Tải bản đầy đủ (.doc) (120 trang)

vị thế chiến lược của khu kinh tế - thương mại đặc biệt lao bảo trong phát triển hành lang kinh tế đông – tây

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.36 MB, 120 trang )

Nguyễn Thị Phương Thảo – A15 – K44D
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Trong thời gian vừa qua, nhiều nước trên thế giới, nhất là các nước châu Á
đã và đang có những bước chuyển mình vươn lên nhờ vào việc thành lập các khu
vực tập trung thu hút vốn, khuyến khích sản xuất và các dịch vụ sản xuất, phục vụ
xuất khẩu và thị trường trong nước với những ưu đãi đặc biệt .
Hòa cùng xu thế đó, những năm qua Nhà nước ta đã có nhiều chính sách
phát triển các khu kinh tế cửa khẩu, các khu vực ưu đãi nhằm tạo điều kiện phát huy
tiềm năng, ưu thế của các địa phương biên giới, giúp góp phần mở rộng giao lưu,
buôn bán, xây dựng các hệ thống phân phối, cung cấp trên các lĩnh vực, nâng cao
chất lượng cuộc sống của người dân địa phương và của khu vực lân cận, cải thiện
cơ sở hạ tầng, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội địa phương. Với mục đích đó và
những mục tiêu phát triển cao hơn mang tầm chiến lược và quốc tế, ngày 12 tháng
11 năm 1998, Thủ tướng Chính phủ ban hành quy chế Khu vực khuyến khích phát
triển kinh tế và thương mại Lao Bảo theo Quyết định số 219/QĐ-TTg, ngày
12/01/2005 ra Quyết định số 11/2005/QĐ-TTg ban hành quy chế Khu kinh tế -
thương mại đặc biệt Lao Bảo.
Để tăng cường khai thác tiềm năng, lợi thế của Tiểu vùng Mekong mở rộng
(GMS), đẩy nhanh xóa đói giảm nghèo, giảm bớt chênh lệch về phát triển so với các
vùng khác trong GMS, tăng cường liên kết kinh tế trong tiểu vùng, với khu vực Asean
và với các nước ngoài khu vực, Hành lang kinh tế Đông Tây (EWEC) đã ra đời.
Với vị trí địa lý thuận lợi nằm ở bờ đông của Hành lang, là cửa ngõ thông ra
biển, với nguồn nhân lực dồi dào và là điểm tập trung nhiều điểm du lịch hấp dẫn,
Việt Nam đang nắm giữ một vai trò then chốt trên EWEC. Nói đến vai trò của Việt
Nam không thể không nhắc đến vị thế chiến lược của Khu KT-TM đặc biệt Lao Bảo
trong phát triển Hành lang cũng như đối với sự phát triển kinh tế của tỉnh Quảng Trị
nói riêng và khu vực nói chung.
Là một mô hình kinh tế thí điểm với những tính chất và đặc điểm rất riêng,
sau một thời gian hoạt động, Khu KT-TM đặc biệt Lao Bảo đã thu được những kết
Khóa luận tốt nghiệp


1
Nguyễn Thị Phương Thảo – A15 – K44D
quả nhất định. Tuy nhiên, những kết quả mà Khu đạt được vẫn dừng ở mức khiêm
tốn, chưa tương xứng với tiềm năng và mục tiêu, kế hoạch đề ra.
Xuất phát từ thực tế trên, việc xác định vị trí và phương hướng nâng cao khả
năng khai thác EWEC của Khu KT-TM đặc biệt Lao Bảo là hết sức cần thiết. Do
đó, em xin mạnh dạn chọn đề tài: “Vị thế chiến lược của Khu kinh tế - thương
mại đặc biệt Lao Bảo trong phát triển Hành lang kinh tế Đông – Tây”
2. Mục tiêu nghiên cứu đề tài
Thông qua việc nghiên cứu thực trạng hoạt động và đánh giá vị thế của Khu
KT-TM đặc biệt Lao Bảo trong phát triển EWEC để tìm ra các giải pháp và kiến
nghị nhằm nâng cao vị thế chiến lược của Khu trong phát triển Hành lang.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
- Tìm hiểu khái niệm, chức năng và vai trò của EWEC.
- Tìm hiểu quá trình hình thành Khu KT-TM đặc biệt Lao Bảo, vị thế chiến
lược của Khu đối với EWEC và vai trò của Khu đối với EWEC, nền kinh tế
quốc dân và tỉnh Quảng Trị.
- Tìm hiểu, đánh giá kết quả hoạt động của Khu KT-TM đặc biệt Lao Bảo từ
khi thành lập cho đến nay (1998-2008) và đánh giá vị thế chiến lược của Khu
đối với EWEC.
- Đưa ra các giải pháp và đề xuất kiến nghị nâng cao vị thế chiến lược của Khu
KT-TM đặc biệt Lao Bảo trong phát triển EWEC giai đoạn 2008-2020.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Khu KT-TM đặc biệt Lao Bảo và HLKT Đông – Tây.
- Phạm vi nghiên cứu
+ Về thời gian: Sử dụng số liệu thống kê từ 1998 - 2008 để phân tích hiện
trạng hoạt động của Khu KT-TM đặc biệt Lao Bảo, các giải pháp và kiến nghị cho
giai đoạn 2008-2020.
+ Về không gian: Khu KT-TM đặc biệt Lao Bảo và các quốc gia trên HLKT
Đông – Tây.

+ Về nội dung: Đánh giá tiềm năng, lợi thế phát triển sản xuất, thương mại,
dịch vụ - du lịch, thực trạng hoạt động, xây dựng định hướng và đề xuất giải pháp
Khóa luận tốt nghiệp
2
Nguyễn Thị Phương Thảo – A15 – K44D
cơ bản phát triển Khu KT-TM đặc biệt Lao Bảo nhằm khai thác tốt hơn nữa những
cơ hội EWEC mang lại.
5. Phương pháp nghiên cứu:
Trong quá trình nghiên cứu, khóa luận sử dụng một số phương pháp cụ thể như:
phương pháp tổng hợp, phân tích, xử lí số liệu, phương pháp so sánh, đánh giá và
phỏng vấn chuyên gia.
6. Kết cấu của đề tài: Khóa luận gồm có 3 Chương
- Chương 1: Khái quát về HLKT Đông - Tây và Khu KT-TM đặc biệt Lao Bảo
- Chương 2: Đánh giá vị thế chiến lược của Khu KT-TM đặc biệt Lao Bảo
trong phát triển EWEC giai đoạn 1998 – 2008
- Chương 3: Giải pháp nâng cao vị thế chiến lược của Khu KT-TM đặc biệt
Lao Bảo trong phát triển EWEC giai đoạn 2008-2020
Hoàn thành khóa luận này, em xin được gửi lời cám ơn chân thành đến Thầy
giáo, PGS. TS. Nguyễn Hữu Khải – giảng viên trường đại học Ngoại thương đã tận
tình chỉ bảo, hướng dẫn giúp em trong quá trình thực hiện đề tài, cũng như các cô chú
anh chị trong Ban quản lý Khu KT-TM đặc biệt Lao Bảo, Chi cục Hải quan cửa khẩu
Lao Bảo, Đồn biên phòng cửa khẩu Lao Bảo, Sở Kế hoạch đầu tư, Ban quản lý các
khu du lịch Quảng Trị đã góp ý và giúp đỡ nhiệt tình. Tuy nhiên, do quy mô của đề
tài tương đối lớn, thời gian nghiên cứu hạn hẹp, đề tài không tránh khỏi phần thiếu
sót. Em mong nhận được những ý kiến đóng góp xây dựng từ các thầy cô giáo, các
nhà nghiên cứu, quản lý trong và ngoài nước nhằm xây dựng và phát triển đề tài
hoàn chỉnh hơn, có giá trị đóng góp hơn đối với sự phát triển của tỉnh Quảng Trị nói
riêng và nước nhà cũng như khu vực nói chung.
Sinh viên,
Nguyễn Thị Phương Thảo

Khóa luận tốt nghiệp
3
Nguyễn Thị Phương Thảo – A15 – K44D
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ HLKT ĐÔNG – TÂY VÀ KHU
KT-TM ĐẶC BIỆT LAO BẢO
1.1. Hành lang kinh tế Đông – Tây:
1.1.1. Giới thiệu về HLKT Đông – Tây
1.1.1.1. Khái niệm HLKT Đông – Tây
a. Khái niệm “hành lang kinh tế”
Để hiểu được EWEC thì chúng ta phải đi từ khái niệm “hành lang kinh tế”.
+ Từ điển Oxford Advanced Learner’s dictionary tái bản lần thứ ba có định
nghĩa: “Corridor: (1) A long narrow passage, from which door open into rooms. (2)
a long narrow strip of land belonging to one country that passes through the
land of another country”. Tạm dịch như sau: Hành lang: (1) Một đường đi hẹp, dài,
từ đó có cửa mở vào các phòng. (2) Một dải đất hẹp, dài của một quốc gia đi qua
phần đất của quốc gia khác. Bản thân từ "hành lang" trong “hành lang kinh tế” được
khóa luận sử dụng là nghĩa thứ 2 trong cách giải thích trên, chỉ một vùng, một khu
vực địa lý hẹp, dài nối liền các vùng lãnh thổ với nhau. Các vùng lãnh thổ này có
thể cùng một quốc gia hoặc thuộc các quốc gia khác nhau.
+ Có nhiều cách hiểu khác nhau về HLKT:
PGS.TS Đinh Ngọc Vượng – Viện nhà nước và pháp luật có đưa ra khái
niệm HLKT: “HLKT là một khu vực, một vùng địa lý - lãnh thổ nối liền các vùng
lãnh thổ của một hoặc nhiều quốc gia với mục đích liên kết, hỗ trợ lẫn nhau để khai
thác có hiệu quả lợi thế so sánh của các khu vực địa - kinh tế nằm trên cùng
một dải theo trục giao thông thuận lợi nhất cho việc lưu thông hàng hóa và liên
kết kinh tế giữa các vùng bên trong hành lang, cũng như các vùng kế cận”. [42]
Tháng 9-1998, Hội nghị bộ trưởng lần thứ VIII về hợp tác GMS do ADB chủ
trì tại Manila đã đưa ra khái niệm HLKT như sau: “HLKT là một tuyến liên kết kinh
tế dựa vào địa lý giữa các vùng lãnh thổ của một hoặc nhiều quốc gia bởi các chính
sách kinh tế nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế của vùng liên kết”. [4]

Khóa luận tốt nghiệp
4
Nguyễn Thị Phương Thảo – A15 – K44D
Tuy nhiên, khóa luận xin được thống nhất cách hiểu như sau: Hành lang
kinh tế là một khu vực, một vùng địa lý nối liền các khu vực liền kề nhau của một
hoặc nhiều quốc gia với mục đích tạo các điều kiện thuận lợi cho việc di chuyển
người, hàng hóa; thu hút đầu tư và kết hợp chặt chẽ các hoạt động kinh tế trên cơ
sở tận dụng lợi thế so sánh của từng vùng từ đó thúc đẩy phát triển kinh tế.
b. Khái niệm Hành lang kinh tế Đông – Tây
Chương trình hợp tác GMS được ADB khởi xướng từ tháng 10-1992, với sự
tham gia của 6 nước: Việt Nam, Lào, Campuchia, Thái lan, Myanmar và Trung
Quốc (Vân Nam) nhằm thúc đẩy hợp tác thiết thực và hiệu quả trong khu vực.
Khái niệm EWEC được đưa ra lần đầu tiên tại Hội nghị lần thứ VIII các Bộ
trưởng GMS, tổ chức tại trụ sở ADB, Manila (Philipin), tháng 10-1998 và được Hội
nghị cấp cao Asean lần thứ 6 đưa vào chương trình hành động Hà Nội tháng
12.1998. Được quan tâm rất kỹ, lại được sự hỗ trợ một cách đắc lực về tài chính lẫn
kỹ thuật của ADB và chính phủ Nhật Bản, EWEC phát triển nhanh hơn những dự
án khác đang triển khai giữa các nước GMS. EWEC đã được thống nhất ưu tiên
thực hiện đầu tiên trong số các hành lang đưa ra bàn thảo tại hội nghị: HLKT Bắc
Nam (NSEC), HLKT Đông – Tây (EWEC), HLKT phía Nam (SEC). (Phụ lục 8)
EWEC là một HLKT có chiều dài 1.450km đi qua 14 tỉnh, thành phố của
lãnh thổ 4 nước trong khu vực Đông Nam Á (Myanma – Thái Lan – Lào và Việt
Nam).Ơ Việt Nam, EWEC bắt đầu từ cửa khẩu quốc tế Lao Bảo, tỉnh Quảng Trị
chạy dọc theo đường 9 về Quốc lộ 1A ở Đông Hà, vào Thừa Thiên Huế qua đường
hầm Đèo Hải Vân đến Đà Nẵng. Ngoài ra, tuyến Hành Lang này còn giao với một
số tuyến đường huyết mạch Bắc Nam các quốc gia trong vùng như tuyến Yangon –
Dawei (Myanma), Chiang Mai – Băng Cốc (Thái Lan), đường 13 (Lào) và đường
Hồ Chí Minh, quốc lộ 1A (Việt Nam). [44]
1.1.1.2. Đặc điểm:
Căn cứ vào mục đích xây dựng, người ta có thể chia ra nhiều loại HLKT

như: Hành lang thương mại (trade corridors), Hành Lang kĩ thuật (technology
corridors), Hành Lang cơ sở hạ tầng (infrastructure corridors), Hành Lang công
Khóa luận tốt nghiệp
5
Nguyễn Thị Phương Thảo – A15 – K44D
nghiệp (industrial corridors), Hành Lang du lịch (tourism corridors), Hành Lang
phát triển (development corridors). [44]
EWEC là một hành lang phát triển nên ngoài những đặc điểm của một
HLKT như: Là một khu vực địa lí xác định; Nhấn mạnh các sáng kiến song phương
hơn là các sáng kiến đa phương; Đòi hỏi phải có sự quy hoạch không gian và vật lí
cụ thể để tập trung phát triển hạ tầng và đạt được những hiệu quả thiết thực nhất.
EWEC cũng có một số đặc điểm riêng. EWEC đa dạng về địa hình, khí hậu,
có đồng bằng ven biển Ma-lam-ông (Myanma), miền đất thấp và nhiều đồi núi phía
Bắc Thái Lan, vùng đồng bằng ẩm ướt, rừng và cây bụi lúp xúp Sa-va-na-khét
(Lào) và vùng đồi núi trung du miền Trung Việt Nam. Hoạt động thương mại của
EWEC tập trung vào 6 thành phố lớn: Ma-lam-ông, Phu-san-lốc, Khôn-ca-en, Sa-
va-na-khét, Huế, Đà Nẵng và một số thành phố nhỏ khác. Hầu hết các địa phương
nằm trên EWEC có nền kinh tế phát triển chậm, không đồng đều, tỉ lệ đói nghèo
cao, mật độ dân số còn thấp, nông nghiệp đóng vai trò chủ đạo, sự phát triển công
nghiệp còn hạn chế, nhất là công nghiệp sản xuất và chế biến. Đồng thời, EWEC
cũng giao thương với một số tuyến đường huyết mạch Bắc - Nam như: Y-ăng-gun
(Yangon) - Đa-ôi (Dawei), Chiềng-mai (Chiang Mai) - Băng-cốc (Bangkok),
Đường 13 (Lào) và Quốc lộ 1A (Việt Nam), có điều kiện thuận lợi để phát triển
thương mại theo hướng bắc hoặc hướng nam đến các trung tâm thương mại lớn như
Băng-cốc và thành phố Hồ Chí Minh. EWEC tuy là liên vùng nghèo nhưng có tiềm
năng phát triển: Miền Trung Việt Nam có vị trí địa lý thuận lợi nằm giữa trục giao
thông Bắc – Nam, làm cửa ngõ hành lang đường bộ xuyên Quốc gia tiến ra biển,
gắn vào đường hàng hải quốc tế, có nhiều cảng nước sâu, nguồn tài nguyên biển,
điều kiện phong phú phát triển du lịch; Trung và Hạ Lào có tiềm năng về đất nông
lâm nghiệp, thuỷ điện, khoáng sản. Các tỉnh Đông Bắc Thái Lan và của Myanma có

tiềm năng lớn về nông nghiệp, sản xuất hàng tiêu dung, vật liệu xây dựng. EWEC
còn là một môi trường thử nghiệm cho một chính sách kinh tế mới, đặc biệt là với
Myanma, Lào và Việt Nam.
Khóa luận tốt nghiệp
6
Nguyễn Thị Phương Thảo – A15 – K44D
1.1.1.3. Chức năng:
EWEC có các chức năng: Tạo động lực thúc đẩy mối quan hợp giữa các
nước Myanma, Thái Lan, Lào và Việt Nam thông qua phát triển đầu tư, thương mại;
Góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế bằng việc tạo môi trường thuận lợi cho sản
xuất kinh doanh; Thực hiện các phương thức nhằm giảm thiểu chi phí về giao thông
trong khu vực và tạo điều kiện cho việc lưu chuyển hàng hoá và con người dễ dàng
hơn thông qua việc khai thông tuyến Hành lang và nâng cấp cơ sở hạ tầng; Thông
qua các chương trình phát triển KT-XH góp phần xoá đói giảm nghèo, hỗ trợ phát
triển cho các khu vực nông thôn và biên giới, nâng cao thu nhập cho các nhóm
người có thu nhập thấp, tạo cơ hội việc làm cho phụ nữ; Ngoài ra EWEC còn là môi
trường thử nghiệm cho các chính sách kinh tế mới, đặc biệt là ở Myanma, Lào và
Việt Nam. Chiến lược phát triển của EWEC sẽ góp phần quan trọng, tạo điều kiện
phát triển toàn diện cho các tỉnh có EWEC đi qua.
1.1.1.4. Mục tiêu của EWEC
Sự ra đời của EWEC là nhằm thực hiện các mục tiêu sau: Tăng cường hơn
nữa hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư và phát triển giữa 4 quốc gia trên Hành lang
(Việt Nam, Lào, Thái Lan và Myanma), khai thác tiềm năng lợi thế cho sự phát
triển chung của tiểu vùng; Giảm chi phí vận chuyển và tạo điều kiện thuận lợi cho
việc vận chuyển, lưu thông hàng hoá, nguyên vật liệu và đi lại của con người; Hỗ
trợ cho các khu vực nông thôn và biên giới xóa đói giảm nghèo, nâng cao thu nhập,
tạo thêm cơ hội việc làm cho các nhóm người có thu nhập thấp, giảm chênh lệch so
với các vùng khác trong GMS; Phát triển du lịch, công nghiệp và nông nghiệp;
Tăng cường liên kết kinh tế tiểu vùng với khu vực ASEAN và các quốc gia trong
khu vực. [8]

1.1.2. Vai trò của EWEC đối với sự phát triển của các nước tham gia:
EWEC đã đang và sẽ đem lại lợi ích thiết thực và lâu dài cho các quốc gia
thành viên. Cụ thể là:
Khóa luận tốt nghiệp
7
Nguyễn Thị Phương Thảo – A15 – K44D
1.1.2.1. Kết nối giao thông, xoá đói giảm nghèo, thu hẹp sự chênh lệch về phát triển
so với các địa phương khác của mỗi nước và phát triển cơ sở hạ tầng.
Các vùng biên giới 4 nước Myanma, Thái Lan, Lào và Việt Nam có giao
thông đi lại, việc vận chuyển và lưu thông hàng hoá, nguyên vật liệu và việc đi lại
của con người gặp rất nhiều khó khăn. Trước tình hình đó, sự hình thành EWEC là
một yêu cầu khách quan để xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng, đẩy nhanh tốc độ
lưu chuyển hàng hoá và dịch vụ, đẩy nhanh việc đi lại của con người, do đó nâng
cao sức cạnh tranh của hàng hóa - dịch vụ và hiệu quả trao đổi thương mại cũng
như tạo điều kiện cho con người có thể lưu thông trên tuyến đường này. Giao thông,
giao lưu hàng hoá, dịch vụ phát triển sẽ tạo công ăn việc làm và tạo điều kiện cho
nhân dân các vùng và địa phương thuộc EWEC phát triển mạnh hơn về kinh tế, văn
hoá, đời sống góp phần tăng cường an ninh mỗi nước và khu vực, tăng cường tinh
thần hữu nghị giữa các nước.
1.1.2.2. Khai thác tiềm năng, lợi thế của mỗi nước.
Các vùng, địa phương của mỗi nước trong EWEC đều có đặc điểm và thế
mạnh riêng về tài nguyên thiên nhiên, con người, văn hoá, kinh tế. Nhờ có EWEC,
các địa phương này có thể bổ sung, hỗ trợ cho nhau nhằm mở rộng thị trường. Các
tỉnh miền Trung Việt Nam nằm giữa trục giao thông Bắc - Nam, là cửa ngõ hành
lang đường bộ xuyên quốc gia tiến ra biển, gắn vào đường hàng hải quốc tế; có
nhiều cảng nước sâu, nhiều tài nguyên biển, điều kiện phong phú phát triển du lịch.
Do đó, các tỉnh thuộc miền Trung Việt Nam có thể đóng vai trò động lực thúc đẩy
kinh tế vùng thông qua mở rộng đầu tư, thương mại, dịch vụ du lịch, qua đó thúc
đẩy giao lưu văn hóa và kinh tế giữa các địa phương thuộc Hành lang 4 nước. Hiện
nay, với các chính sách thuận lợi về thông quan cho người và hàng hóa vận chuyển

trên Hành lang, hàng hóa XNK qua cửa khẩu quốc tế Lao Bảo đang ngày càng tăng
mạnh. Trung và Hạ Lào giàu tiềm năng nông, lâm nghiệp, thủy điện, khoáng sản. Các
tỉnh Đông Bắc Thái Lan và các tỉnh của Myanma có tiềm năng lớn về nông nghiệp,
sản xuất hàng tiêu dùng, vật liệu xây dựng. Chạy dọc EWEC là khu vực đa sắc tộc,
Khóa luận tốt nghiệp
8
Nguyễn Thị Phương Thảo – A15 – K44D
văn hóa đa dạng, nhiều danh lam thắng cảnh, di tích nổi tiếng được quốc tế công
nhận, có sức hấp dẫn về môi trường xã hội, văn hóa, du lịch
1.1.2.3. Góp phần mở rộng kinh tế đối ngoại
EWEC không chỉ góp phần phát triển thương mại, đầu tư, du lịch giữa các
quốc gia trên Hành lang mà còn thu hút FDI từ ngoài khu vực thông qua việc kết
nối với các thị trường quốc tế và với khu vực Đông Á. Do đó, EWEC sẽ trở thành
hành lang hợp tác hữu nghị, cùng phát triển của các nước trong khu vực và thế giới.
Việt Nam có thể trở thành trung tâm của sự hợp tác liên kết giữa các vùng, địa
phương từ du lịch biển, du lịch sinh thái đến du lịch văn hoá, lịch sử Với sự phát
triển của hệ thống giao thông xuyên Á (hiện nay đã có 7 tuyến đường ASEAN được
xây dựng trên lãnh thổ Việt Nam có chiều dài 3.880,82km, trong đó có ASEAN 8
dài 83,4km theo trục Đông Hà - cửa khẩu Lao Bảo - Lào (6) thuộc EWEC) đã cho
phép kết nối 4 di sản văn hoá thế giới của các nước trong khu vực tạo diều kiện
thuận lợi thu hút đầu tư, thương mại và du lịch của thế giới vào EWEC nói riêng và
ASEAN nói chung.
1.1.2.4. Tham gia sâu hơn vào lao động toàn cầu
Khu vực tiểu vùng sông Mêkông cũng như các khu vực khác đang đẩy mạnh
quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại hoá, lợi thế hoá nhờ vậy
có thể phân công lao động quốc tế của các khu vực có thể tham gia sâu hơn vào
phân công lao động toàn cầu để từ đó có thể gắn kết thị trường khu vực này với thị
thế giới từ đó giúp giải quyết các vấn đề về xã hội.
1.1.2.5. Tạo khả năng tăng cường an ninh khu vực
EWEC ra đời và hoạt động có hiệu quả sẽ tạo thuận lợi mới cho nền kinh tế

của 4 nước phát triển. Kinh tế phát triển sẽ tạo cho an ninh có điều kiện để củng cố,
tăng cường một bước, nhất là cơ sở vật chất và lòng dân. Khi EWEC đi vào hoạt
động, sẽ hình thành một thị trường khu vực liền kề nhau tạo ra cho 4 nước cơ hội để
phát triển kinh tế. Mặt khác, EWEC cũng sẽ tạo ra sự tuỳ thuộc lẫn nhau, đan xen
lợi ích kinh tế có lợi cho phát triển kinh tế và củng cố lòng tin của mỗi nước. Thông
Khóa luận tốt nghiệp
9
Nguyễn Thị Phương Thảo – A15 – K44D
qua việc thu hút các nhà đầu tư của các nước trong khu vực và bằng sự đan xen lợi
ích kinh tế dẫn đến đan xen lợi ích an ninh giữa các nước trong vùng, với các đối
tác nước ngoài khác, có thể góp phần cải thiện môi trường an ninh biên giới trên
hành lang 4 nước và khu vực. Từ đó tạo ra môi trường khu vực ổn định hơn, lợi thế
hơn trong quá trình hợp tác và đấu tranh bảo vệ an ninh, góp phần giữ vững hoà
bình, ổn định và phát triển kinh tế mỗi nước và khu vực.
Do đó, sự ra đời của EWEC là rất cần thiết, là sợi dây liên kết, thúc đẩy phát
triển kinh tế, giao lưu văn hoá xã hội giữa các quốc gia và các địa phương.
Đối với Việt Nam, EWEC có ý nghĩa nhiều mặt vừa giúp phát triển kinh tế,
xoá đói giảm nghèo khu vực mmmiền Trung, củng cố quan hệ đặc biệt với nước bạn
Lào, tăng cường quan hệ hợp tác với các nước EWEC cũng như liên kết kinh tế trong
Tiểu vùng Mekong, qua đó tiếp tục hội nhập sâu rộng hơn vào khu vực ASEAN.
Theo Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Vũ Dũng, với sự hình thành của EWEC, các nước
như Lào và Thái Lan có thể tận dụng cảng nước sâu của Việt Nam và đây cũng chính
là con đường cho Việt Nam mở rộng đầu tư sang ba nước phía Tây hành lang.
1.1.3. EWEC đối với tỉnh Quảng Trị
Quảng Trị nằm ở Miền Trung Việt Nam, là giao điểm của các huyết mạch
giao thông quan trọng: Quốc lộ 9, EWEC nối Quốc lộ 1A, đường sắt Bắc Nam,
đường Hồ Chí Minh với các cảng biển Miền Trung như: Cửa Việt, Chân Mây, Đà
Nẵng… tạo điều kiện hết sức thuận lợi để mở rộng giao thương, phát triển kinh tế,
thương mại và văn hóa xã hội.
Với vị trí là tỉnh "đầu cầu" của Việt Nam trên EWEC, từ rất sớm (1998) tỉnh

Quảng Trị đã chủ động tham gia chương trình hợp tác phát triển hành lang này.
Tỉnh đã ban hành nhiều Nghị quyết về phát triển KT-XH gắn với EWEC, trong đó
có Nghị quyết về đẩy mạnh đầu tư, khai thác tiềm năng, lợi thế EWEC đến 2010, có
tính đến năm 2015. Quảng Trị đã tập trung xây dựng Khu KT-TM đặc biệt Lao Bảo
để khai thác tiềm năng lợi thế về KT-TM của các nước nằm trên EWEC, tạo cơ hội
để hội nhập và phát triển. Đây là một mô hình khu kinh tế rất mới, duy nhất hiện có
ở Việt Nam (sẽ trình bày ở phần tiếp theo của đề tài này).
Khóa luận tốt nghiệp
10
Nguyễn Thị Phương Thảo – A15 – K44D
Song song với quá trình xây dựng Khu KT-TM đặc biệt Lao Bảo, Quảng Trị
đã hình thành nên Khu công nghiệp Nam Đông Hà với diện tích 136ha, đến nay đã
cơ bản hoàn thành hệ thống cơ sở hạ tầng giai đoạn I, thu hút 5 dự án đầu tư với
tổng vốn đăng ký đầu tư trên 891 tỷ đồng (tương đương 55 triệu USD), đồng thời
đang triển khai xây dựng Khu công nghiệp Quán Ngang. Bên cạnh đó, tỉnh Quảng
Trị cũng đã quan tâm đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật, hình
thành nên chuỗi đô thị dọc theo EWEC và các vùng phụ cận như: Nhà ga cửa khẩu
Quốc tế Lao Bảo với kiến trúc đẹp, khang trang gắn với việc xây dựng Khu Công
Thương mại Dịch vụ tại thị trấn Lao Bảo tạo dấu ấn cho du khách nước ngoài khi
đặt chân đến Việt Nam. Đồng thời tỉnh cũng đã quy hoạch và triển khai xây dựng
thị trấn Đakrông, thị trấn Cam Lộ, Ái Tử, Diên Sanh, thị xã Đông Hà và một số
cụm điểm dịch vụ tổng hợp khác. Đầu năm 2009, tin vui dồn dập đến với Quảng
Trị: Theo kế hoạch phát triển KT-XH của tỉnh và chương trình đô thị hoá, tháng
9/2009 thị xã tỉnh lỵ Đông Hà sẽ chính thức lên thành phố; Chính phủ cũng đã nhất
trí chủ trương cho tỉnh đầu tư xây dựng sân bay Gio Quang (cách thị xã Đông Hà 20
km về phía Bắc) và thành lập Khu kinh tế biển phía Đông Nam của tỉnh gắn với
cảng đào nước sâu Mỹ Thuỷ (cách Đông Hà 35 km về phía Đông Nam).
Nói đến EWEC thì không thể không nhắc đến biển vì trên suốt chiều dài
1.450km, EWEC chủ yếu chạy trên đất liền, qua các bình nguyên trung du và đồi
núi. Các bãi biển hoang sơ nhưng đầy ắp nắng gió từ Cửa Việt, Cửa Tùng, Mỹ Thuỷ

của Quảng Trị, Chân Mây – Lăng Cô của Thừa Thiên Huế và Xuân Thiều, Tiên Sa
của Đà Nẵng sẽ làm thoả cơ ‘khát biển’ của du khách - một lượng lớn cư dân phía
Tây (Đông Bắc Thái Lan – Lào) do chịu ảnh hưởng về địa hình cao, thời tiết khô
nóng, sẽ theo các Tour du lịch trên EWEC về với du lịch biển phía Đông. Ngày
20/12/2006, cầu Hữu Nghị II (Mukdahan-Savannakhet) bắc qua sông Mekong đã
được khánh thành, đánh dấu sự khơi thông của EWEC. Sau sự kiện ấy, lượng du
khách theo EWEC qua cửa khẩu Quốc tế Lao Bảo vào Việt Nam đã tăng lên đáng
kể (Năm 2005 có 156.000 lượt người, năm 2006 có 274.000 lượt người, năm 2007
có 450.000 lượt người, năm 2008 có 630.000 lượt người), trong đó chủ yếu là
khách Thái Lan. Hy vọng rằng, chỉ với khoảng cách 240km từ cầu Hữu Nghị II đến
Khóa luận tốt nghiệp
11
Nguyễn Thị Phương Thảo – A15 – K44D
Lao Bảo và chỉ hơn 300 km đến với các bãi biển của Miền Trung Việt Nam, lượng
du khách của Thái Lan và khách du lịch các nước đến Thái Lan đi bằng đường bộ
qua cửa khẩu Quốc tế Lao Bảo vào Việt Nam sẽ gia tăng mạnh hơn trong các năm
tiếp theo. Để đón đầu xu thế này, Quảng Trị đã tiến hành lập quy hoạch 2 khu du
lịch biển là Cửa Việt và Cửa Tùng. Đến nay đã thu hút và triển khai thủ tục đầu tư
cho 26 dự án có tổng diện tích 556 ha với trên 3.300 tỷ đồng (tương đương 200
triệu USD) vốn đăng ký đầu tư, trong đó có 12 dự án đã và đang xây dựng với tổng
số vốn đầu tư gần 200 tỷ đồng (tương đương 12 triệu USD).
Song song với sự chuẩn bị về CSHT và chính sách thu hút đầu tư, Chính phủ
Việt Nam đã chỉ đạo các Bộ ngành liên quan và tỉnh Quảng Trị đã tăng cường tiến
hành cải cách thủ tục hành chính tại Cửa khẩu quốc tế Lao Bảo. Từ năm 2005, hai
nước Lào và Việt Nam đã chính thức khai trương thí điểm "kiểm tra một lần tại một
điểm dừng" tại cặp cửa khẩu quốc tế Lao Bảo - Densavan và đang tích cực triển
khai thực hiện để đưa mô hình này được thực hiện hiệu quả hơn, thuận lợi hơn cho
du khách và nhà đầu tư.
Nhằm tăng cường mở rộng hoạt động đối ngoại và kinh tế đối ngoại, tỉnh
Quảng Trị đã chủ động tiến hành nhiều hoạt động tăng cường hợp tác hữu nghị với

các nước láng giềng, trong đó có Lào, Thái Lan. Từ sau tháng 07/2002, sau khi tỉnh
Quảng Trị tổ chức Hội thảo hợp tác phát triển giữa các tỉnh miền Trung Việt Nam -
Đông Bắc Thái Lan và Trung Lào, quan hệ hợp tác giữa tỉnh Quảng Trị và các tỉnh
Đông Bắc Thái Lan đã phát triển không ngừng. Quảng Trị đã đón nhiều đoàn đại
biểu cấp cao của Thái Lan đến thăm và làm việc, các đoàn doanh nghiệp trên các
lĩnh vực: Thương mại, đầu tư, du lịch, dịch vụ đến tìm hiểu khả năng và cơ hội
hợp tác đầu tư; các đoàn giao lưu văn hoá nghệ thuật, thể dục thể thao, du lịch, các
trường đại học, cao đẳng đến từ các tỉnh Khonkaen, Mukdahan, Nakhon Phanom,
Mahasalakham, Kalasin, Sakon Nakhon Đặc biệt, tháng 7/2004 và tháng 7/2007,
Quảng Trị đã tổ chức thành công lễ hội “Nhịp cầu xuyên Á” lần thứ nhất và lần thứ
2, trong đó có sự tham gia của các quan chức, đoàn nghệ thuật, đoàn thể thao và các
doanh nghiệp đến từ Lào và các tỉnh Đông Bắc Thái Lan. Tháng 9/2007, Quảng Trị
cũng đã tích cực tổ chức, triển khai các hoạt động tại Quảng Trị nhằm hưởng ứng
Khóa luận tốt nghiệp
12
Nguyễn Thị Phương Thảo – A15 – K44D
Tuần lễ Hành lang kinh tế Đông Tây theo sáng kiến của Bộ Ngoại giao Việt Nam.
Tuần lễ này đã liên kết các quốc gia, địa phương dọc Hành lang, tạo cú huých quan
trọng để nâng cao nhận thức về EWEC, quảng bá rộng rãi những tiềm năng, nhu
cầu hợp tác phát triển của EWEC, thu hút sự quan tâm của doanh nghiệp và các nhà
tài trợ quốc tế.
Với tư cách là 3 tỉnh đầu cầu của 3 nước Việt Nam, Lào và Thái Lan trên
trục EWEC, tỉnh Quảng Trị, tỉnh Savannakhet và tỉnh Mukdahan cũng đã ký kết
biên bản thiết lập quan hệ hợp tác phát triển trên các lĩnh vực: Đầu tư, Thương mại,
Giáo dục, Y tế, Du lịch, Văn hoá và luân phiên tổ chức các hội nghị 3 bên để đánh
giá việc hợp tác và trao đổi kinh nghiệm lẫn nhau.
Để đón đầu và phát huy lợi thế của Hành lang này, từ năm 2002, tỉnh Quảng
Trị đã đầu tư và chú trọng đến công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ phục vụ
công tác hữu nghị, hợp tác phát triển với Lào và Thái Lan. Trong 5 năm qua, tỉnh
Quảng Trị đã gửi hàng chục học sinh sang học tại Lào và ký kết Văn bản thoả thuận

hợp tác và đã gửi hàng trăm học sinh đi học ở 8 trường đại học thuộc vùng Đông
Bắc Thái Lan như: Nakhon Phanom, Sakon Nakhon, Mahasalakham, Udon Thani,
Ubon Ratchathani, Roi- Et, Sisaket và gần đây nhất là với trường đại học Khonken
về đào tạo tiếng Thái Lan và đào tạo đại học chuyên ngành về kinh tế, kỹ thuật cho
hơn 200 cán bộ công chức và học sinh tỉnh Quảng Trị. Trường cao đẳng sư phạm
Savannakhet tiếp tục mở các lớp đàm thoại tiếng Lào, tiếng Thái cho cán bộ, nhân
dân tại địa phương. Đây chắc chắn sẽ là cầu nối quan trọng và là nguồn nhân lực kế
cận trong kế hoạch hợp tác phát triển bền vững với Lào, Thái Lan và khai thác hiệu
quả tiềm năng, lợi thế do EWEC mang lại trong những năm sắp tới.
Có thể nói, với tư cách là tỉnh đầu cầu của Việt Nam trên EWEC, những năm
qua Quảng Trị đã có nhiều nỗ lực cố gắng, góp phần tích cực vào mục tiêu chung
của các nước có EWEC đi qua là biến EWEC từ một "Hành lang giao thông" đơn
thuần tiệm cận rất gần với "Hành lang kinh tế - thương mại", xa hơn nữa là “Hành
lang văn hoá” trong xu thế hội nhập và phát triển.
Khóa luận tốt nghiệp
13
Nguyễn Thị Phương Thảo – A15 – K44D
1.1.4. Những vấn đề cần quan tâm của các nước thành viên EWEC
Các nước cần chủ động tích cực chuẩn bị thực lực để đón nhận EWEC như:
chuẩn bị lực lượng nhất là đội ngũ cán bộ và lực lượng vật chất (hàng hoá, dịch vụ -
doanh nghiệp và nền kinh tế). Trong đào tạo, bồi dưỡng nhân lực cần bảo đảm đáp
ứng nhu cầu quan hệ kinh tế đối ngoại, đồng thời coi trọng bồi dưỡng những kiến
thức về bảo đảm an ninh kinh tế - thương mai, an ninh thông tin và và các loại hình
an ninh khác có liên quan đến an ninh quốc gia và khu vực.
Cần nhận thức sâu sắc hơn nữa tính hiệu quả của chính sách đan xen, tuỳ
thuộc lẫn nhau của hai lĩnh vực: sự vững mạnh của an ninh quốc gia tạo môi trường
thuận lợi cho kinh tế đối ngoại phát triển, ngược lại kinh tế đối ngoại phát triển lại
làm tăng vai trò quan trọng của kinh tế đối với an ninh quốc gia và tạo điều kiện
củng cố an ninh quốc gia và an ninh khu vực, đó là một trong những đặc trưng của
thời đại toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế. Chủ động đưa các nội dung bảo

đảm an ninh vào các hoạt động hoạch định chiến lược kinh tế đối ngoại, sử dụng có
hiệu quả những yếu tố đặc thù của hoạt động kinh tế EWEC để đẩy mạnh quan hệ
vừa hợp tác, vừa cạnh tranh, đấu tranh nhằm phát triển kinh tế, củng cố và giữ vững
an ninh quốc gia, an ninh khu vực trong quá trình hội nhập kinh tế theo mục tiêu
của EWEC.
Cần ưu tiên phát triển kết cấu hạ tầng thông tin, bao gồm cả thông tin,
internet, thương mại điện tử vì đây là kết cấu hạ tầng dịch vụ thương mại rất quan
trọng phục vụ cho phát triển cả kinh tế và an ninh. Phát hiện kịp thời những âm
mưu và thủ đoạn lợi dụng quy chế EWEC để phá hoại tiềm lực an ninh quốc gia và
an ninh khu vực.
Cần tổ chức các hình thức mới trong đấu tranh giữ vững an ninh kinh tế đối
ngoại trong quá trình thực hiện mục tiêu EWEC. Đây là một trong những yêu cầu
quan trọng về an ninh trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Về lực
lượng phải bao gồm tất cả các pháp nhân và thể nhân tham gia thị trường kinh tế đối
ngoại trực tiếp hoặc gián tiếp. Về phương thức đấu tranh bảo vệ an ninh cần giữ
vững nguyên tắc chủ quyền quốc gia - dân tộc, nhưng đồng thời phải "mềm dẻo và
linh hoạt”. Các lực lượng an ninh quốc gia không chỉ bảo vệ nền kinh tế - bảo vệ
Khóa luận tốt nghiệp
14
Nguyễn Thị Phương Thảo – A15 – K44D
quan hệ kinh tế 4 nước do quy chế EWEC đưa lại, mà còn chủ động tạo những điều
kiện, môi trường thuận lợi nhất cho việc thực hiện mục tiêu của EWEC có hiệu quả
tổng hợp cả chính trị - kinh tế - xã hội, an ninh
1.2. Khu KT-TM đặc biệt Lao Bảo:
Khu KT-TM đặc biệt Lao Bảo là một mô hình rất mới, duy nhất hiện có ở
Việt Nam. Để hiểu hơn mô hình đặc biệt này, trước tiên chúng ta cần nắm được
khái niệm khu kinh tế và khu kinh tế đặc biệt.
1.2.1. Khái niệm khu kinh tế
Theo khoản 3, điều 2 nghị định số 29/2008/NĐ-CP ngày 14 tháng 3 năm
2008 của Chính Phủ thì: [16]

- Khu kinh tế là khu vực có không gian kinh tế riêng biệt với môi trường đầu
tư và kinh doanh đặc biệt thuận lợi cho các nhà đầu tư, có ranh giới địa lý xác định,
được thành lập theo điều kiện, trình tự và thủ tục quy định tại Nghị định này.
Khu kinh tế được tổ chức thành các khu chức năng gồm: khu phi thuế quan,
khu bảo thuế, khu chế xuất, khu công nghiệp, khu giải trí, khu du lịch, khu đô thị,
khu dân cư, khu hành chính và các khu chức năng khác phù hợp với đặc điểm của
từng khu kinh tế.
- Khu kinh tế cửa khẩu là khu kinh tế hình thành ở khu vực biên giới đất liền
có cửa khẩu quốc tế hoặc cửa khẩu chính và được thành lập theo các điều kiện, trình
tự và thủ tục quy định tại Nghị định này.
Khu kinh tế, khu kinh tế cửa khẩu được gọi chung là khu kinh tế, trừ trường
hợp quy định cụ thể (Như Khu KT-TM đặc biệt Lao Bảo).
1.2.2. Khái niệm đặc khu kinh tế
ĐKKT trước hết là một khu kinh tế như đã nêu khái niệm ở trên. Tuy nhiên
tính “đặc biệt” ở đây thường được thể hiện cơ chế chính sách mà Chính phủ hoặc
địa phương thành lập ra nó cho phép áp dụng.
Cho đến nay, có rất nhiều khái niệm và cách hiểu khác nhau về ĐKKT. Xét
theo nghĩa rộng, tất cả các vùng địa lý nhất định do một quốc gia hoặc một khu vực
Khóa luận tốt nghiệp
15
Nguyễn Thị Phương Thảo – A15 – K44D
xác lập trong phạm vi của mình và ở đó thi hành các chính sách kinh tế đặc biệt đều
có thể gọi là ĐKKT. Song nếu xét theo nghĩa hẹp, ĐKKT là một khu vực địa lý
riêng biệt nhằm thu hút vốn đầu tư nước ngoài, công nghệ tiên tiến, kỹ thuật quản lý
để phát triển kinh tế với một cơ cấu ngành nghề đầy đủ của nền kinh tế quốc dân,
gồm: công nghiệp, nông nghiệp, tài chính, y tế, du lịch, dịch vụ…, trong đó ưu tiên
phát triển công nghiệp hướng về xuất khẩu, nhưng cũng không bỏ qua thị trường
nội địa, mục đích là làm cho kinh tế của khu vực đó và các vùng lân cận trở nên
phồn thịnh, tăng thu nhập và tăng thu ngoại tệ.
Theo quan điểm của Trung Quốc, ĐKKT là một khu vực địa lý được ngăn

cách với bên ngoài bởi hai hàng rào quản lý: hàng rào thứ nhất để quản lý quan hệ
giữa ĐKKT với thị trường thế giới, hàng rào thứ hai là hàng rào ngăn cách ĐKKT
với thị trường nội địa thông qua sự kiểm soát chặt chẽ của lực lượng hải quan.
Trong Luật về ĐKKT của Philippin, ĐKKT được định nghĩa như sau: “Các
đặc khu kinh tế trong luật này sẽ được gọi là các khu kinh tế, là các vùng lãnh thổ
được lựa chọn, đã từng là hoặc có khả năng trở thành các trung tâm công nông
nghiệp, du lịch, vui chơi giải trí, thương mại, ngân hàng, đầu tư và tài chính. Một
khu kinh tế có thể bao gồm một hoặc nhiều thành tố sau: khu công nghiệp, khu chế
xuất, khu mậu dịch tự do, trung tâm du lịch, khu vui chơi giải trí”.
Từ những cách định nghĩa như trên và qua thực tiễn hoạt động của các
ĐKKT, khóa luận xin rút ra khái niệm chung về ĐKKT như sau: ĐKKT là một
vùng lãnh thổ quốc gia đặc biệt, có ranh giới địa lý xác định, có dân cư sinh sống,
ở đó áp dụng những chính sách đặc biệt, thích hợp cho việc phát triển kinh tế tự do
theo cơ chế thị trường với một cơ cấu kinh tế tổng hợp giữa các ngành công nghiệp,
nông nghiệp, thương mại, tài chính, ngân hàng, du lịch, nhằm đạt được những mục
tiêu nhất định của quốc gia thành lập.
1.2.3. Giới thiệu vị thế chiến lược Khu KT-TM đặc biệt Lao Bảo
1.2.3.1. Quá trình hình thành Khu KT-TM đặc biệt Lao Bảo:
Quảng Trị nằm ở Miền Trung Việt Nam, là giao điểm của các huyết mạch
giao thông quan trọng: Quốc lộ 9, EWEC nối Quốc lộ 1A, đường sắt Bắc Nam,
đường Hồ Chí Minh với các cảng biển Miền Trung như: Cửa Việt, Vũng Áng, Chân
Khóa luận tốt nghiệp
16
Nguyễn Thị Phương Thảo – A15 – K44D
Mây, Đà Nẵng… tạo điều kiện hết sức thuận lợi để mở rộng giao thương, phát triển
kinh tế, thương mại và văn hóa xã hội.
Xuất phát từ lợi thế của khu vực và mối quan hệ hữu nghị đặc biệt giữa hai
nước Việt-Lào, cụ thể hoá Hiệp định hợp tác Kinh tế, Văn hoá, Khoa học, Kỹ thuật
hàng năm của hai nước CHXHCN Việt Nam và CHDCND Lào, để triển khai quy
hoạch xây dựng vùng biên giới Việt - Lào và quy hoạch phát triển các khu kinh tế

cửa khẩu của Việt Nam thời kỳ 2000 – 2010; Nhằm đón đầu xu thế hội nhập và khai
thác tiềm năng lợi thế EWEC khi hành lang này hoàn thành; Kết hợp với chiến lược
phát triển KT-XH, đảm bảo an ninh quốc phòng huyện miền núi phía Tây tỉnh
Quảng Trị, Bộ Chính trị hai nước đã thống nhất chủ trương xây dựng khu vực Lao
Bảo (Việt Nam) – Đansavẳn (Lào) trở thành một khu vực kinh tế phát triển.
Hình 1. Vị trí địa lý của tỉnh Quảng Trị và Khu KT-TM đặc biệt Lao Bảo trên
EWEC

Khóa luận tốt nghiệp
17
Nguyễn Thị Phương Thảo – A15 – K44D
Từ năm 1992, Bộ Chính trị hai nước giao nhiệm vụ cho hai bộ (bộ Thương
mại của Việt Nam và bộ Công thương của Lào) phối hợp chính quyền hai tỉnh
(Quảng Trị của Việt Nam và Savanakhẹt của Lào) xây dựng đề án hai khu thương
mại. Sau thời gian nghiên cứu, khảo sát tất cả các chợ biên giới củaViệt Nam, Lào
hiện có trong giai đoạn 1992 – 1997 và tham khảo mô hình “Khu thương mại tự do
Thẩm Quyến” của Trung Quốc, giữa năm 1998 đề án Khu thương mại Lao Bảo của
phía Việt Nam được hoàn thiện, trình lên Chính phủ.
Ngày 12/11/1998, Thủ tưởng Chính Phủ đã ra quyết định số 219/1998/QĐ-
TTg ban hành Quy chế Khu vực khuyến khích phát triển kinh tế và thương mại Lao
Bảo (gọi tắt là Khu TM Lao Bảo) và sau đó được sửa đổi bổ sung theo Quyết định
số 08/2002/QĐ-TTg ngày 11/01/2002 của Thủ tướng Chính phủ.
Về phía bạn Lào, ngày 24/01/2002 Thủ tướng Chính phủ Lào đã quyết định
ban hành Quy chế Khu kinh tế biên giới Đensavẳn (đã được sửa đổi, bổ sung ngày
25/3/2002). Qua các cuộc làm việc cấp Chính phủ và Bộ trưởng, hai bên đã thống
nhất việc lựa chọn mô hình 2 khu thương mại này làm thí điểm, trên cơ sở đó sẽ
tổng kết và nhân rộng ra các địa phương khác của mỗi bên.
Sau quá trình tổ chức thực hiện, trên cơ sở tổng kết 5 năm xây dựng và phát
triển Khu TM Lao Bảo, để tăng cường các chính sách ưu đãi cho khu vực ở mức
cao hơn nữa, ngày 12/01/2005 Thủ tướng Chính phủ Việt Nam đã ra Quyết định số

11/2005/QĐ-TTg ban hành Quy chế Khu KT-TM đặc biệt Lao Bảo. Theo đó, Khu
TM Lao Bảo được đổi tên thành Khu KT-TM đặc biệt Lao Bảo.
Đây là kết quả cụ thể của việc thực hiện chủ trương của 2 Bộ chính trị, hiệp
định hợp tác giữa 2 nước Việt Nam và Lào; thực hiện chủ trương đổi mới của Đảng,
chiến lược phát triển KT-XH của Chính phủ tại vùng núi biên giới có điều kiện KT-
XH đặc biệt khó khăn; là điều kiện hết sức cơ bản, tạo cơ hội cho tỉnh Quảng Trị
thu hút đầu tư, đón đầu tiến trình hội nhập, khai thác EWEC, gắn với phát triển
SXKD và nâng cao đời sống của nhân dân trong khu vực. Điều đó thể hiện sự quan
tâm lớn lao của Đảng, Nhà nước đối với vùng đất chịu nhiều đau thương mất mát
trong chiến tranh, hiện còn khó khăn trong phát triển.
Khóa luận tốt nghiệp
18
Nguyễn Thị Phương Thảo – A15 – K44D
1.2.3.2. Đặc điểm của Khu KT-TM đặc biệt Lao Bảo
Khu KT-TM đặc biệt Lao Bảo được hình thành trên cơ sở mối quan hệ hữu
nghị giữa Việt Nam và Lào. Là khu vực cửa khẩu quốc tế quan trọng, khuyến khích
phát triển KT-TM, có vai trò quan hệ trực tiếp giữa hai nước Việt - Lào và các nước
trong khu vực, đặc biệt giữa hai tỉnh Quảng trị và Savanakhet, trong đó: Thị trấn
Lao Bảo là cửa khẩu quốc tế quan trọng, một trung tâm thương mại dịch vụ của tỉnh
có ý nghĩa vùng và quốc tế, thị trấn Khe Sanh là thị trấn huyện lỵ huyện Hướng
Hoá, đồng thời là một trong những trung tâm thương mại, dịch vụ, du lịch, sản xuất
hàng hoá tiêu dùng của khu thương mại Lao Bảo.
Khu KT-TM đặc biệt Lao Bảo thuộc chủ quyền lãnh thổ quốc gia Việt Nam
nhưng có không gian kinh tế riêng biệt (kéo dài từ cổng A đến cổng B), có nghĩa là
về mặt hàng hoá và dịch vụ Khu KT-TM đặc biệt Lao Bảo được xem như một khu
vực có chủ quyền riêng. Biên giới hàng hoá dịch vụ được mở rộng. hàng hóa dịch
vụ từ nước ngoài vào cửa khẩu Lao Bảo chỉ cần kiểm hoá ở cổng A và có thể tự do
được trao đổi buôn bán trong Khu KT-TM đặc biệt Lao Bảo, chỉ khi nào qua cổng
B ra khỏi Khu KT-TM Lao Bảo mới bị kiểm tra thông quan. Quan hệ trao đổi hàng
hoá, dịch vụ giữa Khu và thị trường trong nước là quan hệ xuất khẩu, nhập khẩu. [27]

Khu KT-TM đặc biệt Lao Bảo là một mô hình kinh tế tổng hợp, vừa có đặc
điểm tính chất như khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế cửa khẩu, vừa mang
tính chất của một khu phi thuế đặc biệt, một khu bảo thuế rộng lớn, không có hàng
rào cứng ngăn cách với bên ngoài; Là nơi được áp dụng thí điểm một số chính sách,
cơ chế quản lý kinh tế mới khi chưa có điều kiện thực hiện trên phạm vi cả nước.
Chính sách tại Khu KT-TM đặc biệt Lao Bảo được áp dụng mức ưu đãi cao nhất
theo quy định hiện hành của Luật pháp Việt Nam và điều ước quốc tế mà Việt Nam
ký kết hoặc tham gia. Có nghĩa là, Khu KT-TM Lao Bảo sẽ hoạt đông theo Quy chế
11 nhưng nếu như những ưu đãi của Luật Việt Nam hay những ưu đãi của các điều
ước quốc tế mà Việt Nam kí kết và gia nhập cao hơn những ưu đãi trong Quy chế
11 thì Khu KT-TM Lao Bảo được hưởng loại ưu đãi cao hơn. Đây là đặc điểm riêng
biệt và lợi thế riêng có của khu vực này so với các mô hình kinh tế khác trên phạm
vi toàn quốc.
Khóa luận tốt nghiệp
19
Nguyễn Thị Phương Thảo – A15 – K44D
Phương tiện giao thông cơ giới đường bộ có tay lái bên phải được ra, vào
Khu KT-TM đặc Biệt Lao Bảo để vận chuyển hàng hoá, hành khách. Các tổ chức,
cá nhân hoạt động đầu tư, kinh doanh tại khu vực được mua phương tiện giao thông
cơ giới đường bộ miễn thuế, các phương tiện này được đăng ký biển số Lao Bảo
(Màu vàng, bắt đầu bằng chữ “LB”), được cấp transit lưu hành vào nội địa Việt
Nam trong thời hạn 30 ngày/lần và chịu sự quản lý như phương tiện giao thông cơ
giới nước ngoài quá cảnh Việt Nam.
BQL Khu KT-TM đặc biệt Lao Bảo do Thủ tướng Chính phủ thành lập, có
đủ thẩm quyền giải quyết các thủ tục hành chính cho doanh nghiệp và nhà đầu tư
theo cơ chế “một cửa, tại chỗ”.
1.2.3.3. Mục tiêu của việc thành lập Khu KT-TM đặc biệt Lao Bảo
Theo Quy chế 11 về Khu KT-TM đặc biệt Lao Bảo, Khu KT-TM đặc biệt
Lao Bảo được thành lập nhằm: [27]
− Tăng cường hơn nữa quan hệ hợp tác kinh tế, thương mại giữa nước

CHXHCN Việt Nam và nước CHDCND Lào với các nước láng giềng.
− Khai thác lợi ích kinh tế qua các cơ chế hợp tác khu vực để thúc đẩy
phát triển KT-XH khu vực miền Trung, góp phần vào sự phát triển và hội nhập kinh
tế quốc tế của cả nước.
− Áp dụng thí điểm một số cơ chế quản lý kinh tế mới khi chưa có điều
kiện thực hiện trên phạm vi cả nước.
− Tạo môi trường hấp dẫn thu hút đầu tư nước ngoài, khai thác tối đa lợi
thế sẵn có, phát triển sản xuất và các loại hình dịch vụ, đẩy mạnh xuất khẩu, mở
rộng thị trưởng.
− Tạo việc làm, thúc đẩy việc đào tạo và nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực.
− Xây dựng đô thị miền núi, tạo vùng kinh tế động lực, góp phần thúc
đẩy mạnh mẽ sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Tỉnh Quảng Trị.
Khóa luận tốt nghiệp
20
Nguyễn Thị Phương Thảo – A15 – K44D
1.2.4. Giới thiệu vị thế chiến lược của Khu KT-TM đặc biệt Lao Bảo đối với
EWEC:
1.2.4.1. Quan niệm về chiến lược
Michael L.Porterr, giáo sư nổi tiếng về chiến lược kinh doanh của trường Đại
học Harvad danh tiếng, năm 1996, đã phát biểu những quan niệm mới của mình về
chiến lược qua bài báo: “Chiến lược là gì?” ông cho rằng: “Thứ nhất, chiến lược là
sự sáng tạo ra vị thế có giá trị và độc đáo bao gồm các hoạt động khác biệt. Thứ
hai, chiến lược là sự lựa chọn, đánh đổi trong cạnh tranh. Thứ ba, chiến lược là
việc tạo ra sự phù hợp giữa tất cả các hoạt động của Công ty.”
Thuật ngữ “chiến lược” được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau. Tuy
nhiên, chiến lược có thể coi là tập hợp những quyết định và hành động hướng mục
tiêu để các năng lực và nguồn lực của tổ chức đáp ứng được những cơ hội và thách
thức từ bên ngoài. Chiến lược của doanh nghiệp phải khai thác được những điểm
mạnh cơ bản của mình (các nguồn lực và năng lực) và phải tính đến những cơ hội,

thách thức của môi trường.
Vì vậy, đối với EWEC, trước hết, chiến lược liên quan tới các mục tiêu của
Hành lang. Thứ đến, chiến lược bao gồm không chỉ những gì EWEC muốn đạt đến,
mà còn là cách thức thực hiện những việc đó, là một loạt các hành động và quyết
định có liên quan chặt chẽ với nhau và lựa chọn phương pháp phối hợp những hành
động và quyết định đó.
Như vậy, vị thế chiến lược trong phát triển EWEC chính là vị trí quan trọng
phục vụ cho chiến lược phát triển của Hành lang.
1.2.4.2. Vị trí địa lý, chính trị
Khu KT-TM đặc biệt Lao Bảo được nhận định là một trong 7 “mắt xích” cực
kỳ quan trọng trong EWEC một phần là vì Khu có nột vị trí địa lý rất thuận lợi.
− Có cửa khẩu quốc tế Lao Bảo: Khu KT-TM đặc biệt Lao Bảo nằm ở
vào vị trí đầu cầu của Việt Nam trên EWEC, là “cửa vào - ra”, đầu mối quan trọng
của Hành lang kinh tế này. Ở đây có cửa khẩu quốc tế Lao Bảo, một trong những
Khóa luận tốt nghiệp
21
Nguyễn Thị Phương Thảo – A15 – K44D
cửa khẩu đường bộ quan trọng của nước ta, để mở rộng giao lưu hàng hóa, xuất
nhập khẩu, mở rộng các hoạt động du lịch, dịch vụ với Lào, Thái Lan và các nước
khác trong khu vực. Cửa khẩu quốc tế Lao Bảo đã và đang được đầu tư xây dựng
vận hành tốt. Cùng với hệ thống giao thông trong khu vực ngày càng được cải thiện
góp phần vào phục vụ chiến lược phát triển EWEC.
− Có Đường 9 xuyên Á : đây là con đường ngắn nhất, thuận lợi nhất nối
nước ta với Lào, đảm bảo giao thông liên tục từ nội địa Việt Nam đến Savannakhẹt,
Mụcđahán với khoảng 320 km đường bộ, có thể đi lại thuận lợi kể cả trong mùa
mưa. Đường 9 đi qua các vùng trù phú của Quảng Trị và Savannakhet với những
tiềm năng to lớn về đất đai, tài nguyên rừng, khoáng sản… Đường 9 cùng với tuyến
giao thông đường bộ Bắc - Nam xuyên suốt chiều dài của Tỉnh tạo thành một hệ
thống có tầm chiến lược để phát triển kinh tế. Từ đây có thể nối liền với Biển Đông
không chỉ đi qua cảng Cửa Việt mà còn đến những cảng lớn như cảng Đà Nẵng,

Vũng áng, Chân Mây và các cảng khác trong khu vực. Ở ngã ba đường 9 và Quốc
lộ 1A là thị xã tỉnh lỵ Đông Hà – Trung tâm thương mại lớn nhất, năng động nhất
của tỉnh Quảng Trị và khu vực, cùng với Lao Bảo trở thành một trung tâm trung
chuyển, giao lưu hàng hóa lớn, hoạt động với quy mô là cầu nối của toàn vùng.
Khu KT-TM đặc biệt Lao Bảo đã được đưa vào định hướng phát triển trong quy
hoạch vùng lãnh thổ quốc gia Việt Nam, của tỉnh Quảng Trị và của khu vực, thể
hiện qua các văn kiện, tài liệu sau :
− Nghị quyết 39-NQ/TW của Bộ Chính Trị về phát triển KT-XH và đảm bảo
quốc phòng, an ninh vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ đến năm 2010, đã
xác định Lao Bảo nằm trong kế hoạch phát triển mạng lưới đô thị của khu vực.
− Quyết định 24/2008/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành một số một
số chính sách hỗ trợ phát triển KT-XH đối với vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải
Trung Bộ đến năm 2010, trong đó xác định "Ưu tiên đầu tư Khu KT-TM đặc biệt
Lao Bảo để mở rộng giao lưu buôn bán, phát triển du lịch tăng cường dịch vụ với
các nước trong khu vực… Đầu tư xây dựng Khu KT-TM đặc biệt Lao Bảo theo quy
hoạch đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyêt… Ưu tiên phát triển du lịch theo
tuyến hành lang kinh tế Đông – Tây…"
Khóa luận tốt nghiệp
22
Nguyễn Thị Phương Thảo – A15 – K44D
− Quyết định 864/QĐ-TTg ngày 09/7/2008 của Thủ tướng Chính phủ quy hoạch
xây dựng vùng biên giới Việt Nam – Lào đến năm 2020, theo đó xây dựng Lao Bảo
thành thành phố nằm trong hệ thống đô thị động lực cấp I tuyến biên giới của Việt
Nam (có 3 thành phố động lực cấp I được quy hoạch theo Quyết định trên là : Điện
Biên của tỉnh Lai Châu, Lao Bảo của tỉnh Quảng Trị và Bờ Y của tỉnh Kon Tum).
− Nghị quyết 06/NQ-TU về đầu tư khai thác EWEC của tỉnh ủy Quảng Trị đã
xác định Khu KT-TM đặc biệt Lao Bảo là vùng động lực của tuyến động lực, là
điểm nhấn để tỉnh Quảng Trị hội nhập và phát triển.
− Quyết định 18/2008/QĐ-UBND của UBND tỉnh Quảng Trị về quy hoạch
phát triển đô thị phía Tây của tỉnh đã xác định xây dựng phát triển toàn Khu KT-

TM đặc biệt Lao Bảo thành đô thị loại 4 vào 2010 và đô thị loại 3 trước 2020.
− Hiệp định hợp tác văn hoá, khoa học, kỹ thuật giữa Việt Nam và Lào thời kỳ
2006 – 2010 đã xác định xây dựng và phát triển Khu KT-TM đặc biệt Lao Bảo và
Khu TM biên giới Đensavanh thành mô hình kiểu mẫu để sau khi có kết quả, sẽ
nhân rộng ra các địa phương khác của cả hai quốc gia.
− Hiệp định hợp tác giao thông đường bộ của khối các nước tiểu vùng sông
Mêkông (GMS) ký kết cho thời kỳ 2005 – 2010 đã chọn cặp cửa khẩu quốc tế Lao
Bảo – Đensavanh là cặp cửa khẩu đầu tiên áp dụng thí điểm thủ tục kiểm tra ‘tại
chỗ, một điểm dừng’ để sau đó áp dụng cho các cặp cửa khẩu còn lại của các nước
GMS.
1.2.4.3. Vị trí kinh tế
Khu KT-TM đặc biệt Lao Bảo là khu kinh tế có diện tích rộng lớn và các khu
chức năng đa dạng. Đây là khu kinh tế lớn nhất cả nước với tổng diện tích 15.804
hecta, chiều rộng bình quân 1km, chiều dài 25km. Theo quy hoạch đã được phê
duyệt, hiện tại Khu KT-TM đặc biệt Lao Bảo có các khu chức năng chính sau: Khu
công thương mại dịch vụ Lao Bảo, diện tích 100 ha, đã được đầu tư hoàn chỉnh về
CSHT kỹ thuật; dành cho các hoạt động chủ yếu như: Kinh doanh thương mại, du
lịch, khách sạn, gia công, tái chế, lắp ráp, sản xuất công nghiệp sạch… ; Cụm công
nghiệp tập trung phía Tây Bắc thị trấn Lao Bảo, diện tích 40 ha. Tập trung các loại
Khóa luận tốt nghiệp
23
Nguyễn Thị Phương Thảo – A15 – K44D
hình hoạt động như: Sản xuất công nghiệp, chế biến thực phẩm, lắp ráp ô tô, điện
tử, điện lạnh, sản xuất đồ gỗ gia dụng… ; Cụm cửa khẩu quốc tế Lao Bảo, có diện
tích 60 ha. Quy hoạch xây dựng nhà ga kiểm soát cửa khẩu, kho ngoại quan, bãi đỗ
xe xuất nhập cảnh… ; Khu công viên văn hoá Lao Bảo, có diện tích 25 ha (có 7 ha
mặt nước). Quy hoạch dành cho các loại hình dịch vụ vui chơi giải trí, hoạt động
văn hoá, nhà hàng, khách sạn… ; Khu quy hoạch dân cư Lao Bảo – Tân Thành,
diện tích 45 ha. Quy hoạch dành cho các hộ gia đình tái định cư do phải di dời từ
nơi khác để giao mặt bằng cho các dự án đầu tư CSHT hoặc dự án đầu tư SXKD ;

Khu Dịch vụ - Du lịch Làng Vây, diện tích 65 ha: Quy hoạch phát triển dịch vụ,
kinh doanh siêu thị, kho bãi trung chuyển hàng hoá, bãi đỗ xe, xưởng sửa chữa bảo
dưỡng xe ô tô và các phương tiện giao thông khác. Với Quy mô và quy hoạch như
trên cho thấy đây là một mô hình tổng hợp với nhiều khu chức năng, tạo điều kiện
thuận lợi cho Khu KT-TM đặc biệt Lao Bảo hoạt động đa dạng, phong phú. Đặc
điểm này làm cho Khu KT-TM đặc biệt Lao Bảo có một vị thế hết sức quan trọng,
từ đó cho thấy sự phát triển của Khu sẽ ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của tỉnh
Quảng Trị cũng như EWEC.
Lao Bảo là khu vực kinh tế phát triển năng động, đảm nhận được vai trò là
‘vùng động lực của tuyến động lực’ của tỉnh Quảng Trị và khu vực trên EWEC. Với
đặc điểm tính chất như một khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế cửa khẩu,
khu bảo thuế, Khu KT-TM đặc biệt Lao Bảo là mô hình khu phi thuế quan đặc biệt,
là một cửa hàng miễn thuế khổng lồ có sức hấp dẫn, lôi cuốn hoạt động thương mại
dịch vụ trong và ngoài nước, trở thành nơi tập kết, trung chuyển và phát luồng hàng
hoá, dịch vụ từ Myanma, Thái Lan, Lào về nội địa Việt Nam để ra với biển xuất đi
châu Âu, châu Mỹ và từ Việt Nam đến với các nước trên EWEC.
Trong thời gian từ 16-20/02/2009, Hội thảo chuyên đề về xây dựng và phát
triển mô hình ‘Khu kinh tế đặc biệt’ cho các nước CLMV (Campuchia, Lào,
Myama, Việt Nam) do Quỹ hỗ trợ học bổng kỹ thuật hải ngoại (AOTS) - Nhật Bản
và Cục quản lý Khu công nghiệp Thái Lan (IET) đồng tổ chức tại Bangkok đã lấy
mô hình Khu KT-TM đặc biệt Lao Bảo làm dẫn chứng như một hình mẫu cần áp
Khóa luận tốt nghiệp
24
Nguyễn Thị Phương Thảo – A15 – K44D
dụng cho các nước CLMV và khẳng định vị thế chiến lược của khu vực này trên
EWEC là rất quan trọng.
1.3. Vai trò của Khu KT-TM đặc biệt Lao Bảo
1.3.1. Đối với EWEC
Khu KT-TM đặc biệt Lao Bảo là cửa ngõ quan trọng cho hàng hóa các nước
trên Hành lang vào Việt Nam để thông ra biển. Khu trong tổng thể tỉnh Quảng Trị

và miền Trung Việt Nam là nơi tập trung nhiều địa điểm du lịch hấp dẫn, thu hút
khách du lịch từ các nước đặc biệt là Myanma, Thái Lan và Lào.
1.3.2. Đối với nền kinh tế quốc dân
Khu KT-TM đặc biệt Lao Bảo có vai trò góp phần khai thác được lợi ích
kinh tế qua các cơ chế hợp tác khu vực để thúc đẩy phát triển KT-XH khu vực miền
Trung, góp phần vào xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, toàn cầu hoá và khu vực hoá.
Với mục tiêu áp dụng thí điểm một số cơ chế quản lý kinh tế mới khi chưa có
điều kiện thực hiện trên phạm vi cả nước, Khu đã từng bước hoàn thiện hệ thống cơ
chế quản lý, chính sách ưu đãi, tạo môi trường hấp dẫn thu hút đầu tư trong và
ngoài nước, phát triển sản xuất và các loại hình dịch vụ, đẩy mạnh xuất khẩu, mở
rộng thị trường, bạn hàng và các đối tác khác.
1.3.3. Đối với tỉnh Quảng Trị
Việc Chính phủ thành lập Khu KT-TM đặc biệt Lao Bảo nằm tại vị trí điểm
đầu của Việt Nam trên EWEC và sự vận hành của khu vực này trong hơn 10 năm
qua đã hình thành nên một khu vực kinh tế phát triển năng động, đảm nhận được vai
trò là ‘vùng động lực của tuyến động lực’ của tỉnh Quảng Trị.
Bằng việc đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng ngày một hoàn thiện, đã và đang
hình thành nên hình mẫu đô thị miền núi, đa dạng hoá các ngành nghề, sản phẩm,
góp phần thúc đẩy mạnh mẽ sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của huyện Hướng Hoá
và tỉnh Quảng Trị (từ thuần nông, chuyển dần sang công nghiệp và thương mại,
dịch vụ).
Khóa luận tốt nghiệp
25

×