Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

PHỤC HỒI MẠNG VÀ PHÂN BỔ LẠI TÀI NGUYÊN.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (225.59 KB, 26 trang )

Chương III. Phục hồi mạng và phân bố lại tài nguyên Đồ án tốt nghiệp đại học
CHƯƠNG III
PHỤC HỒI MẠNG VÀ PHÂN BỔ LẠI TÀI NGUYÊN
3.1 Các khái niệm
3.1.1 Phục hồi
Phục hồi là một phương thức sử dụng các tài nguyên dự phòng khả dụng để
định tuyến lại lưu lượng sau khi xảy ra sự cố, theo tình trạng khi đó của mạng.
Ở chương II ta đã nói tới vấn đề bảo vệ. Điểm phân biệt giữa hai phương
thức bảo vệ và phục hồi là: các kỹ thuật bảo vệ dựa trên các kịch bản để xác
định tuyến /đoạn bảo vệ cho mỗi tuyến /đoạn hoạt động cần bảo vệ trước khi
xảy ra sự cố, còn các kỹ thuật phục hồi sử dụng các thuật toán định tuyến để tìm
một tuyến /đoạn dự phòng khả dụng thay thế tạm thời cho tuyến /đoạn hoạt động
bị ảnh hưởng sau khi xảy ra sự cố. Do đó các kỹ thuật bảo vệ thường đáp ứng
thời gian hồi phục nhanh hơn các kỹ thuật phục hồi động nhưng bù lại các kỹ
thuật phục hồi cho phép sử dụng các tài nguyên dự phòng mềm dẻo hơn.
Như ta đã biết môi trường WDM được chia thanh 3 lớp; lớp kênh quang
(OCh-Optical Channel), lớp đoạn ghép kênh quang (OMS- Optical Multiplex
Section) và lớp đoạn truyền dẫn quang (OTS – Optical Transmisstion Section).
Tương ứng với mỗi lớp ta có các cách phục hồi riêng biệt.
• Phương thức phục hồi kênh quang: phương thức này yêu cầu thay thế
mỗi tuyến quang hoạt động bị ảnh hưởng bởi sự cố bằng một tuyến quang bảo
vệ. Việc tìm tuyến bảo vệ có thể được thực thi băng điều khiển phân tán hoặc
tập trung. Trường hợp áp dụng điều khiển tập trung, một nút điều khiển lưu giữ
bản ghi trạng thái của mạng và tìm các tuyến bảo vệ rồi thông báo cho các nút
mạng. Trường hợp áp dụng điều khiển phân tán, cả nút nguồng và đích sẽ rà soát
động các bước sóng bảo vệ được yêu cầu để thiết lập lại tuyến đường bị đứt.
• Phương thức phục hồi đoạn ghép kênh quang: phương thức này yêu
cầu tìm kiếm cục bộ một tuyến tạm thời khả dụng vòng qua đoạn bị sự cố.
Nguyễn Trọng Cường, D01VT
52
Chương III. Phục hồi mạng và phân bố lại tài nguyên Đồ án tốt nghiệp đại học


Phương thức này được thực thi tại các nút đầu cuối đoạn bị sự cố, sử dụng một
thuật toán phân bổ để tìm tuyến thay thế tạm thời.
Điểm phân biệt giữa phục hồi kênh quang và phục hồi đoạn ghép kênh
quang là ở mức bảo vệ hay đơn vị bảo vệ. Trường hợp thứ nhất lấy đối tượng
bảo vệ là tuyến quang nên bảo vệ kênh quang được gọi là bảo vệ tuyến, nó cho
phép lựa chọn hồi phục các sự cố kết cuối đường dây quang (OLT). Trường hợp
thứ hai lấy đối tượng bảo vệ ở mức tín hiệu tổng là tín hiệu ghép kênh của các
kênh WDM truyền trên mỗi sợi quang nên bảo vệ đoạn ghép kênh còn được gọi
là bảo vệ đoạn, nó sẽ hồi phục tất cả các tuyến quang hiện được mang trên đoạn
sợi bị sự cố.
Các kỹ thuật phục hồi quang có thể được thực thi ở mức kênh quang áp
dụng cho cấu hình lưới với các nút OXC. Hiện nay trên thị trường chưa cung
cấp các thiết bị OXC có hiệu năng cao nhưng một số nhà sản xuất đang phát
triển các thiết bị kết nối chéo quang - điện được thiết kế đặc biệt cho phục hồi
phân tán nhanh.
Trong một hệ thống mạng viên thông có thể xảy ra các sự cố như; đứt
đường truyền giữa hai nút mạng; sự cố tại nút mạng. Từ các sự cố này ta có ba
phương pháp phục hồi mạng: phục hồi từ đầu cuối - tới - đầu cuối của tuyến
hoạt động, phục hồi tại các nút kế cận với sự cố, và phục hồi tại nút trung gian.
3.1.1.1 Phục hồi đầu cuối - tới - đầu cuối

Nguyễn Trọng Cường, D01VT
53
Hình 3.1 Mô tả phục hồi đầu cuối-tới-đầu cuối đối với sự cố đoạn liên kết
Đường kết nối giữa hai
nút
Tuyến hoạt động trước
khi xảy ra sự cố
Tuyến hoạt động sau
khi xảy ra sự cố

Hình 3.2 Mô tả phục hồi đầu cuối-tới-đầu cuối đối với sự cố nút
Đường kết nối giữa hai
nút
Tuyến hoạt động trước
khi xảy ra sự cố
Tuyến hoạt động sau
khi xảy ra sự cố
Chương III. Phục hồi mạng và phân bố lại tài nguyên Đồ án tốt nghiệp đại học
Khi xảy ra sự cố thì phương pháp phục hồi này sẽ thực hiện định tuyến lại
từ các nút đầu cuối của các kênh bị ảnh hưởng bởi sự cố. Phương pháp phục hồi
này đảm bảo hiệu quả như nhau đối với cả sự cố nút và sự cố đoạn liên kết
3.1.1.2 Phục hồi tại nút kế cận sự cố
Khi xảy ra sự cố thì phương pháp phục hồi này sẽ thực hiện định tuyến lại
cho các kênh đi trên đoạn nối giữa hai nút kế cận với sự cố đoạn, phương pháp
phục hồi này không hồi phục được lưu lượng trong trường hợp sự cố nút
3.1.1.3 Phục hồi tại nút trung gian
Nguyễn Trọng Cường, D01VT
54
Tuyến quang trước
khi xảy ra sự cố
Tuyến quang sau khi
xảy ra sự cố
Hình 3.4 Mô tả phục hồi tại nút trung gian đối với sự cố đoạn
Đường kết nối giữa hai
nút
Tuyến hoạt động trước
khi xảy ra sự cố
Tuyến hoạt động sau
khi xảy ra sự cố
Hình 3.3 Mô tả phục hồi tại nút kế cận

Đường kết nối giữa hai
nút
Tuyến hoạt động trước
khi xảy ra sự cố
Tuyến hoạt động sau
khi xảy ra sự cố
Chương III. Phục hồi mạng và phân bố lại tài nguyên Đồ án tốt nghiệp đại học
Khi xảy ra sự cố thì phương pháp phục hồi này sẽ thực hiện định tuyến lại
các kênh bị ảnh hưởng bởi một sự cố giữ bất kỳ cặp nút trung gian nào. Phương
pháp phục hồi này sử dụng dung lượng dự phòng rẩt hiệu quả vì nó cho phép
định tuyến lại kết nối một cách tối ưu mà không có các ràng buộc như hai
phương pháp trên, nhưng yêu cầu thuật toán phức tạp hơn.
Trong các phương pháp phục hồi trên thì phương pháp phục hồi tại các nút
biên thường cho đáp ứng tuyến phục hồi dài hơn so với phương pháp phục hồi
tại nút kế cận sự cố. Tuy vậy phương pháp thứ hai lại yêu cầu phải tập trung
nhiều dung lượng dự phòng gần các vị trí dễ gặp sự cố dẫn đến tổng dung lượng
dự phòng mà nó yêu cầu cao hơn trong khi phương pháp đầu có thể lập kế hoạch
dung lượng dự phòng vừa đủ để hồi phục các sự cố đơn phù hợp với qui mô
mạng.
Về khả năng khắc phục sự cố thì tất cả các phương pháp phục hồi đều áp
dụng được cho một sự cố chặng. Riêng phương pháp phục hồi tại nút kế cận sự
cố không có khả năng đối phó với sự cố nút.
Về thời gian hồi phục thì phương pháp phục hồi tại nút kế cận sự cố có thể
sử dụng ở mức đoạn ghép kênh quang (OMS), liên tới it nút hơn và thường cho
tuyến đương phục hồi ngắn hơn nên đáp ứng hồi phục nhanh hơn.
Dưới đây là bảng so sánh các phương pháp phục hồi
Phương pháp phục hồi Nút kế cận sự cố Nút biên
Nguyễn Trọng Cường, D01VT
55
Chương III. Phục hồi mạng và phân bố lại tài nguyên Đồ án tốt nghiệp đại học

Dung lượng dự phòng yêu cầu Nhiều hơn Ít hơn
Khả năng khắc phục sự cố Tồi hơn Tốt hơn
Thời gian hồi phục Ngắn hơn Dài hơn
Bảng 3.1 So sánh các phương pháp phục hồi
3.1.2 Cấp phát tài nguyên
Phân bổ lại tài nguyên là một vấn đề cần thiết trong xây dưng, vận hanh và
khai thác mạng, đặc biệt là khi khôi phục sự cố. Đối với các mạng quang, đặc
biệt là mạng quang WDM thì phân bổ lại tài nguyên là rất quan trọng. Nó gồm
cấp phát sợi quang, bước sóng, thiết bị WDM và thiết bị đầu cuối. Từ kết quả xử
lý sẽ ước tính sược số lượng bước sóng và các thành phần mạng cần bổ sung.
Hoạt động cấp phát một kết nối kênh quang cho các cáp và các sợi quang
không có gì mới lạ đối với các nhà lập kế hoạch xây dựng mạng SDH trước đây,
nhưng việc gán một bước sóng cho một kênh quang, định tuyến các bước sóng
quang là một nhiện vụ mới khá phức tạp. Nếu mạng được hỗ trợ biến đổi bước
sóng (sử dụng các bộ phát đáp hay bộ biến đổi bước sóng) thì vấn đề này được
giải quyết đơn giản nhưng lại làm tăng chi phí xây dựng nút mạng. Do đó khi
cấp phát tài nguyên cho các mạng WDM có hai khía cạnh cần phải xem xét
• Một là các hệ thống WDM thường được thiết kế với số lượng bước sóng
xác định hưu hạn.
• Hai là vấn đề xung đột bước sóng có thể xảy ra nếu các kênh quang
khác nhau hoạt động ở cùng bước sóng trên cùng một sợi.
Vì hai vấn đề này mà các nhà thiết kế phải tối thiểu hoá số lượng bước sóng
sử dụng để không vượt quá dung lượng của hệ thống WDM và tránh được xung
đột bước sóng.
Khi xem xét vấn đề cấp phát bước sóng cần biết rõ mạng có hỗ trợ biến đổi
bước sóng hay không, từ đó có ba trường hợp cấp phát bước sóng:
• Cấp phát tuyến bước sóng ảo ( Virtual Wavelength Path - VWP): bước
sóng được cấp phát có thể thay thế trên tuyến đường tơi nút đích. Trường hợp
này tương tự như hoạt động cấp phát tài nguyên trong các mạng SDH
• Cấp phát tuyến bước sóng (Wavelength Path - WP): chỉ cấp phát một

bước sóng duy nhất dọc theo tuyến đường từ nút nguồn tới nút đích. Trường hợp
Nguyễn Trọng Cường, D01VT
56
Chương III. Phục hồi mạng và phân bố lại tài nguyên Đồ án tốt nghiệp đại học
này dẫn đến nguy cơ xung đột bước sóng giữa hai tuyến chia sẻ cùng một sợi
quang.
• Cấp phát tuyến bước sóng đường hầm (Tuneable Wavelength Path -
TWP): cấp phát cố định hai bước sóng khác nhau cho các tuyến hoạt động và
hồi phục. Phương pháp này là phương pháp trung gian của của hai phương pháp
trước.
Khi xem xét về đặc điểm lưu lượng tải trên mạng (tải tĩnh hay tải động )
chúng ta có hai cách thức cấp phát tài nguyên tương ứng:
• Cấp phát tài nguyên với lưu lượng tải tĩnh: có thể được thực hiện một
lần hoặc theo kế hoạch nhiều chu kỳ (lưu lượng tải dự báo khá chính xác ở các
thời điểm). Trong cả hai trường hợp lưu lượng đều có khuynh hướng tăng lên và
có thể áp dụng các công cụ tối ưu để dự báo sự tăng trưởng này.
• Cấp phát tài nguyên với lưu lượng tải động (trong trường hợp lưu lượng
tải bất định): lưu lượng dự báo chỉ có thể thống kê, ví dụ cường độ lưu lượng tối
đa được mong đợi hay mức độ tập trung lưu lượng trong một ring. Người thiết
kế phải làm sao đáp ứng được mức độ mềm dẻo của mạng cao nhất với chi phí
thấp nhất.
3.1.3 Các phương thức thực thi cấp phát tài nguyên
• Sử dụng các thuật toán tối ưu: cách này có thể rất chậm nhưng thích hợp
với các mạng lớn, lưu lượng tĩnh và nói chung cần dự báo lưu lượng chính xác.
Chúng có thể được dùng để nghiên cứu so sánh các kiểu mạng khác nhau, phân
tích mức độ nhạy cảm để đưa ra những kết quả có giá trị.
• Sử dụng các luật thiết lập kế hoạch đơn giản: cách này có thể thích ứng
ngay cho thưc thi và vận hành các mạng thực tế (ví dụ khi cài đặt dung lượng
mới cần định tuyến cho các nhu cầu mới).
3.1.4 Cấp phát tài nguyên trong các kỹ thuật bảo vệ mạng

Trong mạng thông tin quang WDM vấn đề cấp phát tài nguyên cho mục
đích bảo vệ lưu lượng và hồi phục mạng sau khi xảy ra sự cố rất quang trọng, có
ý nghĩa quyết định đến việc lập dự án xây dựng mạng quang, dự tính chi phí và
xác định cấu hình mạng khả thi.
Nguyễn Trọng Cường, D01VT
57
Chương III. Phục hồi mạng và phân bố lại tài nguyên Đồ án tốt nghiệp đại học
Hiện tại có ba trường hợp cấp phát tài nguyên sau. Chúng được phân biệt
dựa trên số lượng bước sóng yêu cầu bổ sung cho mục đích bảo vệ.
3.1.4.1 Bảo vệ trên chính bước sóng của thực thể được bảo vệ (khi chỉ có các
nút WR)
• Phân tập sợi quang: bằng cách tăng gấp đôi tài nguyên cần thiết để
truyền tải lưu lượng mạng. Cách bảo vệ 1+1 này đảm bảo hồi phục 100% các sự
cố tuyến nhưng không đảm bảo hồi phục các sự cố nút.
• Phân tập đường định tuyến: đối với mỗi đường định tuyến sẽ dành một
đường định tuyến khác cho mục đích bảo vệ, để tối ưu hoá về mặt tài nguyên
mạng thì việc xác định hai đường khác nhau với cùng bước sóng cho mỗi cặp
nút phải được thưc hiện trong pha cấp phát tài nguyên bảo vệ. Cách này có thể
bảo vệ mạng chống lại các sự cố trên đoạn, tuyến và tại các nút trung gian.
• Bảo vệ dựa trên ring: xác định các vòng ring tự bảo vệ trên mạng cấu
hình lưới. Cách này cho phép sử dụng các kỹ thuật bảo vệ chia sẻ giống như bảo
vệ ring SDH. Lập kế hoạch để các ring đi qua các nút trong mạng với các yếu tố
ràng buộc (như độ trễ, số lượng các nút, và chiều dài tuyến...)
3.1.4.2 Bảo vệ trên các bước sóng khác nhau (trường hợp có sẵn các nút WC)
Với cách này cho phép dùng các kỹ thuật bảo vệ riêng hay chia sẻ, và tối ưu
hoá toàn bộ tài nguyên mạng theo cách: ban đầu dùng các WL chưa bị chiếm
dụng sau đó thực hiện phân tập sợi quang. Điều này được thực hiện trong pha
lập kế hoạch cấp phát tài nguyên mạng. Nếu muốn cung cấp bảo vệ trên cả sợi
quang khi bị đứt thì kênh bảo vệ không nên ở trên cùng một sợi quang với kênh
được bảo vệ.

3.1.4.3 Bảo vệ trên các tuyến đa bước sóng (trường hợp các nút WR khả dụng)
Hình thức này dùng để tối ưu hoá tàon bộ tài nguyên mạng khi không có sự
hạn chế về WL trên tuyến. Ban đầu sử dụng các bước sóng chưa bị chiếm dụng
sau đó mới áp dụng phân tập sợi quang. Công việc này có thể thực hiện trong
pha lập kế hoạch cấp phát tài nguyên mạng. Tương tự trương hợp trên để tránh
ảnh hưởng khi bị đứt cáp kênh bảo vệ không nên chia sẻ cùng một sợi quang với
kênh được bảo vệ.
Nguyễn Trọng Cường, D01VT
58
Chương III. Phục hồi mạng và phân bố lại tài nguyên Đồ án tốt nghiệp đại học
3.2 Phân bổ lưu lượng trong quá trình hồi phục mạng
Đầu tiên chúng ta nghiên cứu về vấn đề cấp phát tài nguyên với lưu lượng
tải tĩnh trong các cấu hình ring, lưới, sau đó là vấn đề cấp phát tài nguyên với
lưu lượng tải động trong cấu hình ring. Trong các trường hợp nghiên cứu, lưu
lượng giả thiết là các khối. Một khối là một yêu cầu truyền tải thông tin giữa hai
nút mạng quang trên một bước sóng. Khối quang có thể được định tuyến từ đầu
cuối - tới - đầu cuối trên một bước sóng suốt tuyến đường đi hoặc trên các bước
sóng khác nhau nếu sử dụng bước sóng.
3.2.1 Định tuyến lưu lượng và cấp phát tài nguyên cho các mạng quang
WDM với lưu lượng tĩnh
Phần này trình bày về cấp phát tài nguyên bước sóng cho các mạng WDM
cấu hình ring có lưu lượng tĩnh thưo ba nhóm sau: nhóm ring WDM bảo vệ
riêng, nhóm ring WDM bảo vệ chia sẻ và nhóm ring WDM không bảo vệ.
Các ring WDM bảo vệ riêng đơn hướng hoặc hai hướng có các kênh quang
hoạt động được bảo vệ đối phó với sự cố đứt cáp bởi các kênh bảo vệ dành riêng
truyền ở hướng đối diện của ring. Do các kênh hoạt động và bảo vệ có thể cùng
chia sẻ một bước sóng ở các hướng truyền dẫn khác nhau trên ring nên vấn đề
cấp phát tài nguyên rất đơn giản, ta có thể cấp phát một bước sóng cho mỗi nhu
cầu khối. Ví dụ trường hợp một ring WDM với N nút có đủ N*(N-1)/2 khối thì
số lượng bước sóng yêu cầu trên ring WDM hai sợi bảo vệ riêng là N*(N-1)/2.

Tương tự với ring WDM đơn hướng không bảo vệ, cả hai hướng truyền dẫn cho
mỗi khối sử dụng một bước sóng trên tất cả các tuyến vòng quanh ring.
Các ring WDM bảo vệ chia sẻ (thường là ring hai hướng, đôi khi cũng áp
dụng định tuyến đơn hướng cho một số khối): khi cáp đứt tại một cung nó vân
có đủ dung lượng dự phòng trên phần cùng bù để hồi phục cho nhưng khối
quang bị đứt kết nối (ví dụ OMS - SPRing).
Các ring WDM hai hướng không bảo vệ: nhiệm vụ bảo vệ có thể được
chuyển lên các tầng khách sử dụng dung lượng trên chính ring đó hoặc trên các
phần khác của mạng nhưng không cần dành riêng bất kỳ bước sóng nào cho
mục đích bảo vệ.
Các ring này cho phép tái sử dụng bước sóng để truyền các khối quang khác
nhau nên về lý thuyến chúng yêu cầu ít bước sóng hơn. Nhưng bù lại các khối
Nguyễn Trọng Cường, D01VT
59
Chương III. Phục hồi mạng và phân bố lại tài nguyên Đồ án tốt nghiệp đại học
quang phải được định tuyến chính xác và được cấp phát các bước sóng sao cho
đảm bảo khả năng tái sử dụng tối đa. Nếu các nút có hỗ trợ biến đổi bước sóng
thì vấn đề trở nên đơn giản: nhưng nếu các nút sử dụng bộ ghép kênh xen/rẽ thụ
động thì không có khả năng biến đổi bước sóng cho các kênh lưu lượng truyền
qua, do đó mỗi nhu cầu quang phải được cấp phát một bước sóng từ đầu cuối -
tới - đầu cuối khiến cho công việc này trở lên phức tạp. Khi đó phải tìm ra một
phương thức cấp phát bước sóng tối ưu mà chỉ được sử dụng một số lượng bước
sóng hạn chế như trong trường hợp có hỗ trợ biến đổi bước sóng. Ví dụ trường
hợp ring WDM hai sợi bảo vệ chia sẻ có N nút, ta chỉ được yêu cầu [(N
2
– 1)/4]
bước sóng, khi số N lớn giá trị này gần bằng 50% so với trường hợp bảo vệ riên.
Đối với ring bốn sợi bảo vệ chia sẻ hoặc ring WDM hai hướng không bảo vệ thì
số lượng bước sóng yêu cầu là [(N
2

- 1)/8] mà yêu cầu hỗ trợ biến đổi bước sóng
thì không thích hợp.
Nhìn chung nhu cầu lưu lượng hiếm khi đạt tới mức tối đa nhưng về lâu dài
cần thiết phải tìm ra các công thức chung hoặc các luật cấp phát bước sóng đơn
giản. Để tối thiểu hoá việc sử dụng các bước sóng rất cần các thuật toán cho đáp
ứng nhanh.
Trong thực tế đã áp dụng một luật cấp phát tài nguyên khá tốt theo hai giai
đoạn liên tiếp sau.
• Giai đoạn một (giai đoạn định tuyến): định tuyến các khối quang để
truyên cùng chiều hoặc ngược chiều kim đồng hồ nhằm tối thiểu hoá tổng số
bước sóng sử dụng trên mỗi đoạn (với giả thiết có hỗ trợ biến đổi bước sóng).
Các nhu cầu quang (các khối) đã được cấp nhiều bước sóng có thể được tách ra,
và mỗi bước sóng được định tuyến riêng nếu yêu cầu. Sau đó sử dụng một thuật
toán đáp ứng nhanh sẵn có để định tuyến tối ưu nhằm đạt được số lượng các
bước sóng trên mỗi đoạn là ít nhất có thể.
• Giai đoạn hai: giai đoạn cấp phát bước sóng cho các tuyến đã được xác
định khi kết thúc giai đoạn một: ta có thể sử dụng các thuật toán Stochastic hay
các thuật toán phong đoán nhằm đạt được hiệu quả phân bổ tất cả các bước sóng
như mong muốn .
Giai đoạn đầu nhằm tạo ra một mức ngưỡng số lượng các bước sóng yêu
cầu thấp hơn mà chưa xét tới việc không có hỗ trợ biến đổi bước sóng. Giai
đoạn hai thực thi cấp phát bước sóng theo giới hạn đó
Nguyễn Trọng Cường, D01VT
60
Chương III. Phục hồi mạng và phân bố lại tài nguyên Đồ án tốt nghiệp đại học
3.2.2 Định tuyến lưu lượng và cấp phát tài nguyên cho các mạng quang
WDM với lưu lượng tải động
Trong nhiều ứng dụng mạng thực tế không phải lúc nào cũng dự đoán được
trước các mẫu lưu lượng, các nhu cầu quang (các khố) có thể tăng hoặc giảm bất
kỳ nên cần thiết phải xem xét các mẫu lưu lượng động để xác định mức độ linh

hoạt và hiệu quả của các mạng WDM. Các thuật toán phải thực thi định tuyến và
cấp phát các bước sóng trong điều kiên lưu lượng động nên cần đảm bảo các yêu
cầu sau:
• Đảm bảo mức độ sử dụng mạng cao mà biết nhu cầu lưu lượng ban đầu.
• Thuật toán vẫn đạt hiệu năng tốt ngay cả khi lưu lượng có sự biến động lớn
• Thuật toấn đơn giản để có thể dễ dàng liên kết giữa các mạng con của hệ
thống quản lý mạng. Phần này ta sẽ xem xét lưu lượng động trong các mạng ring
WDM bảo vệ chia sẻ với kịch bản như sau.
 Một ring kết nối N nút, ban đầu chưa có nhu cầu quang (khối) nào
được định tuyến
 Các nhu cầu quang xuất hiện lần lượt và yêu cầu được phục vụ ngay
lập tức. Các yêu cầu này xuất hiện ngẫu nhiên với xác suất như nhau
giữa các nút trên ring, nên phải tính toán dựa trên trung bình mẫu
lưu lượng toàn phần.
 Khi có một nhu cầu quang yêu cầu phục vụ phải tìm thấy ngay một
bước sóng khả dụng. Hiệu nắng tái xắp xuất các bước sóng đã cấp
phát cho lưu lượng trên ring phải đảm bảo mức độ sử dụng mạng
cao hơn, nhưng vơi kỹ thuật ring WDM hiện nay yêu cầu xem xét cả
khả năng can thiệp nhân công và đứt kênh dịch vụ khách hàng do
không cho phép tai sắp xếp.
 Nếu có hiện tượng dao động lưu lượng có thể loại bớt các nhu cầu
quang (trên các phần ring sử dụng) và bước sóng đã cấp phát cho
nhu cầu quang bị laọi đó sẽ trở thành khả dụng đối với các nhu cầu
quang mới có thể được địng tuyến trên phần ring đó.
Có một số luật cấp phát tài nguyên liên quan tới hoạt động định tuyến và
cấp phát bước sóng: thuật toán tìm đường ngắn nhất (SP), thuật toán tìm số
lượng bước sóng it nhất. Để so sánh ta xem xét các ring WDM có hỗ trợ biến
Nguyễn Trọng Cường, D01VT
61

×