tranh ngày càng khốc liệt, nâng cao năng lực cạnh tranh trong hoạt động nhập
khẩu máy móc phụ tùng trở thành vấn đề được quan tâm hàng đầu. Vì vậy, tác giả
2
chọn đề tài “Nâng cao năng lực cạnh tranh trong họat động nhập khẩu máy và
phụ tùng của Công ty Cổ phần xuất nhập khẩu Máy và Phụ Tùng (SPJ)” đề
nghiên cứu và làm luận văn thạc sỹ trên cơ sở kế thừa song không trùng lặp với
những công trình đã nghiên cứu.
3. Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về cạnh tranh, năng lực
cạnh tranh, dựa trên thực trạng nhập khẩu máy và phụ tùng của Công ty Cổ phần
xuất nhập khẩu Máy và Phụ Tùng để tìm ra những giải pháp có tính khoa học và
thiết thực nâng cao năng lực cạnh tranh trong hoạt động nhập khẩu máy và phụ tùng
cho công ty trong tiến trình hội nhập.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu năng lực cạnh tranh
trong hoạt động nhập khẩu máy và phụ tùng và thực trạng năng lực cạnh tranh của
Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Máy và Phụ Tùng trong tiến trình hội nhập, thực
trạng và giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh.
- Phạm vi nghiên cứu: là hoạt động nhập khẩu máy và phụ tùng của Công ty
cổ phần xuất nhập khẩu Máy và Phụ Tùng trong tiến trình hội nhập (từ sau đổi mới
năm 1986 đến nay)
5. Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu như phương pháp phân tích,
tổng hợp, kết hợp với so sánh và phân tích thống kê thông qua các bảng biểu số
liệu.
6. Kết cấu luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận
văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về cạnh tranh, năng lực cạnh tranh
và hoạt động nhập khẩu máy và phụ tùng
Chương 2: Thực trạng năng lực cạnh tranh trong hoạt động nhập khẩu máy
và phụ tùng của Công ty cổ phần XNK Máy và Phụ tùng (SPJ)
3
Chương 3: : Những giải pháp để nâng cao năng lực cạnh tranh trong hoạt
động nhập khẩu máy và phụ tùng của Công ty cổ phần XNK Máy và Phụ tùng (SPJ)
4
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CẠNH TRANH, NĂNG LỰC
CẠNH TRANH VÀ HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU MÁY VÀ PHỤ TÙNG.
1.1 Tổng quan về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh
1.1.1 Khái niệm về cạnh tranh.
Hiện nay, có nhiều khái niệm khác nhau về cạnh tranh trong các lĩnh vực
kinh tế và xã hội. Một trong những khó khăn là không có một sự thống nhất rộng rãi
về định nghĩa khái niệm này. Lý do là thuật ngữ này được sử dụng để đánh giá cho
tất cả các doanh nghiệp (DN), các ngành, các quốc gia và cả các khu vực liên quốc
gia. Nhưng những mục tiêu cơ bản được đặt ra khác nhau phụ thuộc vào góc độ
xem xét là của quốc gia hay doanh nghiệp. Trong khi đối với một doanh nghiệp
mục tiêu chủ yếu là tồn tại và tìm kiếm lợi nhuận trên cơ sở cạnh tranh quốc gia hay
quốc tế thì đối với một quốc gia mục tiêu là nâng cao mức sống vật chất và phúc lợi
cho nhân dân. Ở đây, thuật ngữ cạnh tranh được tiếp cận dưới góc độ trong lĩnh vực
kinh tế, một dạng cụ thể của cạnh tranh.
Từ lâu, khái niệm về cạnh tranh đã được các học giả kinh tế của các trường
phái kinh tế khác nhau rất quan tâm. Các nhà kinh tế học trường phái tư sản cổ điển
cho rằng: cạnh tranh là một quá trình bao gồm các hành vi phản ứng. Quá trình này
tạo ra cho mỗi thành viên một phần xứng đáng so với khả năng của mình. Theo từ
điển kinh doanh của Anh xuất bản năm 1992, cạnh tranh được xem như là sự ganh
đua, sự kình địch giữa các nhà kinh doanh trên thị trường nhằm tranh giành cùng
một loại tài nguyên sản xuất hoặc cùng một loại khách hàng về phía mình. Theo
định nghĩa của Uỷ ban cạnh tranh công nghiệp Hoa Kỳ thì ở quy mô một quốc gia,
cạnh tranh được hiểu là mức độ nào đó mà ở đó, dưới các điều kiện thị trường tự do
và công bằng có thể sản xuất được các hàng hoá và dịch vụ đáp ứng được đòi hỏi
của thị trường quốc tế, đồng thời duy trì và mở rộng thu nhập thực tế của nhân dân
nước đó.
5
Ở Việt Nam, khi đề cập đến cạnh tranh, một số nhà khoa học đã cho rằng:
cạnh tranh là vấn đề giành lợi thế về giá cả hàng hoá, dịch vụ (mua và bán) và đó là
con đường, phương thức để giành lấy lợi thế cao cho các chủ thể kinh tế. Từ điển
Bách khoa Việt Nam [4, tập 1] định nghĩa: Cạnh tranh trong kinh doanh là hoạt
động ganh đua giữa nhứng người sản xuất hàng hoá, giữa các thương nhân, các nhà
kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, bị chi phố bởi quan hệ cung - cầu, nhằm
giành các điều kiện sản xuất, tiêu thụ, thị trường có lợi nhất. Quan niệm này đã xác
định rõ các chủ thể của cạnh tranh là các chủ thể kinh tế và mục đích của họ là
nhằm giành được các điều kiện sản xuất, tiêu thụ và thị trường có lợi nhất.
Giáo trình Kinh tế học chính trị Mác-Lênin[1] nêu ra định nghĩa: Cạnh tranh
là sự ganh đua, sự đấu tranh về kinh tế giữa các chủ thể tham gia sản xuất - kinh
doanh với nhau nhằm giành những điều kiện thuận lợi trong sản xuất - kinh doanh,
tiêu thụ hàng hoá và dịch vụ để thu được nhiều lợi ích nhất cho mình. Mục tiêu của
cạnh tranh là giành lợi ích, lợi nhuận lớn nhất, bảo đảm sự tồn tại và phát triển của
chủ thể tham gia cạnh tranh.
Nhận thức về cạnh tranh như trên giúp ta hiểu được tính động lực và sự quyết
liệt của cạnh tranh, cũng như các phương thức cạnh tranh trong lĩnh vực kinh tế. Từ
đó, có thể hiểu được bản chất của cạnh tranh, các loại hình cạnh tranh và năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường vốn đa dạng và rất phức
tạp.
Ngày nay, hầu hết các nước trên thế giới đều thừa nhận cạnh tranh và coi
cạnh tranh không những là môi trường và động lực của sự phát triển mà còn là một
yếu tố quan trọng làm lành mạnh hoá các quan hệ xã hội, tạo động lực cho sự phát
triển. Từ đó, có thể đưa ra một khái niệm khá đầy đủ về cạnh tranh như sau:
“Cạnh tranh là cuộc đấu tranh gay gắt, quyết liệt giữa các nhà sản xuất, kinh
doanh với nhau dựa trên chế độ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất nhằm đạt
được những điều kiện sản xuất và tiêu thụ có lợi nhất, đồng thời tạo điều kiện thúc
đẩy sản xuất phát triển”
6
1.1.2 Khái niệm về năng lực cạnh tranh
Có rất nhiều định nghĩa, quan niệm về thuật ngữ “năng lực cạnh tranh” hay
còn được gọi là “tính cạnh tranh”, “khả năng cạnh tranh” hoặc “sức cạnh tranh”.
Theo định nghĩa của Đại từ điển Tiếng Việt[2, tr.1172] năng lực là (1) những
điều kiện đủ hoặc vốn có để làm một việc gì đó; (2) khả năng đủ để thực hiện tốt
một công việc và năng lực cạnh tranh là “khả năng giành thắng lợi trong cuộc cạnh
tranh của những hàng hoá cùng loại trên một thị trường tiêu thụ”. Theo Từ điển
Thuật ngữ chính sách thương mại “năng lực cạnh tranh là năng lực của một doanh
nghiệp hoặc một ngành thậm chí một quốc gia không bị DN khác, ngành khác hoặc
nước khác đánh bại về năng lực kinh tế”
Thuật ngữ “Năng lực cạnh tranh” dù được sử dụng rất rộng rãi nhưng vẫn
chưa có một khái niệm rõ ràng cũng như cách thức đo lường năng lực cạnh tranh ở
cả cấp độ quốc gia lẫn cấp ngành. Năng lực cạnh tranh đó và đang là chủ đề được
bàn luận nhiều ở cả các nước phát triển và đang phát triển vỡ tầm quan trọng của nú
đối với sự phát triển của nền kinh tế trong một thế giới ngày càng mở cửa và hội
nhập. Mặc dù các nhà kinh tế thống nhất với nhau về tầm quan trọng, nhưng lại có
những nhận thức khác nhau về khái niệm Năng lực cạnh tranh.
Có nhiều cách hiểu khác nhau về thuật ngữ năng lực cạnh tranh và các cấp
độ áp dụng cũng rất khác nhau. Khái niệm năng lực cạnh tranh được hiểu theo ba
cấp độ, năng lực cạnh tranh cấp DN, cấp ngành hay cấp quốc gia.
Bên cạnh đó, cũng có quan điểm phân tích năng lực cạnh tranh quốc gia trên
cơ sở lợi thế cạnh tranh của các ngành. Quan điểm này thể hiện rừ trong nhiều cụng
trỡnh của Porter, nhất là Porter (1990). Porter cho rằng, cỏc DN là những chủ thể
cạnh tranh trên thị trường thế giới, chính vỡ vậy, núi về lợi thế cạnh tranh quốc gia
là núi về những đặc trưng của quốc gia với tư cách là môi trường hoạt động cho
phép các DN của quốc gia đó có thể thành công trên thị trường thế giới.
7
Năng lực cạnh tranh quốc gia được đề cập trong báo cáo hàng năm của WEF,
trong đó năng lực cạnh tranh được định nghĩa là năng lực của nền kinh tế trong việc
đạt và duy trỡ được mức tăng trưởng cao. Trong cách tiếp cận của Porter, chỉ có chỉ
số năng suất là có nghĩa cho khái niệm tính cạnh tranh quốc gia bởi vỡ đây là yếu tố
cơ bản quyết định việc nâng cao mức sống của quốc gia về dài hạn.
Ngược lại với khái niệm năng lực cạnh tranh mang tính tổng quát áp dụng ở
cấp quốc gia nói trên, quan điểm tân cổ điển dựa trên lý thuyết thương mại truyền
thống mang xem xét lợi thế cạnh tranh hay tính cạnh tranh đối với, một sản phẩm
(đồng nhất) thông qua lợi thế so sánh về chi phí sản xuất và năng suất. Theo
Westgren (1991), năng lực cạnh tranh của một ngành/DN là năng lực duy trỡ được
lợi nhuận và thị phần trên thị trường trong và ngoài nước. Định nghĩa này được xem
là nhất quán với mục tiêu kinh doanh, đồng thời phù hợp với các mục tiêu của chính
sách kinh tế và chính sách thương mại của chính phủ.
Tuy nhiên, trong phạm vi và giới hạn đề tài nghiên cứu, tác giả sẽ chỉ đi sâu
nghiên cứu năng lực cạnh tranh cấp doanh nghiệp.
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và ngành thường được phân tích theo
ba quan điểm chính. Theo quan điểm quản trị chiến lược chính là việc nhỡn nhận
những ưu thế về cấu trúc ngành/DN. Quan điểm này cũng đũi hỏi phải tớnh tới cỏc
nguồn lực cú tớnh “riờng biệt” cũng như những ý tưởng quản trị mới gắn liền với sự
phát triển nhảy vọt của công nghệ thông tin và thương mại điện tử. Quan điểm tân
cổ điển là tiền đề cho những phân tích dựa trên lợi thế so sánh, chi phí và các nhân
tố, đặc biệt; là các nhân tố chính sách có thể làm chệch hướng việc phân bổ các
nguồn lực. Quan điểm tổng hợp cố gắng thể hiện cả những phân tích định tính và
định lượng và cả những quan sát tĩnh và động để tạo ra một khung khổ đánh giá
hoàn chỉnh khả năng cạnh tranh ngành/DN.
Trên thực tế, quan niệm tương đối phổ biến cho rằng: “Năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp chính là khả năng duy trì và mở rộng thị phần, thu lợi nhuận của
doanh nghiệp trong môi trường cạnh tranh trong nước và ngoài nước”. Theo đó, mở
8
rộng thị phần và thu lợi nhuận cao là mục tiêu của việc nâng cao năng lực cạnh
tranh.
Từ các quan điểm và quan niệm trên tác giả có thể đưa ra khái niệm về năng
lực cạnh tranh như sau: “năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng tạo
dựng, duy trì, sử dụng và sáng tạo mới các lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp
nhằm đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng (so với các đối thủ cạnh tranh) và
đạt được các mục tiêu của doanh nghiệp trong môi trường cạnh tranh trong nước
và quốc tế”.
Như vậy nếu doanh nghiệp có khả năng duy trì và sáng tạo liên tục năng lực
cạnh tranh của mình thì sẽ luôn đi trước các đối thủ và giành phần thắng trong cuộc
cạnh tranh để đạt mục đích duy trì và mở rộng thị trường, gia tăng lợi nhuận.
1.1.3 Các tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là phạm trù tổng hợp thể hiện sức
mạnh và ưu thế tương đối của doanh nghiệp so với đối thủ trong cạnh tranh. Doanh
nghiệp có thể có lợi về mặt này nhưng lại rất bất lợi ở mặt khác. Do đó, phân tích
năng lực cạnh tranh đòi hỏi phải có quan điểm toàn diện, đánh giá dựa trên nhiều
tiêu chí khác nhau.
Trong phạm vi và mục đớch nghiờn cứu của đề tài, tỏc giả sẽ đưa ra một số
tiờu chớ đỏnh giỏ năng lực cạnh tranh như sau :
1.1.3.1 Khả năng duy trì và mở rộng thị phần
Thị phần là phần thị trường mà doanh nghiệp bán sản phẩm của mình một
cáh thường xuyên và có xu hướng phát triển. Nếu chỉ xét thị phần của doanh nghiệp
trong một thời kỳ nhất định thì chưa thấy hết năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Trong một thời kỳ cụ thể, thị phần chủ yếu thể hiện vị thế của doanh nghiệp hơn là
thể hiện năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp đó. Cần nghiên cứu sự biến đổi
(tăng, giảm) của thị phần trong các thời kỳ khác nhau để hiểu rõ năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp.
9
1.1.3.2 Hiệu quả kinh doanh
Hiệu quả kinh doanh là biểu hiện cơ bản nhất thể hiện năng lực cạnh tranh
của ngành hàng. Qua các số liệu về lợi nhuận thu được trước và sau thuế hàng năm
(hay theo chu kỳ sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu) và kim ngạch nhập khẩu của
ngành hàng, ta có thể thấy rõ khả năng tồn tại và phát triển của ngành hàng.
1.1.3.3 Chất lượng của sản phẩm và các quá trình sản xuất.
Chất lượng sản phẩm là yếu tố cấu thành quan trọng trong năng lực cạnh
tranh của sản phẩm mà năng lực cạnh tranh của sản phẩm là yếu tố cấu thành năng
lực cạnh tranh doanh nghiệp. Vì lẽ đó mà chất lượng sản phẩm là tiêu chí để xem
xét năng lực cạnh tranh doan nghiệp. Nâng cao chất lượng của sản phẩm một mặt
làm tăng uy tín, danh tiếng của sản phẩm đó, tạo ra nhiều giá trị hơn cho khách
hàng và do đó, doanh nghiệp có thể định giá bán cao hơn (lợi thế về sự khác biệt).
Mặt khác, chất lượng của các quá tình trong nội bộ doanh nghiệp (thu mua đầu vào,
sản xuất, marketing ) được nâng cao sẽ làm tăng hiệu quả, hạ thấp chi phí đơn vị
sản phẩm.
1.1.3.4 Khả năng đổi mới của doanh nghiệp
Đổi mới được hiểu là bất ký cái gì mới trong cách thức mà doanh nghiệp hoạt
động cũng như trong sản phẩm, dịch vụ mà nó sản xuất và cung ứng. Đổi mới bao
gồm sự cải tiến hoặc sáng tạo mới các sản phẩm, quá trình sản xuất, cơ cấu tổ chức
quản lý và sản xuất - kinh doanh, các chiến lược mà doanh nghiệp xây dựng và thực
hiện. Do vậy, đổi mới thể hiện tính linh hoạt và năng động của doanh nghiệp thích
ứng với các điều kiện môi trường xung quanh.
1.1.3.5 Khả năng đáp ứng nhu cầu của khách hàng.
Muốn có năng lực cạnh tranh cao hơn doanh nghiệp cần phải xác định và
thoả mãn tốt hơn nhu cầu khách hàng so với đối thủ cạnh tranh. Khả năng đáp ứng
nhu cầu khách hàng của doanh nghiệp được thể hiện trên nhiều khía cạnh:
10
- Khả năng cung cấp cho khách hàng đúng hàng hoá, dịch vu họ cần, vào
đúng thời điểm mà họ muốn.
- Phạm vi danh mục sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp. Doanh nghiệp nào
cung ứng được nhiều loại và chủng loại sản phẩm sẽ có khả năng đáp ứng nhu cầu
đa dạng của khách hàng và do đó có năng lực cạnh tranh cao hơn.
- Thời gian đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Điều này tuỳ thuộc vào hoạt
động đặc thù của doanh nghiệp, thời gian đáp ứng nhu cầu được tính toán khác
nhau. Thời gian đáp ứng nhu cầu khách hàng càng được rút ngắn, năng lực cạnh
tranh càng cao.
- Sự hoàn hảo của dịch vụ trước, trong và sau khi bán hàng đang ngày càng
trở thành nhân tố quan trọng thu hút sự trở lại của khách hàng, tăng uy tín cho
doanh nghiệp, nuôi dưỡng sự trung thành của khách hàng đối với sản phẩm của
doanh nghiệp và bản thân doanh nghiệp.
1.1.3.6 Khả năng tiếp cận và khai thác có hiệu quả các nguồn lực phục vụ quá
trình kinh doanh.
- Khả năng tiếp cận và xử lý các nguồn thông tin hữu ích phục vụ quá trình ra
quyết định kinh doanh của doanh nghiệp. Các thông tin này bao gồm: thông tin về
năng lực cạnh tranh của các hàng hoá, dịch vụ cùng loại (về chất lượng, giá cả, bảo
đảm các tiêu chuẩn vệ sinh, môi trường, tốc độ cung ứng ); thông tin về cung cầu
và giá cả thị trường; thông tin về các công nghệ mới, thích hợp thông tin về hoạt
động và cả thủ đoạn của đối thủ cạnh tranh; thông tin về hệ thống luật lệ, chính sách
trong lĩnh vực kinh tế của Việt Nam và của các nước mà doanh nghiệp đang tham
gia kinh doanh
- Khả năng thu hút và phát triển nguồn lực có trình độ cao, chuyên sâu vào
từng hoạt động được giao. Phân tích tình hình tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng; phát
triển đội ngũ lao động có trình độ và tay nghề cao; nhất là phân tích năng suất lao
động có thể giúp đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
11
- Khả năng tiếp cận và sử dụng với hiệu suất cao các nguồn lực vật chất cũng
là chỉ tiêu quan trọng phản ánh năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Ưu thế của
doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh trong việc thu mua các yếu tố đầu vào có
chất lượng với mức giá cả hợp lý. Doanh nghiệp càng có khả năng tiếp cận các yếu
tố đầu vào có chất lượng và sử dụng chúng càng hiệu quả thì không những làm
giảm giá thành sản phẩm mà còn tăng chất lượng, tăng năng lực cạnh tranh.
- Năng lực tài chính của doanh nghiệp thể hiện thông qua quy mô, cơ cấu tài
sản và nguồn vốn của doanh nghiệp, khả năng huy động các nguồn lực tài chính bên
trong và bên ngoài doanh nghiệp phục vụ các mục tiêu kinh doanh, khả năng sử
dụng có hiệu quả các nguồn lực tài chính trong quá trình sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp.
1.1.3.7 Khả năng liên kết và hợp tác với doanh nghiệp khác và hội nhập kinh tế
quốc tế
Mỗi doanh nghiệp tồn tại trong mối liên hệ nhiều chiều với các đối tượng hữu
quan trong môi trường kinh doanh. Trong kinh doanh thường xuất hiện các nhu cầu
liên kết và hợp tác qua nhiều đối tác với nhau làm tăng năng lực cạnh tranh. Khả
năng liên kết và hợp tác của doanh nghiệp thể hiện ở việc nhận biết các cơ hội kinh
doanh mới, lựa chọn đúng đối tác liên minh và khả năng vận hành liên minh đó một
cách có kết quả và hiệu quả cao, đạt được các mục tiêu đã đặt ra. Khả năng liên kết
và hợp tác cũng thể hiện sự linh hoạt của doanh nghiệp trong việc chủ động nắm bắt
các cơ hội kinh doanh trên thương trường.
1.1.3.8 Uy tín, danh tiếng của doanh nghiệp và của sản phẩm, dịch vụ.
Uy tín của doanh nghiệp với các đối tác kinh doanh (người cung ứng, khách
hàng, đối tác liên minh ) cũng là yếu tố quan trọng tạo nên lợi thế và góp phần
nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Chữ “tín” trong kinh doanh ngày
nay càng có ý nghĩa quan trọng vì nó giúp làm giảm thiểu các chi phí giao dịch,
nuôi dưỡng các mối quan hệ bền vững giữa doanh nghiệp và đối tác.
12
Một vấn đề rất quan trọng liên quan đến nâng cao uy tín của doanh nghiệp là
khả năng doanh nghiệp sẽ phát triển thành công các thương hiệu mạnh. Nếu sản
phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp có thương hiệu mạnh sẽ kích thích người mua
nhan chóng đi đến quyết định mua, nhờ đó mà thị phần của doanh nghiệp gia tăng.
Nhưng đánh giá thương hiệu của doanh nghiệp không chỉ ở số lượng các thương
hiệu mạnh và doanh nghiệp đang có mà quan trọng là đánh giá được khả năng phát
triển thương hiệu của doanh nghiệp. Khả năng đó cho thấy sự thành công tiềm tàng
của doanh nghiệp trong tương lai. Nếu doanh nghiệp có khả năng phát triển thương
hiệu thành công các sản phẩm và dịch vụ mới thì sẽ có khả năng thành công lớn hơn
trên thương trường.
1.1.4 Nội dung nâng cao năng lực cạnh tranh trong hoạt động nhập khẩu máy
và phụ tùng
Hoạt động nhập khẩu máy và phụ tùng có những đặc thù riêng về sự phức tạp
của hàng hoá, sự thay đổi của công nghệ, sự biến động của thị trường cung cấp đòi
hỏi các doanh nghiệp tham gia kinh doanh phải luôn tìm cách nâng cao năng lực
cạnh tranh trong hoạt động nhập khẩu. Trong phạm vi và mục đích nghiên cứu của
đề tài, năng lực cạnh tranh trong hoạt động nhập khẩu máy móc phụ tùng nói riêng
được thể hiện qua các nội dung sau
1.1.4.1 Thị phần của doanh nghiệp:
Đây là nội dung quan trọng thể hiên năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
trong hoạt đông nhập khẩu máy móc và phụ tùng bao gồm thị phần nội địa và thị
phần thế giới đối với từng loại máy móc thiết bị phụ tùng. Để nâng cao năng lực
cạnh tranh, doanh nghiệp phải nghiên cứu tìm hiểu thị trường trong và ngoài nước
để ổn định nguồn hàng nhập khẩu với uy tín và chất lượng tốt đồng thời duy trì và
mở rộng thị trường tiêu thụ nội địa, mang lại hiệu quả kinh doanh cao.
1.1.4.2 Hiệu quả kinh doanh
Hiệu quả kinh doanh nhập khẩu máy móc thiết bị phụ tùng phản ánh chiến
lược kinh doanh nhằm đạt được mục tiêu xác định. Đó là kết quả của việc sử dụng
13
linh hoạt có hiệu quả các nguồn lực trong quá trình nhập khẩu và bán hàng để tạo ra
doanh thu và lợi nhuận, tạo điều kiện cơ bản nâng cao năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp.
1.1.4.3 Chất lượng của hàng nhập khẩu.
Với mục đích nhập khẩu về nhằm đáp ứng nhu cầu trong nước, phục vụ cho
mục tiêu công nghiệp hoá - hiện đại hoá (CNH-HĐH) đất nước, các máy móc thiết
bị phụ tùng phải đảm bảo chất lượng theo yêu cầu. Các doanh nghiệp phải có nguồn
nhân lực đủ trình độ ngoại ngữ cũng như kiến thức về kỹ thuật để có thể nhập khẩu
về những máy móc thiết bị có chất lượng, không bị lạc hậu. Doanh nghiệp nào có
lợi thế cạnh tranh trong việc khai thác nguồn hàng, đảm bảo uy tín chất lượng sản
phẩm thì doanh nghiệp đó sẽ có năng lực cạnh tranh tốt hơn.
1.1.4.4 Nguồn lực.
- Trình độ tổ chức quản lý của doanh nghiệp: Máy móc thiết bị phụ tùng là
nhóm mặt hàng có kết cấu phức tạp, đòi hỏi doanh nghiệp kinh doanh phải có một
bộ máy tổ chức quản lý tốt với phương pháp quản lý thích hợp, hệ thống tổ chức
gọn nhẹ, linh hoạt, có văn hoá doanh nghiệp riêng và quản lý có hiệu quả.
- Ban lãnh đạo: Ban lãnh đạo có vai trò rất quan trọng, là người nắm toàn bộ
nguồn lực, tổ chức và vận dụng một cách có hiệu quả mang lại lợi nhuận cao. Để
nâng cao năng lực cạnh tranh cần có một ban lãnh đạo giỏi với kỹ năng quản lý tốt,
am hiểu mặt hàng máy móc thiết bị phụ tùng.
- Nguồn vốn: nhập khẩu máy móc phụ tùng nói chung và đặc biệt là những
máy móc thiết bị hiện đại đòi hỏi có nguồn vốn lớn ổn định nhằm đảm bảo ổn định
nguồn cung cấp từ đó giúp doanh nghiệp đáp ứng tốt nhu cầu khách hàng.
- Nguồn nhân lực: kinh doanh nhóm hàng máy móc thiết bị phụ tùng nhập
khẩu đòi hỏi người thực hiện không những phải có trình độ nghiệp vụ kinh doanh
xuất nhập khẩu mà còn phải có kiến thức về kỹ thuật, hiểu được các tính năng kỹ
thụât, cách sử dụng, vận hành và bảo dưỡng máy móc thiết bị phụ tùng. Đội ngũ
14
nhân viên kinh doanh xuất nhập khẩu phải giỏi, có trình độ ngoại ngữ, thương mại
điện tử tốt. Nhân tố con người đóng vai trò quan trọng nhất trong hoạt động kinh
doanh của một công ty.
- Trình độ công nghệ thông tin: Để có năng lực cạnh tranh trong hoạt động
nhập khẩu nói chung và trong hoạt động nhập khẩu máy và phụ tùng nói riêng, khi
mà các tiến bộ khoa học kỹ thuật không ngừng được cải tiến, doanh nghiệp phải
được trang bị các công nghệ hiện đại giúp doanh nghiệp nhanh chóng tiếp cận thông
tin và ra được những quyết định đúng.
1.1.4.5 Uy tín, danh tiếng và thương hiệu của doanh nghiệp:.
Uy tín, danh tiếng của doanh nghiệp được hình thành không phải trong chốc
lát và là bằng cả một quá trình phấn đấu lâu dài, kiên trì theo đuổi mục tiêu chiến
lược đúng đắn của mình. Với đặc thù riêng của nhóm hàng máy móc phụ tùng nhập
khẩu là thời gian sử dụng kéo dài, sản phẩm có kết cấu phức tạp nên việc giữ gìn uy
tín danh tiếng là đặc biệt quan trọng.
Trong bối cảnh cơ chế thị trường và tự do cạnh tranh như hiện nay, muốn
nâng cao năng lực cạnh tranh trong hoạt động nhập khẩu máy móc và phụ tùng thì
việc tất yếu là phải tìm cách duy trì và giữ vững uy tín của mình đồng thời từng
bước xây dựng thương hiệu của doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh.
1.1.5 Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh
1.1.5.1 Các nhân tố nội tại doanh nghiệp
* Sự lựa chọn phạm vi kinh doanh của doanh nghiệp
Phạm vi kinh doanh, một nội dung quan trọng trong tuyên bố sứ mệnh của
doanh nghiệp, được Derek Abell (1980) luận giải là sự kết hợp của ba khía cạnh mà
doanh nghiệp cần phải làm rõ:
- Khách hàng là ai? Hay doanh nghiệp đang phục vụ cho đối tượng khách
hàng nào, phân đoạn thị trường nào?
15
- Nhu cầu nào của khách hàng sẽ được thoả mãn? Theo quan điểm của các
nhà kinh tế, sở dĩ khách hàng khi tiêu dùng sản phẩm thu lợi ích là do hàng hoá,
dịch vụ đó có những đặc tính giúp thoả mãn nhu cầu của họ. Doanh nghiệp cần thiết
kế, chế tạo và cung ứng sản phẩm với những đặc tính cụ thể nào đó để thoả mãn
nhu cầu khách hàng.
- Doanh nghiệp đáp ứng nhu cầu khách hàng bằng cách nào? Câu hỏi này
liên quan đến việc xác định các năng lực đặc biệt của doanh nghiệp. Đó là những lợi
thế cạnh tranh bền vững của doanh nghiệp được xây dựng dựa trên hai yếu tố mang
tính bổ sung hỗ trợ cho nhau là các nguồn lực và năng lực mà doanh nghiệp có.
Xác định đúng sự kết hợp của ba khía cạnh trên là tối quan trọng với việc
nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Xác định đúng phạm vi kinh doanh
cho doanh nghiệp biết cần đưa ra thị trường những sản phẩm gì, nhằm vào đối
tượng khách hàng mục tiêu nào, đối thủ cạnh tranh trực tiếp là ai, vũ khí và cách
thức cạnh tranh là gì (năng lực đặc biệt của doanh nghiệp)
* Năng lực quản lý, quyết tâm và cam kết của lãnh đạo doanh nghiệp đối với việc
nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Năng lực lãnh đạo thể hiện trong các công việc “đối nội” và “đối ngoại” của
nhà lãnh đạo doanh nghiệp. Về hoạt động đối nội, năng lực này thể hiện ở chỗ biết
phát huy sở trường của từng người và từng tập thể, gắn lợi ích cá nhân với lợi ích
của một tập thể và của toàn doanh nghiệp nhằm hướng tới mục tiêu chung của toàn
doanh nghiệp Về quan hệ đối ngoại, người lãnh đạo có năng lực là người biết nhìn
xa trông rộng, có óc quan sát và phân tích, phán đoán chính xác các cơ hội, nguy cơ
từ môi trường, có khả năng xử lý tốt các mối quan hệ với các đối tượng hữu quan
bên ngoài (như khách hàng, người cung cấp, các cơ quan nhà nước, cộng đồng địa
phương ) để tận dụng thời cơ và tránh nguy cơ cho doanh nghiệp.
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp có thể được quan niệm là khả năng tạo
dựng, duy trì và phát triển liên tục các lợi thế cạnh tranh một cách bền vững. Điều
này có nghĩa, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp cần sự quyết tâm và
16
cam kết dài hạn của lãnh đạo doanh nghiệp. Chỉ có quyết tâm và cam kết dài hạn họ
mới luôn tìm cách phát huy những lợi thế hiện có, lãnh đạo toàn bộ tổ chức sáng tạo
những lợi thế mới và nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
* Chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp.
Chiến lược kinh doanh ảnh hưởng đến việc tạo dựng và nâng cao năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp. Một mặt, chiến lược được xây dựng dựa trên lợi thế
cạnh tranh, phát huy điểm mạnh của doanh nghiệp nhằm cạnh tranh với các thủ
đoạn của đối thủ qua đó giành thắng lợi trong cạnh tranh. Mặt khác, thông qua các
chiến lược, doanh nghiệp có thể tạo dựng, duy trì và phát triển các lợi thế cạnh tranh
mới, và do đó năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được nâng cao.
* Văn hoá doanh nghiệp
Văn hoá doanh nghiệp là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến khả năng
cạnh tranh của doanh nghiệp vì yếu tố này tác động đến cách thức cá nhân, nhóm,
bộ phận tương tác với nhau và khả năng sáng tạo của họ. Nếu doanh nghiệp xây
dựng được truyền thống văn hoá thích hợp sẽ là nhân tố thuận lợi khai thông mọi ý
tưởng sáng tạo, tìm ra những cách thực hiện tốt hơn những nhiệm vụ thông thường,
nhạy cảm hơn với những thay đổi của môi trường, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của
khách hàng Ngược lại, nếu văn hoá doanh nghiệp đề cao cách làm việc mang
tính “áp khuôn”, máy móc, thụ động, không khuyến khích những ý tưởng mới sẽ
làm hạn chế khả năng đổi mới của doanh nghiệp.
* Năng lực tài chính của doanh nghiệp.
Năng lực tài chính của doanh nghiệp không chỉ thể hiện ở quy mô vốn kinh
doanh mà còn ở tình trạng tài chính tốt, biết cách huy động những nguồn tài chính
thích hợp để sản xuất, kinh doanh những sản phẩm hàng hoá có sức cạnh tranh phục
vụ tốt thị trường mục tiêu.
Vấn đề không phải là ở chỗ quy mô vốn của doanh nghiệp bao nhiêu mà là
doanh nghiệp sử dụng vốn hiệu qủa thế nào để phục vụ tốt nhu cầu của khách hàng
17
mục tiêu. Doanh nghiệp có số vốn càng nhỏ thì càng cần chú trọng đáp ứng nhu cầu
đặc thù của đối tượng khách hàng mục tiêu, điều mà các doanh nghiệp lớn không
làm được hoặc có thể làm nhưng không hiệu quả. Doanh nghiệp có năng lực tài
chính mạnh sẽ là điều kiện cần thiết để nâng cao năng lực cạnh tranh.
* Năng lực công nghệ của doanh nghiệp.
Năng lực công nghệ không chỉ thể hiện ở trình độ trang bị công nghệ mà còn
thể hiện ở trình độ chuyên môn, kỹ năng, kỹ xảo của người lao động trong doanh
nghiệp. Một doanh nghiệp có trình độ trang bị công nghệ nhưng không có đội ngũ
lao động sử dụng hiệu quả công nghệ ấy thì cũng không có khả năng cạnh tranh
mạnh được. Công nghệ thích hợp, hiện đại là điều kiện cần thiết để sản xuất các sản
phẩm có chất lượng cao, giá thành hạ, có nhiều tính năng ưu việt hơn các sản phẩm
cùng loại trên thị trường, và do đó giúp doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh.
1.1.5.2 Các nhân tố bên ngoài doanh nghiệp.
* Khả năng phản ứng nhanh và linh hoạt của đối thủ cạnh tranh.
Nếu đối thủ có khả năng nhanh chóng điều chỉnh chiến lược, từ bỏ các “cam
kết” đối với chiến lược cũ để chuyển sang chiến lược mới nhằm bắt chước thành
công của doanh nghiệp thì lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp có xu hướng tồn tại
nhất thời, khả năng cạnh tranh của doanh là không bền vững. Nếu ngược lại, doanh
nghiệp có nhiều khả năng duy trì lợi thế cạnh tranh và có năng lực cạnh tranh tốt hơn.
*Nhà cung cấp
Để kinh doanh đạt hiệu quả, doanh nghiệp phải tìm nguồn mua hay nhập
khẩu từ bên ngoài với các điều kiện là người cung cấp phải giao hàng đúng hẹn,
đúng chủng loại và đảm bảo các yêu cầu về chất lượng nếu không doanh nghiệp sai
hẹn với khách hàng và như vậy sẽ ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh. Mặt khác,
phải thiết lập mối quan hệ tốt với người cung cấp, giúp đỡ nhau giải quyết khó khăn
trong quá trình thực hiện hợp đồng.
* Thị trường tiêu thụ sản phẩm
18
Sản phẩm được tạo ra ngày càng nhiều, càng phong phú, đa dạng và chất
lượng ngày một cao, thị trường mở rộng vừa tạo ra nhiều cơ hội cho các doanh
nghiệp vừa mang lại nhiều thách thức do cạnh tranh ngày càng khốc liệt hơn.
Với trình độ khoa học kỹ thuật cao, ngày càng có thêm nhiều sản phẩm thay
thế gây trở ngại cho việc tiêu thụ sản phẩm, làm cho môi trường cạnh tranh trở lên
gay gắt hơn.
Bên cạnh đó, còn có nhiều rủi ro ảnh hưởng tới thị trường như thay đổi giá,
thay đổi chính sách, những biến động về chính trị, về tỉ giá cũng làm ảnh hưởng tới
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
* Môi trường thể chế và các chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước
Sự ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội là điều kiện cần thiết cho các
doanh nghiệp yên tâm đầu tư, phát triển sản xuất - kinh doanh, nâng cao khả năng
cạnh tranh của doanh nghiệp. Sự ổn định chính trị và đảm bảo trật tự an toàn xã hội
làm giảm rủi ro trong kinh doanh, hấp dẫn đầu tư nước ngoài.
1.2 Hoạt động nhập khẩu máy và phụ tùng.
1.2.1 Khái niệm
1.2.1.1 Khái niệm về nhập khẩu hàng hoá
Nhập khẩu là một hoạt động quan trọng của hoạt động ngoại thương, là một
trong hai hoạt động cơ bản cấu thành hoạt động ngoại thương. Theo Từ điển Tiếng
Việt của NXB Khoa học Xã hội năm 1998 “Nhập khẩu là một hoạt động chỉ hành
động mang một vật từ nước ngoài vào trong nước”. Trong giáo trình Kinh tế ngoại
thương của Trường Đại học Ngoại thương (NXB Giáo dục) định nghĩa “Nhập khẩu
là việc mua hàng hoá và dịch vụ của nước ngoài”. Theo Luật Thương mại 2005
được Quốc hội khoá XI thông qua ngày 14 tháng 6 năm 2005 ở Điều 28 mục 2 nêu
rằng “nhập khẩu hàng hoá là việc hàng hoá được đưa vào lãnh thổ Việt Nam từ
nước ngoài hoặc từ khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu
vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật”
19
Như vậy, có thể hiểu nhập khẩu là việc mua hàng hoá từ thị trường nước
ngoài và tiến hành tiêu thụ hàng hoá đó tại thị trường nội đia hoặc tái xuất với mục
đích thu lợi nhuận đồng thời nối liền sản xuất với tiêu dùng.
b) Khái niệm về nhập khẩu máy móc và phụ tùng
Nhập khẩu máy và phụ tùng là hoạt động nhập khẩu hàng hoá trong đó đối
tượng nhập khẩu là máy móc và phụ tùng.
Máy móc là vật chứa những bộ phận cố định hoặc tách rời, sử dụng năng
lượng thích hợp và chuyển đổi năng lượng sang dạng hữu ích hơn.
Phụ tùng là bộ phận phụ thêm vào máy hoặc một cơ cấu máy.
Nếu xét theo khái niệm kỹ thuật thì máy và phụ tùng là nằm trong khái niệm
về cơ khí. Cơ khí gồm 8 nhóm trọng điểm: thiết bị toàn bộ, máy động lực, cơ khí
phục vụ nông lâm ngư nghiệp và công nghiệp chế biến, máy công cụ, cơ khí xây
dựng, cơ khí đóng tàu, thiết bị kỹ thuật điện tử, cơ khí ô tô và cơ khí giao thông vận
tải. Với phạm vi và mục đích nghiên cứu của đề tài, máy và phụ tùng được hiểu là
các sản phẩm máy móc thiết bị phụ tùng phục vụ cho sản xuất và tiêu dùng trong nước.
1.2.2 Vai trò của nhập khẩu máy và phụ tùng với nền kinh tế Việt Nam
Bước vào thời kỳ 2001-2010, thế và lực của nước ta đã khác hẳn 10 năm
trước đây, đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, cơ sở hạ tầng và năng
lực sản xuất được cải thiện đáng kể, thị trường được mở rộng. Tuy nhiên trình độ
phát triển kinh tế còn thấp, cơ sở vật chất còn lạc hậu, trình độ khoa học kỹ thuật và
công nghệ chuyển biến chậm. Để khắc phục những tồn tại này, không còn cách nào
khác là Việt Nam phải tự trang bị máy móc và phụ tùng hiện đại để phục vụ cho
mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Trong phạm vi nghiên cứu, luận văn chỉ đi sâu vào vai trò của nhập khẩu
máy và phụ tùng với nền kinh tế Việt Nam, phục vụ mục tiêu công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước.
1.2.2.1 Đáp ứng nhu cầu thiếu hụt trong nước.
Việt Nam với xuất phát điểm là một nước còn lạc hậu về nhiều mặt. Tỉ lệ đầu
tư cho đổi mới công nghệ quá thấp, chỉ khoảng 0,2-0,3% doanh thu trong khi Ấn
20
Độ là 5% Hàn Quốc là 10%. Tỉ lệ đổi mới máy móc và thiết bị của Việt Nam hàng
năm cũng chỉ đạt 8-10% trong khi các nước trong khu vực tỉ lệ tương ứng là 15-
20%. Khả năng đáp ứng nhu cầu trong nước về máy và phụ tùng chỉ đạt 8-10% nhu
cầu ở những năm 1990 và tăng lên cũng chỉ đạt khoảng 35% nhu cầu trong giai
đoạn hiện nay. Như vậy, phần nhập khẩu máy và phụ tùng xây dựng nhà máy đã
chiếm từ 27,5% tới 30,5% tổng kim ngạch nhập khẩu[3] . Một số ngành nghề của
Việt Nam vẫn còn lạc hậu về công nghệ vì vậy hoạt động nhập khẩu không chỉ bù
đắp sự thiếu hụt về lượng mà còn bù đắp sự thiếu hụt về chất cho nền kinh tế Việt
Nam.
1.2.2.2 Thúc đẩy sự phát triển của các ngành kinh tế theo hướng công nghiệp
hoá
Cuối thế kỷ 20, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa ra nghị quyết chính thức
khởi xướng và lãnh đạo tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đây là
một nhiệm vụ rất khó khăn trong bối cảnh quốc tế đa dạng, phức tạp và nhiều chông
gai. Buổi đầu bước vào thị trường, các doanh nghiệp chế tạo máy còn chưa bắt kịp
quy chế mới. Chính vì vậy, chúng ta phải chuyển giao công nghệ bằng cách nhập
khẩu sau đó ứng dụng, cải tiến có sáng tạo rồi mới đưa vào sản xuất.
1.2.2.3 Tăng tốc độ cơ khí, tự động hoá
Hiện nay ở Việt Nam, các thiết bị cơ điện của nhiều doanh nghiệp quá cũ,
mức tự động hoá thấp. Do đó, muốn tân trang lại các nhà máy, dây truyền tự động,
thay thế, sửa chữa các thiết bị cần nhập khẩu hàng từ nước ngoài.
1.2.2.4 Tăng năng suất lao động xã hội và đẩy mạnh phân công lao động và thúc
đẩy xuất khẩu.
Theo tiêu chuẩn thông thường trên thế giới, muốn trở thành một nước công
nghiệp thì tỉ trọng lao động làm nông nghiệp phải thấp hơn 10% trong tổng số
người trong độ tuổi lao động. Lao động của ngành công nghiệp sản xuất chủ chốt
phải được cơ giới hoá 85%, máy móc và tự động hoá phải thay thế phần lớn sức
21
người. Vì vậy, nâng cao hiệu quả sử dụng máy móc thiết bị phụ tùng nhập khẩu là
một nhiệm vụ nặng nề, có vai trò làm tăng năng suất lao động xã hội.
Mục tiêu của chúng ta là nâng cao tỉ trọng hàng đã qua chế biến trong tổng
lượng hàng xuất khẩu, tăng hàm lượng chất xám cho mỗi sản phẩm đồng nghĩa với
việc phải đầu tư công nghệ cho sản xuất. Trong điề kiện chung của kinh tế hiện nay,
mặc dù đầu tư cho khoa học công nghệ tăng nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu
phát triển. Do đó, việc nhập khẩu máy và phụ tùng là rất cần thiết.
1.2.3 Quy trình nhập khẩu máy và phụ tùng.
Cũng như các loại hàng hoá thông thường khác, khi tiến hành nhập khẩu máy
móc thiết bị phụ tùng cần tuân theo các quy trình tóm tắt ở hình 1.1 :
22
Hình 1.1: Sơ đồ quy trình nhập khẩu hàng hoá
1.2.3.1 Chuẩn bị giao dịch.
* Nghiên cứu thị trường.
Vấn đề nghiên cứu thị trường để có một hệ thống thông tin về thị trường đầy
đủ, chính xác, kịp thời sẽ làm cơ sở cho doanh nghiệp có những quyết định đúng
đắn, đáp ứng được các tình thế của thị trường.
- Nghiên cứu thị trường trong nước.
+ Nghiên cứu mặt hàng nhập khẩu. Mục đích là để tìm ra mặt hàng nhập khẩu
mà nhu cầu trong nước đang cần nhưng phải phù hợp với điều kiện và mục tiêu lợi
nhuận của doanh nghiệp.
23
Chuẩn bị giao dịch
Giao dịch, đ
m phán và à
ký kết hợp đồng nhập
Tổ chức thực hiện hợp
đồng nhập khẩu
Thuê
phươn
g tiện
vận tải
Mua
bảo
hiểm
h ng à
hoá
L m à
thủ
tục
hải
quan
Nhậ
n
h ngà
Kiểm
tra
h ng à
hoá
nhập
khẩu
L m à
thủ
tục
thanh
toán
Khiếu
nại
v à
giải
quyết
khiếu
nại
+ Nghiên cứu dung lượng thị trường và các nhân tố ảnh hưởng để xác định
nhu cầu thật của khách hàng kể cả lượng dự trữ, xu hướng biến động của nhu cầu
trong từng thời điểm, từng vùng, từng khu vực.
+ Nghiên cứu đối thủ cạnh tranh để nắm vững về thông tin số lượng các đối
thủ cạnh tranh trong mặt hàng kinh doanh, tình hình hoạt động, tỷ trọng thị trường,
thế mạnh, điểm yếu của các đối thủ.
+ Nghiên cứu sự vận động của môi trường kinh doanh để thể nắm bắt được
qui luật vận động của môi trường kinh doanh và có các biện pháp phòng ngừa hiệu
quả.
- Nghiên cứu thị trường quốc tế
Nghiên cứu thị trường quốc tế là công việc rất khó khăn và phức tạp do sự
khác biệt lớn về chính trị, địa lý, văn hoá, phong tục tập quán Nghiên cứu thị
trường quốc tế cần xem xét các yếu tố cung cầu, giá cả, cạnh tranh
+ Nguồn cung cấp hàng hoá trên thị trường quốc tế: Doanh nghiệp cần nắm
vững được tình hình các nguồn cung cấp trên thị trường quốc tế mà doanh nghiệp
có khả năng giao dịch rồi từ đó nghiên cứu các đặc diểm thị trường các nước cung
cấp trên các phương diện: Thái độ và quan điểm của nước cung cấp thể hiện qua các
chính sách ưu tiên xuất khẩu hay hạn chế nhập khẩu; Tình hình chính trị hay thái độ
của quốc gia đó có ổn định không, có tác động đến nguồn mặt hàng đó như thế nào?
Về vị trí địa lý có thuận tiện cho giao dịch mua bán, có đem lại hiệu quả kinh doanh
hay không? Có tiết kiệm chi phí vận chuyển, bảo hiểm trong quá trình nhập khẩu
của doanh nghiệp không?
+ Nghiên cứu giá cả hàng hoá trên thị trường quốc tế: Trên thị trường hàng
hóa thế giới, giá cả chẳng những phản ánh mà còn điều tiết mối quan hệ hàng hóa.
Việc xác định đúng đắn giá cả hàng hóa trong xuất khẩu và nhập khẩu có ý nghĩa
rất lớn đối với hiệu quả thương mại quốc tế.
24
* Lựa chọn khách hàng
Việc nghiên cứu tình hình thị trường giúp cho đơn vị kinh doanh lựa chọn thị
trường, thời cơ thuận lợi, lựa chọn phương thức mua bán và điều kiện giao dịch
thích hợp. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, kết quả hoạt động kinh doanh còn
phụ thuộc vào khách hàng. Trong cùng những điều kiện như nhau, việc giao dịch
với khách hàng cụ thể này thì thành công, với khách hàng khác thì bất lợi.
Để lựa chọn khách hàng, không nên căn cứ vào những lời quảng cáo, tự giới
thiệu, mà cần tìm hiểu khách hàng về thái độ chính trị của thương nhân, khả năng
tài chính, lĩnh vực kinh doanh và uy tín của họ trong kinh doanh.
* Lập phương án kinh doanh
Dựa trên cơ sở nghiên cứu thị trường trong và ngoài nước ta tiến hành lập
phương án kinh doanh hàng nhập khẩu. Phương án kinh doanh được lập đầy đủ và
chính xác sẽ giúp cho doanh nghiệp lường trước được những rủi ro và đạt hiệu quả
cao trong kinh doanh.
Trình tự lập một phương án kinh doanh hàng nhập khẩu bao gồm các bước
sau:
- Nhận định tổng quát về tình hình diễn biến thị trường.
- Đánh giá khả năng của doanh nghiệp.
- Xác định thị trường, mặt hàng nhập khẩu và số lượng mua bán.
- Xác định đối tượng giao dịch để nhập khẩu.
- Xác định thị trường và khách hàng tiêu thụ.
- Xác định giá cả mua bán trong nước.
- Đề ra các biện pháp thực hiện.
1.2.3.2 Giao dịch đàm phán ký kết hợp đồng
* Giao dịch, đàm phán
Sau giai đoạn nghiên cứu môi trường marketing quốc tế, thị trường, lựa chọn
được khách hàng, mặt hàng kinh doanh, hoạch định phương án kinh doanh, bước
25