ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP
Giải pháp
nâng cao hiệu quả
huy động vốn tại NHNo&PTNT
huyện Yên Lập, tỉnh Phú Thọ
1
1
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
Ngày nay, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế là một xu thế tất yếu
của mọi nền kinh tế trên thế giới. Bởi vì, chỉ có sự hội nhập vào nền
kinh tế thế giới thì nền kinh tế của một quốc gia mới có thể phát huy
hết những thế mạnh của mình, đồng thời tiếp thu được những tinh hoa
của thế giới. Và cùng với sự hội nhập thì một điều tất yếu là các doanh
nghiệp sẽ phải đương đầu với sự cạnh tranh khốc liệt của các doanh
2
2
nghiệp trong nước cũng như nước ngoài, điều đó đòi hỏi các doanh
nghiệp luôn phải đổi mới công nghệ, mở rộng quy mô sản xuất, đổi
mới trang thiết bị công nghệ. Do đó cần có một thị trường tài chính
hiện đại để đáp ứng nhu cầu huy động vốn của các doanh nghiệp, cũng
như các thành phần kinh tế khác. Vì vậy, trong giai đoạn hiện nay, việc
đẩy mạnh vai trò của các ngân hàng trên thị trường tài chính là một
điều tất yếu.
Hiện nay, hệ thống ngân hàng thương mại nước ta đã đạt được
những bước phát triển rất mạnh mẽ, và đã trở thành một mắt xích quan
trọng cấu thành sự vận động liên tục của nền kinh tế. Cùng với các
thành phần khác trong thị trường tài chính hệ thống ngân hàng thương
mại đóng một vai trò quan trọng trong việc tham gia bình ổn thị trường
tiền tệ, kìm chế lạm phát, phát triển thị trường ngoại hối. Trong những
năm qua các ngân hàng thương mại nước ta đã thực hiện huy động
được một lượng vốn đáng kể cho việc phát triển kinh tế, từ đó tạo công
ăn việc làm cho người lao động.
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn huyện Yên Lập
tỉnh Phú Thọ là một chi nhánh của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát
triển Nông thôn Việt Nam. Ngay từ khi thành lập, Ngân hàng đã
không ngừng từng bước lớn mạnh bắt nhịp với sự phát triển của nền
kinh tế thế giới và đáp ứng nhu cầu phát triển của nền kinh tế Việt
Nam. Thấy được tầm quan trọng của công tác huy động vốn đối với
3
3
hoạt động của mình, Ngân hàng đã đề ra rất nhiều những biện pháp để
tăng cường công tác huy động vốn. Vì vậy, em đã chọn đề tài: “ Giải
pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn tại NHNo&PTNT huyện Yên
Lập, tỉnh Phú Thọ”
Nội dung chuyên đề gồm có 3 chương:
Chương 1 - Khái quát chung về hoạt động huy động vốn của
Ngân hàng thương mại
Chương 2 - Thực trạng công tác huy động vốn của NHNo&PTNT
huyện Yên Lập , tỉnh Phú Thọ
Chương 3 - Giải pháp hoàn thiện công tác huy động vốn tại
NHNo & PTNT huyện Yên Lập, tỉnh Phú Thọ
Vì kinh nghiệm thực tế của bản thân còn nhiều hạn chế, nên
những vấn đề mà em xem xét trong nội dung chuyên đề tốt nghiệp còn
rất nhiều thiếu sót. Em rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô
giáo, các anh chị, cô chú tại NHNo&PTNT huyện Yên Lập, tỉnh Phú
Thọ để đề tài được hoàn thiện hơn.
4
4
Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Khái quát chung về hoạt động huy động vốn của Ngân hàng
thương mại.
1.1.1.Vai trò hoạt động huy động vốn của Ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại kinh doanh tiền tệ dưới hình thức huy động,
cho vay, đầu tư và cung cấp các dịch vụ khác. Vì vậy công tác huy động
vốn- hoạt động tạo nguồn vốn cho ngân hàng thương mại đóng một vai
trò hết sức quan trọng.
Hoạt động của các ngân hàng thương mại có ảnh hưởng rất lớn
đến các thành phần trong nền kinh tế, bởi vì các ngân hàng nắm giữ
một lượng vốn rất lớn của các khách hàng, và cũng từ đó các hoạt
động của Ngân hàng sẽ có tác động rất lớn đến sự phát triển của một
nền kinh tế nói chung. Vì vậy luật pháp của các quốc gia luôn buộc các
Ngân hàng phải duy trì một lượng vốn lớn. Đó sẽ là yếu tố đảm bảo
5
5
một phần cho các rủi ro có thể xảy ra. Đó cũng là lý do khiến cho việc
huy động vốn là yếu tố đóng vai trò quan trọng trong hoạt động của
ngân hàng.
1.1.2.Các hình thức huy động vốn của Ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại có thể huy động vốn theo nhiều phương
thức khác nhau, tuy nhiên có thể chia các nguồn huy động vốn của
ngân hàng thương mại như sau
Theo đối tượng huy động
- Nguồn vốn huy động từ dân cư: Một trong những kênh huy động
vốn rất quan trọng đối với ngân hàng, đó là nguồn vốn nhàn rỗi từ
trong dân cư. Trên thực tế, trong dân cư luôn tồn tại một nguồn vốn rất
lớn mà chưa sử dụng đến, do đó các ngân hàng thương mại có thể tiến
hành huy động nguồn vốn này thông qua các hình thức như: tiết kiệm,
tiền gửi thanh toán, uỷ thác đầu tư. Đặc điểm của nguồn vốn này là
tương đối ổn định, các khoản chi phí cho giao dịch đối với nguồn này
tương đối thấp.
- Huy động từ các doanh nghiệp: Trong nền kinh tế mỗi một
doanh nghiệp, mỗi một tổ chức thường hoạt động theo một chu kỳ nhất
định. Và vì vậy, vào mỗi một thời điểm khác nhau thì doanh nghiệp
cũng có nhu cầu về vốn khác nhau. Do đó, trên cơ sở nắm bắt được
chu kỳ kinh doanh của doanh nghiệp, chu kỳ hoạt động của các tổ
chức, mà Ngân hàng có thể huy động vốn tuỳ theo thảo thuận với các
6
6
doanh nghiệp.
- Huy động từ các tổ chức tín dụng: Trong quá trình hoạt động
trên thị trường tài chính sẽ có thời điểm các Ngân hàng thương mại
xảy ra tình trạng thiếu hụt vốn tạm thời để thanh toán cho khách hàng,
hoặc trong trường hợp thiếu hụt dự trữ bắt buộc theo quy định của
Ngân hàng nhà nước, hoặc để đáp ứng các nhu cầu bất khả kháng. Khi
đó, Ngân hàng sẽ tiến hành vay vốn từ các tổ chức tín dụng khác để
đáp ứng nhu cẩu trước mắt. Tuy nhiên, nguồn này thường có tỷ trọng
rất thấp, tính ổn định không cao và không thường xuyên. Các Ngân
hàng thường rất hạn chế sử dụng tới nguồn huy động này.
Theo mục đích gửi tiền:
- Tiền gửi tiết kiệm: Đây là nguồn vốn chiếm tỷ trọng lớn trong
tổng nguốn vốn huy động của Ngân hàng. Theo tình hình cụ thể của
bản thân Ngân hàng, cũng như tình hình thực tế trên thị trường, mà các
Ngân hàng thương mại sẽ có những chính sách phù hợp để huy động
nguồn vốn thông qua tiết kiệm. Công cụ chính mà các Ngân hàng sử
dụng để huy động tiền gửi tiết kiệm chính là lãi suất, thông qua lãi suất
các Ngân hàng sẽ thu hút khách hàng gửi tiền vào Ngân hàng.
- Tiền gửi thanh toán: Nguồn tiền này thường có mục đích là phục
vụ cho việc thanh toán thường xuyên hay tiêu dùng hàng ngày của
khách hàng. Do vậy nó có tính ổn định không cao, tuy nhiên Ngân
hàng có thể sử dụng một phần nguồn này để phục vụ cho các mục
7
7
đích nhất định trên cơ sở tính toán hợp lý quy luật biến động của loại
tiền gửi này.
- Tiền gửi uỷ thác đầu tư: Hiện tại có nhiều doanh nghiệp có
lượng vốn để đưa vào hoạt động đầu tư, tuy nhiên họ lại thiếu kinh
nghiêm trong lĩnh vực tài chính, hoặc thiếu thông tin trên thị trường.
Khi đó họ có thể uỷ thác đầu tư cho Ngân hàng theo thoả thuận. Hoặc
có những doanh nghiệp hay tổ chức không được phép gửi tiền tiết
kiệm vào Ngân hàng, nên họ biến tướng dưới hình thức uỷ thác đầu tư.
Các nguồn vay khác như phát hành trái phiếu, kỳ phiếu, thương
phiếu…
1.1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động huy động vốn
của Ngân hàng thương mại
Trong nền kinh tế, các Ngân hàng thương mại vứa đóng vai trò là
một nơi tập trung vốn, vừa là nơi phân phân phối vốn trong xã hội, vì
vậy mà hoạt động huy động vốn của Ngân hàng thương mại không tồn
tại một cách độc lập, mà nó luôn có quan hệ chặt chẽ với các yếu tố
khác. Có thể nói hoạt động huy động vốn của Ngân hàng thương mại,
chịu sự tác động của rất nhiều những yếu tố chủ quan và khách quan
khác nhau, các yếu tố này đều trực tiếp, hoặc gián tiếp đến hoạt động
huy động vốn của ngân hàng.
1.1.3.1. Nhân tố chủ quan
Nhân tố chủ quan là các nhân tố bên trong tại các Ngân hàng, là
8
8
các nhân tố Ngân hàng hoàn toàn có thể thay đổi. Các nhân tố này có
tác động đến tất cả các hoạt động của Ngân hàng đặc biệt là hoạt động
huy động vốn của Ngân hàng. Các yếu tố chủ quan này bao gồm:
- Yếu tố đầu tiên phải kể đến đó chính là năng lực cạnh tranh của
Ngân hàng. Năng lực cạnh tranh của Ngân hàng có thể là ở quy mô, ở
thương hiệu…Các yếu tố này đóng vai trò hết sức quan trong trong
việc huy động vốn của Ngân hàng, bởi vì nó thể hiện uy tín, lòng tin
vào Ngân hàng của khách hàng, là sức mạnh trong cạnh tranh của
Ngân hàng. Đặc biệt trong thời đại như ngày nay, thì vấn để cạnh tranh
giữa các Ngân hàng lại càng trở lên quan trong hơn bao giờ hết. Bởi
vì, trong cơ chế thị trường, các doanh nghiệp đều có vai trò bình đẳng
như nhau. Do đó chỉ có doanh nghiệp nào khẳng định được mình và
vươn lên thì mới có thể tồn tại được.
- Chiến lược kinh doanh của các Ngân hàng. Trong mỗi một giai
đoạn nhất định thì các Ngân hàng thường đề ra một chiến lược kinh
doanh nhất định, chiến lược này phải phù hợp với tình hình thực tế của
Ngân hàng. Đó sẽ là yếu tố quyết định đến hoạt động huy động vốn
của Ngân hàng. Với mỗi một chiến lược kinh doanh khác nhau, thì
Ngân hàng đồng thời sẽ có một chiến lược huy động vốn khác nhau
sao cho phù hợp với chiến lược kinh doanh của Ngân hàng. Và tất
nhiên là với một chiến lược kinh doanh thích hợp, thì công tác huy
động vốn sẽ đạt được những thành công.
9
9
- Nội dung chính sách huy động vốn mà Ngân hàng đang áp dụng.
Thông thường chính sách huy động vốn sẽ thường xuyên thay đổi theo
mục tiêu cụ thể mà Ngân hàng theo đuổi, cũng như chiến lược kinh
doanh của Ngân hàng. Khi có nhu cầu về vốn lớn, Ngân hàng thương
mại có thể đưa ra nhiều phương thức huy động vốn khác nhau như lãi
suất , cung cấp dịch vụ…
- Nhận thức về công tác huy động vốn. Đây là một yếu tố rất quan
trọng đối với công tác huy động vốn của Ngân hàng. Bởi vì, nếu Ngân
hàng không có được những nhận thức đúng đắn về vai trò cũng như
chức năng của công tác huy động vốn thì vấn đề huy động vốn của
Ngân hàng sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Và chỉ khi có được những nhận
thức đúng đắn về công tác huy động vốn thì Ngân hàng mới có thể đưa
ra được các chính sách cũng như các biện pháp huy động vốn cho phù
hợp, từ đó công tác huy động vốn sẽ đạt được những thành công như
mong muốn.
- Cùng với đó thì yếu tố về nhân sự của Ngân hàng cũng đóng
vai trò hết sức quan trọng trong công tác huy động vốn của Ngân
hàng. Nguồn nhân lực bên trong Ngân hàng chính là yếu tố quyết
định đến khả năng, đến năng lực làm việc, cũng như khả năng cạnh
tranh của ngân hàng trên thị trường. Đặc biệt, trong giai đoạn hiện
nay, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ thì năng lực
của các nhận viên trong Ngân hàng về khả năng nắm bắt các công
10
10
nghệ mới sẽ có vai trò quyết định trong việc hội nhập với thị trường
tài chính quốc tế. Do vậy, Ngân hàng cần có các chính sách tuyển
chọn, các chính sách đãi ngộ phù hợp để thu hút được nguồn nhân
lực có chất lượng cao.
- Ngoài ra các yếu tố như: mạng lưới chi nhánh, kinh nghiệm cũng
như khả năng của đội ngũ nhân viên ngân hàng, yếu tố về thương
hiệu… cũng sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến khả năng huy động vốn của
ngân hàng.
1.1.3.2. Nhân tố khách quan
Bên cạnh các yếu tố chủ quan bên trong Ngân hàng, thì công tác
huy động vốn của Ngân hàng thương mại còn chịu sự ảnh hưởng rất
lớn của các yếu tố khách quan nằm bên ngoài sự kiểm soát của Ngân
hàng.
- Yếu tố tâm lý của khách hàng: Đây là một yếu tố có ảnh hưởng
không nhỏ đến hoạt động huy động vốn của Ngân hàng. Thông thường
ở các nước phát triển tiên tiến, người dân thường sử dụng các dịch vụ
tiện ích của Ngân hàng, mà ít khi dùng tiền mặt, do vậy lượng tiền mặt
lưu thông trong nền kinh tế là rất nhỏ, điều này sẽ tạo điều kiện thuận
lợi cho hoạt động huy động vốn của Ngân hàng thương mại. Nhưng
ngược lại, ở các nước đang phát triển, người dân vẫn giữ thói quen tiêu
dùng tiền mặt trong thanh toán, vì vậy hoạt động huy động vốn của các
ngân hàng tại đây sẽ gặp khó khăn.
11
11
- Đặc điểm tình hình kinh tế xã hội. Nền kinh tế có ổn định, phát
triển bền vững, thu nhập bình quân đầu người có cao, trình độ dân chí
của dân cư có cao, thì khả năng huy động vốn của Ngân hàng mới có
thể có điều kiện phát triển tốt. Bởi vì, chỉ khi người dân có thu nhập
cao thì họ mới có thể có khả năng chi trả cho cuộc sống sinh hoạt hàng
ngày và có nguồn vốn nhán dỗi chưa sử dụng dến dư ra từ thu nhập.
Khi đó, họ sẽ nghĩ đến việc cất trữ trong ngân hàng để nhằm mục đích
thu lãi, và đảm bảo an toàn. Và bên cạnh đó, người dân chỉ gửi tiền
vào Ngân hàng khi họ cảm thấy an toàn, tức là khi mà nền kinh tế phát
triển ổn định, cùng với sự ổn định về chính trị. Ngược lại, nếu trong
một nền kinh tế mà không ổn định, thu nhập, cũng như dân trí thấp thì
tất yếu là tiết kiệm của xã hội cũng sẽ thấp, thêm vào đó là tâm lý ưa
dùng tiền mặt, người dân chưa thấy hết được các tiện ích mà Ngân
hàng cung cấp, và điều này sẽ gây rất nhiều những khó khăn cho hoạt
động huy động vốn của ngân hàng. Ngoài ra, hoạt động huy động vốn
của Ngân hàng còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như tỷ lệ lạm
phát, sự suy thoái của nền kinh tế, thậm chí là sự phát triển quá nóng
của nền kinh tế.
- Môi trường pháp lý. Nhà nước luôn đóng vai trò điều tiết vĩ mô
toàn bộ hoạt động kinh tế của một quốc gia, nhằm thúc đẩy sự phát
triển của toàn bộ nền kinh tế. Đặc biệt, hoạt động của ngân hàng luôn
có tác động rất lớn đến hoạt động của toàn bộ nền kinh tế, nên sẽ chịu
12
12
sự điều tiết chặt chẽ của các chế tài của pháp luật, và chịu sự điều tiết
và quản lý từ phía Ngân hàng Nhà nước. Pháp luật của các quốc gia
quy định, trong các trường hợp cần thiết, các Ngân hàng thương mại
phải tiến hành mua trái phiếu Chính phủ do Chính phủ ( mà đại diện là
kho bạc nhà nước ) phát hành. Ngoài ra, tại nhiều quốc gia, Ngân hàng
Nhà nước còn quy định mức vốn tối đa được phép huy động theo một
tỷ lệ nhất định nào đó so với vốn chủ sở hữu của các Ngân hàng
thương mại, để đáp ứng các mục tiêu an toàn và an ninh tiền tệ của
quốc gia. Bên cạnh đó, các ngân hàng thương mại còn chịu sự điều tiết
của nhiều chế tài pháp luật khác, nhiều cơ quan khác.
- Trình độ phát triển của thị trường tài chính. Một thị trường tài
chính phát triển ở trình độ cao và hiện đại, thì việc huy động vốn sẽ có
thể thực hiện theo nhiều phương thức cũng như nhiều kênh khác nhau.
Ngoài ra, trong một thị trường tài chính hiện đại thì vấn đề thông tin
đến với các doanh nghiệp sẽ có khả năng đầy đủ và kịp thời hơn. Và
đó sẽ là điều kiện rất tốt cho hoạt động huy động vốn của các ngân
hàng.
- Môi trường cạnh tranh. Quá trình cạnh tranh trong hoạt động của
các ngân hàng thương mại được bắt đầu ngay từ khi ngân hàng được ra
đời. Đặc biệt trong giai đoạn hội nhập mạnh mẽ như ngày nay thì vấn
đề cạnh tranh càng trở lên khốc liệt hơn bao giờ hết. Sự cạnh tranh
không chỉ diễn ra giữa các ngân hàng mà còn bao gồm cả các tổ chức
13
13
tín dụng, các công ty tài chính, các công ty cho thuê tài chính, và các
loại hình dịch vụ mà các tổ chức khác cung cấp. Các yếu tố này sẽ có
các tác động rất lớn tới hoạt động huy động vốn của Ngân hàng, điều
này đòi hỏi các Ngân hàng phải có các chính sách huy động vốn phù
hợp với tình hình thị trường.
Như vậy, ta có thể thấy rằng hoạt động của các Ngân hàng chịu sự
tác động của rất nhiều các yếu tố khác nhau bao gồm cả các yếu tố
khách quan, cũng như các yếu tố chủ quan. Các yếu tố này sẽ có các tác
động ở nhiều mức độ khác nhau, tuỳ thuộc vào từng giai đoạn, từng
thời kỳ, cũng như tình hình cụ thể của thị trường. Do vậy đòi hỏi các
Ngân hàng phải có các chính sách cũng như các biện pháp huy động
vốn cho phù hợp với điều kiện và tình hình cụ thể.
1.2. Những biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả huy động vốn của
Ngân hàng thương mại.
1.2.1. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả huy động vốn của
Ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại kinh doanh tiền tệ dưới hình thức huy động,
cho vay, đầu tư và cung cấp các dịch vụ khác. Vì vậy công tác huy động
vốn- hoạt động tạo nguồn vốn cho ngân hàng thương mại đóng một vai
trò hết sức quan trọng.
Hoạt động của các Ngân hàng thương mại có ảnh hưởng rất lớn
đến các thành phần trong nền kinh tế, bởi vì các Ngân hàng nắm giữ
14
14
một lượng vốn rất lớn của các khách hàng, và cũng từ đó các hoạt
động của Ngân hàng sẽ có tác động rất lớn đến sự phát triển của một
nền kinh tế nói chung. Vì vậy luật pháp của các quốc gia luôn buộc các
Ngân hàng phải duy trì một lượng vốn lớn. Đó sẽ là yếu tố đảm bảo
một phần cho các rủi ro có thể xảy ra. Đó cũng là lý do khiến cho việc
huy động vốn là yếu tố đóng vai trò quan trọng trong hoạt động của
Ngân hàng.
1.2.2.Các biện pháp tăng cường hoạt động huy động vốn của
NHTM.
Điều đầu tiên cần phải nhắc đến khi huy động vốn đó là để đáp
ứng nhu cầu cho vay và đầu tư. Ngay từ khi mới thành lập thì hoạt
động cho vay đã là hoạt động chủ yếu của các Ngân hàng thương mại,
đó cũng là hình thức kinh doanh chủ yếu của Ngân hàng. Hoạt động
đặc trưng của các ngân hàng đó là hoạt động cho vay để thu được lãi
suất. Nhưng ngày nay, cùng với sự phát triển không ngừng của kinh tế,
thì hoạt động của các Ngân hàng không chỉ còn đơn thuần là hoạt động
cho vay để thu lãi, mà nó còn mở rộng ra các lĩnh vực đầu tư. Hoạt
động đầu tư của các Ngân hàng sẽ tận dụng được các khoản tiền nhàn
rỗi, đồng thời tận dụng được các kinh nghiệm cũng như khả năng trên
thị trường tài chính. Do vậy yếu tố đầu tiên phải xem xét khi huy động
vốn là phải cân đối với hoạt động cho vay và đầu tư. Đó cũng chính là
mục đích huy động vốn của các Ngân hàng.
15
15
- Quá trình huy động vốn cần phải đảm bảo rằng tính chất nguồn
huy động phải phù hợp với tính chất sử dụng. Điều này đóng một vai
trò hết sức quan trọng hoạt động kinh doanh của Ngân hàng trên thị
thường. Khi tổ chức công tác huy động vốn trên thị trường Ngân hàng
cần căn cứ vào nhu cầu sử dụng của mình là gì, đó có thể là các khoản
tín dụng dài hạn, trung hạn, hoặc là ngắn hạn. Sự phù hợp giữa tính
chất của nguồn huy động và tính chất sử dụng sẽ giúp cho Ngân hàng
chủ động hơn trong kế hoạch kinh doanh của mình, đồng thời tận dụng
được các cơ hội kinh doanh, tăng thời gian quay vòng vốn. Tính chất
sử dụng vốn của các Ngân hàng không chỉ thời hạn của khoản tín
dụng, mà còn là phương thức thanh toán trong nước hay quốc tế.
- Điều tiếp theo cần phải kể đến là vấn đề an toàn về vốn trong
công tác huy động vốn. Hoạt động của các Ngân hàng thương mại trên
thị trường tài chính luôn hàm chứa rất nhiều những rủi ro, do vậy vấn
đề đảm bảo các điều kiện an toàn về vốn là một việc hết sức cần thiết.
Sự an toàn trong công tác huy động vốn có thể thể hiện ở tính thanh
khoản của khoản vốn. Bởi vì, trong quá trình kinh doanh các khách
hàng có thể rút tiền bất cứ lúc nào, do vậy các khoản vốn mà Ngân
hàng huy động được cần phải bảo đảm tính thanh khoản song song với
việc sinh lãi.
- Chi phí thấp, cơ cấu vốn phù hợp. Hoạt động kinh doanh của các
Ngân hàng thương mại là vì mục tiêu lợi nhuận, vì thế yếu tố chi phí
16
16
cho hoạt động huy động vốn của Ngân hàng sẽ đóng một vai trò hết
sức quan trọng. Nó sẽ quyết định đến khả năng cạnh tranh của Ngân
hàng, cũng như vấn đề về lợi nhuận của Ngân hàng. Ngoài ra cơ cấu
của nguồn vốn cũng có ảnh hưởng rất lớn tới cơ cấu tài sản và quyết
định chi phí của Ngân hàng. Quản lý cơ cấu của nguồn huy động phải
đảm bảo các nội dụng sau:
• Thống kê đầy đủ và kịp thời các thay đổi về các loại nguồn vốn
huy động, tốc độ quay vòng của mỗi loại.
• Phân tích kỹ lưỡng các nhân tố gắn liền với thay đổi đó.
• Lập kế hoạch phù hợp cho từng giai đoạn phù hợp với yêu cầu sử
dụng.
17
17
Chương 2
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC HUY ĐỘNG VỐN CỦA NHNo &
PTNT HUYỆN YÊN LẬP TỈNH PHÚ THỌ
2.1. Khái quát về NHNo&PTNT huyện Yên Lập. tỉnh Phú Thọ.
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển.
Là một chi nhánh trực thuộc NHNo&PTNT tỉnh Phú Thọ đã được
thành lập năm 1988 thực chất là NHNo huyện Yên Lập trước đây bàn
giao sang hoạt động trên địa bàn là trung tâm của huyện, là điều kiện
thuận lợi để Ngân hàng thu hút khách hàng cả về huy động vốn, cho
vay và dịch vụ khác. Khi mới thành lập Ngân hàng gồm 51 cán bộ,
nguồn vốn 74 triệu bình quân 1,4 triệu/1 cán bộ, dư nợ 542 triệu bình
18
18
quân 10,6 triệu/1 cán bộ. Đến cuối năm 1990 nguồn vốn là 134 triệu
dư nợ 937 triệu, chênh lệch thu chi là âm 63 triệu, đây là giai đoạn đầu
chuyển sang kinh doanh tách chức năng trung tâm tiền tệ, trung tâm
thanh toán, trung tâm thương mại, chuyển sang hoạt động kinh doanh
mang tính thương mại, đây là giai đoạn khó khăn nhất của
NHNo&PTNT huyện Yên Lập.
Đến cuối năm 1996 nguồn vốn đạt : 2.830 triệu đồng dư nợ
15.976 triệu cùng với việc tăng trưởng nguồn vốn, dư nợ trong giai
đoạn này thực hiện chủ trương giảm biên chế số lao động từ 51 người
năm 1988 xuống 26 người năm 1996. Đến tháng 10 năm 2003 tổng số
lao động của chi nhánh còn 23 người Ngân hàng mở thêm 2 phòng
giao dịch và có thể nói đến lúc này chi nhánh hoạt động mạnh mẽ,
nguồn vốn đạt 28.829 triệu đồng dư nợ 60.647 triệu đồng. Đến
31/12/2004 số cán bộ có 32 người với tổng nguồn vốn là 37.324 triệu
đồng, tổng dư nợ 67.409 triệu, hoạt động Ngân hàng từ năm 1996 trở
lại đây kinh doanh đã có lãi, là một đơn vị có chất lượng tín dụng tốt nhất
toàn tỉnh, nợ quá hạn giảm 0,5%. Tổng kết phong trào thi đua nhiều năm
đơn vị đứng thứ nhất toàn tỉnh năm 2003 được Chính phủ tặng bằng khen
"trong thời kỳ đổi mới".
Thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội năm 2010 của huyện
Yên Lập trong điều kiện thiên tai biến động bất thường của thời tiết
đầu năm gây rét đậm, rét hại ảnh hưởng lớn đến sản xuất nông nghiệp.
19
19
Dịch bệnh gia súc, gia cầm tiềm ẩn nguy cơ phát dịch cao. Giá vật tư,
phân bón, nguyên liệu tăng cao đã ảnh hưởng lớn đến sự phát triển
kinh tế xã hội của huyện. Công nghiệp tiểu thủ công nghiệp và sản
xuất hàng hóa còn chậm phát triển, khả năng thu hút đầu tư khai thác
tiềm năng, giao lưu hàng hóa còn nhiều hạn chế.
Song dưới sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng và chính quyền các cấp đã
khắc phục vụ khó khăn, có những biện pháp chỉ đạo tích cực kip thời.
Do đó tình hình sản xuất và đời sống vẫn đảm bảo ổn định và có sự
phát triển thể hiện ở một số chỉ tiêu cơ bản sau:
Tổng giá trị sản xuất ước tính đạt 514,8 tỷ đồng, tăng 5,5% so
với kế hoạch, tăng 9,3% so với cùng kỳ. Trong đó:
- Giá trị sản xuất Nông lâm nghiệp - thủy sản: Đạt 231,8 tỷ đồng ,
đạt 95,1% so với kế hoạch và tăng 3,49% so cùng kỳ.
- Gía trị sản xuất công nghiệp - Tiểu thủ công nghiệp - Xây dựng:
Đạt 94,4tỷ đồng, tăng 38,4% kế hoạch, tăng 12,5% so cùng kỳ .
- Thương mại - Dịch vụ - Vận tải: Đạt 188,6 tỷ đồng, tăng 20,2%
kế hoạch và tăng 16% so cùng kỳ.
- Tốc độ tăng trưởng kinh tế tăng 10,3% so với cùng kỳ.
Về tỷ trọng cơ cấu GTSX: Nông - Lâm nghiệp, thủy sản chiếm
50,98%, giảm 6.8% kế hoạch và giảm 2,8% cùng kỳ: Công nghiệp - Tiểu
thủ công nghiệp - Xây dựng chiếm 9,1% tăng 5,5 % kế hoạch , tăng 0,7%
so cùng kỳ; Thương mại - Dịch vụ - Vận tải chiếm 39.92%, tăng 1,3% kế
20
20
hoạch và tăng 2,1% so cùng kỳ .
Bình quân giá trị sản xuất đạt 6,7 triệu/người, bằng 98% kế
hoạch và tăng 63,42% so với cùng kỳ.
Tổng sản lượng ( cây có hạt ) ước tính đạt 34.655 tấn băng
94,32% kế hoạch, tăng 5,4% cùng kỳ. Bình quân lương thực ước
tính đạt 427,3kg/người/năm đạt 98% kế hoạch, tăng 0,4% cùng kỳ.
Tỷ lệ hộ nghèo 19,62% ( theo tiêu chuẩn cũ ) giảm 7% so cùng
kỳ.
2.1.2. Cơ cấu tổ chức mạng lưới của NHNo&PTNT huyện Yên
Lập, tỉnh Phú Thọ.
2.1.2.1. Tổ chức biên chế bộ máy và cơ cấu cán bộ
Là một chi nhánh trực thuộc NHNo&PTNT tỉnh Phú Thọ đã được
thành lập năm 1988 thực chất là NHNo huyện Yên Lập trước đây bàn
giao sang hoạt động trên địa bàn là trung tâm của huyện, là điều kiện
thuận lợi để Ngân hàng thu hút khách hàng cả về huy động vốn, cho
vay và dịch vụ khác. Khi mới thành lập Ngân hàng gồm 51 cán bộ,
nguồn vốn 74 triệu bình quân 1,4 triệu/1 cán bộ, dư nợ 542 triệu bình
quân 10,6 triệu/1 cán bộ. Đến cuối năm 1990 nguồn vốn là 134 triệu
dư nợ 937 triệu, chênh lệch thu chi là âm 63 triệu, đây là giai đoạn đầu
chuyển sang kinh doanh tách chức năng trung tâm tiền tệ, trung tâm
thanh toán, trung tâm thương mại, chuyển sang hoạt động kinh doanh
mang tính thương mại, đây là giai đoạn khó khăn nhất của
21
21
NHNo&PTNT huyện Yên Lập.
Đến cuối năm 1996 nguồn vốn đạt : 2.830 triệu đồng dư nợ
15.976 triệu cùng với việc tăng trưởng nguồn vốn, dư nợ trong giai
đoạn này thực hiện chủ trương giảm biên chế số lao động từ 51 người
năm 1988 xuống 26 người năm 1996. Đến tháng 10 năm 2003 tổng số
lao động của chi nhánh còn 23 người Ngân hàng mở thêm 2 phòng
giao dịch và có thể nói đến lúc này chi nhánh hoạt động mạnh mẽ,
nguồn vốn đạt 28.829 triệu đồng dư nợ 60.647 triệu đồng. Đến
31/12/2004 số cán bộ có 32 người với tổng nguồn vốn là 37.324 triệu
đồng, tổng dư nợ 67.409 triệu, hoạt động Ngân hàng từ năm 1996 trở
lại đây kinh doanh đã có lãi, là một đơn vị có chất lượng tín dụng tốt nhất
toàn tỉnh, nợ quá hạn giảm 0,5%. Tổng kết phong trào thi đua nhiều năm
đơn vị đứng thứ nhất toàn tỉnh năm 2003 được Chính phủ tặng bằng khen
"trong thời kỳ đổi mới".
Để thực hiện nhiệm vụ đầu tư phục vụ phát triển kinh tế cho huyện
miền núi nghèo. NHNo&PTNT huyện Yên Lập đã kiện toàn lại đội ngũ
cán bộ, tinh giảm biên chế và đào tạo lại cán bộ phù hợp với những nhu
cầu đòi hỏi của nền kinh tế thị trường. Đến nay đội ngũ cán bộ của
NHNo&PTNT huyện Yên Lập có 35 cán bộ được biên chế thành 3
phòng nghiệp vụ và 2 phòng giao dịch trực thuộc, cán bộ quản lý gồm
12 người chiếm 34,28% trong tổng số cán bộ trong đó: Trình độ Đại
học gồm 20 người chiếm 45,16%; đang học Đại học 1 người chiếm
22
22
5,71%; Cao đẳng và Trung cấp 13 người chiếm 37,15 %.
Nhìn vào cơ cấu đội ngũ cán bộ của chi nhánh cho thấy đội ngũ
cán bộ viên chức của chi nhánh có trình độ khá đồng đều điều này là
yếu tố quan trọng để thực hiện nghiệp vụ quản lý kinh doanh và nâng
cao vị thế của chi nhánh.
Việc sử dụng bố trí cán bộ được chi nhánh rất quan tâm bởi vậy
đã tạo điều kiện cho mỗi cán bộ công nhân viên phát huy hết khả năng
của mình, thường xuyên học tập chuyên môn nghiệp vụ. Đây là công
tác rất quan trọng, đi liền với nó là công tác giáo dục nâng cao ý thức
trách nhiệm đạo đức nghề nghiệp cho cán bộ. Công tác đào tạo được
chi nhánh rất quan tâm và thực hiện dưới các hình thức như cho cán bộ
đi học tại chức, học chuyển đổi bằng, học ngoại ngữ, duy trì thường
xuyên việc tổ chức cho cán bộ học tập các văn bản chế độ thể lệ mới
của ngành.
Mô hình tổ chức ở Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
huyện Yên Lập
23
23
Giám Đốc
Các phó giám đốc
Các đơn vị phụ thuộc phòng giao dịch
2.1.2.2. Chức năng nhiệm vụ
Chức năng: cũng như các Ngân hàng thương mại khác NHNo &
PTNT huyện Yên Lập cũng có các chức năng cơ bản sau đây:
• Là một tổ chức trung gian tài chính hoạt động chủ yếu là
chuyển tiết kiệm thành đầu tư.
• Tạo phương tiện thanh toán. Khi Ngân hàng cho vay số dư tài
khoản tiền gửi thanh toán của Ngân hàng tăng lên, khách hàng có thể
dùng để mua hàng hoá dịch vụ.
• Đóng vai trò là trung gian thanh toán. Thay mặt khách hàng,
Ngân hàng thanh toán giá trị hàng hoá dịch vụ. Bên cạnh đó còn thực
hiện thanh toán bù trừ với nhau thông qua Ngân hàng Trung ương
hoặc thông qua các trung tâm thanh toán.
2.1.2.3. Nghiệp vụ kinh doanh của Chi nhánh
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Yên Lập
24
24
Phòng KH, KD
Phòng kế toán ngân quỹ Phòng HC và k.soát nội bộ
thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh chủ yếu sau đây:
•Nhận tiền gửi: Đây là một trong những hoạt động đầu tiên của các
Ngân hàng thương mại từ khi hình thành. Trên cơ sở Ngân hàng mở các
tài khoản nhận tiền gửi cho khách hàng với cam kết trả đúng hạn, và
cam kết trả cho khách hàng một khoản tiền lãi (hay là chi phí đánh đổi
cho việc sử dụng vốn).
•Cho vay: Ngân hàng có nhiều cách thức để huy động vốn khác
nhau. Và khi đã huy động được vốn, thì một trong những phương thức
đem lại lợi nhuận cho Ngân hàng là cho vay. Đó là hình thức mà Ngân
hàng sẽ cho các cá nhân hoặc tổ chức có nhu cầu về vốn vay với một
lãi suất cao hơn chi phí mà Ngân hàng bỏ ra để huy động vốn, từ đó
Ngân hàng sẽ thu được khoản chênh lệch về lãi suất. Nghiệp vụ cho
vay là nghiệp vụ mang lại nguồn thu chủ yếu cho các Ngân hàng
thương mại.
•Mua bán ngoại tệ. Đây sẽ là hoạt động mang đầy tính tiềm năng
cho các Ngân hàng đặc biệt là trong su thế hội nhập như hiên nay.
Trong nghiệp vụ này, Ngân hàng sẽ tiến hành sẽ mua một loại tiền này
để đổi lấy một loại tiền khác và hưởng khoản chênh lệch, cũng như phí
dịch vụ.
•Thực hiện dịch vụ thanh toán quốc tế: chuyển tiền, nhờ thu, mở
và thanh toán L/C phục vụ khách hàng trong và ngoài nước.
•Tài trợ cho các hoạt động của Chính phủ
25
25