Tải bản đầy đủ (.pdf) (38 trang)

KINH TẾ HỌC VỀ CHẤT LƯỢNG MÔI TRƯỜNG docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (548.13 KB, 38 trang )


Barry Field & Nancy Olewiler
107
CHƯƠNG 5
KINH TẾ HỌC VỀ CHẤT LƯỢNG MÔI TRƯỜNG


Chương 4 chỉ ra rằng khi có ngoại tác, tài nguyên tự do tiếp cận, hoặc hàng hóa công, hệ
thống thị trường sẽ không đạt được trạng thái cân bằng hiệu quả xã hội. Hiệu quả xã hội là
một khái niệm chuẩn tắc trong kinh tế học. Đó là dạng tuyên bố “điều đó sẽ là gì”. Nghiên
cứu yếu tố tác động đến chính sách công giải quyết các vấn đề môi trường là một dạng
kinh tế học chuẩn tắc. Các mục tiêu chính sách cần bao nhiêu SO
2
trong không khí, bao
nhiêu phốt phát trong hồ nước, hoặc bao nhiêu lượng chất độc hại trong đất và làm thế nào
thực hiện được các mục tiêu này? Kinh tế học thực chứng nghiên cứu các sự kiện thực tế
đã xảy ra như thế nào, khó khăn nào cần vượt qua. Sản lượng thị trường thực tế và giá
tương ứng của nó là các vấn đề nghiên cứu của kinh tế học thực chứng. Các câu hỏi đạ
i
loại như một nhóm nhà máy nhiệt điện nào đó phát thải ra bao nhiêu sulphur đioxít (SO
2
)
và yếu tố nào quyết định lượng nhiên liệu sử dụng là các câu hỏi của kinh tế học thực
chứng.

Một số bước tổng quát trong phân tích chính sách chuẩn tắc:

1. Nhận dạng mức mục tiêu chất lượng môi trường. Mức mục tiêu có thể dựa vào mức
phát thải hoặc mức tích tụ chất thải trong môi trường.

2. Quyết định phân chia các mức mục tiêu chất lượng môi trường này cho các nhà sản


xuất như thế nào.

3. Quyết định các công cụ chính sách để đạt được mức mục tiêu. Phần 4 sẽ khảo sát
kỹ các công cụ chính sách này.

4. Đặt câu hỏi nên phân phối lợi ích và chi phí của chương trình môi trường như thế
nào và sự phân phối này có hợp lý hay không. Phần 3 sẽ đề cập đến các phương
pháp tính lợi ích và chi phí.

Chương này tập trung vào bước đầu tiên: xác định mức mụ
c tiêu chất lượng môi trường.

Xây dựng chính sách môi trường có hiệu quả hay không phụ thuộc vào việc có được dữ
liệu các biến số kinh tế và kỹ thuật đúng đắn hay không. Chất gây ô nhiễm ảnh hưởng đến
chất lượng môi trường như thế nào? Nhà sản xuất và người tiêu dùng phản ứng như thế nào
với các chính sách? Trong nhiều trường hợp, chúng ta biết nhiều về phản ứng của nhà sản
xuất và người tiêu dùng hơn là mối liên kết giữa chất gây ô nhiễm và chất lượng môi
trường. Mặc dù khoa học môi trường ngày càng khám phá ra nhiều điều về mối liên kết
này nhưng vẫn còn rất nhiều dữ kiện không chắc chắn. Các nhà khoa học chưa hiểu hết các
tác động khác nhau của chất gây ô nhiễm lên môi trường. Có thể kể một số ví dụ về sự
không chắc chắn khoa học này – chẳng hạn như các tranh luận về nguyên nhân gây hiện
tượng thay đổi khí hậu, hợp chất nào trong nước thải của nhà máy giấy gây bệnh cho các
bãi nuôi sò.


Barry Field & Nancy Olewiler
108
MỨC Ô NHIỄM MỤC TIÊU – MÔ HÌNH TỔNG QUÁT

Chẳng có một chính sách công riêng lẻ nào có thể giải quyết được tất cả các vấn đề môi

trường khác nhau. Nhưng chúng ta có thể dùng một mô hình đơn giản để xây dựng nền
tảng cho bất kỳ tình huống chính sách nào. Mô hình này thể hiện một sự đánh đổi đơn giản
thường áp dụng cho tất cả các hoạt động kiểm soát ô nhiễm. Một mặt việc giảm chất thải
góp phần làm giảm thiệt hại mà con người phải gánh chịu do ô nhiễm môi trường; mặt
khác, việc giảm chất thải lại sử dụng những nguồn lực lẽ ra có thể được dùng vào việc
khác. Ví dụ, giảm phát thải sulphur điôxít của một nhà máy nhiệt điện sẽ làm giảm ô nhiễm
không khí và lắng tụ axít. Chất lượng môi trường sẽ tăng và làm lợi cho con người và hệ
sinh thái. Nhưng để giảm phát thải, nhà máy phải lắp đặt thiết bị giảm ô nhiễm hoặc
chuyển qua dùng nhiên liệu chứa ít sulphur hơn (chẳng hạn khí thiên nhiên). Điều này làm
tăng chi phí sản xuất. Nếu nhà máy có thể chuyển chi phí này cho khách hàng gánh chịu,
giá điện sẽ tăng. Người tiêu dùng sẽ tiêu dùng ít hàng hóa hơn. Mô hình đơn giản trong
chương này sẽ trình bày dạng đánh đổi như thế này.

Thiệt hại do ô nhiễm

Nói thiệt hại do ô nhiễm là nói đến tất cả những tác động bất lợi mà người sử dụng môi
trường phải gánh chịu do suy thoái môi trường. Ví dụ một nhà máy đưa chất thải vào dòng
sông làm ngộ độc các loài thủy sản, làm con người không thể sử dụng cá bắt được từ dòng
sông này nữa. Chất độc nhiễm vào cá bắt đầu tham gia vào chuỗi thức ăn, làm ngộ độc các
loài khác ăn những con cá bị nhiễm độc ban đầu – chẳng hạn như chim đại bàng hoặc chim
ưng. Các thành phố ở lưu vực sông phải bỏ thêm chi phí để xử lý độc tố ra khỏi nguồn
nước sinh hoạt v.v. Ô nhiễm không khí gây thiệt hại đến sức khỏe con người. Các ca tử
vong tăng lên từ bệnh ung thư phổi, viêm phổi kinh niên đều liên quan đến mức độ các
chất ô nhiễm không khí tăng cao, như sunphua điôxít, sợi amiăng, phóng xạ radon. Ô
nhiễm không khí còn gây thiệt hại vật chất – làm xuống cấp vật liệu (ví dụ, các công trình
điêu khắc ngoài trời ở thành phố Florence có từ thời Phục Hưng nay phải đem vào bảo
quản trong nhà do ô nhiễm không khí) hoặc làm hạn chế tầm nhìn. Ngoài những thiệt hại
gây ra cho con người, sự hủy hoại môi trường có thể gây ra ảnh hưởng quan trọng đối với
nhiều yếu tố khác của hệ sinh thái. Các ảnh hưởng đó, như sự hủy hoại thông tin di truyền
ở những loài động thực vật sắp bị tuyệt chủng, rốt cuộc sẽ có ý nghĩa quan trọng đối với

nhân loại. Đánh giá giá trị thiệt hại môi trường là một trong những công việc hàng đầu của
các nhà khoa học môi trường và các nhà kinh tế học môi trường, và chúng ta sẽ bàn vấn đề
này trong chương 7.

Nói chung, ô nhiễm càng nhiều thì thiệt hại gây ra càng lớn. Để mô tả
mối quan hệ giữa ô
nhiễm và thiệt hại, chúng ta sẽ dùng khái niệm hàm thiệt hại.

Một hàm thiệt hại thể hiện mối quan hệ giữa số lượng chất thải và giá trị thiệt
hại của chất thải đó.

Có các dạng hàm số thiệt hại khác nhau:

 Hàm thiệt hại theo lượng phát thải (Emission damage functions) thể hiện mối quan
hệ giữa lượng phát thải từ một hoặc nhiều nguồn nào đó và thiệt hại môi trường gây ra
từ lượng phát thải đó.


Barry Field & Nancy Olewiler
109
 Hàm thiệt hại theo mức độ tích tụ (Ambient damage functions) thể hiện mối quan hệ
giữa mức độ tích tụ của chất thải trong môi trường xung quanh và thiệt hại gây ra.

 Hàm thiệt hại biên (Marginal damage functions) thể hiện mức thay đổi thiệt hại từ sự
thay đổi một đơn vị phát thải hay một đơn vị mức độ tích tụ.

 Tổng thiệt hại (Total damages) là tổng thiệt hại tại mỗi mức phát thải.

Trong chương này chúng ta sẽ tập trung phát triển mô hình tổng quát bằng hàm thiệt hại
biên.


Các hình dạng hàm thiệt hại biên

Hình 5-1 minh họa nhiều dạng hàm thiệt hại biên khác nhau. Hai hàm trên cùng là các hàm
thiệt hại biên theo lượng phát thải; trục hoành thể hiện lượng phát thải vào môi trường
trong một khoảng thời gian nào đó. Sử dụng các đơn vị chính xác (pound, tấn v.v.) trong
bất cứ trường hợp cụ thể nào phụ thuộc vào từng chất ô nhiễm liên quan. Trục tung thể
hiện thiệt hại môi trường dưới dạng tiền tệ. Xét theo những con số thực tế, thiệt hại môi
trường có thể bao gồm nhiều loại tác động khác nhau: số km bờ biển bị ô nhiễm, số người
nhiễm bệnh phổi, số lượng động vật bị tiêu diệt, lượng nước bị nhiễm bẩn v.v. Tất cả mọi
trường hợp ô nhiễm môi trường thường bao gồm nhiều hình thức tác động khác nhau, bản
chất của những tác động này phụ thuộc vào chất gây ô nhiễm có liên quan cũng như thời
gian và địa điểm phát thải. Để xem xét những tác động này một các toàn diện, ta cần phải
gộp chúng thành một đại lượng đơn nhất. Ta sử dụng đơn vị tiền tệ cho mục đích này. Đôi
khi ta có thể dễ dàng biểu diễn thiệt hại bằng đơn vị tiền tệ; chẳng hạn dễ dàng biết người
ta chi bao nhiêu tiền cho chi phí phòng ngừa để tránh bị tác hại của ô nhiễm (ví dụ lắp lớp
cách âm dày hơn để tránh tiếng ồn; mua kính đeo mắt, quần áo bảo vệ ngăn ngừa tác hại
tia cực tím; mua nước uống đóng chai khi hệ thống nước máy bị nhiễm bẩn). Tuy nhiên
trong nhiều trường hợp, thường rất khó đánh giá giá trị thiệt hại biên (chúng ta sẽ khảo sát
kỹ trong chương 7).

Hàm thiệt hại biên theo lượng phát th
ải ở biểu đồ (a) hình 5-1 cho thấy những thiệt hại biên
ban đầu chỉ tăng vừa phải nhưng sau đó lại tăng nhanh hơn khi lượng chất thải ngày càng
nhiều. Các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học môi trường và kinh tế học cho thấy
dường như đây là dạng đường biểu diễn tiêu biểu của nhiều loại chất gây ô nhiễm. Khi
lượng chất thải ít, thiệt hại biên có thể tươ
ng đối nhỏ; mức độ tích tụ chất gây ô nhiễm ở
môi trường xung quanh thấp đến nỗi chỉ có những người nhạy cảm nhất trong cộng đồng
dân cư mới bị ảnh hưởng. Nhưng khí lượng phát thải tăng lên, các mức thiệt hại cũng tăng

vọt, và khi lượng phát thải tăng cao hơn nữa, mức thiệt hại biên trở nên rất cao bởi vì các
tác động môi trường ngày càng phát tán và trầm trọng.

Biểu đồ (b) thể hiện một hàm thiệt hại biên theo lượng phát thải có hình dạng gần giống
như trong biểu đồ (a) (tức là cho thấy thiệt hại biên tăng dần), nhưng bắt đầu ở mức cao
hơn trên trục tung và tăng nhanh hơn. Biểu đồ này có thể biểu diễn một chất độc có ảnh
hưởng chết người ngay cả khi lượng phát thải rất thấp.

Hai biểu đồ dưới cùng trong hình 5-1 là các hàm thiệt hại biên theo mức độ tích tụ. Trục
tung thể hiện giá trị tiền tệ của các mức thiệt hại, và trục hoành chỉ mức độ tích tụ chất ô
nhiễm trong môi trường xung quanh, chẳng hạn đơn vị là phần triệu (ppm). Biểu đồ (c) thể
hiện một hàm phức tạp, tăng ở những mức độ tích tụ thấp, sau đó có xu hướng biến thiên

Barry Field & Nancy Olewiler
110
đều cho đến khi đạt đến những mức tích tụ cao hơn nhiều thì các mức thiệt hại tăng nhanh
hơn. Hàm số này có thể đúng với những chất chẳng hạn như một chất ô nhiễm không khí ở
mức độ tích tụ tương đối thấp đã gây ra thiệt hại rõ rệt đối với một số người nhạy cảm và ở
mức tích tụ tương đối cao thì gây ra thiệt hại cho tất cả mọi người, trong khi ở chặng giữa
thiệt hại biên không tăng nhanh. Biểu đồ (d) thể hiện một hàm thiệt hại biên theo mức độ
tích tụ bắt đầu từ bên phải của gốc tọa độ rồi sau đó tăng tuyến tính theo mức độ tích tụ
trong môi trường xung quanh.

Hình 5-1: Các hàm thiệt hại biên tiêu biểu

Các biểu đồ (a) và (d) minh họa một đặc tính trên thực tế còn nhiều tranh cãi. Chúng có các
mức ngưỡng: là những trị số của lượng phát thải và mức độ tích tụ trong môi trường xung
quanh mà dưới những trị số đó thì thiệt hại biên bằng không. Như vậy, chất gây ô nhiễm có
thể tăng đến những mức ngưỡng này mà không làm cho các mức thiệt hại tăng lên chút
nào. Như ta sẽ thấy trong các chương kế tiếp, việc giả định có hay không một mức ngưỡng

trong hàm thiệt hại của một số chất ô nhiễm nào đó có ảnh hưởng quan trọng đối với chính
sách kiểm soát môi trường trong thực tế. Đã có rất nhiều lý lẽ hùng hồn bảo vệ việc hàm
thiệt hại cho một loại chất ô nhiễm nào đó có hay không có các mức ngưỡng.

Hàm thiệt hại biên: Các đặc tính

Hàm thiệt hại biên là yếu tố chủ yếu trong các phân tích chính sách chuẩn tắc. Phần này sẽ
khảo sát các đặc tính của hàm thiệt hại biên. Mặc dù có thể phân tích hàm thiệt hại theo
lượng phát thải hoặc theo mức độ tích tụ, chúng ta sẽ sử dụng hàm theo lượng phát thải vì
sẽ dễ thiết lập các chính sách kiểm soát ô nhiễm hơn khi nhận dạng được nguồn phát thải.
Trong khi hình 5-1 thể hiện các hàm thiệt hại biên phi tuyến, trong phần còn lại của
chương này và các chương tiếp theo, chúng ta sẽ sử dụng hàm thiệt hại tuyến tính để dễ
Thiệt
hại
$


n
g
chất thải
(
tấn/năm
)


n
g
chất thải
(
k

g
/năm
)

Thiệt
hại
$
Thiệt
hại
$
Thiệt
hại
$
Mức đ

tích t


(pp
m
)
Mức đ

tích t


(pp
m
)


Các hình trên biểu diễn hàm thiệt hại biên theo lượng phát thải và theo mức độ tích tụ. Biểu đồ
(a) và (b) thể hiện hàm phát thải, biểu đồ (c) và (d) là hàm mức độ tích tụ. Hàm thiệt hại biên
minh họa các độ dốc đường thiệt hại biên khác nhau, phụ thuộc vào loại phát thải và địa điểm
phát thải.
(
a
)

(
b
)
(
c
)

(
d
)

Barry Field & Nancy Olewiler
111
dàng tính toán minh họa. Hình 5-2 thể hiện hai hàm thiệt hại biên có lượng phát thải ở trục
hoành theo đơn vị phát thải trên mỗi đơn vị thời gian. Để đơn giản việc phân tích chúng ta
có 2 giả thiết:

 Chất ô nhiễm là đơn chất, không tích tụ và được phân bổ đều.

 Không có mức ngưỡng, nghĩa là mỗi hàm thiệt hại biên đều xuất phát từ gốc tọa độ.

Chúng ta sẽ thay đổi các giả thiết này trong mục 4 và 5. Trong khi đọc phần này, hãy nghĩ

kết quả của chúng ta sẽ thay đổi như thế nào nếu chất thải là không tích lũy hoặc không có
ngưỡng.

Hàm thiệt hại biên được ký hiệu là MD và mức phát thải là E, được mô tả bằng các hàm số
sau:
MD
1
= 0.4E
MD
2
= 0.6E

Đầu tiên xem xét hàm MD
1
. Một đặc tính chủ yếu của hàm này là mối quan hệ giữa thiệt
hại biên và tổng thiệt hại.

Chiều cao của đường thiệt hại biên thể hiện tổng thiệt hại biến đổi bao nhiêu
nếu lượng phát thải thay đổi một mức nhỏ.

Khi mức phát thải là E
1
= 30, thiệt hại biên là $12. Nếu mức phát thải tăng 1 tấn, từ 30 lên
31 tấn, thiệt hại cho người tiếp xúc với lượng phát thải này tăng $12; tương tự, nếu lượng
chất thải giảm một lượng nhỏ, tổng thiệt hại sẽ giảm $12. Bởi vì chiều cao của đường MD,
đo trên trục tung y, đo lường mức thiệt hại biên, diện tích dưới đường này giới hạn bởi tung
độ gốc và mức phát thải thể hiện tổng thiệt hại của mức chất thải này. Trong trường hợp
đường thiệt hại biên MD
1
và mức phát thải 30 tấn, tổng thiệt hại là diện tích b, là một tam

giác có diện tích $180 (30×$12). Tại mức phát thải 30 tấn, thiệt hại biên của MD
2
là $18 và
tổng thiệt hại là diện tích (a+b) = $270. Do đó:

Tổng thiệt hại của một mức phát thải cho trước là diện tích dưới đường MD
giới hạn từ gốc 0 đến mức phát thải đó.


Barry Field & Nancy Olewiler
112
Hình 5-2: Hàm thiệt hại biên cho chất ô nhiễm không tích lũy và không có mức ngưỡng


Những yếu tố nào giải thích cho sự khác biệt giữa MD
1
và MD
2
trong hình 5-2? MD
2

thể là tình huống có rất nhiều người bị một chất ô nhiễm ảnh hưởng, chẳng hạn như ở khu
vực đô thị, trong khi MD
1
có thể áp dụng cho khu vực nông thôn ít người; nghĩa là ít người
thì ít thiệt hại. Một khả năng khác là, các hàm số này có thể áp dụng chung cho một nhóm
người, nhưng ở vào những thời điểm khác nhau. Hàm thiệt hại biên MD
2
có thể là tình
huống khi có sự nghịch chuyển nhiệt độ làm chất thải bị giữ lại trong thành phố và tạo ra

mức tích tụ chất thải tương đối cao. MD
1
có thể là hàm thiệt hại trong điều kiện gió bình
thường do đó hầu hết chất thải bị thổi ra ngoài thành phố. Như vậy, cùng lượng chất thải ở
hai thời điểm khác nhau có thể tạo ra những mức thiệt hại rất khác biệt do những cơ chế
vận hành của môi trường thiên nhiên.

Bây giờ chúng ta sẽ xem xét khía cạnh còn lại của mối quan hệ đánh đổi – chi phí kiểm
soát chất thải. Có hai câu hỏi: Tại sao mức phát thải mục tiêu không bằng không? Có cần
phải luôn luôn xem xét chi phí?

Chi phí giảm ô nhiễm

Chi phí giảm ô nhiễm là những chi phí để giảm lượng chất thải vào môi trường, hoặc chi
phí làm giảm bớt mật độ tích tụ trong môi trường xung quanh. Xét trường hợp nhà máy bột
giấy nằm ở thượng nguồn dòng sông. Nhà máy này tạo ra một lượng lớn chất thải hữu cơ.
Cách rẻ nhất để giải quyết lượng chất thải này là đổ chúng xuống sông. Nhưng nhà máy
cũng có thể giảm lượng phát th
ải này bằng những công nghệ kiểm soát ô nhiễm hoặc thay
đổi quá trình sản xuất (ví dụ dùng công nghệ tẩy không có clo). Chi phí thực hiện các hoạt
động này được gọi là “chi phí giảm ô nhiễm”, bởi vì đó là chi phí gián tiếp làm giảm hay
giảm trực tiếp lượng chất thải đổ xuống sông. Có nhiều cách để giảm lượng phát thải như
5 10 15 20 25 30 35
4
8
12
16
20
a
b

$
Chất thải
(
tấn/năm
)

Đồ thị trên thể hiện hai hàm thiệt hại biên. Trục tung biểu diễn giá trị thiệt hại biên của mỗi loại
chất thải. Nếu lượng chất thải là 30 tấn, thiệt hại biên cho MD
1
là $12, với MD
2
là $18. Tổng giá
trị thiệt hại được tính bằng diện tích dưới đường MD, từ gốc đến mức phát thải đang xem xét.
Tại mức phát thải 30 tấn, tổng thiệt hại là diện tích b=$180 đối với MD
1
và diện tích (a+b) =
$270 đối với MD
2
.
MD
2

MD
1


Barry Field & Nancy Olewiler
113
thay đổi công nghệ sản xuất, chuyển đổi nguồn nhập lượng, tái chế chất thải, xử lý chất
thải, loại bỏ một địa điểm v.v.


Chi phí giảm ô nhiễm thường mỗi nguồn mỗi khác, tùy thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau.
Chi phí giảm lượng thải SO
2
từ một nhà máy điện hẳn nhiên sẽ khác với chi phí giảm khói
độc hại từ các nhà máy hoá chất. Ngay cả đối với những nguồn tạo ra cùng loại chất thải,
chi phí giảm ô nhiễm cũng có thể khác nhau do có những khác biệt về đặc điểm công nghệ
của quá trình vận hành. Có nguồn tương đối mới, sử dụng công nghệ sản xuất hiện đại,
trong khi có nguồn lại sử dụng công nghệ cũ gây ô nhiễm nhiều hơn.

Có thể biểu diễn hàm chi phí giảm ô nhiễm bằng đại số và bằng đồ thị. Ta thể hiện ý tưởng
này bằng cách sử dụng khái niệm chi phí giảm ô nhiễm biên.
1
Đơn vị trên các trục vẫn
như cũ: lượng chất gây ô nhiễm trên trục hoành, và giá trị tiền tệ trên trục tung. Chi phí
giảm chất thải biên thể hiện chi phí tăng thêm để giảm được một đơn vị chất thải, hay nói
cách khác là chi phí tiết kiệm nếu lượng chất thải tăng lên một đơn vị. Trên trục hoành, các
đường chi phí giảm ô nhiễm biên xuất phát từ lượng chất thải không được kiểm soát, tức là
lượng chất thải trước khi thực hiện bất cứ hành động kiểm soát nào. Nói chung, chúng
hướng lên phía trên về bên trái, cho thấy chi phí giảm ô nhiễm biên tăng dần. Trong
chương 3, chúng ta đã thấy đường chi phí biên hướng lên trên về bên phải. Đường chi phí
giảm ô nhiễm biên đi theo chiều ngược lại bởi vì sản phẩm chúng ta sản xuất ở đây lại là
lượng chất thải giảm. Điểm mấu chốt cần ghi nhớ khi xem xét các hình vẽ trong mô hình
tổng quát là

Chúng ta đọc lượng chất thải từ bên trái sang phải dọc theo trục hoành, và đo
lường lượng ô nhiễm giảm từ phải qua trái.

Hình 5-3 minh họa ba hàm chi phí giảm ô nhiễm biên phi tuyến khác nhau mà chúng ta có
thể thấy trong thực tế. Gọi MAC là chữ viết tắt đại diện cho chi phí giảm ô nhiễm biên.


 Biểu đồ (a): Đường MAC tăng lên rất ít khi giảm những lượng chất thải đầu tiên,
nhưng sau đó tăng lên rất nhanh khi lượng chất thải trở nên tương đối ít.

 Biểu đồ (b):
Đường MAC tăng liên tục.

 Biểu đồ (c): Đường MAC có chiều hướng giảm trong giai đoạn ban đầu, sau đó lại tăng
dần. Hàm này có thể đại diện cho một tình huống trong đó chỉ có thể cắt giảm những
lượng nhỏ ban đầu bằng các phương tiện kỹ thuật đòi hỏi phải đầu tư ban đầu rất lớn.
Đối với những mức cắt giảm cao hơn, chi phí giảm ô nhiễm biên thực tế có thể giảm
xuống khi người ta sử dụng những kỹ thuật này triệt để hơn. Tuy nhiên cuối cùng chi
phí giảm ô nhiễm sẽ tăng.



1
Hàm chi phí giảm ô nhiễm biên là đạo hàm bậc một của hàm tổng chi phí giảm ô nhiễm.

Barry Field & Nancy Olewiler
114
Hình 5-3: Các hàm chi phí giảm ô nhiễm biên tiêu tiểu



Các đặc tính của hàm chi phí giảm ô nhiễm biên

Để khảo sát các đặc tính của chi phí giảm ô nhiễm biên, ta hãy xem xét Hình 5-4; hình này
thể hiện hai đường MAC co hàm số tuyến tính như sau:


MAC
1
= 60 – 4E
MAC
2
= 75 – 5E

Từ hình vẽ (hay cho MAC = 0 trong mỗi phương trình và giải ra E), ta có thể thấy mức
phát thải khi chưa có kiểm soát là 15 tấn mỗi tháng cho cả hai nguồn. Từ mức 15 tấn này,
các đường MAC hướng lên trên về bên trái. Điều này có nghĩa chi phí giảm ô nhiễm biên
tăng khi lượng phát thải giảm. Tại mức phát thải 10 tấn một tháng, MAC
1
=$20 và MAC
2

=$25. Khi giảm lượng phát thải đến 0, chi phí giảm ô nhiễm cho đơn vị cuối cùng này là
$60 đối với nhà máy 1 và $75 đối với nhà máy 2. Do đó, càng giảm lượng phát thải nhiều,
chi phí giảm thải biên càng lớn. Chú ý rằng khi vẽ hàm số tuyến tính cắt trục tung, chúng
ta giả sử rằng tồn tại công nghệ giảm ô nhiễm đến mức bằng 0 với một chi phí nhất định.
Nếu đường MAC trông giống biểu đồ (a) trong hình 5-3, không có công nghệ nào có thể
giảm mức ô nhiễm bằng 0.

Dĩ nhiên cũng còn một cách mà người gây ô nhiễm có thể giảm lượng phát thải xuống
bằng 0, đó là ngừng hoạt động gây ra ô nhiễm, nghĩa là đóng cửa nhà máy hoặc thay đổi
sản phẩm sản xuất, và cuối cùng gây ra ảnh hưởng kinh tế rất lớn. Nếu nguồn gây ô nhiễm
chỉ là một nhà máy nhỏ trong một ngành công nghiệp lớn có nhiều nhà máy tương t
ự, chi
phí thực từ việc đóng cửa nhà máy là không lớn. Thực sự, điều này ảnh hưởng rất ít đến
giá cả hàng hóa, mặc dù cũng có một số tác động đáng kể lên việc làm và phúc lợi của
cộng đồng địa phương. Nhưng nếu chúng ta đề cập đến chi phí giảm ô nhiễm biên cho cả

ngành công nghiệp – chẳng hạn ngành công nghiệp hóa dầu ở Ontario hay Alberta – thì
giải pháp đóng cửa để giảm ô nhiễm xuống bằng không là một giải pháp rất đắt giá.

Như bất kỳ đồ thị biên nào, chúng ta có thể ước lượng cả giá trị biên tế và tổng giá trị. Nếu
lượng phát thải hiện tại là 10 tấn/tháng, giá trị trên trục tung cho biết chi phí biên để có
Chất thải Chất thảiChất thải
$ $ $
(
a
)

(
b
)
(
c
)

Các biểu đồ trên minh họa đường chi phí giảm ô nhiễm biên. Trong biểu đồ (a), khi mới giảm chất
thải, chi phí tăng rất chậm, sau đó khi giảm nhiều hơn thì chi phí tăng nhanh. Biểu đồ (b) cho thấy chi
phí tăng tương đối đều khi lượng chất thải giảm. Biểu đồ (c) cho thấy khi mới giảm lượng chất thải,
chi phí biên giảm do tính quy mô kinh tế của công nghệ giảm ô nhiễm. Cuối cùng chi phí biên sẽ tăng
khi lư

n
g
chất thải
g
iảm dần về 0.


Barry Field & Nancy Olewiler
115
thêm một đơn vị chất thải giảm được. Khu vực dưới đường MAC, giới hạn bởi điểm phát
thải ban đầu là 15 tấn/tháng và bất cứ mức phát thải nào chính là tổng chi phí giảm thải đến
mức phát thải đó. Đối với MAC
1
, tổng chi phí giảm ô nhiễm để có được mức phát thải 10
tấn/tháng bằng diện tích b = $50 (diện tích tam giác = 1/2×5×$20). Tổng chi phí giảm ô
nhiễm của nhà máy 2 là diện tích a+b = $62,5 (diện tích tam giác = 1/2×5×$25).

Điểm mấu chốt cần nhớ khi tính tổng chi phí giảm ô nhiễm (TAC) là phải đọc
đồ thị từ phải qua trái.

Hình 5-4: Chi phí giảm ô nhiễm biên cho một loại chất thải
0
10
20
30
40
50
60
70
80
0246810121416
Chất thải (tấn/tháng)
$









Điều gì làm độ dốc hai đường MAC khác nhau khi chúng đều đại diện cho cùng một chất
thải? Lý do thông thường thường là sự khác nhau trong công nghệ kiểm soát ô nhiễm.
MAC
1
sử dụng công nghệ kiểm soát ô nhiễm rẻ hơn so với MAC
2
, có thể là do ở hai nhà
máy khác nhau và nhà máy MAC
2
được xây từ lâu còn nhà máy MAC
1
thì mới hơn.
2


Thay đổi công nghệ do đó có thể hạ thấp đường MAC cho một loại chất thải xác định.
Chúng ta có thể dễ dàng đo lường chi phí nhà máy tiết kiệm hàng năm khi áp dụng công
nghệ mới. Giả sử rằng lượng chất thải của nhà máy là 10 tấn/tháng. Có thể tiết kiệm được
diện tích a nếu nhà máy áp dụng công nghệ mới. Chúng ta đã biết rằng, diện tích
a+b=$62.5 và b=$50, do đó chi phí tiết kiệm được là $12.5/tháng. Kiểu phân tích này rất
quan trọng khi ta các dạng chính sách kiểm soát ô nhiễm khác nhau, bởi vì một trong
những tiêu chí đánh giá chính sách là chính sách đó tạo động lực tiết kiệm được bao nhiêu
chi phí khi nhà máy đầu tư vào lĩnh vực nghiên cứu và phát triển để tạo ra công nghệ kiểm
soát ô nhiễm mới.

2

Đường MAC của cùng một nhà máy cũng có thể khác nhau nếu xét tại hai thời điểm khác nhau.

MAC
1
và MAC
2
đại diện cho 2 nguồn phát thải (hoặc 1 nguồn phát thải tại hai thời điểm
khác nhau) có mức phát thải ban đầu là 15 tấn/tháng khi không có biện pháp kiểm soát ô
nhiễm. Ở mức 10 tấn phát thải (nghĩa là giảm được 5 tấn) MAC
1
= $20 và MAC
2
=$25.
Tổng chi phí để giảm từ 15 tấn xuống 10 tấn là diện tích b đối với nguồn phát thải 1
($50/tháng) và diện tích a+b đối với nguồn 2 ($62,5/tháng). Chi phí tiết kiệm được khi áp
dụng công nghệ của nguồn 1 là a ($12,5/tháng).
MAC
2

MAC
1

a
b

Barry Field & Nancy Olewiler
116
Tổng hợp chi phí giảm ô nhiễm biên

Hầu hết các chính sách môi trường, đặc biệt ở cấp tiểu bang và liên bang, đều nhắm vào

việc kiểm soát lượng chất thải từ một số nguồn gây ô nhiễm chứ không phải từ một nguồn
gây ô nhiễm đơn lẻ. Làm thế nào để tổng hợp chi phí giảm ô nhiễm biên của một nhóm các
công ty (trong cùng một ngành công nghiệp hoặc cùng địa phương) khi chi phí ô nhiễm
biên của từng công ty khác nhau? Quá trình tổng hợp này sẽ cho thấy một khái niệm quan
trọng trong việc thiết kế chính sách môi trường hiệu quả. Hàm chi phí giảm ô nhiễm biên
của một công ty cho thấy cách thức giảm ô nhiễm tốn ít chi phí nhất; còn đối với nhóm các
công ty, đó là hàm chi phí giảm ô nhiễm biên gộp.

Biểu đồ (a) và (b) trong hình 5-5 vẽ lại MAC
1
và MAC
2
từ hình 5-4. Biểu đồ (c) là đường
chi phí giảm ô nhiễm biên gộp. Khi chúng ta có 2 nguồn (hay bất kỳ con số nào nhiều hơn
1) với chi phí giảm ô nhiễm khác nhau, chi phí giảm ô nhiễm gộp sẽ phụ thuộc vào cách
chúng ta tính tổng lượng phát thải của các nguồn như thế nào. Nguyên tắc chung là

Để tổng hợp chi phí giảm ô nhiễm biên, phải cộng theo chiều ngang các hàm số
của cá nhân để tạo ra mức chi phí giảm ô nhiễm biên gộp thấp nhất có thể.

Hình 5-5 minh họa một ví dụ làm thế nào tổng hợp các chi phí giảm ô nhiễm biên khác
nhau. Các bước thực hiện như sau:

Ví dụ: Tổng hợp các đường MAC như thế nào

1. Chọn một mức chi phí giảm ô nhiễm biên nhất định, chẳng hạn $40/tháng.

2. Tìm xem mỗi nhà máy giảm bao nhiêu với chi phí này. Với chi phí $40, nhà máy 1 sẽ
muốn giảm 5 tấn một tháng trong khi nhà máy 2 sẽ giảm 7 tấn một tháng.


3. Cộng các mức phát thải lại với nhau: 5 tấn + 7 tấn = 12 tấn.

4. Lặp lại quá trình với các mức chi phí giảm ô nhiễm biên khác.

5. Vẽ đường chi phí biên gộp như trong biểu đồ (c) của hình 5-5.


Barry Field & Nancy Olewiler
117
Hình 5-5: Tổng hợp các đường chi phí giảm ô nhiễm biên

Tổng hợp các đường MAC cần đến nguyên tắc cân bằng biên – là ý tưởng đã được giới
thiệu trong chương 4. Để có được đường chi phí giảm ô nhiễm biên gộp tối thiểu, các mức
phát thải gộp phải được phân bổ giữa các nguồn phát thải sao cho chúng đều có cùng chi
phí giảm ô nhiễm biên. Bắt đầu xem xét tại mức 12 tấn/tháng trên đường MAC gộp. Rõ
ràng 12 tấn này có thể được phân bổ cho các nguồn theo nhiều cách khác nhau: 6 tấn cho
mỗi nguồn, 10 tấn cho một nguồn và 2 tấn cho nguồn còn lại v.v. Nhưng chỉ có một cách
phân bổ tạo ra chi phí giảm ô nhiễm biên gộp thấp nhất; đó là cách phân bổ sao cho các
nguồn phát thải đều có chi phí giảm ô nhiễm biên bằng nhau. Đường MAC được xây dựng
sao cho thỏa mãn nguyên tắc cân bằng biên.

MỨC PHÁT THẢI HIỆU QUẢ XÃ HỘI

Đối với một chất thải nhất định được thải ra từ một địa điểm nhất định trong
khoảng thời gian nhất định, mức phát thải hiệu quả xã hội là mức tương ứng
với điểm tại đó hàm thiệt hại biên bằng hàm chi phí giảm ô nhiễm biên.

Chúng ta sẽ biểu diễn khái niệm cân bằng này bằng cả đồ thị và toán học.

Bằng đồ thị: hình 5-6 cho thấy MAC giao nhau tại mức phát thải 10 tấn/tháng. Chi phí

giảm ô nhiễm biên bằng chi phí thiệt hại biên tại mức phát thải này (đều bằng $20).

Bằng toán học: Gọi E là mức phát thải. E* là mức phát thải tối ưu xã hội. Giả sử cả hai
đường MAC và MD đều tuyến tính.
3
Giả sử:

MAC = 60 – 4E
MD = 2E

Hiệu quả xã hội cần MAC = MD. Cho 2 phương trình bằng nhau ta có:

60 – 4E = 2E


3
MAC tương tự như trong phần trước (MAC
1
)
0 5 10 15
20
40
60
80
0 5 10 15
20
40
60
80
051015

20
40
60
80
20 25 30
MAC
T
MAC
1
MAC
2
Đường MAC được gộp theo chiều ngang bằng cách lấy bất kỳ giá trị chi phí giảm ô nhiễm biên nào và
cộng mức phát thải của từng nguồn tại giá trị MAC đó. Với MAC = $40, biểu đồ (a) cho thấy nhà máy
1 thải 5 tấn/tháng (giảm từ 15 – 5 = 10 tấn), biểu đồ (b) cho thấy nhà máy 2 giảm 7 tấn (giảm từ 15 – 7
= 8 tấn). Biểu đồ (c) biểu diễn đường MAC gộp, với MAC = $40 tổng lượng phát thải là 12 tấn/tháng.
Xây dự
ng đường MAC gộp bằng cách cộng theo chiều ngang các hàm chi phí giảm ô nhiễm biên của
từng nhà máy với các mức MAC khác nhau.

Barry Field & Nancy Olewiler
118
Giải ra ta được: E* = 10 tấn/tháng
Thế E* vào MAC hoặc MD ta có mức “giá” (chi phí giảm ô nhiễm biên, thiệt hại biên) làm
cân bằng 2 phương trình:

60 – 4(10) = $20.

Hình 5-6: Xác định mức phát thải
0
10

20
30
40
50
60
0246810121416
Chất thải (tấn/tháng)
$


Tại sao E* lại là mức phát thải hiệu quả xã hội? Hiệu quả xã hội nghĩa là có sự đánh đổi
giữa thiệt hại biên tăng lên với chi phí giảm ô nhiễm biên tăng lên. Lượng chất thải nhiều
hơn làm cho xã hội chịu nhiều chi phí thiệt hại môi trường hơn. Lượng chất thải giảm
nghĩa là xã hội phải bỏ ra nhiều chi phí giảm ô nhiễm hơn. Do đó mức phát thải hiệu quả
xã hội là mức tại đó hai loại chi phí này đền bù được cho nhau; nghĩa là chi phí giảm thiểu
biên bằng chi phí thiệt hại biên. Có phải mức phát thải hiệu quả xã hội luôn dương?
Không. Nếu đường MD và MAC không cắt nhau tại mức phát thải dương, mức phát thải
hiệu quả xã hội sẽ bằng 0. Độ dốc và hình dạng các đường MAC và MD quyết định mức
cân bằng.

Dựa trên quan điểm hiệu quả này, E* là điểm tốt nhất mà nền kinh tế có thể đạt được; xem
chứng minh dưới đây.

Tính toán giá trị xã hội ròng: cách chứng minh E* tối đa hóa giá trị xã hội ròng
E* là điểm tại đó lợi ích xã hội ròng từ việc giảm ô nhiễm được tối đa hóa (chi phí xã hội
từ việc kiểm soát ô nhiễm được tối thiểu hóa). Có thể dùng hình 5-6 hoặc tính toán tổng lợi
ích và chi phí để chứng minh điều này. Các bước thực hiện như sau:

1. Giả sử ban đầu không có biện pháp kiểm soát ô nhiễm. Như vậy có 15 tấn chất thải mỗi
tháng.

2. Tính tổng thiệt hại tại mức 15 tấn/tháng.

Bằng đồ thị: tổng thiệt hại là diện tích dưới đường MD giới hạn từ 0 đến 15 tấn. Trong
hình 5-6 là diện tích (a+b+c).
Cân bằng hiệu quả xã hội đạt được tại điểm đường MAC cắt đường MD. Lúc này E*=10 tấn phát
thải một tháng. Diện tích (a+b+c) = tổng thiệt hại tại mức phát thải ban đầu 15 tấn/tháng. Tại E*,
tổng thiệt hại bằng diện tích a và lợi ích ròng là diện tích (b+c). Tại E*, tổng chi phí giảm ô
nhiễm biên bằng diện tích b. Do đó, lợi ích xã hội ròng là diện tích (b+c) trừ b = diện tích c.
a
b
c
d
MAC
MD

Barry Field & Nancy Olewiler
119

Bằng số học: TD = $225 (1/2×[15×$30])
4


3. Tính tổng chi phí giảm ô nhiễm biên (TAC) tại mức 15 đơn vị phát thải.
TAC sẽ bằng 0 vì không có việc giảm ô nhiễm.

4. Tính chi phí xã hội ròng.
Chi phí xã hội ròng là sự chênh lệch giữa tổng thiệt hại và tổng chi phí giảm ô nhiễm (tại
mức 15 tấn là bằng $225).
Lặp lại từ đầu các bước này với mức phát thải hiệu quả xã hội mới giả sử là E*=10 tấn.


5. Tổng thiệt hại tại mức E* mới là diện tích a và bằng $100.
5


6. Tổng chi phí giảm ô nhiễm biên là diện tích b và bằng $50.

7. Tổng chi phí xã hội do đó bằng $100 + $50 = $150.

8. Tính sự chênh lệch tổng chi phí xã hội giữa hai mức phát thải. $150 rõ ràng thấp hơn
$225.

Phần tiết kiệm ròng là diện tích c = $75 so với trường hợp không kiểm soát ô nhiễm.

Xã hội tiết kiệm $75 bằng cách giảm ô nhiễm từ 15 tấn xuống 10 tấn. Đây là lợi ích xã hội
ròng do phát thải tại mức tối ưu xã hội so với trường hợp không kiểm soát ô nhiễm. Nhưng
làm thế nào chúng ta biết E* là điểm tốt nhất xã hội có thể đạt tới? Giả sử lượng phát thải
có thể giảm xuống bằng 0. Do đó tổng thiệt hại bằng 0. Tổng chi phí giảm ô nhiễm là diện
tích (a+b+d) = (1/2×$60×15) = $450, lớn hơn $150. Chọn bất cứ mức phát thải nào và tính
chi phí xã hội ròng ta đều có kết quả cao hơn kết quả tại E*.

Mô hình MAC-MD là mô hình lý thuyết cho phép chúng ta khảo sát nhiều trường hợp.
Trong thực tế, mọi vấn đề ô nhiễm đều khác nhau. Phân tích kiểu này cung cấp ph
ương
pháp tổng quát giải quyết bất cứ vấn đề ô nhiễm môi trường cụ thể nào. Thực tế mang tính
động và điều này rất đúng trong việc kiểm soát ô nhiễm môi trường. Mức phát thải tối ưu
năm ngoái hay thập niên trước không nhất thiết là mức tối ưu năm nay hay trong tương lai.
Có rất nhiều yếu tố tác động đến hàm thiệt hại biên và chi phí giảm ô nhiễm biên và khi bất
kỳ yếu tố nào thay đổi hàm số sẽ dịch chuyển và E* sẽ thay đổi.

Hiệu quả xã hội là một khái niệm chuẩn tắc. E*, mức phát thải cân bằng chi phí giảm ô

nhiễm và chi phí thiệt hại, chính là mục tiêu của các chính sách công. Nền kinh tế thực sẽ ở
tại mức E*? Điều này có thể không xảy ra nếu không có can thiệp của chính phủ. Trừ khi
chấp nhận chi phí thiệt hại gây ra cho xã hội, người gây ô nhiễm không có
động lực chi
tiêu làm giảm ô nhiễm. Họ đơn giản là sản xuất đến mức ô nhiễm tối đa. Phần 4 sẽ khảo sát
các chính sách và hành động làm người gây ô nhiễm bằng bất cứ công cụ gì giảm lượng
chất thải tới mức cân bằng hiệu quả xã hội.


4
Tìm ra chiều cao của tam giác bằng cách thế 15 đơn vị vào hàm MD, MD=2E, MD tại mức 15 tấn là $30.
5
Diện tích a = 1/2×(10×$20) = $100.

Barry Field & Nancy Olewiler
120
PHỤ LỤC: LIÊN KẾT GIỮA MAC VỚI TỐI ĐA HÓA LỢI NHUẬN

Mô hình đơn giản trong chương này tập trung vào tình huống thực tế trong đó người gây ô
nhiễm có thể đầu tư vào các công nghệ xử lý chất thải để giảm thải từ chính hoạt động của
họ. Chúng ta giả sử đường MAC tồn tại đối với người gây ô nhiễm. Chúng ta hãy nhìn một
cách tổng quát hơn vấn đề đánh đổi của người gây ô nhiễm để thấy đường MAC liên kết
thế nào với hành vi tối đa hóa lợi nhuận của công ty.

Công ty hoạt động trong ngành công nghiệp cạnh tranh hoàn hảo sẽ tối đa hóa lợi nhuận
khi giá thị trường, P, bằng với chi phí sản xuất biên, MC. Cho P = MC ta được sản lượng là
Q, được thể hiện trong phần trên của hình 5-7. Nhưng công ty cũng tạo ra chất thải. Phần
dưới hình 5-7 kết nối sản lượng với phát thải chất ô nhiễm (E). Khi không có biện pháp
kiểm soát môi trường, người gây ô nhiễm có thể tự do phát thải bao nhiêu tùy thích. Vậy
mức phát thải tối đa là bao nhiêu? Trong hình 5-7 công ty tối đa hóa sản lượng sẽ sản xuất

ở mức Q
0
đơn vị sản lượng, nghĩa là cũng thải ra E
MAX
đơn vị chất thải.

Với đường MC dốc lên, công ty có thể có lợi nhuận với tất cả các đơn vị sản xuất cho đến
Q
0
, là đơn vị sản lượng khi giá bằng MC. Lợi nhuận biên của công ty bằng (P – MC), và
lợi nhuận biên này lớn nhất khi sản xuất đơn vị đầu tiên với mức giá cố định P, sau đó
giảm cho đến khi P = MC tại điểm cân bằng cạnh tranh. Công ty có thể bị mất phần lợi
nhuận biên này nếu bị bắt buộc phải giảm sản lượng xuống dưới mức Q
0
do phải giảm phát
thải. Có thể hiểu đường MAC đại diện cho lợi nhuận bị mất của công ty do phải giảm phát
thải. Phần dưới hình 5-7 vẽ (P – MC) cho tất cả các mức sản lượng từ 0 đến Q
0
. Khoảng
cách a0 trong biểu đồ ở trên bằng b0 trong biểu đồ dưới. Đường MAC do đó có hình dạng
tương tự như đường MC của công ty, nhưng ngược lại.


Barry Field & Nancy Olewiler
121
Hình 5-7: Liên kết đường MAC với hoạt động tối đa hóa lợi nhuận

Giả sử bây giờ chính phủ ban hành chính sách môi trường yêu cầu công ty đưa chi phí thiệt
hại biên vào trong chi phí sản xuất. Đường thiệt hại biên (MD) trong biểu đồ dưới đại diện
cho chi phí này. Do đó ta cộng đường MD vào đường chi phí của công ty MC. Chi phí xã

hội của công ty bây giờ bằng MC + MD.
6
Với chi phí mới này, công ty tối đa hóa lợi
nhuận tại điểm P = MC + MD. Sản lượng Q* tạo ra lượng phát thải E*.
7
Cân bằng hiệu quả
xã hội trong thị trường là điểm giá thị trường của hàng hóa cân bằng với chi phí xã hội biên
của sản xuất, với chi phí xã hội bao gồm chi phí sản xuất biên và chi phí thiệt hại biên.

TÓM TẮT

Chương này phát triển một mô hình kiểm soát ô nhiễm đơn giản. Mô hình này dựa trên
khái niệm đánh đổi giữa thiệt hại môi trường và chi phí kiểm soát ô nhiễm. Chúng ta đã
xem xét hàm thiệt hại biên. Hàm số này thể hiện thiệt hại xã hội biên từ các mức phát thải
khác nhau hoặc các mức độ tích tụ ô nhiễm khác nhau trong môi trường. Chúng ta cũng
xem xét chi phí giảm ô nhiễm biên cho từnng nguồn phát thải và cho một nhóm nguồn.
Bằng cách kết hợp hai hàm số này, chúng ta xác định được mức phát thải tối ưu xã hội.
Mức phát thải tối ưu xã hội là mức mà thiệt hại biên và chi phí ô nhiễm biên bằng nhau.

6
Chương 4, hình 4-3 cũng đã nhắc đến định nghĩa chi phí xã hội này. Phần phụ lục này nhằm kết nối chi phí
xã hội biên vào hình MAC-MD.
7
Cũng chú ý rằng khoảng cách cd trong biểu đồ trên bằng khoảng cách cd trong biểu đồ dưới, đều là chênh
lệch giữa chi phí biên và thiệt hại biên tại mức phát thải hiệu quả xã hội E* và sản lượng Q*.
Sản lư

n
g



n
g

p
hát thải
Q
0
Q
*
E
MAX
E*
0
P
MAC
b

e
MD
f
MC
MC + MD
c
d
0
P
a
Các công ty cạnh tranh thường bỏ qua chi phí thiệt hại từ chất thải họ sản xuất ra và tối đa hóa
lợi nhuận khí giá hàng hóa bằng chi phí sản xuất biên. Với tất cả đơn vị sản lượng từ 0 đến Q

0
,
công ty nhận được lợi nhuận biên là hàm số dốc xuống như trong biểu đồ dưới. giả sử một đơ
vị sản lượng tạo ra một đơn vị chất thải, lợi nhuận biên thể hiện đường MAC của công ty. Nếu
phải giảm ô nhiễm, chi phí giảm ô nhiễm chính là lợi nhuận bị mất. Nếu yêu cầu công ty tính
thiệt hại do ô nhiễm thành một yếu tố c
ủa chi phí sản xuất, đường MD sẽ được cộng với MC
và công ty sẽ phát thải tại mức E*

Barry Field & Nancy Olewiler
122
Tại mức phát thải này, chi phí xã hội ròng – tổng chi phí giảm ô nhiễm và chi phí thiệt hại
– là thấp nhất.

Tuy nhiên cũng cần chú ý rằng mô hình phát triển trong chương này rất đơn giản và chứa
đựng rủi ro vì đã đơn giản hóa các vấn đề ô nhiễm trong thực tế. Thật sự có rất ít ví dụ
kiểm soát ô nhiễm môi trường cho thấy chúng ta chắc chắn biết các hàm thiệt hại biên và
chi phí giảm ô nhiễm biên. Thế giới tự nhiên quá phức tạp, chúng ta gặp rất nhiều khó
khăn để nhận dạng chính xác mối quan hệ giữa con người và tự nhiên. Thêm vào đó,
nguồn gây ô nhiễm có rất nhiều dạng, quy mô khác nhau, trong những hoàn cảnh kinh tế
khác nhau và do đó chúng ta sẽ tốn rất nhiều công sức chỉ để hiểu biết về những vấn đề
đơn giản về chi phí giảm ô nhiễm biên. Công nghệ kiểm soát ô nhiễm thay đổi rất nhanh,
do đó có thể công nghệ hiệu quả hôm nay lại lỗi thời ngày mai. Tuy nhiên, mô hình đơn
giản rất hữu hiệu để suy nghĩ về các vấn đề căn bản trong kiểm soát ô nhiễm. Trước khi
thảo luận các vấn đề chính sách phức tạp, chúng ta nên học cách các nhà kinh tế cố gắng
đo lường và khảo sát chi phí giảm ô nhiễm biên và thiệt hại biên trong những trường hợp
thay đổi chất lượng môi trường cụ thể.

CÁC THUẬT NGỮ CHÍNH


Chi phí giảm ô nhiễm Khái niệm chuẩn tắc
Hàm thiệt hại theo mức độ tích tụ Công nghệ kiểm soát ô nhiễm
Hàm thiệt hại Kinh tế học thực chứng
Chi tiêu bảo vệ Ngưỡng
Hàm giảm ô nhiễm biên Tổng chi phí giảm ô nhiễm
Hàm thiệt hại biên Tổng thiệt hại

BÀI TẬP

1. Cho MAC
1
= 100 – 10E và MAC
2
= 50 – 10E. Vẽ từng hàm số và đường MAC gộp.
Cho MD = 30E, xác định điểm cân bằng hiệu quả xã hội. Với các phương trình trên,
giả sử chính phủ quy định mức phát thải là 4 đơn vị. Chi phí xã hội ròng của chính sách
này là bao nhiêu?

2. Giả sử có sự thay đổi công nghệ làm giảm chi phí giảm ô nhiễm biên của nhà máy 1 ở
trên bằng chi phí biên của nhà máy 2. Sự thay đổi này làm ảnh hưởng đến mức phát
thải hiệu quả xã hội như thế nào? Giải bằng đồ thị và số học.

3. Khi có quy định kiểm soát ô nhiễm, chính phủ phải chịu chi phí thực thi như là một
phần chi phí xã hội. Giả sử chi phí thực thi là khoản cố định, độc lập với lượng ô nhiễm
giảm được. Điều này làm điểm cân bằng hiệu quả thay đổi như thế nào? Giải thích
bằng đồ thị.

CÂU HỎI THẢO LUẬN

1. Các nhà khoa học khám phá ra rằng thiệt hại biên tăng theo hàm mũ với mức phát thải.

Điều này làm thay đổi cách tính toán tổng thiệt hại như thế nào khi không áp dụng
công nghệ giảm ô nhiễm.

2. Nguyên tắc cân bằng biên liên hệ như thế nào với mức sản lượng hiệu quả xã hội?

3. Giải thích tại sao xã hội muốn tối thiểu hóa chi phí xã hội ròng (tối đa hóa giá trị xã hội
ròng) khi chọn mức phát thải.


Barry Field & Nancy Olewiler
123
CHƯƠNG 6
KHUNG PHÂN TÍCH


Các quyết định chính sách đòi hỏi thông tin, và mặc dù thông tin tốt sẵn có không có nghĩa
là sẽ có quyết định tốt, việc không có thông tin luôn luôn dẫn đến quyết định sai lầm. Có
nhiều cách thu thập và trình bày thông tin có ích cho người làm chính sách với những quy
trình phân tích và nghiên cứu khác nhau. Chúng ta tập trung vào phân tích lợi ích chi phí
như một khung liên kiết những mô hình lý thuyết đã được trình bày trong những chương
trước với các phương pháp đo lường thực tế. Chương này sẽ kết thúc bằng phần thảo luận
vắn tắt về các khung phân tích thay thế.

PHÂN TÍCH LỢI ÍCH CHI PHÍ

Phân tích lợi ích - chi phí dành cho khu vực công và việc đánh giá giá trị xã hội, trong khi
phân tích lời – lỗ dành cho doanh nghiệp thuộc khu vực tư nhân. Nếu một doanh nghiệp
sản xuất ô tô muốn đưa ra một mẫu xe mới, nó sẽ cần đến những thông tin liên quan đế lợi
nhuận sẽ thay đổi như thế nào. Mục chi phí có thể bao gồm tất cả các khoản chi phí sản
xuất và phân phối: lao động, nguyên liệu thô, nhiên liệu, thiết bị kiểm soát chất thải, vận

chuyển, v.v. Các khoản thu bao gồm tất cả những “lợi ích” được tính toán theo giá thị
trường nhân với lượng sản phẩm bán ra. Doanh nghiệp khi đó sẽ so sánh doanh thu kỳ
vọng với chi phí dự đoán để xem xét có nên đưa ra mẫu xe mới hay không. Phân tích lợi
ích - chi phí là công việc tương tự dành cho các chương trình của khu vực công. Có hai sự
khác biệt quan trọng giữa phân tích lợi ích - chi phí và các quyết định đầu tư tư nhân:

1. Phân tích lợi ích - chi phí là công cụ giúp đưa ra các quyết định chính sách công – tức
là nên thực hiện chính sách hay chương trình nào – đứng trên quan điểm của xã hội nói
chung chứ không phải đứng trên quan điểm của một doanh nghiệp nào đó.

2. Phân tích lợi ích chi phí đánh giá dưới góc độ xã hội tất cả nhập lượng và xuất lượng
liên quan đến dự án bất kể các giá trị này có được trao đổi trên thị trường tư nhân hay
không.

Một thách thức quan trọng đối với phân tích lợi ích - chi phí là làm thế nào để đánh giá các
chi phí và lợi ích không có giá cả thị trường. Thông tin về giá cả thị trường, chi phí và lợi
nhuận là rất quan trọng đối với qui trình này; nó cung cấp những thông tin hữu ích về giá
trị đối với các cá nhân. Những kỹ thuật phát triển cho phân tích lợi ích - chi phí bắt đầu với
những giá trị cá nhân và tính toán các giá trị xã hội khi có sự chênh lệch giữa hai giá trị
này, như thường thấy trong các vấn đề môi trường. Chương 7 và 8 sẽ xem xét các kỹ thuật
đánh giá giá trị xã hội. Chương này sẽ trình bày phương pháp tiến hành phân tích lợi ích -
chi phí, giả sử rằng tất cả các lợi ích và chi phí đã được đo lường.

Phân tích lợi ích - chi phí có hai loại ứng dụng có quan hệ mật thiết với nhau. Đầu tiên là
giữa những nhà thực hành, những nhà kinh tế học trong và ngoài khu vực công, những
người đã phát triển các kỹ thuật, cố gắng thu thập những thông tin tốt hơn và mở rộng
phạm vi phân tích. Thứ hai là giữa những nhà chính trị và những nhà quản lý, những người
lập nên các quy tắc và quy trình sử dụng phân tích lợi ích - chi phí cho việc ra các chính
sách công. Ở Canada, phân tích lợi ích - chi phí chưa được thừa nhận về mặt pháp lý để có
thể sử dụng cho các cơ quan nhà nước ở cấp liên bang và tỉnh. Nó được dùng một cách


Barry Field & Nancy Olewiler
124
ngẫu nhiên, cho những quan tâm riêng có tính chính trị chứ không phải là một kỹ thuật
dùng cho việc ra chính sách một cách khách quan. Ngược lại, ở Hoa Kỳ phân tích lợi ích -
chi phí có một lịch sử pháp lý mạnh hơn nhiều. Nó được bắt buộc dùng cùng với Đạo luật
kiểm soát lũ năm 1936. Đạo luật này quy định rằng những dự án ở cấp liên bang chỉ đáng
thực hiện nếu “những lợi ích tạo ra cho bất kỳ ai lớn hơn chi phí ước tính”. Người ta đã
thiết lập cá quy trình nhằm đo lường lợi ích và chi phí để xác định liệu các dự án đập kiểm
soát lũ và xây dựng đê điều có thoả mãn tiêu chuẩn trên. Quy trình này đã được thực hiện
trong nhiều năm, và mặc dù vậy, hiện nay những kỹ thuật đo lường chi phí và lợi ích
không có giá vẫn đang được phát triển.

Vẫn còn có nhiều tranh cãi về vị trí và vai trò của phân tích lợi ích - chi phí trong việc ra
các quyết định về môi trường và tài nguyên thiên nhiên. Có một số ý kiến phê phán
phương pháp này, đó là:

• Các cơ quan công cộng chỉ dùng phân tích lợi ích - chi phí theo cách giúp cho họ
nhận được kinh phí nhiều hơn.

• Phân tích lợi ích - chi phí thật sự là sự cố gắng bỏ qua quy trình thảo luận và các
quyết định chính sách mà các dự án và chương trình công cộng nên tuân theo.

• Phân tích lợi ích - chi phí là một cách loại bớt các chương trình công cộng do
những khó khăn trong đo lường lợi ích so với chi phí

Có thể tìm thấy nhiều ví dụ ủng hộ những luận điểm trên. Có lẽ do những vấn đề này mà
chính phủ Canada không sử dụng rộng rãi phân tích lợi ích - chi phí. Có một số chương
trình được đánh giá theo quan điểm phân tích lợi ích - chi phí; ví dụ như việc xem xét dự
án đường ống dẫn gas Mackenzie Valley vào giữa thập niên 1970 (đã không được thực

hiện), và những dự án phát triển nguồn lực ở Brishtish Columbia (như Northeast Coal, đã
được thực hiện). Nhưng trong những năm gần đây, các cơ quan chính phủ ít thực hiện phân
tích phân tích lợi ích - chi phí. Mặc dù vậy, phân tích lợi ích - chi phí vẫn là một công cụ
phân tích quan trọng được sử dụng rộng rãi trên thế giới. Và trong khi các nghiên cứu phân
tích phân tích lợi ích - chi phí đầy đủ có thể không do chính phủ thực hiện, việc đo lường
các lợi ích và chi phí xã hội đã trở thành một bộ phận quan trọng trong việc quyết định các
chính sách công.

KHUNG PHÂN TÍCH CƠ BẢN

Phân tích lợi ích - chi phí liên quan đến việc đo lường, tổng hợp và so sánh tất cả các lợi
ích và chi phí của một dự án hay chương trình công cộng cụ thể. Có 4 bước quan trọng
trong phân tích lợi ích - chi phí:

1. Nhận dạng dự án hay chương trình, bao gồm phạm vi và bối cảnh của nghiên cứu.
2. Mô tả theo hướng định lượng các nhân tố nhập lượng và xuất lượng của chương trình.
3. ước lượng các chi phí và lợi ích xã hội của các nhân tố này.
4. So sánh lợi ích và chi phí.

Mỗi bước sẽ được trình bày khái quát cùng với ví dụ trong phần sau.


Barry Field & Nancy Olewiler
125
Quy mô và quan điểm của một dự án hay một chương trình phân tích lợi
ích - chi phí

Phân tích lợi ích - chi phí là một công cụ phân tích chính sách công, nhưng từ “công” có
thể mang nhiều cấp độ. Nếu bạn thực hiện nghiên cứu phân tích lợi ích - chi phí cho một
cơ quan cấp quốc gia, từ “công” có nghĩa là toàn bộ người dân sống trong một nước.

Nhưng nếu bạn được một cơ quan hoạch định chính sách của một thành phố hay một vùng
thuê thực hiện phân tích phân tích lợi ích - chi phí cho một chương trình môi trường địa
phương, chắc chắn bạn sẽ phải tập trung vào những lợi ích và chi phí phát sinh cho người
dân trong vùng. ơỷ một thái cực khác, những vấn đề môi trường toàn cầu nảy sinh đòi hỏi
phải đặt phân tích trong bối cảnh toàn cầu.

Một khi phạm vi nghiên cứu được xác định, cần phải có một bảng mô tả chi tiết các yếu tố
chính của chương trình hay dự án: địa điểm, thời gian, các nhóm liên quan, mối liên kết
với các chương trình khác, v.v.

Có hai loại chương trình môi trường chính cần thực hiện phân tích lợi ích - chi phí:

1. Các dự án sản xuất: liên quan đến việc sản xuất trực tiếp các dịch vụ công, ví dụ như
nhà máy xử lý rác, dự án phục hồi bãi biển, lò thiêu rác thải độc hại, dự án cải thiện
môi trường sống, mua đất cho công tác bảo tồn.

2. Các chương trình quản lý: nhằm mục đích thi hành quy định pháp luật về môi trường,
như các tiêu chuẩn xả thải, lựa chọn công nghệ, các cách thức xả thải, và các quy định
về sử dụng đất.

Làm thế nào để xác định phạm vi của dự án? Có nhiều cách tiếp cận khác nhau để giải
quyết vấn đề này. Cách tiếp cận chính là liên kết phân tích lợi ích - chi phí với mô hình lý
thuyết, đó là quy mô hiệu quả về mặt xã hội.

Quy mô hiệu quả về mặt xã hội tối đa hóa lợi ích xã hội ròng của dự án. Lợi ích
xã hội ròng được tối đa hóa khi MAC = MD.

Hãy xem Hình 6-1 (là Hình 5-6 ở chương trước). Hình này biểu diễn mô hình kiểm soát
lượng chất thải điển hình, với đường thiệt hại biên (MD) và đường chi phí giảm ô nhiểm
biên. Đồ thị này có thể được dùng để chứng minh rằng quy mô hiệu quả về mặt xã hội sẽ

tối đa hóa lợi ích xã hội ròng tại điểm MAC = MD.


Barry Field & Nancy Olewiler
126
Hình 6-1: Quy mô hiệu quả xã hội của một dự án công

Quy mô hiệu quả về mặt xã hội của dự án giảm lượng chất thải được xác định tại nơi đường MAC cắt
đường MD. Tức là E *=10 tấn chất thải mỗi tháng. Quy mô hiệu quả về mặt xã hội tối đa hóa lợi ích
xã hội ròng của dự án – diện tích a + d. Nếu mục tiêu của dự án là giảm xuống còn 12 tấn, lợi ích xã
hội ròng chỉ là diện tích a. Đây không phải là quy mô hiệu qu
ả về mặt xã hội.

Chứng minh

Trước tiên giả sử không có biện pháp kiểm soát chất thải: E = 15. Một chương trình được
đề xuất để giảm lượng xả thải xuống còn 12 tấn. Tại lượng xả thải 12 tấn, tổng lợi ích của
chương trình chính là lượng thiệt hại được giảm xuống. Đó là diện tích a + b = $81
8
. Tổng
chi phí xử lý là diện tích b = $18
9
. Do vậy, lợi ích ròng của chương trình là diện tích a =
$63.

Tuy nhiên, để có một chương trình giảm thải đạt mức lợi ích ròng tối đa, mức thải phải
giảm xuống còn E = 10 tấn, tại mức mà MD = MAC. Lợi ích xã hội ròng tại mức thải 10
tấn là diện tích (d+a) = $75
10
. Lợi ích ròng khi đạt quy mô hiệu quả về mặt xã hội 10 tấn

thay vì 12 tấn là diện tích d, bằng $12. Con số có thể không lớn, nhưng thử tưởng tượng đó
là 12 triệu đôla để hình dung rõ hơn con số trên thực tế.

Vấn đề của việc phân tích lợi ích - chi phí một dự án cụ thể là làm thế nào để người ra
quyết định biết rằng mức phát thải 10 tấn là mức hiệu quả về mặt xã hội? Nếu họ có thể vẽ
hoặc viết phương trình MAC và MD, việc tính E * sẽ dễ dàng như Hình 6-1 đã minh họa.
Khi không xác định được MAC và MD, có thể thực hiện một quy trình gọi là phân tích độ
nhạy. Có nghĩa là tính toán lại lợi ích và chi phí tại mức cao hơn và thấp hơn mức mục tiêu
đã lựa chọn; điều này có nghĩa là phải tính lợi ích xã hội ròng của những chương trình với
mức phát thải khác nhau để xác định xem mức nào tối đa lợi ích xã hội ròng.


8
Cách đơn giản để tính diện tích a + b là tính khoản chênh lệch giữa tổng thiệt hại tại mức thải ban đầu 15
tấn và tổng thiệt hại tại mức thải 12 tấn. Đây là phần chênh lệch giữa hai tam giác. Tại mức 15 tấn, MD =
$30/đơn vị. Có thể tính bằng cách dùng hàm số của hàm thiệt hại biên MD = 2E. tổng thiệt hại ở mức 15 tấn
là $225. Tại mức 12 tấn, MD = $24/đơn vị. Tổ
ng thiệt hại là $144. Khoản chênh lệch là $81.
9
Tại mức thải 12 tấn, MAC trên đơn vị là $12. Có thể tính được con số này bằng cách thay 12 vào hàm MAC
= 60 – 4E. Diện t1ch b khi đó là phần chênh lệch giữa mức thải 12 và 15 tấn.
10
Cách đơn giản nhất để tính lixar là tính phần thay đổi trong tổng thiệt hại (TD) do chương trình, trừ đi phần
thay đổi trong tổng chi phí xử lý (TAC). Tại E * = 10, thay đổi trong TD là diện tích (a+b+c+d), bằng $125
(TD tại E = 15 là $225, TD tại E = 10 là $100). Thay đổi trong TAC là diện tích (c+b), bằng $50. lợi ích xã
hội ròng là (a+d). bạn có thể chứng minh lợi ích xã hội ròng là tối đa tại MD = MAC.
Tấn phát thải
24 6 8
10
14

10
20
30
50
40
a
0
d
60
12 16
c
b
MD
MAC
$
E*

Barry Field & Nancy Olewiler
127
Mô tả nhập lượng và xuất lượng của chương trình

Bước tiếp theo là xác định các dòng nhập lượng – chi phí của chương trình hay dự án và
xuất lượng – lợi ích. Đối với một số dự án thì điều này khá dễ dàng. Nếu lập kế hoạch xây
dựng một nhà máy xử lý nước thải, chúng ta sẽ phải cung cấp đầy đủ các đặc tính kỹ thuật
của nhà máy, cùng với các nhập lượng cần thiết để xây dựng và vận hành nó. Xuất lượng
cũng phải được xác định rõ – tức là lượng nước sẽ được xử lý hàng ngày hay hàng năm.
Đối với những dự án khác, việc này sẽ khó hơn nhiều, bởi vì cả nhập lượng và xuất lượng
đều khó lượng hóa, ví dụ như một chương trình thông tin để thông báo cho công chúng về
cường độ sử dụng năng lượng của các thiết bị gia dụng hoặc làm việc với ngành công
nghiệp về những chương trình phòng chống ô nhiễm. Một yếu tố quan trọng trong việc đo

lường nhập lượng và xuất lượng là vấn đề thời gian. Hầu hết các dự án liên quan đến môi
trường thường không chỉ diễn ra trong 1 năm mà thường kéo dài rất lâu. Nhà phân tích
phải dự đoán các giá trị trong từng năm trong suốt vòng đời của dự án.

Đo lường lợi ích và chi phí của chương trình

Bước tiếp theo là tính giá trị dòng nhập lượng và xuất lượng, tức là đo lường lợi ích và chi
phí. Các nhà kinh tế học đo lường lợi ích và chi phí bằng tiền. Như đã trình bày ở trên, điều
này không có nghĩa là phải dựa vào giá trị thị trường, bởi vì trong nhiều trường hợp các lợi
ích và chi phí không được trao đổi trên thị trường. Điều này cũng không hàm ý rằng các
giá trị bằng tiền được sử dụng theo một cách thức cơ bản nào đó. Đơn vị tiền tệ cung cấp
một thước đo duy nhất mà theo đó chúng ta có thể chuyển đổi tất cả các tác động của dự án
để từ đó các lợi ích và chi phí có thể so sánh với nhau và so với các dự án khác. Đơn vị đo
lường bằng tiền rất hữu ích trong việc ra quyết định về chính sách: chẳng hạn khi quyết
định có nên thực thi một khoản thuế môi trường trong năm tài chính tiếp theo của liên bang
hay không, Bộ Tài chính cần biết giá trị bằng tiền của tất cả các khoản lợi ích và chi phí so
với những lựa chọn khác. Như Chương 7 và 8 sẽ trình bày, thông thường rất khó đo lường
giá trị bằng tiền các tác động môi trường của một dự án. Đôi khi những nhà phân tích giỏi
nhất cũng chỉ có thể đưa ra một ước lượng tương đối (đoán?) của những tác động.

So sánh lợi ích và chi phí

Làm thế nào để so sánh các lợi ích và chi phí? Các nguyên tắc khá đơn giản:

• Tính lợi ích ròng (NB) của dự án hay chương trình

Lợi ích ròng là phần chênh lệch giữa tổng lợi ích và tổng chi phí. Tổng lợi ích
là tổng thiệt hại được giảm đi (phần nằm dưới đường MD), và tổng chi phí là
tổng chi phí xử lý phải gánh chịu thêm (phần diện tích nằm dưới đường
MAC).

11


• Nếu dự án kéo dài hơn một năm, chúng ta phải chiết khấu các chi phí và lợi ích tương
lai trước khi tính lợi ích ròng. Phần tiếp theo sẽ trình bày phương pháp chiết khấu.


11
Xin nhớ rằng chi phí xử lý bao gồm toàn bộ chi phí mà người gây ô nhiễm phải chịu nhằm giảm lượng
phát thải. Bao gồm chi phí thiết bị xử lý, lợi nhuận giảm xuống do giảm sản lượng (nếu có), chuyển công
nhân từ sản xuất sang quản lý chất thải Tổng thiệt hại đo lường toàn bộ tác động của chất thải đối với con
người và môi trường. khi đo lường giá trị
thiệt hại đối với con người, thước đo thường được dùng là giá sẵn
lòng trả để giảm lượng chất thải.

Barry Field & Nancy Olewiler
128
• Nếu có nhiều hơn một dự án có thể giúp đạt được cùng một mục tiêu, chúng ta phải
chọn chương trình /dự án đem lại lợi ích lớn nhất, trong điều kiện ràng buộc về ngân
sách của chính phủ.

Chúng ta sẽ minh họa những nguyên tắc này bằng những ví dụ phức tạp dần. Trước tiên,
chúng ta sẽ xem cách tính lợi ích ròng khi chỉ xem xét một dự án và không cần chiết khấu,
sau đó chúng ta sẽ xem xét một trường hợp có nhiều phương án giải quyết cùng một vấn
đề, và phải lựa chọn một phương án. Cuối cùng, chúng ta sẽ xem xét điều gì xảy ra khi
chính phủ chịu ràng buộc về ngân sách.

Cách tính lợi ích ròng

Ví dụ: Chương trình kiểm soát chất thải từ nhà máy giấy


Chính phủ đang cân nhắc việc thông qua một quy định mà theo đó đòi hỏi tất cả các nhà
máy giấy giảm lượng chất thải ra không khí và nước. Những chất thải này làm giảm chất
lượng nước ở khu vực hạ lưu và góp phần làm ô nhiễm nghiêm trọng bầu không khí xung
quanh nhà máy. Tổng chi phí và lợi ích ước tính sau đây là tổng giá trị trong suốt vòng đời
chương trình. Chi phí của chương trình bao gồm các chi phí của khu vực tư nhân để kiểm
soát lượng chất thải đáp ứng yêu cầu của quy định mới: 580 triệu đôla mua máy móc thiết
bị và 560 triệu đôla chi phí vận hành. Các hoạt động quan trắc và cưỡng chế thi hành từ
phía khu vực công cũng cần thiết để đảm bảo các doanh nghiệp tuân thủ quy định này.
Tổng chi phí này là 96 triệu đôla. Tổng chi phí của chương trình sẽ là (580 + 560 +96) =
$1.236 triệu. Có ba khoản lợi ích chính. Những người ở khu vực hạ lưu sẽ được hưởng lợi
từ việc chất lượng nước được cải thiện: giá sẵn lòng trả của họ cho lợi ích này là 1.892
triệu đôla. Những chủ nông trại xung quanh nhà máy giảm được 382 triệu đôla thiệt hại về
mùa màng và vật nuôi do ô nhiễm không khí gây ra. Do đó, lợi ích của họ là phần thiệt hại
được giảm đi. Cuối cùng, có những lợi ích không nhìn thấy được như cải thiện môi trường
sống của nhiều sinh vật. Giả sử không có cách nào đo lường giá trị bằng tiền của lợi ích
này, do vậy chỉ biểu diễn nó bằng một giá trị A nào đó. Tổng lợi ích của chương trình là
(1892 + 382 + A) = 2.278 + A (triệu đôla).

Tổng lợi ích và chi phí có thể được so sánh theo nhiều cách. Một cách đơn giản là lấy tổng
lợi ích trừ tổng chi phí. Đây là phần biểu diễn bằng số mà Hình 6-1 đã trình bày: chúng ta
tìm ra lợi ích ròng tối đa của chương trình để đạt được điểm cân bằng hiệu quả về mặt xã
hội. Lợi ích ròng là (2278 + A – 1236) = 1.042 + A (triệu đôla). Đây là cách cơ bản để so
sánh l
ợi ích và chi phí, và là phương pháp mà chúng ta sẽ dùng trong tất cả các trường hợp
khác.

Một tiêu chí khác là tỷ số lợi ích – chi phí, được tính bằng cách lấy lợi ích chia cho chi phí.
Tỷ số này cho biết dự án sẽ đem lại bao nhiêu đồng lợi ích từ mỗi đôla chi phí. Trong ví dụ
này, tỷ số lợi ích – chi phí là (2278/1236) = 1,8, cộng với A. Có một vấn đề quan trọng

trong tỷ số lợi ích – chi phí. Quy mô hiệu quả về mặt xã hội của dự án mà chúng ta cho là
quy mô thích hợp nhất không phải là quy mô có tỷ số lợi ích – chi phí cao nhất. Hãy xem
lại Hình 6-1. Tại mức E * = 10, tỷ số lợi ích – chi phí là (a+b+c+d)/(b+c) = (125/44) = 2,
84. Tại mức 12 tấn chất thải, tỷ số lợi ích – chi phí là (a+b)/b=4, 5. Tỷ số lợi ích – chi phí
cao hơn ở mức E = 12 vì nó phụ thuộc vào tỷ lệ tương đối giữa tổng lợi ích và chi phí của
dự án, chứ không phụ thuộc vào lợi ích ròng. Nhưng, như chúng ta đã lập luận, lợi ích ròng
chứ không phải là tổng lợi ích mới là quan trọng đối với xã hội. Tỷ số lợi ích – chi phí ít

Barry Field & Nancy Olewiler
129
nhất có thể được dùng để đảm bảo rằng lợi ích lớn hơn chi phí. Tuy nhiên nó có thể là một
chỉ số dẫn đến sai lầm trong việc xác định quy mô của các chương trình công.

Chiết khấu và lựa chọn giữa các dự án có cùng mục tiêu chính sách

Điều gì sẽ xảy ra nếu có nhiều phương án giúp đạt cùng một mục tiêu? Chúng ta sẽ sử
dụng những quy tắc nào để lựa chọn một phương án? Điều gì xảy ra nếu mỗi phương án có
những lợi ích và chi phí diễn ra trong nhiều năm? Và khi đó, làm thế nào để tính lợi ích
ròng? Chúng ta sẽ trả lời những câu hỏi này thông qua ví dụ sau.

Ví dụ: Đầu tư nâng cấp hệ thống xử lý nước thải đô thị
12


Giả sử mục đích của chúng ta là cải thiện chất lượng nước bằng cách đầu tư nâng cấp hệ
thống xử lý nước thải của cộng đồng. Đây là một dự án công với 3 phương án xử lý khác
nhau, mỗi mức có dòng lợi ích và chi phí khác nhau. Đó là:

1. Xử lý bậc cao: nước sau xử lý sẽ không còn chất thải sinh hoạt, vi trùng hay vi khuẩn.
2. Xử lý thông thường: nước sau xử lý sẽ không còn chất thải sinh hoạt, nhưng có thể

chứa một số vi trùng hay vi khuẩn.
3. Xử lý sơ cấp: xử lý hầu hết chất thải sinh hoạt, nhưng có thể còn vi trùng hay vi khuẩn.

Phản ứng thông thường đối với 3 phương án trên là “Hãy thực hiện cách xử lý tốt nhất có
thể được”. Nhưng đó có phải là phương án hiệu quả nhất về mặt xã hội?

Bảng 6-1 trình bày lợi ích và chi phí của mỗi phương án. Các lợi ích và chi phí là khác
nhau cả về thời gian và độ lớn. Giả sử dự án kéo dài 6 năm. Trên thực tế những dự án loại
này có thể dài hơn, nhưng chúng ta dừng ở mức 6 năm để đơn giản hóa các phép tính. Năm
0 là thời điểm từ khi bắt đầu dự án đến hết năm đầu tiên. Mỗi phương án sẽ có chi phí xây
dựng do phải đầu tư thiết bị máy móc mới. Đối với hai phương án đầu, sẽ không có lợi ích
cho đến khi kết thúc giai đoạn xây dựng (năm 1) bởi vì nhà máy sẽ không hoạt động trước
khi xây dựng xong. Phương án xử lý sơ cấp có thể hoàn thành giai đoạn xây dựng nhanh
hơn và do đó đem lại lợi ích sớm hơn (năm 0). Năm 1 còn phát sinh một số chi phí khởi
động của các phương án, và trong những năm tiếp theo, các chi phí đều là chi phí vận
hành. Cũng xin lưu ý rằng lợi ích của mỗi phương án xử lý là khác nhau. Lợi ích của
phương án 1 tăng theo thời gian, trong khi các phương án khác là cố định sau khi nhà máy
hoạt động đầy đủ.

Bảng 6-1: Lợi ích và chi phí của 3 phương án nâng cấp hệ thống xử lý nước thải
Chi phí (triệu đô la /năm)
Dự án 0 1 2 3 4 5
Xử lý bậc cao 100 50 20 20 20 20
Xử lý thông thường 50 25 15 15 15 15
Xử lý sơ cấp 25 15 10 10 10 10
Lợi ích (triệu đô la/năm)
0 1 2 3 4 5
Xử lý bậc cao 0 50 50 70 80 80
Xử lý thông thường 0 50 50 50 50 50
Xử lý sơ cấp 10 20 20 20 20 20


12
Chúng tôi chọn một physical project để minh họa các nguyên tắc phân tích lợi ích - chi phí. Những nguyên
lý này cũng áp dụng đối với các dự án kiểm soát. Có thể thay thế ví dụ này bằng ví dụ khác, chẳng hạn như 3
chính sách giảm khí thải nhà kính. Mỗi chính sách có dòng lợi ích và chi phí khác nhau với dòng đời khác
nhau và có tác động đến các nhóm người khác nhau.

Barry Field & Nancy Olewiler
130
Nhiệm vụ của chúng ta trước tiên là tính lợi ích ròng. Khi chi phí và lợi ích khác nhau theo
thời gian, chúng ta phải chiết khấu trước khi tính tổng và so sánh. Chiết khấu có hai khía
cạnh: một là phương thức tiến hành, và sau nữa là những lý lẽ đằng sau việc lựa chọn suất
chiết khấu để sử dụng cho một trường hợp cụ thể.

Một khoản chi phí phát sinh trong năm 10 không có cùng ý nghĩa với khoản chi phí đó xảy
ra ngày hôm nay. Ví dụ, giả sử một người phải trả $1.000 ngay hôm nay. Để trả tiền, người
đó phải có $1.000 trong ngân hàng, hoặc trong túi. Mặt khác, giả sử người đó phải trả
$1.000 không phải ngay hôm nay mà là sau 10 năm. Nếu lãi suất ngân hàng là 5%/năm và
lãi suất này không thay đổi, người này có thể gửi $613, 91 vào ngân hàng ngày hôm nay và
số tiền này sẽ trở thành $1.000 sau 10 năm, cũng là lúc mà người này cần đến nó. Công
thức tính giá trị tương lai của số tiền này là:

$613,91(1+0,05)
10
= $1.000

Chúng ta có thể lật lại vấn đề và hỏi rằng: Giá trị hiện tại của $1.000 xảy ra vào năm thứ 10
là bao nhiêu? Giá trị hiện tại của nó là số tiền mà chúng ta phải gửi vào ngân hàng ngày
hôm nay để có được $1000 sau 10 năm, có thể tính bằng cách sắp xếp lại phương trình
trên:


Giá trị hiện tại = $1.000/(1+0,05)
10
= $613,91

Giá trị hiện tại được tính bằng cách chiết khấu chi phí tương lai sau 10 năm theo lãi suất,
còn gọi là suất chiết khấu, 5%. Nếu suất chiết khấu cao hơn, ví dụ 8%, giá trị hiện tại sẽ
thấp hơn và bằng $463, 2. Suất chiết khấu càng cao, giá trị hiện tại của một khoản chi phí
trong tương lai càng thấp.

Lợi ích cũng tương tự. Giả sử bạn mong đợi một người sẽ cho bạn một khoản tiền $100 sau
6 năm. Khoản tiền này sẽ không có giá trị tương đương với khoản $100 cho bạn ngay ngày
hôm nay. Nếu suất chiết khấu là 4%, giá trị hiện tại của khoản tiền mà người đó cho bạn là:
$100(1+0,04)
6
= $79,03.

Công thức chiết khấu tổng quát là:

Giá trị hiện tại = m/(1+r)
t


Với m là giá trị ở một thời điểm trong tương lai, r là lãi suất hay suất chiết khấu, và t là
thời điểm phát sinh giá trị trong tương lai. Giá trị hiện tại của một giá trị ở năm 0 trong ví
dụ của chúng ta là m /(1+r)
0
= m; ở năm 1 là m /(1+r), ở năm 2 là m /(1+r)
2
v.v. Nếu chúng

ta xem xét một dự án kéo dài mãi mãi, công thức tính giá trị hiện tại PV
13
đơn giản là PV =
m/r.

Ví dụ: áp dụng chiết khấu cho các phương án xử lý nước thải

Nhiệm vụ của chúng ta là tính lợi ích ròng cho mỗi giai đoạn, sau đó chiết khấu về năm 0
để từ đó tính dòng lợi ích ròng của dự án. Các bước này được tiến hành dưới đây và kết
quả được trình bày trong Bảng 6-2.


13
Công thức tính giá trị hiện tại với t lớn vô cùng sẽ hội tụ về m /r bởi vì [m/(1+r)
t
] là một dãy số nhân với
giá trị của mẫu số giảm dần.

Barry Field & Nancy Olewiler
131
1. Tính lợi ích ròng. Lợi ích ròng đơn giản là tổng lợi ích trong từng năm trừ đi tổng chi
phí của năm đó. Kết quả tính toán được trình bày ở phần trên của Bảng 6-2. Ví dụ, ở
năm 0, phương án 1 có tổng chi phí = $50, tổng lợi ích = 0, lợi ích ròng = -$50.

2. Tính PV của lợi ích ròng của từng năm. Lấy giá trị hiện hành chia cho thừa số chiết
khấu: 1/(1+r)
t
với r = 5% và t = 0, 1, 2, 3, 4, 5. Kết quả được trình bày ở phần bên dưới
Bảng 6-2. Ví dụ, ở năm 3, giá trị hiện tại của lợi ích ròng của phương án 3 là
$10/(1.05)

3
= $8.64.

3. Tính tổng các giá trị hiện tại của lợi ích ròng trong từng năm để có tổng lợi ích ròng
của mỗi phương án trong suốt vòng đời. Tính tổng hiện giá của dòng lợi ích ròng từ
năm 0 đến năm 5. Ví dụ, phương án 1 có tổng hiện giá PV = (-
100+0+27.21+43.19+49.36+47.01) = 66.7 triệu đôla.
14


Phương án xử lý thông thường rõ ràng là phương án có lợi ích ròng tối đa và là phương án
sẽ được lựa chọn theo các quy tắc phân tích lợi ích - chi phí. Lưu ý tại sao phương án này
được lựa chọn và phương án xử lý bậc cao có hiện giá ròng thấp hơn. Các chi phí không
được chiết khấu vì chúng xảy ra ở năm đầu tiên. Lợi ích tăng theo thời gian, nhưng bởi vì
các khoản lợi ích lớn hơn xảy ra ở những năm cuối (năm 4 và 5) nên hiện giá của chúng
thấp hơn so với dự án tạo ra các lợi ích nhỏ hơn nhưng ở những năm đầu. Phương án xử lý
thông thường rơi vào trường hợp này. Các giá trị của lợi ích đều nhỏ hơn so với lợi ích của
phương án xử lý bậc cao (50 triệu đô la), nhưng chúng phát sinh sớm hơn (bắt đầu từ năm
1), do đó xét theo giá trị hiện tại thì chúng đóng góp nhiều hơn vào tổng hiện giá ròng so
với những khoản lợi ích lớn hơn, nhưng phát sinh muộn hơn của phương án xử lý bậc cao.
Nhà máy xử lý thông thường cũng đòi hỏi ít vốn đầu tư và chi phí khởi động hơn so với
phương án xử lý bậc cao và do vậycũng góp phần vào giá trị hiện giá ròng nhiều hơn.
Phương án xử lý sơ cấp rõ ràng là không đáng mong muốn so với 2 phương án còn lại.
Trong khi chi phí đầu tư ban đầu là thấp, dòng lợi ích cũng quá nhỏ và không đủ để vượt
qua 2 phương án kia.

Bảng 6-2: Lợi ích ròng của 3 phương án nâng cấp hệ thống xử lý nước thải sinh hoạt: giá
trị hiện hành và giá trị hiện tại
Giá trị hiện hành của lợi ích ròng (triệu đô la /năm)
Dự án 0 1 2 3 4 5

Xử lý bậc cao -100 0 30 50 60 60
Xử lý thông thường -50 25 35 35 35 35
Xử lý sơ cấp -25 5 10 10 10 10
Giá trị hiện tại của lợi ích ròng (triệu đô la /năm) r=5%
0 1 2 3 4 5 Tổng PV
Xử lý bậc cao -100 0 27.21 43.19 49.36 47.01 66.77
Xử lý thông thường -50 23.81 31.75 30.23 28.79 27.42 92.00
Xử lý sơ cấp -15 4.76 9.07 8.64 8.23 7.84 23.54

Phân tích độ nhạy

Một vấn đề quan trọng trong phân tích lợi ích - chi phí là xem các kết quả này thay đổi như
thế nào khi thay đổi những giả định. Các giả định là cần thiết cho bất kỳ dự án nào. Hãy
xem xét 2 giả định cơ bản trong ví dụ của chúng ta:

1. Suất chiết khấu là 5%.

14
Những phép tính này có thể dễ dàng tiến hành trên một bảng tính.

×