Tải bản đầy đủ (.doc) (82 trang)

TĂNG CƯỜNG HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI NGÂN HÀNG TMCP SÀI GÒN THƯƠNG TÍN SACOMBANK

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (377.17 KB, 82 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
*

*

*

Trần Thị Diệu Hằng

TĂNG CƯỜNG HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI
NGÂN HÀNG TMCP SÀI GỊN THƯƠNG TÍN
SACOMBANK

CHUN NGÀNH: TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG

LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS. LÊ ĐỨC LỮ


2

HÀ NỘI, Năm 2008


3

TĂNG CƯỜNG HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI NGÂN HÀNG
TMCP SÀI GỊN THƯƠNG TÍN SACOMBANK


PHẦN MỞ ĐẦU
I – Sự cần thiết của đề tài
Hoạt động huy động vốn là nghiệp vụ truyền thống của các Ngân hàng
thương mại cũng là nền tảng cho sự thịnh vượng và phát triển của Ngân hàng.
Năng lực của đội ngũ nhân viên cũng như của các nhà quản lý Ngân hàng
trong việc phát triển hoạt động huy động vốn là một thước đo quan trọng về
sự chấp nhận của công chúng đối với Ngân hàng. Huy động vốn là cơ sở
chính của các khoản cho vay và do đó là nguồn gốc sâu sa của lợi nhuận và sự
phát triển trong ngân hàng.
Đứng trước sự cạnh tranh gay gắt của các Tổ chức tín dụng khác trên
thị trường, Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín ( Sacombank) nhận thấy
cần phải tăng cường hoạt động huy động vốn để có thể đáp ứng nhu cầu vốn
đối với sự phát triển của ngân hàng nói riêng và của xã hội nói chung. Do đó,
hoạt động huy động vốn đã được chú trọng ngay từ khi thành lập đến nay. Sau
16 năm phát triển, hoạt động huy động vốn tại Ngân hàng Sài Gịn Thương
Tín đã đạt được những kết quả nhất định.
Tuy nhiên, hoạt động huy động vốn tại Sacombank nói riêng và tại các
ngân hàng cổ phần nói chung cịn gặp nhiều hạn chế do sự phân biệt của
người dân giữa ngân hàng quốc doanh với ngân hàng cổ phần và do chính bản
thân ngân hàng. Do đó, vấn đề đặt ra đối với Sacombank là phải khắc phục
những hạn chế đó để tăng cường hoạt động huy động vốn nhằm mục tiêu đáp
ứng nhu cầu vốn cho sự phát triển của ngân hàng.


4

Để góp phần giải quyết vấn đề này, trên cơ sở kết hợp giữa nghiên cứu
lý luận và thực tiễn, trong thời gian cơng tác tại Ngân hàng Sài Gịn Thương
Tín tơi đã chọn đề tài “Tăng cường hoạt động huy động vốn tại Ngân hàng
TMCP Sài Gịn Thương Tín”

II – Mục đích nghiên cứu của luận văn
Thơng qua việc nghiên cứu nội dung các hình thức và thực trạng huy
động vốn tại Ngân hàng Sài Gịn Thương Tín thời gian qua nhằm tìm ra những
nguyên nhân làm hạn chế hoạt động huy động vốn từ đó đề xuất những giải
pháp tăng cường hoạt động huy động vốn tại Sacombank trong thời gian tới.
III – Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu các phương thức huy động vốn của Ngân hàng
thương mại trong nền kinh tế thị trường. Nghiên cứu thực trạng và khả năng
huy động vốn của Ngân hàng Sài Gịn Thương Tín trong khoảng thời gian 3
năm từ năm 2005 đến năm 2007
IV – Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử,
đồng thời kết hợp các phương pháp tổng hợp, tư duy lôgic kinh tế nhằm làm
sáng tỏ những vấn đề đặt ra trong quá trình nghiên cứu.
V – Bố cục luận văn
Ngồi lời nói đầu và phần kết luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về huy động vốn của ngân hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng huy động vốn tại Sacombank
Chương 3: Giải pháp nhằm tăng cường hoạt động huy động vốn tại Ngân
hàng TMCP Sài Gịn Thương Tín


5

VI- Các cơng trình nghiên cứu trước đây
Đã có nhiều đề tài nghiên cứu để phát triển, tăng cường và mở rộng vốn
tại các ngân hàng. Tuy nhiên, chưa có đề tài nào nghiên cứu các hình thức
huy động vốn cũng như các giải pháp để tăng cường huy động vốn tại Ngân
hàng Sài Gịn thương tín. Chính vì vậy mà luận văn này sẽ tập trung nghiên
cứu các hình thức cũng như các phương thức huy động vốn tại Sacombank và

từ đó đề ra các giải pháp nhằm tăng cường hoạt động vốn tại Ngân hàng này.


6

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HUY ĐỘNG VỐN CỦA
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 Các hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại (NHTM):
NHTM có hoạt động gần gũi nhất với dân chúng và nền kinh tế. Trong
các nước phát triển, hầu như khơng có cơng dân nào khơng có quan hệ giao
dịch với một ngân hàng. Nền kinh tế càng phát triển, hoạt động và dịch vụ của
NHTM càng đi vào tận cùng những ngõ ngách của nền kinh tế và đời sống
của con người. Mọi công dân đều chịu tác động của ngân hàng, dù họ là
khách hàng tiền gửi, một người vay hay đơn giản là người đang làm việc cho
một doanh nghiệp có vay vốn và sử dụng dịch vụ của ngân hàng.
Nghiệp vụ ngân hàng nói chung bao gồm tất cả những việc mà ngân
hàng thường làm trong khuôn khổ nghề nghiệp của họ. Tùy điều kiện kinh tế
và mức độ phát triển kỹ thuật của mỗi nước, các hoạt động kinh doanh của
NHTM có thể khác nhau về phạm vi và cơng nghệ. Nhưng nói chung, hoạt
động của NHTM bao gồm:
-

Hoạt động huy động vốn

-

Hoạt động sử dụng vốn

-


Hoạt động trung gian khác

a) Hoạt động huy động vốn:
Đây là hoạt động khởi đầu tạo điều kiện cho sự hoạt động của ngân
hàng. Huy động các nguồn vốn khác nhau trong xã hội để hoạt động là lẽ
sống còn quan trọng nhất của NHTM
Huy động vốn từ vốn tự có
Vốn tự có là vốn riêng của ngân hàng do chủ sở hữu đóng góp và các
quỹ của ngân hàng được hình thành trong quá trinh kinh doanh được thể hiện
ở dạng lợi nhuận để lại.


7

Vốn tự có có thể được phân chia thành vốn cơ bản và vốn bổ sung.
Vốn tự có cơ bản bao gồm: cổ phẩn thường, vốn cổ phần ưu đãi, các
quỹ dự trữ, quỹ dự phịng, lợi nhuận khơng chia và điều chỉnh tăng giá tài sản
cố định, chứng khoán, thu nhập bất thường.
Vốn tự có bổ sung bao gồm cổ phần ưu đãi có thời hạn, trái phiếu trung
hạn được chuyển đổi nhưng chỉ được phép dưới 50%
Nguồn này có tính ổn định cao, NHTM khơng phải hồn lại và là điều
kiện pháp lý, tài chính để thành lập ngân hàng và hoạt động kinh doanh. Nó là
bộ phận nguồn vốn phản ánh quy mô, tầm cỡ của ngân hàng.
Các NHTM thường huy động nguồn này thông qua nghiệp vụ phát
hành cổ phiếu, trái phiếu được chuyển đổi thành cổ phiếu, nhận vốn cấp phát
từ ngân sách nhà nước.
Huy động vốn từ TCKT, cá nhân
Nguồn vốn chủ sở hữu thường có tỷ lệ nhỏ so với số tiền mà NHTM sử
dụng trong hoạt động kinh doanh. Vì vậy, phần lớn là NHTM phải huy động
từ TCKT, cá nhân. Đây là khoản mục duy nhất trên bảng cân đối kế tốn giúp

phân biệt ngân hàng với các loại hình doanh nghiệp khác.Và là cơ sở chính
của các khoản vay, do đó nó là nguồn gốc sâu xa của lợi nhuận và sự phát
triển trong ngân hàng.
Dựa vào tính khả dụng vốn thì NHTM có thể huy động dưới các hình
thức sau:


Tiền gửi khơng kỳ hạn: là loại tiền gửi hồn tồn theo quy tắc khả dụng,
nghĩa là người gửi có quyền rút tiền vào bất kỳ lúc nào họ muốn. Mục đích
của khách hàng là muốn sử dụng các tiện ích của NHTM cung ứng



Tiền gửi có kỳ hạn: là loại tiền gửi có sự thỏa thuận về thời gian rút tiền
giữa khách hàng và ngân hàng. Trong thời gian này có quyền chủ động sử


8

dụng tiền do khách hàng ký gửi. Nếu khách hàng muốn rút tiền trước thời
hạn thì phải được sự đồng ý của ngân hàng.


Tiền gửi tiết kiệm: là loại tiền gửi với mục đích hưởng lãi, và được huy
động dưới nhiều hình thức
Nguồn vay mượn:
Sau khi đã sử dụng hết vốn, nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu cho

vay vốn của khách hàng, hoặc đáp ứng nhu cầu thanh tốn và chi trả của
khách hàng, các NHTM có thể sử dụng nghiệp vụ đi vay ở ngân hàng TW, ở

các NHTM khác, vay ở thị trường tiền tệ, vay các tổ chức nước ngồi... Vốn
đi vay thơng thường chiếm tỷ trọng không lớn trong kết cấu nguồn vốn. Tuy
nhiên nó rất cần thiết và có vị trí quan trọng để đảm bảo cho ngân hàng hoạt
động kinh doanh một cách bình thường.
Huy động từ các nguồn khác
NHTM có thể huy động vốn thông qua nghiệp vụ ngân hàng đại lý,
ngân hàng phục vụ... uy tín của ngân hàng là cơ sở quan trọng để mở rộng
nguồn vốn này.
b) Hoạt động sử dụng vốn:
Hoạt động sử dụng vốn của NHTM tập trung ở ba nghiệp vụ chính: dự
trữ, cho vay và đầu tư.
Dự trữ:
Dự trữ là nghiệp vụ nhằm duy trì khả năng thanh tốn của ngân hàng để
đáp ứng nhu cầu chi trả cho khách hàng vì người gửi có thể rút tiền bất kỳ lúc
nào. Đây là khoản mục khơng được sử dụng vào mục đích sinh lời, gần như
khơng tạo ra lợi nhuận nhưng lại đóng vai trị hết sức quan trọng vì nó là
nguồn thanh khoản chủ yếu của ngân hàng. Mức dự trữ này cao hay thấp phụ
thuộc vào quy mô hoạt động của NHTM, mối quan hệ thanh toán và chuyển
khoản, thời vụ của các khoản chi trả tiền mặt.


9

Dự trữ có thể tồn tại ở các dạng: tiền mặt tại quỹ của ngân hàng, tiền
gửi tại các tổ chức tín dụng khác và chứng khốn ngắn hạn, những tài sản có
tính lỏng cao.
Cho vay:
Cho vay là hoạt động kinh doanh chủ chốt của NHTM để tạo ra lợi
nhuận, hay cho vay là bộ phận tài sản có đem lại lợi nhuận chủ yếu cho ngân
hàng, thường chiếm 80-90% trong tổng tài sản có.

Trong nền kinh tế, ln có những người tạm thời thừa vốn và có những
người có nhu cầu sử dụng vốn vượt quá số vốn họ có. Họ đến với nhau thơng
qua mơi giới trung gian là ngân hàng. Qua ngân hàng, người thừa vốn thấy
đồng tiền của mình cũng có khả năng sinh lợi và sẽ được nhận về một khoản
tiền lớn hơn, còn người thiếu vốn sẽ được thỏa mãn nhu cầu về vốn. Chênh
lệch giữa mức lãi suất tiền gửi (khoản lợi của người gửi tiền) và lãi suất cho
vay (chi phí cho việc sử dụng tiền của người vay) hình thành nên thu nhập
của ngân hàng.
Kinh tế càng phát triển, lượng cho vay của các NHTM càng tăng nhanh
và loại hình cho vay cũng càng trở nên vô cùng đa dạng. Đồng thời cũng tạo
rất nhiều rủi ro cho ngân hàng thương mại.
Đầu tư:
Ngân hàng có thể tìm kiếm con đường sinh lợi cho mình bằng những hoạt
động đầu tư, có thể là đầu tư trực tiếp, hoặc đầu tư gián tiếp hoặc cả hai. Với đầu
tư trực tiếp, ngân hàng góp vốn liên doanh, liên kết, đầu tư vào trang thiết bị...
chủ động tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Còn
đầu tư gián tiếp, tùy vào mục đích của mình mà ngân hàng sẽ đầu tư vào những
loại chứng khốn khác nhau. Tuy nhiên, nó cũng chứa nhiều rủi ro, vì vậy
NHTM cần phân tích kỹ lưỡng trước khi lựa chọn loại chứng khoán để đầu tư.
Hoạt động trung gian:


10

Nền kinh tế càng phát triển, các dịch vụ ngân hàng theo đó cũng phát
triển theo để đáp ứng yêu cầu ngày càng đa dạng của công chúng. Thực hiện
các hoạt động trung gian mang tính dịch vụ sẽ đem lại cho các NHTM những
khoản thu nhập khá quan trọng, và sẽ giúp NHTM phát triển toàn diện.
Nghiệp vụ trung gian gồm rất nhiều loại dịch vụ ngân hàng khác nhau
như: dịch vụ chuyển tiền, dịch vụ thu hộ chi hộ, dịch vụ chi lương cho các

doanh nghiệp, bảo quản hộ tài sản, dịch vụ môi giới tư vấn, dịch vụ bảo lãnh
phát hành chứng khốn...
Tóm lại: Nghiệp vụ kinh doanh của NHTM là rất đa dạng và phong phú
song tựu chung lại, nghiệp vụ chính của ngân hàng vẫn là hoạt động liên quan
đến huy động vốn, sử dụng vốn. Để có thể hoạt động được, NHTM buộc phải
có một số vốn nhất định để duy trì hai loại họat động này. Vì vậy, ta có thể
nói huy động vốn là một phần hoạt động chủ yếu của NHTM.
1.2 Vốn trong hoạt động của Ngân hàng thương mại
1.2.1 Khái niệm cơ bản về vốn của Ngân hàng thương mại
Vốn của NHTM là những giá trị tiền tệ do NHTM tạo lập hoặc huy
động, dùng để cho vay, đầu tư hoặc thực hiện các dịch vụ kinh doanh khác.
Thực chất của nguồn vốn ngân hàng thương mại là một bộ phận thu
nhập quốc dân tạm thời nhàn rỗi trong quá trình sản xuất, phân phối và tiêu
dùng mà người chủ sở hữu chúng gửi vào ngân hàng với mục đích khác nhau.
1.2.2 Phân loại vốn của Ngân hàng thương mại
Ta có thể chia vốn của NHTM thành 3 loại như sau:
1.2.2.1 Vốn chủ hay cịn gọi là vốn tự có
Vốn tự có chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn của Ngân
hàng, nhưng do tính chất thường xuyên ổn định của nó Ngân hàng có thể chủ
động sử dụng vào các mục đích khác nhau như: trang bị cơ sở vật chất, tạo tài


11

sản cố định và đặc biệt tham gia đầu tư góp vốn liên doanh. Mặt khác, với
chức năng bảo vệ, vốn tự có được coi như tài sản đảm bảo gây lịng tin với
khách hàng, duy trì khả năng thanh toán trong trường hợp Ngân hàng gặp
nhiều thua lỗ. Vốn tự có cịn là một trong những căn cứ quyết định đến quy
mô, khối lượng vốn huy động của Ngân hàng.
Vốn tự có của NHTM bao gồm các thành phần cơ bản:

a) Vốn điều lệ:
Vốn điều lệ là mức vốn được quy định trong điều lệ của Ngân hàng, tối
thiểu phải bằng vốn pháp định. Đây là điều kiện quyết định để Ngân hàng
được phép thành lập và hoạt động. Tuỳ theo tính chất sở hữu của từng Ngân
hàng mà nguồn vốn này được hình thành một cách khác nhau. Trong quá trình
hoạt động, vốn điều lệ của Ngân hàng được tăng dần lên do việc trích lập các
quỹ từ lợi nhuận ròng của Ngân hàng chuyển sang.
b) Nguồn vốn dự trữ từ các quỹ:


Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ: Quỹ này được trích theo luật định để
đảm bảo dần dần bổ sung vào vốn điều lệ, đáp ứng được yêu cầu mở
rộng hoạt động kinh doanh phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế.
Nó được trích ra hàng năm từ lợi nhuận rịng của Ngân hàng theo một
tỷ lệ nhất định cho đến khi đạt đến một mức nào đó thì có thể xin
NHTW cho chuyển vào bổ sung vốn điều lệ.



Quỹ dự trữ bù đắp rủi ro: cũng được trích từ lợi nhuận rịng hàng năm
của Ngân hàng theo một tỷ lệ nhất định. Mục đích của quỹ này là để bù
đắp vào những rủi ro có thể xảy ra trong q trình hoạt động của Ngân
hàng, đảm bảo tránh việc phá sản cho Ngân hàng.

c) Nguồn vốn tự có khác:


12

Nguồn này bao gồm các khoản như: lợi nhuận chưa chia của Ngân

hàng, các khoản Nhà nước tài trợ, các tổ chức xã hội, phi chính phủ tài trợ,
việc tăng thêm do định giá lại tài sản..
1.2.2.2 Vốn nợ
a) Vốn huy động:
Vốn huy động là những giá trị tiền tệ mà Ngân hàng huy động được từ
các tổ chức kinh tế và các cá nhân trong xã hội thông qua quá trình thực hiện
các nghiệp vụ Ngân hàng.
b) Vốn vay:
Vốn đi vay là mối quan hệ vay mượn giữa Ngân hàng thương mại với
Ngân hàng Nhà nước, hoặc giữa các Ngân hàng thương mại với nhau hay các
tổ chức tín dụng khác. Sau khi đã sử dụng hết vốn, nhưng vẫn chưa đáp ứng
được nhu cầu cho vay vốn của khách hàng, hoặc đáp ứng nhu cầu thanh toán
và chi trả của khách hàng, các NHTM có thể sử dụng nghiệp vụ đi vay ở
Ngân hàng TW, ở các NHTM khác, vay ở thị trường tiền tệ, vay các tổ chức
nước ngồi… Vốn đi vay thơng thường chiếm tỷ trọng khơng lớn trong kết
cấu nguồn vốn. Tuy nhiên nó rất cần thiết và có vị trí quan trọng để đảm bảo
cho ngân hàng hoạt động kinh doanh một cách bình thường.
c) Vốn khác:
Vốn khác bao gồm vốn trong thanh toán, vốn uỷ thác. Ngồi ra, các
NHTM có thể huy động vốn thông qua nghiệp vụ ngân hàng đại lý, ngân
hàng phục vụ…
1.2.3 Vai trị của vốn và cơng tác huy động vốn đối với NHTM
Một trong những vấn đề đáng lưu tâm nhất của hệ thống ngân hàng
trong vài năm gần đây là việc tăng và duy trì vốn chủ sở hữu ở mức hợp lý.
Thuật ngữ “vốn chủ sở hữu” có một ý nghĩa đặc biệt với ngân hàng, vốn thực


13

hiện một số chức năng không thể thay thế trong hoạt động ngân hàng, như

cung cấp những nguồn lực ban đầu để giúp ngân hàng mới thành lập hoạt
động, cung cấp nền tảng cho sự tăng trưởng và mở rộng, giúp ngân hàng
chống lại rủi ro, duy trì niềm tin của công chúng và của các cổ đông vào khả
năng quản lý và phát triển ngân hàng.
Vốn chủ sở hữu của một ngân hàng thương mại đóng vai trị sống cịn
trong việc duy trì các hoạt động thường nhật và đảm bảo cho ngân hàng khả
năng phát triển lâu dài.
Thứ nhất: Vốn đóng vai trị là một tấm đệm giúp chống lại rủi ro phá
sản vì vốn giúp trang trải những thua lỗ về tài chính và nghiệp vụ cho tới khi
ban quản lý có thể tập trung giải quyết các vấn đề và đưa ngân hàng trở lại
trạng thái sinh lời.
Thứ hai: Vốn là điều kiện bắt buộc để ngân hàng có được giấy phép tổ
chức và hoạt động trước khi nó có thể huy động được những khoản tiền gửi
đầu tiên. Một ngân hàng mới luôn cần vốn ban đầu để mua đất, xây dựng cơ
sở hạ tầng, trang bị những điều kiện làm việc, thuê nhân viên thậm chí ngay
cả trước ngày hoạt động chính thức.
Thứ ba: Vốn tạo niềm tin cho công chúng và là sự đảm bảo đối với chủ
nợ ( gồm cả người gửi tiền) về sức mạnh tài chính của ngân hàng. Ngân hàng
cần phải đủ mạnh để có thể đảm bảo với những người đi vay rằng ngân hàng
có thể đáp ứng nhu cầu tín dụng của họ ngay cả trong điều kiện nền kinh tế
đang gặp khó khăn.
Thứ tư: Vốn cung cấp năng lực tài chính cho sự tăng trưởng và phát triển
của các hình thức dịch vụ mới, cho những chương trình và trang thiết bị mới.
Khi một ngân hàng phát triển, nó cần vốn bổ sung để thúc đẩy tăng trưởng và
chấp nhận rủi ro gắn với sự ra đời những dịch vụ mới và những trang thiết bị
mới. Hầu hết các ngân hàng đều mở rộng và phát triển cơ sở vật chất so với


14


lúc đầu và sự bổ sung vốn sẽ cho phép ngân hàng mở rộng trụ sở, xây dựng
thêm những văn phòng chi nhánh để theo kịp với sự phát triển của thị trường
và tăng cường chất lượng phục vụ khách hàng.
Cuối cùng, vốn được xem như một phương tiện điều tiết sự tăng
trưởng, giúp đảm bảo rằng sự tăng trưởng của một ngân hàng có thể được duy
trì ổn định, lâu dài. Cả các cơ quan quản lý ngân hàng và thị trường tài chính
đều địi hỏi rằng vốn ngân hàng cần phải được phát triển tương ứng với sự
tăng trưởng của danh mục cho vay và của những tài sản rủi ro khác. Do đó,
“tấm đệm” dùng để chống đỡ những thua lỗ cần phải được củng cố, bổ sung
tương xứng với quy mô rủi ro của ngân hàng. Một ngân hàng mở rộng quá
nhanh hoạt động huy động vốn và cho vay sẽ nhận được dấu hiệu của thị
trường và của các cơ quan quản lý yêu cầu kiềm chế tốc độ tăng trưởng hoặc
ngân hàng cần phải bổ sung thêm vốn.
Nếu vốn chủ sở hữu là tiền đề ban đầu cho sự hoạt động ban đầu của
ngân hàng thì vốn huy động là nhân tố khơng thể thiếu để một ngân hàng tồn
tại và phát triển. Vốn huy động là cơ sở chính của các khoản cho vay và do
đó, nó là nguồn gốc sâu xa của lợi nhuận và sự phát triển trong ngân hàng.
Khi huy động vốn, ngân hàng phải duy trì dự trữ bắt buộc và sau khi trừ đi
các khoản dự trữ để đảm bảo khả năng thanh tốn, ngân hàng có thể cho vay
phần huy động còn lại. Khả năng huy động vốn với mức lãi suất hợp lý cũng
như khả năng đáp ứng các yêu cầu xin vay là những chỉ số đánh giá tính hiệu
quả trong quản lý ngân hàng. Các nhà quản lý ngân hàng cần phải làm gì để
đảm bảo rằng ngân hàng ln ln có đủ vốn để đáp ứng những nhu cầu tín
dụng cũng như các dịch vụ tài chính khác mà xã hội yêu cầu.
Nhận thức rõ vai trò của vốn đối với NHTM từ đó cơng tác huy động
vốn được quan tâm tương xứng và cũng có ý nghĩa sống cịn đối với NHTM.
1.3 Các hình thức huy động vốn của Ngân hàng thương mại


15


1.3.1 Huy động vốn chủ sở hữu
Nguồn vốn chủ sở hữu là nguồn vốn trung và dài hạn, đóng vai trò nền
tảng, là cơ sở để thu hút những nguồn vốn khác. Tuy nó chiếm một tỷ trọng
khơng lớn trong cơ cấu nguồn vốn của NHTM nhưng nó có ý nghĩa quyết
định tới sự thành bại và phát triển của ngân hàng.
Vốn chủ sở hữu có thể được xem xét dưới các góc độ sau:
a) Vốn pháp định: Điều kiện hàng đầu để khởi nghiệp trước khi được phép
khai trương ngân hàng là phải có đủ vốn ban đầu theo luật định. Ở Việt Nam,
để thành lập một NHTM trước hết phải có đủ vốn pháp định theo mức quy
định của Ngân hàng Nhà nước.
Vốn pháp định của mỗi ngân hàng được hình thành do tính chất sở hữu của
ngân hàng quyết định. Theo quy định của Việt Nam có thể khái quát như sau:
-

Nếu là NHTM thuộc sở hữu Nhà nước, vốn pháp định do ngân sách
Nhà nước cấp 100% vốn ban đầu.

-

Nếu là NHTM cổ phần, vốn pháp định do sự đóng góp của các cổ đơng
dưới hình thức phát hành cổ phiếu.
Cổ phiếu ngân hàng là chứng chỉ đầu tư vốn, nó xác nhận phần hùn của

người sở hữu cổ phiếu trong ngân hàng. Người sở hữu cổ phiếu được gọi là cổ
đông, là chủ sở hữu vốn và có trách nhiệm về mặt pháp lý trong phạm vi của
vốn góp. Cổ đơng khơng được rút vốn khỏi ngân hàng bằng cách trả lại cổ
phiếu cho ngân hàng, cổ đông được chia lãi theo tỷ lệ vốn góp vào ngân hàng,
nhưng phải chịu mọi rủi ro mà ngân hàng gặp phải. Cổ phiếu không kỳ hạn,
tồn tại cùng với sự tồn tại của ngân hàng phát hành.

Đầu tiên, cổ phiếu có ghi tên người sở hữu, gọi là cổ phiếu ký danh.
Hình thức này có nhược điểm là khi muốn chuyển nhượng cho người khác
phải được Hội đồng quản trị cho phép, điều này gây trở gại cho việc lưu thơng
cổ phiếu trên thị trường chứng khốn. Và vậy, đến thế kỷ 18, cổ phiếu vô


16

danh ra đời và sang thế kỷ 19 thì cổ phiếu vơ danh gần như hồn tồn thay thế
cho cổ phiếu ký danh.
Cổ phiếu có 02 loại: cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi:
-

Cổ phiếu thường, còn gọi là chứng khốn vốn, là giấy chứng nhận phần
vốn góp của người nắm giữ cổ phiếu đó trong ngân hàng. Người chủ sở
hữu cổ phiếu thường, gọi là cổ đơng, có quyền bầu cử Hội đồng quản
trị và bỏ phiếu các vấn đề chính của ngân hàng, vì họ cũng là các chủ
sở hữu của ngân hàng. Cổ phiếu thường có 02 đặc điểm quan trọng, là
quyền đòi hỏi cuối cùng và trách nhiệm hữu hạn. Quyền đòi hỏi cuối
cùng, nghĩa là các cổ đông thường là những người đứng cuối cùng
trong hàng ngũ những người có quyền địi hỏi đối với tài sản và lợi tức
của ngân hàng. Trong trường hợp phá sản, các cổ đông thường chỉ
được chia những gì cịn lại sau khi đã chi trả cho tất cả những đối tượng
khác. Còn đối với ngân hàng đang hoạt động, cổ đông thường chỉ được
chia phần lợi tức hoạt động kinh doanh còn lại sau khi trả lãi và nộp
thuế lợi tức. Trách nhiệm hữu hạn có nghĩa là trong trường hợp phá
sản, cổ đơng chỉ có thể bị mất khoản đầu tư (cổ phần) vào ngân hàng
của họ. Cổ đông khác với các chủ sở hữu các doanh nghiệp khơng cổ
phần hố ở chỗ: các chủ nợ có quyền xiết nợ đối với các tài sản cá nhân
của chủ sở hữu doanh nghiệp khơng cổ phần hố cịn cổ đơng khơng

chịu trách nhiệm cá nhân đối với các món nợ của cơng ty, trách nhiệm
của họ là hữu hạn. Hầu hết các công ty cổ phần đều ấn định mệnh giá
cho mỗi cổ phiếu thường. Mệnh giá này được in trên tờ cổ phiếu. Mệnh
giá cổ phiếu không liên quan trực tiếp đến giá thị trường của cổ phiếu
đó. Ngồi ra, cịn có cổ phiếu khơng có mệnh giá dành cho các sáng lập
viên, loại cổ phiếu này có đặc điểm là chỉ được hưởng lãi sau khi lợi
tức cịn lại đã chia cho các cổ đơng.


17

-

Cổ phiếu ưu đãi là loại cổ phiếu có những đặc điểm của chứng khoán
vốn lẫn chứng khoán nợ. Với đặc điểm của chứng khoán nợ, cổ phiếu
ưu đãi hứa hẹn mang lại một khoản cổ tức cố định hàng năm, nhưng
không mang lại quyền bầu cử. Với đặc điểm của chứng khoán vốn, cổ
phiếu ưu đãi cũng bị xếp hạng chi trả sau trái phiếu trong trường hợp
ngân hàng phá sản. Cổ phiếu ưu đãi có thể có mệnh giá hoặc khơng có
mệnh giá và mệnh giá khơng liên quan trực tiếp đến giá thị trường. Do
các đặc điểm riêng có của mình, giá cổ phiếu ưu đãi trên thị trường
chứng khốn khơng dao động lên xuống nhiều như cổ phiếu thường.

-

Nếu là NHTM liên doanh, vốn pháp định là vốn đóng góp cổ phần của
các ngân hàng tham gia liên doanh.

b) Vốn điều lệ: là vốn được ghi trong điều lệ hoạt động của NHTM. Vốn điều
lệ ít nhất phải bằng mức vốn pháp định do NHTM công bố vào đầu mỗi năm

tài chính. Vốn điều lệ quy định cho một ngân hàng nhiều hay ít tuỳ thuộc vào
quy mơ và phạm vi hoạt động.
Ngồi ra, NHTM cịn có các quỹ dự trữ ngân hàng như: quỹ phát triển
kỹ thuật, quỹ khấu hao tài sản cố định, quỹ bảo toàn vốn, quỹ phúc lợi….
Thực tế, vốn chủ sở hữu chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng số vốn hoạt
động kinh doanh của một ngân hàng nhưng lại là nguồn vốn rất quan trọng vì
nó cho thấy được thực lực, quy mô của ngân hàng. Nguồn vốn này càng lớn,
sức chịu đựng của ngân hàng càng mạnh khi mà tình hình kinh tế và tình hình
hoạt động của ngân hàng trải qua giai đoạn khó khăn.
1.3.2 Huy động tiền gửi từ tổ chức kinh tế, cá nhân
1.3.2.1 Tiền gửi thanh toán
Tiền gửi thanh toán là khoản tiền gửi mà người sử dụng có thể rút ra sử
dụng bất kỳ lúc nào và Ngân hàng phải thoả mãn yêu cầu đó của khách hàng.
Tiền gửi thanh tốn có mức lãi suất thấp hoặc không được trả lãi.


18

Tiền gửi thanh toán được gửi vào Ngân hàng để thực hiện các khoản
chi trả về mua hàng hoá, dịch vụ… Đây không phải là tiền để dành mà là một
bộ phận tiền đang chờ thanh tốn, vì vậy khách hàng có thể rút ra hoặc sử
dụng bất kỳ lúc nào theo yêu cầu. Tiền gửi thanh toán thường được bảo quản
ở ngân hàng trên 2 loại tài khoản:
- Tài khoản tiền gửi thanh tốn ( cịn gọi là tài khoản séc): tài khoản này
chỉ được phép dư Có, tức khách hàng chỉ được sử dụng trong phạm vi
tiền gửi của mình. Việc rút tiền hoặc chi trả cho bên thứ ba được thực
hiện bằng séc hay chuyển khoản hay rút tiền tự động qua máy ATM.
Đối với hầu hết các khách hàng, việc hưởng lãi với số vốn được dùng
cho các mục đích giao dịch là thứ yếu và loại tài khoản này không đem
lại lãi suất cụ thể mà nhằm mục đích đảm bảo khả năng thanh tốn và

sử dụng dễ dàng đồng vốn khi cần.
-

Tài khoản vãng lai có thể dư có hoặc dư nợ. Số dư có thể hiện tiền gửi của
khách hàng và số dư nợ thể hiện khoản tín dụng mà ngân hàng đã cung cấp.
Tuy vậy trên thực tế hoạt động của Ngân hàng, sự khác nhau giữa hai

loại tài khoản này dần dần bị xố nhồ. Hiện nay, tiền gửi thanh tốn cũng có
thể có dư Nợ nếu khách hàng thoả thuận trước với Ngân hàng về vấn đề này.
Một hình thức thanh tốn bằng séc tuy đã có từ lâu trên thế giới nhưng
vẫn còn mới mẻ với nước ta là mở tài khoản cá nhân và sử dụng séc cá nhân.
Trước đây séc chỉ được sử dụng chủ yếu để phục vụ cho các doanh nghiệp.
Nay, do nhu cầu của cuộc sống đòi hỏi, séc cá nhân cần phải được đưa vào
vận hành trong dân chúng.
Việc đưa séc cá nhân, một phương tiện thanh tốn khơng dùng tiền mặt
vào lưu thông càng làm phong phú, đa dạng, thuận lợi và thích hợp với nhiều
đối tượng sử dụng. Đồng thời đây cũng là cơ hội để người dân tiếp cận, làm
quen với tập qn thanh tốn khơng dùng tiền mặt, sớm hoà nhập với mạng


19

lưới thanh toán quốc tế; tạo điều kiện thuận lợi cho người dân trong việc gửi
tiền vào Ngân hàng để thanh tốn: an tồn, nhanh chóng, tránh được rủi ro
như mất cắp, hỏa hoạn… so với bảo quản tiền mặt. Về mặt xã hội, giảm được
lượng tiền mặt trong lưu thơng, giảm chi phí in ấn bảo quản… góp phần kìm
chế, đẩy lùi lạm phát. Việc mở và sử dụng tài khoản cá nhân sẽ giúp các
NHTM huy động thêm nguồn vốn tiềm tàng trong dân cư.
1.3.2.2 Tiền gửi có kỳ hạn
Tiền gửi có kỳ hạn là loại tiền gửi được gửi vào ngân hàng trên cơ sở có

sự thoả thuận về thời gian rút tiền giữa khách hàng và ngân hàng. Thơng thường,
tiền gửi có kỳ hạn là các khoản tiền gửi có thời hạn và lãi suất cao. Theo nguyên
tắc khách hàng gửi chỉ được rút ra khi đến hạn đã thoả thuận. Tuy nhiên trên
thực tế, do phải cạnh tranh để thu hút tiền gửi, các Ngân hàng thường cho phép
khách hàng được rút ra trước hạn. Trong trường hợp này, có thể có hai cách giải
quyết: hoặc khách hàng được vay tiền của Ngân hàng, sau đó khi đến hạn rút
tiền thì dùng số tiền và lãi nhận được để trả nợ và lãi vay ngân hàng, hoặc là thoả
thuận với Ngân hàng rút tiền ra trước hạn và nhận lãi suất thấp hơn.
Để tăng cường khả năng huy động nguồn này, các NHTM thường đưa
ra nhiều loại thời hạn khác nhau với các mức lãi suất khác nhau nhằm đáp
ứng được mọi nhu cầu của các khách hàng khác nhau. Thơng thường có các
loại kỳ hạn sau: 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng, 1 năm, 2 năm… Với mỗi kỳ hạn,
Ngân hàng áp dụng một mức lãi suất tương ứng, với nguyên tắc thời hạn càng
dài thì lãi suất càng cao.
1.3.2.3 Tiền gửi tiết kiệm
Tiền gửi tiết kiệm là hình thức huy động truyền thống của Ngân hàng. Ở
các nước công nghiệp phát triển, trong các loại tiền gửi vào Ngân hàng thì tiền
gửi tiết kiệm đứng vị trí thứ hai về mặt số lượng. Tiền gửi tiết kiệm là khoản để
dành của cá nhân được gửi vào Ngân hàng nhằm hưởng lãi theo định kỳ.


20

Nhằm thu hút được tối đa nguồn vốn nhàn rỗi trong dân chúng, Ngân
hàng thương mại đã đa dạng hoá các hình thức huy động tiết kiệm:
- Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn (bao gồm nội và ngoại tệ): người gửi
có thể rút ra một phần hay tồn bộ theo yêu cầu. Tuy nhiên khác với
tiền gửi thanh toán, người gửi khơng được sử dụng các cơng cụ thanh
tốn để chi trả cho người khác.
-


Tiền gửi tiết kiệm định kỳ (bao gồm nội và ngoại tệ): có nội dung cơ
bản giống như tiền gửi có kỳ hạn mà chúng ta nghiên cứu ở trên, chỉ
khác đối tượng khách hàng, có mức lãi suất cao hơn so với tiền gửi tiết
kiệm không kỳ hạn.

-

Tiền gửi bảo đảm bằng vàng: trong nền kinh tế có lạm phát, dân chúng
khơng thích gửi tiền Ngân hàng vì sợ vốn và lãi khơng đảm bảo giá trị như
họ giữ vàng. Chính vì lẽ đó hình thức huy động tiền gửi tiết kiệm đảm bảo
bằng vàng là một trong những biện pháp phần nào đáp ứng được yêu cầu
đó. Người gửi tiết kiệm bằng vàng khơng những bảo tồn được giá trị tài
sản của mình mà cịn được nhận một khoản lãi từ phía ngân hàng.

-

Tiền gửi có tính trượt giá: Với hình thức tiền gửi tiết kiệm này, dân
chúng luôn luôn nhận được thực lãi, cả khi nền kinh tế có lạm phát. Lãi
suất huy động của ngân hàng luôn lớn hơn chỉ số lạm phát.

-

Tiết kiệm xây dựng nhà ở: đây là một loại tiết kiệm nhằm hỗ trợ người
dân sớm có nhà để rút ngắn thời gian chờ đợi đủ vốn, góp phần thực
hiện chính sách về nhà của Đảng và Nhà nước. Do vậy cũng đã khuyến
khích phần nào người dân gửi tiền vào ngân hàng.

-


Ngoài ra, ở một số Ngân hàng, người ta phân tiền gửi bằng ngoại tệ ra
một loại tiết kiệm riêng.
Về mặt chun mơn, Ngân hàng địi hỏi phải báo trước việc rút tiền,

nhưng trong thực tế, sự giới hạn này thường không được áp dụng. Không có


21

hình thức nào dưới hình thức giảm lãi suất được áp dụng cho các trường hợp
rút tiền tiết kiệm trước hạn.
1.3.3 Huy động vốn qua thị trường vốn
1.3.3.1 Trái phiếu
Trái phiếu Ngân hàng là một công cụ vay nợ dài hạn do NHTM phát
hành nhằm tài trợ vốn cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng, trong đó
ngân hàng cam kết trả vốn và lãi cho người mua trái phiếu sau một thời gian
nhất định. Thông thường việc phát hành trái phiếu phải được sự cho phép của
NHTW và có thể được phát hành dưới các hình thức: vơ danh, ghi sổ, ghi
danh… Trái phiếu thường được phát hành với quy mô lớn và đồng loạt trong
cả hệ thống ngân hàng. Kỳ hạn trái phiếu rất đa dạng: 7 năm, 10 năm, 20
năm… Hiện nay, ở nước ta trái phiếu thường được phát hành theo các kỳ hạn
1, 2, 3, 4, 5 năm, tuỳ theo phương án sử dụng vốn. Các trái phiếu phát hành
cùng đợt được ghi cùng thời hạn và được thanh toán vào cùng thời điểm đáo
hạn. Thêm vào đó, chủng loại cũng rất phong phú như: trái phiếu có lãi suất
điều chỉnh, trái phiếu có lãi suất thả nổi, trái phiếu có lãi suất cố định, trái
phiếu có thể chuyển đổi sang cổ phiếu…
Trái phiếu ngân hàng được chuyển nhượng quyền sở hữu dưới các hình
thức mua bán, cho, tặng, thừa kế. Người nắm giữ trái phiếu có thể nó làm thế
chấp tiền vay nếu được người cho vay chấp nhận.
Một vấn đề nữa là lãi suất của trái phiếu. Ngân hàng ấn định lãi suất

của trái phiếu trên cơ sở cung cầu về vốn trên thị trường sao cho có thể
khuyến khích, động viên được người gửi và NHTM đảm bảo được hiệu quả
kinh doanh. Phương thức trả lãi cũng được ngân hàng áp dụng một cách linh
hoạt: trả lãi trước, trả lãi sau, trả lãi định kỳ…
Nguồn vốn huy động được từ nghiệp vụ này có mục đích là khơng chịu
sự điều chỉnh của quy định dự trữ bắt buộc và có tính ổn định cao.


22

1.3.3.2 Kỳ phiếu ngân hàng
Kỳ phiếu Ngân hàng thực ra cũng là một loại trái phiếu, nhưng là trái
phiếu ngắn hạn do các NHTM phát hành và được giao dịch trên thị trường
vốn ngắn hạn. Kỳ phiếu Ngân hàng là hình thức huy động vốn “ăn khách” của
ngân hàng nhờ lãi suất tương đối “mềm” của nó. Do lãi suất kỳ phiếu của
ngân hàng cao hơn lãi suất tiết kiệm, hơn nữa nó uyển chuyển hơn, biến động
theo từng thời gian và từng địa phương cụ thể, có thể chuyển nhượng và mua
bán được, cho nên một số nơi có tình trạng là có sự di chuyển từ tiền gửi tiết
kiệm sang kỳ phiếu: số dư tiền gửi tiết kiệm giảm - số dư kỳ phiếu ngân hàng
tăng. Khi hết thời gian phát hành kỳ phiếu thì số dư kỳ phiếu ngân hàng giảm
- số dư tiền gửi tiết kiệm lại tăng.
Trái phiếu và kỳ phiếu ngân hàng là những hình thức huy động rất cơ
động và thống. Bằng các cơng cụ này, các Ngân hàng có thể chủ động tạo ra
một khối lượng vốn như mong muốn một cách nhanh chóng để đáp ứng nhu
cầu vốn cấp bách trong một thời gian nhất định khi đã huy động đủ khối
lượng theo dự kiến, Ngân hàng sẽ ngừng việc huy động kỳ phiếu, trái phiếu.
Các trái phiếu, kỳ phiếu Ngân hàng được phát hành ra vừa có tác dụng duy trì
khối lượng huy động vừa có tác dụng chống lạm phát. Điều này đặc biệt cần
thiết khi nền kinh tế có lạm phát.
1.3.4 Huy động bằng hình thức đi vay

Các khoản vay ngày càng chiếm vị trí quan trọng trong hoạt động của
các NHTM, không chỉ về mặt quy mô đơn thuần mà chủ yếu mang ý nghĩa
như là một biện pháp quản lý các mục tài sản nợ. Các ngân hàng có thể đi vay
từ nhiều nguồn khác nhau như:
- Vay của Ngân hàng Trung ương
-

Vay của các tổ chức tài chính khác


23

Tính chất của nguồn này là tạo vốn khả dụng cao NHTM, đặc biệt là
khoản vay từ NHTW; phát sinh chi phí tương đối thấp và có tính co giãn phù
hợp với nhu cầu về vốn của Ngân hàng trong từng giai đoạn cụ thể.
1.3.4.1 Vay ngân hàng Trung ương
Trong quan hệ với NHTW, các NHTM đóng vai trị là khách hàng
thường xuyên và NHTW với tư cách là Ngân hàng của các Ngân hàng, phải
ln ln đóng vai trị chủ nợ và là người cho vay “cuối cùng” đối với các
NHTM.
Để thực hiện việc điều tiết khối lượng tiền cung ứng, NHTW thường
xuyên phải thực hiện các quan hệ tín dụng với các NHTM thơng qua việc
chiết khấu và tái chiết khấu các phiếu nợ, trong đó chủ yếu là thương phiếu và
trái phiếu kho bạc. Việc cấp vốn dựa trên các cơ sở phiếu nợ này, một mặt
gắn với việc phát hành tiền với q trình lưu thơng hàng hoá, mặt khác tạo
điều kiện cho tiền phát hành quay trở về nơi mà nó đã ra đi – NHTW.
Hiện nay NHNN Việt Nam cho các Ngân hàng vay các loại sau:
- Cho vay bổ sung nguồn vốn tín dụng ngắn hạn: đây là hình thức tài trợ
vốn theo kế hoạch được NHTW phân phối cho các ngân hàng quốc
doanh.

-

Tái chiết khấu các thương phiếu, trái phiếu kho bạc và khế ước mà các
tổ chức tín dụng đã cho các khách hàng vay chưa đáo hạn.

-

Cho vay bổ sung vốn thanh tốn bù trừ của các tổ chức tín dụng.

1.3.4.2 Vay các tổ chức tài chính khác
Các hình thức huy động vốn nói trên đóng vai trị chủ yếu trong công
tác huy động vốn của NHTM. Tuy nhiên, trong tình hình kinh doanh ngân
hàng hiện nay, sẽ rất thiếu sót nếu như khơng đề cập đến nguồn vốn có thể
huy động được bằng cách vay các NHTM khác thông qua thị trường nội tệ và
ngoại tệ liên ngân hàng.


24

a) Thị trường nội tệ liên ngân hàng:
Thị trường nội tệ liên ngân hàng là thị trường tiền tệ do NHTW tổ chức
để giải quyết mối quan hệ vay mượn những khoản vốn tạm thời giữa các
TCTD với nhau. Bắt đầu đi vào hoạt động từ tháng 7/1993 (Quyết định số
114 – 21/06/1993 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam) đã giúp các
tổ chức tín dụng là thành viên của thị trường này chuyển đổi nhanh hoạt động
của mình theo cơ chế thị trường (sử dụng vốn một cách hiệu quả hơn và đảm
bảo khả năng thanh toán trong mọi trường hợp).
Nếu như trước đây, vấn đề chủ yếu chỉ là tiền gửi, thì việc tăng trưởng của
các tài sản Có, mà chủ yếu là các khoản cho vay, luôn bị chi phối khả năng tăng
trưởng của các loại tiền gửi. Do vậy, đã có tình trạng có Ngân hàng cần vốn thì

lại khơng có, trong khi có những ngân hàng thừa vốn thì khơng có nhu cầu cho
vay, chỉ được gửi vào tài khoản tiền gửi ở Ngân hàng Nhà nước. Nhưng ngày
nay do đã thay đổi nhận thức về cách quản lý tài sản Nợ có tính chất mềm dẻo
hơn, nên các Ngân hàng có thể vay mượn lẫn nhau. Việc vay mượn này có thể
diễn ra ngắn hạn, thậm chí vài ngày đến một, hai tháng hoặc lâu hơn.
b) Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng:
Được thành lập từ ngày 15/10/1994, thị trường ngoại tệ liên Ngân hàng
là thị trường thay thế hai Trung tâm giao dịch hiện nay và bước khởi đầu để
hình thành thị trường hối đoái sau này.
Hoạt động của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng đã thể hiện bước đi đúng
hướng và được đông đảo các Ngân hàng thương mại hưởng ứng. Thị trường đã
có 40 ngân hàng thương mại được phảp kinh doanh ngoại tệ tham gia. Với chế
độ mua bán thơng thống, lượng ngoại tệ giao dịch giữa các thành viên với
khách hàng của mình (các đơn vị kinh tế); giữa các ngân hàng thương mại với
nhau và giữa các ngân hàng thương mại với NHNN đã đạt mức khá cao.
1.3.5 Nhận uỷ thác tài trợ


25

Nhận uỷ thác tài trợ là nguồn vốn của các tổ chức, cá nhân trong nước và
nước ngoài đầu tư vốn gián tiếp vào nền kinh tế dưới dạng bằng tiền hay các
dây chuyền sản xuất. Ngân hàng chỉ đóng vai trị là người trung gian, được
hưởng phí khơng có trách nhiệm thẩm định những đối tượng khách hàng này.
Nguồn vốn tài trợ thường là nguồn vốn trung hạn, còn nguồn vốn ủy
thác đầu tư là nguồn dài hạn có thời hạn còn dài hơn cả các dự án cho vay từ
nguồn (đối với vốn ODA từ 30 -40 năm). Nguồn vốn này rất đa dạng, phong
phú với đặc điểm là lãi suất thấp. Đây là nguồn vốn mà qua đó NHTM có thể
đáp ứng nhu cầu tín dụng trung dài hạn trong nền kinh tế, trong đó nguồn vốn
ODA là quan trọng nhất. Vì thế, mà các NHTM cần có kế hoạch huy động và

tăng cường nguồn vốn này.
1.4 Những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động huy động vốn của NHTM
Để có một nguồn vốn vững chắc, đảm bảo cho sự phát triển bền vững
của ngân hàng là một vấn đề nan giải. Nó địi hỏi ở NHTM phải có những
nghiệp vụ huy động vốn linh hoạt, hấp dẫn và thiết thực, phù hợp với từng
giai đoạn hoạt động của ngân hàng cũng như các chính sách của Đảng và Nhà
nước. Muốn vậy, việc xác định và phân tích các nhân tố ảnh hưởng tới cơng
tác huy động vốn là rất quan trọng, từ đó tìm ra các giải pháp phù hợp.
1.4.1 Các nhân tố khách quan
− Sự ổn định và phát triển của nền kinh tế trong nước và thế giới:
Động thái của nền kinh tế chính là cơ sở đầu tiên để người gửi tiền ra
quyết định nên gửi tiền vào ngân hàng hay không. Nếu các nhân tố này tạo ra
sự ổn định của đồng tiền, tăng thu nhập thì sẽ là tiền đề để tăng quy mơ tiền
gửi và giảm chi phí cho ngân hàng. Khi đó các doanh nghiệp và cá nhân sẽ
đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh nên họ vay tiền nhiều và cũng gửi nhiều.
Còn khi lạm phát xảy ra sẽ làm cho lãi suất thực giảm xuống trong khi lãi suất
danh nghĩa khơng đổi làm giảm lợi ích của người gửi tiền nên họ sẽ tích trữ


×