Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

86 Nâng cao vai trò của Kiểm toán nội bộ trong quá trình Quản lý Ngân sách nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (179.17 KB, 29 trang )

Mở Đầu
Tại kỳ họp thứ 2 khoá XI thông qua luật ngân sách sửa đổi và bổ xung có
hiệu lực từ năm 2004 trở đi có xác định rõ những nhiệm vụ của Kiểm toán nhà nớc
(KTNN) là phải tiến hành kiểm toán các báo cáo quyết toán NSNN trớc Quốc
Hội,Hội Đồng Nhân Dân phê chuẩn quyết toán.Cuối tháng 10/2003 tại kỳ họi thứ
4 khoá XI uỷ ban thờng vụ quốc hội sẽ trình 17 dự án luật trong đó có luật Kiểm
toán nhà nớc đợc trình xin ý kiến Quốc Hội và sẽ thông qua vào kỳ họp sau. Theo
dự án Luật kiểm toán nhà nớc sẽ do cơ quan Kiểm Toán nhà nớc soạn thảo chính
phủ trình Quốc Hội. Trong đó sẽ xác định cụ thể đối tợng, nội dung kiểm toán, tổ
chức cơ quan kiểm toán nhà nớc..Có thể nói trong nền kinh tế đang tăng trởng vợt
bậc nh nớc ta hiện nay,bên cạnh những con số về tăng trởng kinh tế rất lạc quan là
vấn đề đánh giá tính đúng đắn và chính xác các con số đó. đặc biệt trong quá trình
thực hiện NSNN càng đòi hỏi phải thận trọng và chính xác để từ đó có thể đánh
giá đợc thực trạng và các giải pháp để hoàn thành tốt chủ trơng kinh tế xã hội của
đất nớc.
Trong bài viết này em đa ra ý kiến của riêng mình về các yêu cầu cũng nh
các giải pháp cơ bản để có thể nâng cao vai trò của kiển toán nhà nớc trong quá
trình thực hiện NSNN, nhất là trong điều kiện hiện nay khi nền kinh tế đất nớc
đang bớc vào giai đoạn phát triển đòi hỏi đi đôi với công tác quản lý Kinh tế.
1
Nội dung
I. Ngân sách nhà nớc (NSNN) & quản lý Ngân sách nhà nớc.
1. Khái niệm về NSNN
NSNN đợc hiểu là hệ thống các quan hệ kinh tế giữa nhà nớc với các chủ thể
khác trong xã hội, phát sinh trong quá trình phân phối và phân phối lại giá trị của
cải xã hội, nhằm tập trung một phần nguồn lực trong tay nhà nớc để đáp ứng nhu
cầu, chức năng và nhiệm vụ của nhà nớc.
2. Quản lý NSNN
Quản lý nói chung nhất đó là một quá trình định hớng và thực hiện các hớng
đã định trên cơ sở nguồn lực xác định nhằm đạt đợc hiệu quả cao nhất. Quá trình
này bao gồm nhiều chức năng và có thể chia thành nhiều giai đoạn: Giai đoạn định


hớng, giai đoạn tổ chức thực hiện...Trong đó kiểm tra không phải là một giai đoạn
của quá trình quản lý mà nó thực hiện ở tất cả các giai đoạn cua quá trình này
Quản lý NSNN là một quá trình thực hiện việc giám sát kiểm tra và đánh giá
quá trình thực hiện NSNN, từ đó đa ra các giải pháp để nâng cao hiệu quả thực
hiện NSNN.
Chu trình thực hiện NSNN gồm ba khâu cơ bản:
Lập dự toán NSNN.
Chấp hành dự toán NSNN.
Quyết toán NSNN.
Quản lý NSNN thực hiện việc giám sát, kiểm tra tính đúng đắn của một
trong ba khâu của chu trình đó: Từ khi bắt đầu lập dự toán cho đến khi kết thúc
chuyển ngân sách mới.
Nh vậy kiểm tra nảy sinh và phát triển từ chính nhu cầu quản lý. Kiểm tra đ-
ợc thực hiện đồng thời với các chức năng quản lý khác trên cùng một bộ máy
2
thống nhất khi nhu cầu kiểm tra cha nhiều và cha phức tạp, trái lại khi nhu cầu này
thay đổi đến mức độ cao kiểm tra cân tiến hành một cách độc lập và tách rời.
Một trong những cơ sở quan trọng trọng quá trình thực hiện quản lý NSNN
đó là Luật NSNN. Là hành lang pháp lý trong việc hỡng dẫn thực hiện, tuân thủ,
cũng nh để kiểm tra quá chu trình NSNN cụ thể.
3. Thực trạng cơ bản của Chu trình NSNN
a.Thực trạng việc lập và phân bổ NSNN
Một trong những tồn tại hiện nay trong việc lập và phân bổ dự toán NSNN là
tình trạng nguồn Ngân sách quá hạn hẹp trong khi nhu cầu chi tiêu ngày một tăng,
trong khi đó cha có một phơng pháp lập và phân bổ nguồn Ngân sách thích hợp,
có khoa học để có thể vừa đạt đợc sự hiệu quả trong khi thực hiện cũng nh vùa xác
định đợc thứ tự u tiên khi phân bổ NSNN dựa trên nguồn lực có hạn. Kinh phí
NSNN phân bổ không phù hợp điều kiện thực tế, nguồn kinh phí này phân bổ còn
dàn trải. Vấn đề tập chung nguồn lực để đầu t phát triển kinh tế hạ tầng và các
công trình trọng điểm cần phải đợc chú trọng và u tiên. Một số địa phơng khi tiến

hành phân bổ dự toán chi thờng xuyên với một số khoản chi còn cha bám sát dự
toán Trung ơng giao. Có địa phơng tiến hành điều chỉnh dự toán giảm chi sự
nghiệp giáo dục, y tế để tăng chi hành chính, không quán triệt nguyên tắc tiết
kiệm trong chi tiêu hành chính. Có thể nói đó là một trong những nguyên nhân
gây lên tình trang thờng xuyên Thâm hụt ngân sách nhà nớc đó là việc sử dụng
những phơng pháp soạn lâp và phân bổ NSNN thiếu khoa học ngay từ, vẫn còn
hiện tợng nể nang cục bộ thiếu tính khách quan, trong quá trình thực hiện thiếu
trách nhiệm chứa đựng ý nghĩ chủ quan và hiện tợng manh mún trong phân bổ gây
lãng phí thất thoát nghiêm trọng nguồn Ngân sách. Dự toán xây dựng cha vững
chắc, thiếu căn cứ thực tế, khi giao dự toán còn mang tinh áp đặt nhất là NS các
địa phơng. Nhiều khoản giao thu quá thấp so với khả năng thực hiện và cha tính
đến khả năng tồn đọng của năm trớc trong khi những khoản thu này chiếm tỷ
trọng lớn trong tổng thu NSNN ở địa phơng. Các địa phơng không cần phấn đấu
3
huy động số phát sinh vào NSNN vẫn hoàn thành nhiệm vụ đợc giao, không huy
động kịp thời vào NSNN giảm căng thảng cho NSNN đang bội chi.
Vì quyền lợi của địa phơng và ngành nên các đơn vị che giấu nguồn thu, xây
dựng dự toán thấp để đợc thởng số vợt thu. Nhiều khoản thu chỉ mang tính thờng
xuyên phát sinh hàng năm nhng không lập và giao dự toán theo đúng quy định của
luật NSNN nhất là những khoản thu để lại sử dụng. Tình trạng này diễn ra nhiều
năm nhng không khắc phục đợc, công tác quản lý gần nh không còn ý nghĩa.
b. Quản lý và điều hành NSNN
Trong khi nguồn Ngân sách cha đợc tận dụng hết thì một số địa phơng lại có
tình trạng kém minh bạch trong quản lý và sử dụng nguồn Ngân sách. Tình trạng
sử dụng Ngân sách không đúng tiêu chuẩn, không đúng định mức và Chế độ còn
xảy ra ở nhiều nơi. Trong khi Đảng và chính phủ đang có kêu gọi thực hành tiết
kiệm thì một phần kinh phí lại bị sử dụng lãng phí sai mục đích tại các cơ quan
đơn vị có dùng NSNN cấp.Dịnh mức chi Ngân sách nhất là chi hành chính không
đợc tuân thủ, chi hành chính có su hớng tăng nhanh:
Ví dụ : tại các địa phơng chi hành chính còn cao hơn cả các cơ quan Trung

ơng. Đáng chú ý là các khoản chi này vẫn đợc quyết toán và hội đồng nhân dân
phê chuẩn quyết toán. Trong khi Ngân sách địa phơng còn rất hạn hẹp nguồn thu
chủ yếu là bổ xung từ Ngân sách Trung ơng thì một vài địa phơng lại sử dụng
Ngân sách cho tiêu dùng cá nhân trái với quy định của luật NSNN. Hay công tác
thu phí và lệ phí ngoài danh mục quy định ảnh hởng đến việc thực hiện chế độ
chính sách của nhà nớc một số khoản mục thu phí và lệ phí có trong danh mục thì
lại không đa vào quyết toán làm sai lệch số liệu.
c. Công tác kế toán và quyết toán NSNN
Công tác kế toán và quyết toán mặc dù đẵ đợc cải thiên, nâng cao trình độ
trong thời gian gần đây, các đơn vị có sử dụng nguồn ngân sách đã chủ ý đến công
tác quyết toán. Tuy nhiên vẫn còn tồn tại lớn tại các đơn vị quyết toán theo số cấp
phát không theo đúng quy định của luật NSNN. Các đơn vị báo cáo hoàn thành dự
4
toán nhng khi tiến hành kiểm tra lại phát hiện đơn vị đa vào quyết toán theo số
tạm ứng của các đề tài cha đơc nghiệm thu. Một số địa phơng không thực hiện
quyết toán kinh phí uỷ quyền, kinh phí chong trình mục tiêu với ngân sách Trung -
ơng do vậy bộ tài chính phải tổng hợp theo số cấp phát. Kinh phí chơng trình mục
tiêu không đúng thực hiện quyết toản riêng theo chơng trình để có cơ sở và số liệu
đánh giá thực hiện chơng trình. Một hiện tọng khá phổ biến là các công trinh xây
dựng cơ bản hoàn thành chậm đợc quyết toán trớc khi hoàn thành.Tình trạng quyết
toán theo số tạm ứng và kinh phí tồn d cuối năm còn phổ biến tại các đơn vị dự
toán các cấp. Trong khi NSNN mất cân đối thì kinh phí NSNN tồn tại dới dạng
tiền mặt,tiền gửi,tạm ứng không thu hồi tại các đơn vị thụ hởng NSNN.Các đơn vị
quản lý thiếu chặt chẽ,không thực hiện nộp trả NSNN khi hết năm ngân sách.Các
khoản thu,chi phát sinh trong năm ngân sách cha đợc phản ánh đầy đủ trong báo
cáo quyết toán NSNN,nhất là các khoản phí lệ phí,viện trợ,tài trợ vì các đơn vị
quan niệm rằng thu chi này đơn vị thụ hởng ngân sách đợc chi tiêu nên không cần
phải quản lý qua ngân sách.
Qua thực trạng trên cho thấy những kết qua đạt đợc trong công tác quản lý
vẫn còn bất cập đòi hỏi phải có các biện pháp thích hợp để có thể quản lý nguồn

ngân sách có hiệu quả trong khi sử dụng NSNN.
II. Kiểm toán nhà nớc đợc lập ra - một công cụ quan
trọng trợ giúp quốc hội trong quản lý NSNN
Quốc hội là cơ quan quyền lực tối cao thực hiện quyền lập pháp và giám
sát hoạt động của nhá nớc. Quốc hội quyết định việc dự toán Ngân sách Nhà n-
ớc,phân bổ quyết toan Trung Ương,phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nớc.Trong
tình hình thực hiện NSNN còn nhiều bất cập nh trên thì việc cần thiết phải lập ra
một cơ quan trợ giúp Quốc Hội trong việc quản lý NSNN là điều cực kì cấp bách
hiện nay và với điều này Kiểm Toán Nhà Nớc(KTNN) đợc lập ra có thể đảm đơng
đợc công việc này.
Kiểm Toán Nhà Nớc(KTNN) là một công cụ đắc lực trong quản lý tài chính
nhà nớc và tài sản công. Hoạt động của KTNN hớng tơi sự lành mạnh hoá nền tài
5
chính quốc gia. KTNN góp phần đảm bảo duy trì tính kinh tế, tiết kiệm, hiệu quả
tróng sử dụng nguồn lực nhà nớc. KTNN hỗ trợ Quốc hội trong việc giám sát,
quyết định dự toán NSNN, phê chuẩn quyết toán NSNN cũng nh việc quyết định
các chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia, KTNN cung cấp thông tin tin cậy cho
Quốc hội, Chính phủ và các cơ quan nhà nớc trong việc quyết định điều hành
NSNN một cách hữu hiệu.
Qua hoạt động của kiểm toán nhà nớc thời gian 10 năm vừa qua ta có thể
nhận thấy vai trò của KTNN rất quan trọng, cụ thể trong một số công việc sau
KTNN trợ giúp Quốc hội trong viêc phê chuẩn quyết toán NSNN.
Đây là một chức năng vốn có và mang tính truyền thống của các cơ quan kiểm
toán tối cao trên thế giới, đó là một nhiệm vụ không thể thiếu trong việc trợ giúp
Quốc hội phê chuẩn quyết toán hàng năm. Trên thế giới vấn đề này cũng đợc nên
dõ trong tuyên bố Lima của INTOSAI: Kiểm toán sau là một nhiệm vụ không thể
thiếu đợc của cơ quan KTNN, không lệ thuộc vào việc nó có đợc kiểm toán trớc
hay không.Kiểm tra sau của kiểm toán không chỉ dừng lại việc xem xét tính tuân
thủ trong quản lý điều hành NSNN mà còn xem xét khía cạnh về tính hợp lý, tiêt
kiệm, hiệu quả của công tác quản lý và điều hành của chính phủ.Xem xét tính hiệu

lực hiệu quả trong các khoản chi của NSNN,tuyên bố Lima cung nêu rõ: Kiểm
toán sau do cơ quan KTNN thực hiện chỉ dõ trách nhiệm của cơ quan có nghĩa vụ
báo cáo, có thể dẫn tới bồi hoàn thiệt hại đã xảy ra và việc làm thích hợp để ngăn
chặn những tái phạm sau này .Một số nớc có quy định báo cáo quyết toán NSNN
trình Quốc hội có ý kiến xác nhận của Tổng kiểm toán Nhà nớc rằng báo cáo
quyết toán trình Quốc hội là báo cáo của KTNN về công tác quản lý và điều hành
NSNN.
KTNN trợ giúp Quốc hội trong việc dự toán NSNN hàng năm. Ta có
thể thấy rằng tài liệu về dự toán NSNN không chỉ chứa đựng những vấn đề chính
trị, kinh té chủ yếu của một quốc gia mà còn là những tài liệu mang tính nghiệp vụ
cao,đòi hỏi phải đợc kiểm tra,xem xét kĩ lỡng trớc khi quyết định.Trong điều kiện
đó các đại biểu Quốc hội không có các điều kiện để xem xé một cách toàn diện
6
các khía cạnh mang tính nghiệp vụ cao. Điều đó đòi hỏi một cơ quan chuyên môn
độc lập có chuyên môn có kiến thức và nghiệp vụ giúp Quốc hội đánh giá toàn
diện của quá trình NSNN. Cơ quan KTNN có thể chỉ ra những sai lệch của dự toán
so với các nguyên tắc của tính tuân thủ, tính hợp lý, khả thi và tiết kiệm. Đây là
hình thức kiểm toán trớc vủa KTNN, đảm bảo các nguồn lực động viên và phân bổ
vào những mục tiêu mà quốc gia theo đuổi cũng nh tính kinh tế, hiệu quả của
những khoản chi NSNN, tránh tình trạng gian lận.Kiểm toán trớc đợc khẳng định
trong tuyên bố Lima :Kiểm toán trớc một cách hiệu quả là điều kiện không thể
thiếu đợc đối với một nền kinh tế công cộng lành mạnh .Kinh nghiêm cho thấy
trên thế giới đều sử dụng cơ quan kiểm toán tối cao trong việc kiểm toán dự toán
NSNN, hàng năm trớc khi trình Quốc hôi quyết định. Việc tham gia của cơ quan
KTNN trong việc lập dự toán là cơ sở cho Quốc hội thảo luận và quyết định.
KTNN trợ giúp Quốc hội trong việc xem xét quyết định phơng án đầu
t xây dựng các công trình trọng điểm của Quốc gia. Việc đầu t xây dựng các công
trình trọng điểm Quốc gia không chỉ tiêu tốn một lợng lớn tiền của mà còn liên
quan đến chiến lợc phát triển Quốc gia. Điều đó không chỉ đòi hỏi xem xét về mặt
khía cạnh kỹ thuật mà còn phải xem xét về khía cạnh kinh tế,xã hội..Trong điều

kiện đó không có một cơ quan soạn thảo có đủ năng lực về chuyên môn, tuân theo
cac chuẩn mực nghề nghiệp xem xét đánh giá trớc khi Chính phủ và Quốc hội thảo
luận và quyết định sẽ gây những rủi ro cho các nhà ra quyết định. Kinh nghiệm
của nhiều nớc có lịh s phát triển KTNN lâu đời đều giao nhiệm vụ này cho cơ
quan kiểm toán nhà nớc thực hiện
KTNN tham gia với Quốc hội trong việc quyết định các chính sách,
trong việc ban hành các văn bản pháp luật liên quan đến chính sách tài chính và
ngân sách. Đây chính là hoạt động t vấn của cơ quan KTNN với quốc hội.Bằng
kinh nghiệm của mình KTNN phát hiện những bất cập trong bản thân các văn bản
pháp luật,phát hiện những hiện tợng thực tế phát sinh mà luật cha đề cập đến,
thông qua đó kiến nghị với cơ quan lập pháp trong việc ban hành các văn bản pháp
luật. Trọn quyết định các chính sách về tài chính ngân sách Quốc gia, cơ quan
7
KTNN với kinh nghiệm chuyên môn t vấn cho Quốc hội và các cơ quan Quốc hội
để quyết định chính xác bảo đảm tính khả thi.Các ý kiến đó của KTNN sẽ tạo ra
nguồn thông tin đa chiều làm cơ sở cho việc thảo luận và đa ra các quyết định
Theo quy định của pháp luật thì cơ quan kiểm toán nhà nớc có trách nhiệm
báo cáo kết quả kiểm toán với Quốc hội,Uỷ ban thờng vụ Quốc hội và các cơ quan
khác. Đồng thời KTNN cũng có quyền độc lập về chuyên môn nghiệp vụ và chịu
trách nhiệm về kết quả kiểm toán của mình.KTNN thực hiện nhiệm vụ quyền hạn
theo quy định của pháp luật,tiến hành kiểm toán việc sử dụng ngân sách nhà nớc ở
các bộ cơ quan ngang bộ, cơ quan trực thuộc chính phủ,các cơ quan khác của
trung ơng và các địa phơng. Kiểm toán việc sử dụng ngân sách do nhà nớc cấp đầu
t cho các công trình quan trong Quốc gia do Quốc hội quyết định.Kiểm toán việc
ứng dụng vốn và tài sản nhà nớc tại các doanh nghiệp nhà nớc..Đồng thời thông
qua hoạt động kiểm toán đề nghị với các cơ quan đợc kiểm toán sửa chữa các sai
sót vi phạm để chấn chỉnh công tác quản lý tài chính, kế toán của đơn vị, kiến nghị
với cơ quan có thẩm quyền sử lý vi phạm chế độ kế toán, tài chính của nhà nớc, đề
xuất sửa đổi cải tiến các cơ chế chính sách quản lý tài chính kế toán cần thiết.
1. KTNN với việc lập và phân bổ dự toán NSNN

Trong lập và phân bổ dự toán NSNN, cơ quan KTNN tham gia trớc hết với t
cách là cơ quan kiểm tra tài chính độc lập thực hiện việc đánh giá tính kinh tế
khoa học khả thi của dự án ngân sách hàng năm trớc khi trình quốc hội phê chuẩn.
Đây là hình thức kiểm tra trớc và đây là một vấn đề tơng đối mới mẻ hiện
nay trong đó quy trình tham gia vào lập dự toán NSNN có thể bao gồm một số bớc
sau đây:
a. KTNN tham gia với các bộ ngành và địa phơng trong lập dự toán của
ngành và địa phơng:
Khi các bộ ngành và địa phơng lập dự toán NDNN hàng năm cơ quan
KTNN tham gia cùng dơn vị này lập dự toán bao gồm:
8
KTNN sẽ t vấn cho bộ ngành địa phơng về dự báo khả năng thu. Qua kinh
nghiệm của kiểm toán ở bộ, ngành, địa phơng KTNN nắm bắt đợc các nguồn thu
có thể khai thác, các nguồn thu đã và sẽ phát sinh qua đó tính toán và dự toán cân
đối ngân sách cho năm, kế hoạch trung và dài hạn. KTNN t vấn cho bộ ngành địa
phơng trong việc xác định các thứ tự u tiên các nội dung chi tiêu các chơng trình
mang tính chiến lợc. Việc xác định chiến lợc u tiên trong việc bố trí các khoản chi
là hết sức cần thiết đảm bảo cho việc thực hiện chiến lợc phát triển của ngành
trong điều kiện nguồn thu ngân sách hạn hẹp và không thể tăng thêm trong dài
hạn, trong khi đó nhu cầu chi lại lớn và luôn có xu hớng phải tăng thêm.
KTNN tham gia với các bộ, cơ quan trung ng trong việc đàm phán
ngân sách với cơ quan chức năng. Việc đàm phán diễn ra giữa cơ quan soạn lập
ngân sách và các bộ có nhiệm vụ quản lý ngành, lĩnh vực với từng bộ ngành địa
phơng. Quá trình đàm phán thờg dẫn tới sự mâu thuẫn giữa một bên là các cơ quan
có nhiệm vụ quản lý một bên là bộ ngành, địa phơng riêng biệt. Cơ quan kiểm tra
tài chính độc lập sẽ có ý kiến mang tính phản biện và trung lập có thể dung hoà đ-
ợc sự mâu thuẫn này.
Ngoài ra thông qua việc tham gia lập dự toán, KTNN có thể biết đợc sự
tuân thủ của bộ,ngàng địa phơngtheo quy định của luật pháp về lập dự toán ngân
sách nhà nớc. Việc phân bổdự toán chi đã đáp ứng nhu cầu và thứ tự u tiên của

chính phủ cũng nh đảm bảo thực hiên nghị quyết của quốc hội về chiến lợc phát
triển. Các thông tin làm căn cứ để cơ quan KTNN có nhận định đánh giá khi tham
gia với cơ quan chức năng, chính phủ, Quốc hội sau này.
b. KTNN tham gia với Bộ tài chính trong lập dự toán NSNN:
Nhiệm vụ của cơ quan tài chính là lập dự toán NSNN trình Chính phủ để
Chính phũem xét trớc khi trình Quốc hội, KTNN tham gia vào quá trình lập dự
toán với Bộ tài chính bao gồm các công việc sau:
Tham gia xem xét việc tính toán các khoản thu phù hợp với dự báo
tốc độ tăng trởng kinh tế, khoản thu nào tính không sát thực tế hoặc không khai
9
thác hết nguồn thu. Dự báo đảm bảo nguồn thu đảm bảo vững chắc, cân đối với
chính sách kinh tế vĩ mô.
Bằng kinh nghiệm kiểm toán của mình tại các đơn vị. KTNN tham
gia ý kiến với Bộ Tài chính trong việc bố trícác khoản chi theo các tứ tự u tiên và
mục tiêu u tiên của chính phủ, chiến lợc phát triển kinh tế xã hội của các quốc gia
mà Quốc hội đã phê chuẩn.
Tham gia trong việc lập phơng án huy đọng nguồn bù đắp bội chi
NSNN. Việc lập phơng án vay bù đắp bội chi Ngân sách cần đợc tính toán một
cách chặt chẽ trên cơ sở huy động tối đa nguồn nội lực, tính phơng án vay nớc
ngoài. Tính toán cân đối giữa thời hạn vay, trả nợ và tổng thể vay nợ chính phủ để
đảm bảo an toàn cho nền kinh tế, an ninh tài chính quốc gia.
KTNN sẽ đa ý kiến mang tính phản biện về dự toán NSNN do Bộ Tài chính
lập từ huy đọng nguồn thu đến bố chí cơ cấu chi. Việc tham gia này cũng là hình
thức để KTNN có đầy đủ thông tịn về quá trình lập NSNN để có cơ sở tham gia
với chính phủ và Quốc hội sau này.
c. KTNN tham gia thẩm định đánh giá dự toán CHính phủ trình quốc hội
dể cung cấp thông tin cho việc thảo luận NSNN tại Quốc hội
Sau khi dự toán NSNN hoàn chỉnh trớc khi trình Quốc hội đợc gửi tới cơ
quan KTNN. Bằng kinh nghiệm kiểm toá cũng nh thông tin thu dợc trong quá
trình tham gia với các bộ, ngành địa phơng, tham gia với Bộ Tài Chính khi lập dự

toán Ngân sách Nhà Nớc. KTNN thực hiện thẩm định đánh giá tổng thể về dự toán
NSNN trình Quốc hội. Yêu cầu KTNN bày tỏ ý kiến một các độc lập về dự toán
NSNN mà chính phủ trình Quốc hội và khẳng định một số vấn đề:
Khẳng định dự toán đã đợc lập theo đúng trình tự của quy định ngân
sách. Các khoản thu chi đã đảm bảo đợc tính khả thi và phù hợp với tốc độ tăng tr-
ởng kinh tế, đảm bảo huy động sức dân một cách hợp lý. Chi Ngân sách đảm bảo
đợc phân bổ theo tiêu chuẩn, định mức, đảm bảo tiết kiệm và theo trình tự u tiên
mà Chính phủ và Quốc hội đã đề ra.
10
Đối với các khoản chi cho chơng trình, dự án Quốc gia, KTNN có ý
kiến về sự cần thiết tiến hành xây dựng một công trình dự án cụ thể trong khả
năng của nền kinh tế quốc gia và chiến lợc phát triển trong tơng lai. Phơng án mà
các cơ quan của Chính phủ trình Quốc hội có đảm bảo đợc các u tiên trớc mắt
cũng nh đáp ứng đợc sự phát triển trong tơng lai. Phơng án mà các cơ quan của
Chính phủ trình quốc hộ có đảm bảo đợc các u tiên trớc mắt cũng nh đáp ứng đợc
sự phát triển và tiến bộ trong tơng lai. Chi phí để thực hiện chơng trình dự án đã
phân bổ có phù hợp, đảm bảo tính kinh tế tiết kiệm hay không. Đòi hỏi các cơ
quan KTNN có số liệu tính toán và đa ra nhận định một cách độc lập.
KTNN đa ra ý kiến độc lập của mình về phân bổ dự toán thu, chi , cơ
cấu thu chi và mức bộ chi, mức huy động từ nội lực nền kinh tế trong dự toán, việc
phân bổ vốn đầu t, cơ cấu chi đầu t và chi thơng xuyên, chi trả nợ...KTNN cũng đa
ra những vấn đề mà ý kiến của KTNN khác với các Bộ ngành và Bộ tài chính làm
căn cứ cho quốc hội thảo luận và phê chuẩn.
KTNN đa ra ý kiến độc lập về chính sách và giải pháp của chính phủ
trong việc tổ trức thực hiện dự toán NSNN. Dây là ý kiến quan trọng để Quộc hội
thảo luận và quyết định các giải pháp về phát triển kinh tế xã hội và dự toán NSNN
năm kế hoạch.
2. KTNN với việc phê chuẩn quyết toán NSNN.
Theo quy định của điều 67 luật NSNN sửa đổi và bổ sung Quốc hội phê
chuẩn quyết toán NSNN chậm nhất là 18 tháng, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh phê

chuẩn Ngân sách địa phơng chậm nhất là 12 tháng sau khi năm Ngân sách kết
thúc, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh phê chuẩn quyết toán Ngân sách của Hội đồng
nhân dân cấp dới chậm nhất là không quá 6 tháng sau khi năm Ngân sách kết thúc.
Báo cáo quyết toán Ngân sách là bản tổng kết tình hình thực hiện các khoản
thu, chi Ngân sách Nhà nớc bao gồm thu chi Ngân sách của tất cả cáp cấp chính
quyềntừ địa phơng đến Trung ơng trong một năm ngân sách.
11

×