Tải bản đầy đủ (.doc) (77 trang)

136 Kiểm toán chu trình Bán hàng - Thu tiền do Công ty TNHH Grant Thornton thực hiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (378.87 KB, 77 trang )

MỞ ĐẦU
Kiểm toán mới xuất hiện tại Việt Nam khoảng 15 năm và thực sự phát triển
khoảng 10 trở lại đây. So với thế giới, kiểm toán Việt Nam còn rất non trẻ. Tuy
vậy, kiểm toán đã và đang trở thành một ngành kinh tế độc lập đầy triển vọng của
nước ta, một công cụ đắc lực giúp quản lý Nhà nước, một ngành có đóng góp quan
trọng vào sự thịnh vượng nói chung của nề kinh tế quốc dân.
Trước những chính sách khuyến khích của Chính phủ, các công ty kiểm
toán đang có rất nhiều cơ hội phát triển, không kể công ty trong hay ngoài nước.
Thành lập năm 1993, Grant Thornton khi đó là một trong hai công ty nước ngoài
đầu tiên được cấp giấy phép hoạt động trong lĩnh vực kiểm toán tài chính ở nước
ta. Với bộ máy quản lý linh hoạt, am hiểu địa phương, đội ngũ nhân viên trẻ, nhiệt
tình, Công ty đang dần xây dựng được một hình ảnh tin cậy trong giới các doanh
nghiệp dịch vụ tư vấn tài chính kế toán và kiểm toán.
Được sự phân công của Nhà trường Kinh tế Quốc dân và sự đồng ý của
Công ty Grant Thornton, em đã có khoảng thời gian 3 tháng tìm hiểu thực tế tại
Phòng Kiểm toán của Công ty. Nhận thức được tầm quan trọng của chu trình Bán
hàng- Thu tiền trong kinh doanh nói chung và trong kiểm toán nói riêng, em đã lựa
chọn và thực hiện chuyên đề thực tập tốt nghiệp với đề tài: “Kiểm toán chu trình
Bán hàng- Thu tiền do Công ty TNHH Grant Thornton thực hiện”. Bài viết
gồm 3 phần:
Chương 1: Cơ sở lý luận về kiểm toán và kiểm toán chu trình Bán hàng- Thu
tiền.
Chương 2: Thực trạng kiểm toán chu trình Bán hàng- Thu tiền do Công ty
TNHH Grant Thornton Việt Nam thực hiện
Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện kiểm toán chu trình Bán
hàng- Thu tiền tại Công ty TNHH Grant Thornton Việt Nam
Đây là những tìm hiểu của bản thân em trong những ngày đầu tiếp xúc với
một môi trường kiểm toán chuyên nghiệp, vì vậy bài viết hẳn còn nhiều thiếu sót
và em rất mong nhận được sự chỉ bảo của các thày cô cũng như của các anh, chị
kiểm toán viên.
1


Để hoàn thành chuyên đề, em xin chân thành cảm ơn Thày giáo, PSG- TS
Ngô Trí Tuệ, người đã nhiệt tình hướng dẫn em trong quá trình thực tập. Em cũng
xin cảm ơn các anh, các chị Phòng Kiểm toán, Công ty TNHH Grant Thornton
Việt Nam đã tạo điều kiện mọi mặt cho em trong suốt thời gian thực tập tại Công
ty và khi thực hiện bài viết này.
Hà Nội, tháng 4 năm 2007
Sinh viên thực tập
Cao Thị Hồng Minh
2
CHƯƠNG 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KIỂM TOÁN VÀ KIỂM TOÁN CHU
TRÌNH BÁN HÀNG- THU TIỀN
1.1. Khái quát chung về kiểm toán
1.1.1. Các quan điểm về kiểm toán
Trong lịch sử hình thành và phát triển văn minh nhân loại, loài người xưa
nay vẫn có xu hướng quan tâm đến các hoạt động quản lý kinh doanh cũng như vai
trò của việc kiểm soát quá trình quản lý. Các nhà khoa học khẳng định rằng, cách
đây 6000 năm, loài người đã biết sử dụng hình thức tính toán trong các hoạt động
của mình. Nhiều quy trình dược coi là nền tảng của việc hình thành nên các chuẩn
mực tính toán đã được các nhà khoa học, triết học thời cổ đại dày công nghiên
cứu như Platon, Aristotle… Các tài liệu đầu tiên liên quan đến lĩnh vực kiểm toán
được tìm thấy trong thư viện của Cục Ngân khố Hoàng gia Anh. Các tài liệu này
cho chúng ta thấy rằng, hoạt động kiểm toán đã hình thành ngay từ những năm
1130- 1200.
Từ thế kỷ 18, các tổ chức kiểm toán đã được thành lập với mục đích bảo vệ
và duy trì quyền lợi của các đế chế cầm quyền. Năm 1714 ở Đức, dưới thời vua
Phổ- Friedrich Wilhelm I, Sắc lệnh thành lập phòng thẩm kế tối cao đã được ban
hành. Năm 1807, dười thời Hoàng đế Napoleon I tại Pháp, Toà thẩm kế (Cour des
comptes) cũng được thành lập. Năm 1867, ở Nga, trong danh mục các tước quan
quan trọng nhất có hẳn một chương mục dành để mô tả vị trí kiểm toán viên-

những người có hàm vị trong lực lượng quân đội. Theo thời gian, cùng với những
biến động của lịch sử và kinh tế, hình ảnh một kiểm toán viên đã không còn gói
gọn trong màu áo nhà binh nữa và suy nghĩ của con người về thuật ngữ kiểm toán
đã có nhiều thay đổi. Cho đến tận ngày nay, thuật ngữ kiểm toán được hình thành
theo nhiều kiểu khác nhau, và theo thời gian, kiểm toán đã trở thành công cụ đắc
lực của chính quyền các quốc gia trong việc quản lý hoạt động tài chính của các
công ty, doanh nghiệp hoạt động trong lãnh thổ quốc gia đó.
Thuật ngữ kiểm toán mới chỉ thực sự xuất hiện và được sử dụng ở nước ta
từ hơn một chục năm cuối thế kỷ XX. Trong quá trình đó, cách dùng và cách hiểu
3
khái niệm này còn chưa thống nhất. Cho đến nay, có thể khái quát các cách hiểu về
kiểm toán theo 3 loại quan điểm như sau:
Theo quan điểm thứ nhất, kiểm toán được hiểu theo đúng ý nghĩa thời cuộc
của nó: phát sinh cùng với cơ chế thị trường. theo đó, kiểm toán có thể được hiểu
là “sự kiểm tra độc lập và là sự bày tỏ ý kiến về những bản khia tài chính của một
xí nghiệp do một kiểm toán viên được bổ nhiệm để thực hiện những công việc đó
theo đúng với bất cứ nghĩa vụ pháp định có liên quan” (“Giải thích các chuẩn
mực kiểm toán”- Vương quốc Anh). Kiểm toán cũng có thế được hiểu là “một quá
trình mà qua đó một người độc lập, có nghiệp vụ tập hợp và đánh giá rõ ràng về
thông tin có thể lượng hoá có liên quan đến một thực thể kinh tế riêng biệt nhằm
mục đích xác định và báo cáo mức độ phù hợp giữa thông tin có thể lượng hoá với
những tiêu chuẩn đã được thiết lập” ( quan điểm của các chuyên gia kiểm toán
Hoa Kỳ) hay “là việc nghiên cứu và kiểm tra các tài khoản niên độ của một tổ
chức do một người độc lập, đủ danh nghĩa gọi là kiểm toán viên tiến hành để
khẳng định rằng những tài khoản đó phản ánh đúng đắn tình hình tài chính thực
tế, không che dấu sự gian lận và chúng được trình bày theo mẫu chính thức của
luật định” (Quan niệm trong giáo dục và đào tạo kiểm toán ở Cộng hoà Pháp). các
định nghĩa trên tuy có khác nhau về mặt hình thức nhưng chung quy đều bao hàm
5 yếu tố cơ bản:
-Chức năng của kiểm toán: xác minh và bày tỏ ý kiến. Đây là vấn đề chính,

cơ bản, chi phối cả quá trình kiểm toán và bộ máy kiểm toán.
-Đối tượng trực tiếp của kiểm toán: là các bảng khai tài chính của các tổ
chức hay một thực thể kinh tế.
-Khách thể kiểm toán: là thực thể kinh tế hay một tổ chức (một công ty,
một đơn vị, hay một cá nhân).
-Chủ thể kiểm toán: là những kiểm toán viên độc lập, có nghiệp vụ.
-Cơ sở thực hiện kiểm toán: là những luật định, tiêu chuẩn hay những
chuẩn mực chung. Các chuẩn mực này được giải thích với khái niệm rộng bao
gồm cả trong lĩnh vực kế toán và kiểm toán hoặc rộng hơn tuỳ theo từng cuộc
kiểm toán.
4
Theo quan điểm thứ hai, kiểm toán được đồng nghĩa với việc kiểm tra kế
toán, một chức năng của bản thân kế toán, một thuộc tính cố hữu của kế toán.
Theo đó, kiểm toán đồng nghĩa với việc rà soát các thông tin từ chứng từ kế toán
đến bảng tổng hợp cân đối kế toán. Đây là quan điểm truyền thống trong điều kiện
kiểm tra chưa phát triển và trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung.
Từ khi chuyển đổi cơ chế kinh tế, với chủ trương đa phương hoá đầu tư, đa
dạng hoá các thành phần kinh tế, nhà nước không còn là chủ sở hữu duy nhất,
không thể thực hiện can thiệp đối với mọi thành phần kinh tế bằng kế hoạch hay
bằng kiểm tra trực tiếp, cách thức can thiệp cũng không thể như cũ. Mặt khác,
người quan tâm đến thông tin kế toán tài chính không chỉ là nhà nước mà còn mở
rộng ra các nhà đầu tư, nhà quản lý, khách hàng và ngay cả người lao động. Điều
đó đòi hỏi phải tách kiểm toán ra khỏi các hoạt động kế toán và nên một ngành
khoa học kiểm toán độc lập. Cũng trong quá trình phát triển đó, kiểm toán không
chỉ bó hẹp trong kiểm toán bảng khai tài chính hay tài liệu kế toán mà còn thâm
nhập vào nhiều lĩnh vực khác nhau, như hiệu quả hoạt động kinh tế, hiệu năng
quản lý xã hội, hiệu lực của hệ thống pháp luật. Chính vì vậy, một quan điểm thứ
ba, một quan điểm tương đối toàn diện về kiểm toán đã được hình thành. Quan
điểm này được gọi là quan điểm hiện đại, theo đó, kiểm toán là một phạm trù rất
rộng, bao gồm các lĩnh vực chủ yếu sau:

`-Kiểm toán về thông tin (Information audit), hướng vào đánh giá tính trung
thực và hợp pháp của các tài liệu làm cơ sỏ pháp lý cho việc giải quyết các mối
quan hệ về kinh tế và tạo niềm tin cho những người quan tâm đến tài liệu kế toán.
-Kiểm toán tính quy tắc (Regularity audit), hướng vào việc đánh giá tình
hình thực hiện các chế độ, thể chế, luật pháp của đơn vị được kiểm tra trong quá
trình hoạt động.
-Kiểm toán hiệu quả (Effeciency audit) có đối tượng trực tiếp là các yếu tố,
các nguồn lực trong từng loại nghiệp vụ kinh doanh, giúp ích trực tiếp cho việc
hoạch định chính sách và phương hướng, giải pháp cho việc hoàn thiện hoặc cải tổ
hoạt động kinh doanh của đơn vị được kiểm toán.
5
-Kiểm toán hiệu năng (Effectiveness audit) được đặc biệt quan tâm ở khu
vực công cộng, cần và có thể ứng dụng đối với quản lý toàn bộ doanh nghiệp hoặc
với từng bộ phận quản lý của đơn vị được kiểm toán.
Vậy kiểm toán là gì?
Từ những quan điểm trên đây có thể đi đến kết luận: Kiểm toán là xác minh
và bày tỏ ý kiến về thực trạng hoạt động cần được kiểm toán bằng phương pháp kỹ
thuật của kiểm toán chứng từ và kiểm toán ngoài chứng từ, do các kiểm toán viên
có trình độ nghiệp vụ tương xứng thực hiện trên cơ sở hệ thống pháp lý có hiệu
lực.
1.1.2. Chức năng của kiểm toán
Dù được tiếp cận dưới nhiều góc độ, nhìn nhận theo nhiều quan điểm,
nhưng bản chất của kiểm toán vẫn chỉ ra hai chức năng cơ bản là xác minh và bày
tỏ ý kiến.
-Chức năng xác minh: nhằm khẳng định mức độ trung thực của tài liệu, tính
pháp lý của việc thực hiện các nghiệp vụ hay việc lập các bảng khai tài chính.
Chức năng xác minh là chức năng cơ bản nhất, gắn liền với sự ra đời và tồn
tại của hoạt động kiểm toán. Chức năng này không ngừng phát triển và được thể
hiện khác nhau tuỳ vào đối tượng của kiểm toán là bảng khai tài chính hay nghiệp
vụ kinh tế cụ thể. Ngày nay, theo chuẩn mực kiểm toán tài chính, chức năng xác

minh không chỉ biểu hiện thông qua hình thức chứng thực mà còn chuyển hoá
thành báo cáo kiểm toán cho từng trường hợp cụ thể khác nhau. Đối với các thông
tin đã được lượng hoá, việc xác minh được thực hiện trước hết thông qua hệ thống
kiểm soát nội bộ. Đối với kiểm toán các nghiệp vụ hoạt động, ban đầu được giới
hạn ở hoạt động tài chính và sau này được mở rộng ra ở lĩnh vực hiệu năng và hiệu
quả hoạt động.
-Chức năng bày tỏ ý kiến: có thể được hiểu rộng với ý nghĩa cả kết luận về
chất lượng thông tin và cả pháp lý, tư vấn qua xác minh. Việc thực hiện chức năng
xác minh cũng khác nhau giữa các khu vực. các thể chế, giữa các nước hay các
khu vực có cơ sở kinh tế và pháp lý khác nhau.
Ở khu vực công cộng (bao gồm các xí nghiệp công, các cơ quan, đơn vị sự
nghiệp và các cá nhân thụ hưởng ngân sách nhà nước), các hoạt động đều được đặt
6
dưới sự kiểm soát của kiểm toán nhà nước. Trong quan hệ này, chức năng xác
minh về kết luận về chất lượng thông tin của kiểm toán được thực hiện tương tự
nhau, nhưng chức năng bày tỏ ý kiến về pháp lý và tư vấn kiểm toán lại rất khác
nhau.
Ở khu vực kinh doanh hoặc các dự án ngoài ngân sách nhà nước, chức năng
bày tỏ ý kiến được thực hiện trên phương thức tư vấn, biểu hiện chủ yếu dười hình
thức lời khuyên hoặc các đề án.
Ngoài chức năng tư vấn cho quản trị doanh nghiệp, các công ty kiểm toán
chuyên nghiệp còn phát triển chức năng tư vấn trong nhiều lĩnh vực chuyên sâu,
như tư vấn đầu tư, tư vấn thuế,…
1.1.3. Các cách thức phân loại kiểm toán
Kiểm toán được tìm hiểu và nhìn nhận dưới rất nhiều góc độ khác nhau. Để
hiểu biết một cách sâu sắc về kiểm toán cũng như các đặc trưng của nó đồng thời
có cơ sở tổ chức tốt công tác kiểm toán, cần thiết phải tiến hành phân loại kiểm
toán. Kiểm toán có thể phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau, tuỳ thuộc vào
mục đích tìm hiểu:
-Theo đối tượng cụ thể: kiểm toán có thể phân thành kiểm toán tài chính,

kiểm toán nghiệp vụ và kiểm toán liên kết.
-Theo lĩnh vực cụ thể của kiểm toán: có thể phân kiểm toán thành kiểm
toán thông tin, kiểm toán tuân thủ, kiểm toán hiệu năng và kiểm toán hiệu quả.
-Theo phương pháp áp dụng trong kiểm toán: có thể phân kiểm toán thành
kiểm toán chứng từ và kiểm toán ngoài chứng từ.
-Theo quan hệ chủ thể và khách thể kiểm toán: có thể phân thành nội kiểm
và ngoại kiểm.
-Theo phạm vi tiến hành kiểm toán: có thể phân kiểm toán thành kiểm toán
toàn diện và kiểm toán chọn điểm.
-Theo tính chu kỳ của kiểm toán: có thể phân thành kiểm toán thường kỳ,
kiểm toán định kỳ và kiểm toán bất thường.
-Theo quan hệ về thời điểm kiểm toán với thời điểm thực hiện nghiệp vụ:
kiểm toán bao gồm kiểm toán trước, kiểm toán hiện hành và kiểm toán sau.
7
-Theo tổ chức bộ máy kiểm toán: có thể phân thành kiểm toán nhà nước,
kiểm toán độc lập và kiểm toán nội bộ.
-Theo quan hệ pháp lý của kiểm toán: có kiểm toán bắt buộc và kiểm toán
tự nguyện.
-Theo tính chất và phạm vi của cuộc kiểm toán: có kiểm toán ngân sách và
tài sản công, kiểm toán dự án và các công trình, kiểm toán các đơn vị dự toán…
1.2. Cơ sở lý luận về chu trình bán hàng- thu tiền.
1.2.1. Chu trình bán hàng- thu tiền trong quá trình kinh doanh.
1.2.1.1. Đặc điểm, nội dung và vị trí của chu trình Bán hàng- Thu tiền trong
sản xuất kinh doanh.
Bán hàng- Thu tiền là quá trình chuyển quyền sở hữu của hàng hoá qua quá
trình trao đổi hàng-tiền. Quá trình này được bắt đầu từ yêu cầu mua của khách
hàng và kết thúc bằng việc chuyển đổi hàng hoá thành tiền.
Theo những quy định kế toán hiện hành của nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, quá trình tiêu thụ được ghi nhận khi hàng hoá, lao vụ dịch vụ đã
được chuyển giao cho người mua, được người mua trả tiền hoặc chấp nhận thanh

toán. Về bản chất, tiêu thụ là quá trình thực hiện giá trị và giá trị sử dụng của hàng
hoá, dịch vụ ,lao vụ đồng thời tạo vốn để tái sản xuất mở rộng. Thực hiện tốt quá
trình tiêu thụ sản phẩm, doanh nghiệp mới có thể thu hồi và thực hiện được giá trị
thặng dư- một nguồn thu quan trọng để tích luỹ vào ngân sách và các quỹ của
doanh nghiệp nhằm mở rộng quy mô sản xuất và nâng cao đời sống của người lao
động.
Dưới góc độ kiểm toán, quá trình Bán hàng- Thu tiền liên quan đến nhiều
chỉ tiêu quan trọng trong Bảng cân đối kế toán (như tài khoản Tiền, Các khoản
phải thu, Dự phòng phải thu khó đòi…) và Báo cáo kết quả kinh doanh (Doanh
thu, Các khoản giảm trừ, Chi phí dự phòng, Thu nhập bất thường có từ các khoản
hoàn nhập dự phòng,…). Đây là những chỉ tiêu cơ bản mà những người quan tâm
đến tình hình tài chính của doanh nghiệp dùng để phân tích khả năng thanh toán,
tiềm năng, hiệu quả kinh doanh, triển vọng phát triển cũng như những rủi ro tiềm
tàng trong tương lai. Đây cũng là những chỉ tiêu rất dễ bị phản ánh sai lệch hoặc
dễ xảy ra gian lận khi hạch toán hay ghi nhận.
8
Đặc điểm của chu trình Bán hàng- Thu tiền:
-Số lượng nghiệp vụ phát sinh lớn và tương đối phức tạp.
-Liên quan đến các đối tượng bên ngoài doanh nghiệp.
-Chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của quy luật cung- cầu.
-Doanh thu là một trong những cơ sở đánh giá hiệu quả hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp và lập phương án phân phối thu nhập và thực hiện
nghĩa vụ với nhà nước, do đó chỉ tiêu này rất dễ bị ghi nhận một cách không trung
thực.
-Các quan hệ thanh toán trong mua bán rất phức tạp, bao gồm những việc
như chiếm dụng vốn, công nợ khó đòi,… Tuy nhiên việc lập các khoản dự phòng
phải thu khó đòi lại mang tính chủ quan, thường dựa vò ước đoán trong khâu lập
kế hoạch, do đó rất khó khăn cho việc kiểm tra và thường bị lợi dụng để ghi tăng
chi phí.
-Rủi ro và gian lận đối với các khoản mục trong chu trình này xảy ra theo

nhiều chiều hướng khác nhau. Doanh thu có thẻ bị ghi tăng hay giảm dựa trên mục
đích và hoàn cảnh cụ thể. Chẳng hạn, khoản phải thu có thể được ghi tăng nhằm
che đậy hành vi biển thủ công quỹ, hoặc bị ghi giảm trong trường hợp doanh
nghiệp muốn trốn tránh nghĩa vụ thuế với nhà nước,…
Vì những đặc điểm nêu trên, việc kiểm toán chu trình bán hàng- Thu tiền
tương đối phức tạp, tốn kém về vật chất và thời gian. Với chức năng xác minh và
bày tỏ ý kiến cho các thông tin tài chính nói chung và thông tin về chu trình Bán
hàng- Thu tiền nói riêng, kiểm toán viên không thể không xem xét những đặc điểm
của chu kỳ và ảnh hưởng của nó đến việc lập kế hoạch và thiết kế phương pháp
kiểm toán sao cho có hiệu quả.
1.2.1.2. Tổ chức kế toán Bán hàng- Thu tiền
Bán hàng- Thu tiền là một giai đoạn quan trọng trong quá trình sản xuất
kinh doanh, là giai đoạn thứ hai sau quá trình mua vào và thanh toán đối với doanh
nghiệp thương mại và sau quá trình sản xuất đối với doanh nghiệp sản xuất. Bán
hàng- Thu tiền bao gồm những nội dung sau:
*Tổ chức chứng từ kế toán:
9
Đây là quá trình thiết kế khối lượng chứng từ kế toán và quy trình hạch
toán trên chứng từ theo chỉ tiêu hạch toán và đơn vị hạch toán cơ sở. Dưới đây là
sơ đồ tổ chức chứng từ hạch toán chu trình Bán hàng- Thu tiền:
Sơ đồ 1.1: Tổ chức chứng từ kế toán trong chu trình Bán hàng- thu tiền.
*Tài khoản sử dụng:
Chu trình này được hạch toán trên cơ sở sổ tài khoản, vận dụng phương
pháp đối ứng tài khoản để phân loại và ghi chép, phản ánh các nghiệp vụ kinh tế
phát sinh vào hệ thống sổ chi tiết và tổng hợp. Để phản ánh đầy đủ các thông tin
liên quan, kế toán sử dụng bộ tài khoản sau đây:
Tài khoản 511: Doanh thu bán hàng
Tài khoản 512: Doanh thu bán hàng nội bộ
Tài khoản 521: Chiết khấu bán hàng
Tài khoản 531: Doanh thu hàng bán bị trả lại

Tài khoản 532: Giảm giá hàng bán
Tài khoản 131: Phải thu khách hàng
Tài khoản 3387: Doanh thu nhận trước
Tài khoản 139: Dự phòng phải thu khó đòi
Tài khoản 641: Chi phí bán hàng
Tài khoản 642: Chi phí quản lý doanh nghiệp
10
Bộ phận
cung ứng
Thủ
trưởng,
KTT
Bộ phận
quản lý
hàng
Kế toán
thanh toán
Lập chứng
từ bán
hàng: Hoá
đơn bán
hàng
Ký duyệt
hoá đơn,
phê duyệt
bán chịu
Giao nhận
hàng:
Phiếu xuất
kho, phiếu

biên nhận
Ghi sổ và
theo dõi
thanh toán:
Sổ doanh
thu, các
khoản phải
thu
Nhu cầu bán
hàng: Đơn đặt
hàng
Lưu trữ, bảo
quản chứng từ
Tài khoản 721: Thu nhập bất thường
Tài khoản 3331: Thuế giá trị gia tăng đầu ra
Tài khoản 111: Tiền mặt tại quỹ
Tài khoản 112: Tiền gửi ngân hàng
Tài khoản 004: Nợ khó đòi đã xử lý
*Hệ thống sổ sách sử dụng
Trong trường hợp doanh nghiệp áp dụng hình thức nhật ký chung thì hệ
thống sổ sách bao gồm:
-Nhật ký chung
-Nhật ký thu tiền
-Nhật ký các khoản phải thu
-Sổ chi tiết các khách hàng nợ
-Sổ chi tiết doanh thu bán hàng
*Quy trình hạch toán quá trình tiêu thụ
11
Sơ đồ 1.2: Quy trình hạch toán chu trình Bán hàng- Thu tiền
*Báo cáo số liệu kế toán

Trên cơ sở hệ thống sổ chi tiết và sổ tổng hợp, cuối kỳ kế toán lập bảng cân
đối tài khoản và báo cáo kết quả kinh doanh phục vụ thông tin cho công tác quản
lý. Từ đó, nắm rõ được nội dung và quá trình hạch toán chu trình Bán hàng- Thu
tiền, kiểm toán viên tiến hành kiểm toán.
1.2.2. Chu trình Bán hàng- thu tiền với công tác kiểm toán
1.2.2.1. Hệ thống kiểm soát nội bộ trong quản lý chu trình Bán hàng- Thu tiền
a. Các mục tiêu của hệ thống kiểm soát nội bộ
12
TK 111, 112, 131...
Thuế GTGT đầu ra phải
nộp
(Phương pháp khấu trừ)
TK 33311
Doanh thu bán
hàng
Kết chuyển doanh thu
thuần để xác định kết quả
Kết chuyển các
khoản giảm trừ
doanh thu
Thuế TTĐB, thuế xuất
khẩu, thuế
GTGT trực tiếp phải
nộp
TK 911
TK 511
TK 333
TK 521, 531, 532
Bất kỳ một nhà quản trị doanh nghiệp chân chính nào cũng luôn mong
muốn hoạt động kinh doanh tại đơn vị mình diễn ra một cách có hiệu quả nhất.

Điều đó thể hiện bằng việc thu hồi vốn nhanh, chi phí thấp, lợi nhuận cao, từ đó có
thể mở rộng sản xuất kinh doanh theo cả chiều rộng và chiều sâu. Để đạt được
điều đó, tất cả các hoạt động kinh doanh tại đơn vị đều phải được kiểm soát chặt
chẽ, nhằm đảm bảo tất cả các thông tin là đúng sự thực, từ đó giúp cho các nhà
quản lý nắm bắt được thông tin và đưa ra các quyết định kịp thời. Như vậy, lý do
để doanh nghiệp xây dựng một hệ thống kiẻm soát nội bộ là để giúp doanh nghiệp
thoả mãn các mục tiêu của mình. Điều quan trọng là để đảm bảo thành công cho
quá trình kiểm tra, kiểm soát trong nội bộ đơn vị, doanh nghiệp cần xây dựng cho
mình một hệ thống kiểm soát nội bộ phù hợp với đặc điểm và quy mô hoạt động
của doanh nghiệp.
Theo định nghĩa của Liên đoàn Kế toán quốc tế thì hệ thống kiểm soát nội
bộ là một hệ thống chính sách và thủ tục nhằm vào 4 mục tiêu sau:
-Bảo vệ tài sản của đơn vị
-Bảo đảm độ tin cậy của các thông tin
-Bảo đảm để thực hiện các quy định pháp lý
-Bảo đảm hiệu quả của hoạt động
Như vậy, đối với một doanh ngiệp, hệ thống kiểm soát nội bộ là toàn bộ các
chính sách và thủ tục kiểm toán do đơn vị thiết lập và duy trì nhằm điều hành các
hoạt động của đơn vị để đảm bảo các mục tiêu sau;
-Điều khiển và quản lý các hoạt động kinh doanh có hiệu quả.
-Đảm bảo mọi hoạt động của đơn vị được thực hiện đúng trật tự và được
giám sát.
-Phát hiện những sự kiện bất thường trong hoạt động kinh doanh để tìm
cách xử lý.
-Ngăn chặn và phát hiện kịp thời các sai sót và gian lận trong đơn vị. Bảo
vệ tài sản và thông tin, tránh sử dụng sai mục đích.
-Ghi chép đầy đủ, chính xác và theo đúng thể thức.
-Lập báo cáo tài chính kịp thời, có đủ độ tin cậy và tuân theo các yêu cầu
pháp định có liên quan.
13

b. Các công việc kiểm soát nội bộ chủ yếu.
*Sự đồng bộ của sổ sách:
Hệ thống kế toán chứng từ đến sổ kế toán và bảng tổng hợp có tác dụng
kiểm soát tối đa các nghiệp vụ. Khung pháp lý chung đối với mỗi đơn vị là như
nhau, nhưng mỗi doanh nghiệp lại có thể lựa chọn các hình thức kế toán khác
nhau, do vậy mà trình tự kế toán cụ thể cúng khác nhau. Bên cạnh đó, mọi văn bản
pháp lý chỉ là khung tối thiểu, còn thực tế lại đa dạng và phức tạp. Do vậy, mỗi
doanh nghiệp cần định sẵn trình tự cụ thể tương ứng với hệ thống sổ sách tạo
thành yếu tố kiểm soát có hiệu lực.
*Việc đánh số thứ tự các chứng từ:
Doanh nghiệp sử dụng chứng từ có đánh số trước theo thứ tự liên tục có tác
dụng vừa đề phòng bỏ sót, giấu diếm, vừa tránh được trùng lặp các khoản phải thu,
các khoản ghi sổ bán hàng. Việc đánh số trước phải có mục đích rõ ràng, kèm theo
việc tổ chức hợp lý theo hướng tích cực dể đạt được mục đích đó.
*Lập bảng cân đối thanh toán tiền hàng và gửi cho người mua.
Các doanh nghiệp có nghiệp vụ bán hàng và thu tiền với quy mô lớn, thông
thường hàng tháng có tổng hợp và lập bảng cân đối giữa giá trị hàng bán với các
khoản đã thu tiền, các khoản phải thu để kiểm soát công việc bán hàng và thu tiền
một cách có hiệu quả.
Các bảng cân đối này có liên quan đến thông tin từ phía người mua, vì vậy
cần được gửi đến người mua để thông báo, đồng thời xác nhận quan hệ mua bán
đã phát sinh trong thực tế. Để đảm bảo tính khách quan trong xác nhận, việc lập và
gửi các bảng cân đối này nên được thực hiện một cách độc lập, bởi một người độc
lập, không có liên quan tới việc thu tiền hay ghi sổ bán hàng.
*Xét duyệt nghiệp vụ báng hàng:
Việc bán hàng và thu tiền (thu tiền ngay hoặc bán chịu) cho khách hàng cần
thiết phải được duyệt y một cách cẩn trọng trước khi bán hàng và hàng bán cũng
chỉ được vận chuyển sau khi duyệt với đầy đủ chứng cứ (tài khoản, con dấu, chữ
ký hợp pháp của mỗi bên), nhằm tránh tình trạng tổn thất khi vận chuyển hàng đến
cho người mua hay người mua chưa có khả năng thanh toán. Giá bán cũng được

duyệt bao gồm cả chi phí vận chuyển, giảm giá, bớt giá và các điều kiện thanh
14
toán nhằm tránh thất thu, kích thích tăng thu cũng như giải quyết hợp pháp và hiệu
quả các quan hệ lợi ích giữa các bên trong quan hệ mua- bán.
*Nguyên tắc phân công phân nhiệm:
Đây là công việc trọng yếu trong kiểm soát nội bộ nhằm ngăn ngừa những
gian lận và sai sót kế toán nói chung và trong chu trình Bán hàng- Thu tiền nói
riêng. Trong Bán hàng – Thu tiền, nếu sổ bán hàng và sổ thu tiền được hai kế toán
theo dõi độc lập nhau và sổ thu tiền cũng được theo dõi độc lập, đối chiếu thường
xuyên với sổ cái và sổ quỹ theo hình thức kiểm tra chéo, sẽ tạo được mức độ tin
tưởng cao cho người sử dụng thông tin. Trong nhiều trường hợp, để ngăn ngừa
gian lận, nơi làm việc của thủ quỹ và những nhân viên có nhiệm vụ ghi chép bán
bàng hay sổ quỹ phải được ngăn cách độc lập. Chức năng bán hàng và chức năng
xét duyệt bán chịu cũng cần phải được phân cách nhằm ngăn chặn những gian lận
hay tiêu cực có thể phát sinh trong khâu bán hàng và khả năng thất thu trong khâu
thanh toán.
*Tính độc lập của người kiểm tra, kiểm soát:
Tính độc lập của người kiểm tra, kiểm soát là nhân tố chủ yếu trong việc
phát huy hiệu lực của hoạt động kiểm soát nội bộ. Có sự hỗ trợ của một hệ thống
kiểm soát nội bộ tốt không chỉ giúp ích cho các nhà quản lý mà còn tạo điều kiện
thuận lợi cho công việc kiểm tra, kiểm toán của các kiểm toán viên trong việc hoàn
thành các mục tiêu kiểm toán.
1.2.2.2. Mục tiêu kiểm toán đối với chu trình bán hàng- Thu tiền.
Kiểm toán chu trình Bán hàng- Thu tiền nói riêng và kiểm toán nói chung
đều đòi hỏi ngay từ đầu việc định rõ phạm vi công việc và mục tiêu kiểm toán cụ
thể, tạo cơ sở cho việc thu thập các bằng chứng kiểm toán, giúp kiểm toán viên
đưa ra ý kiến của mình về các bảng khai tài chính của khách thể kiểm toán.
Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 200 đã nêu rõ: “Mục tiêu của kiểm
toán tài chính là giúp cho kiểm toán viên và công ty kiểm toán đưa ra ý kiến xác
nhận rằng báo cáo tài chính có được lập trên cơ sở chuẩn mực và chế độ kiểm toán

hiện hành (hoặc được chấp nhận), có tuân thủ pháp luật liên quan và có phản ánh
trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu hay không”.
15
Để thực hiện công việc một cách hiệu quả, trước tiên kiểm toán viên cần
xác định rõ các mục tiêu kiểm toán thông qua các xác nhận của ban quản trị khách
thể kiểm toán. Đối với chu trình Bán hàng- Thu tiền, các xác nhận này bao gồm:
-Xác nhận về sự hiện hữu: Doanh thu ghi nhận trên báo cáo tài chính phản
ánh quá trình trao đổi hàng hoá, dịch vụ thực tế phát sinh, các khoản phải thu trên
bẳng cân đối kế toán là có thực vào ngày lập các cân đối kế toán.
-Xác nhận về tính đầy đủ: Tất cả doanh thu về bán hàng và cung cấp dịch
vụ, các khoản đã thu và phải thu đã được ghi sổ đầy đủ và được đưa vào các báo
cáo tài chính.
-Xác nhận về quyền sở hữu: Hàng hoá và các khoản phải thu của doanh
nghiệp vào ngày lập báo cáo tài chính đều thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp.
-Xác nhận về sự định giá và phân loại: Doanh thu và các khoản phải thu
được tính toán đúng đắn và được phân loại đúng bản chất, đối tượng.
-Xác nhận về sự trình bày: Doanh thu và các khoản phải thu được trình bày
trung thực và đúng đắn trên các báo cáo tài chính theo đúng hệ thống kế toán của
doanh nghiệp và các chuẩn mực kế toán hiện hành.
Bên cạnh các xác nhận của ban quản trị, kiểm toán viên cũng cần xem xét
các mục tiêu chung và các mục tiêu đặc thù của kiểm toán. Bàn hàng- Thu tiền là
một chu trình quan trọng, được cấu thành bởi các nghiệp vụ cụ thể và từ đó hình
thành nên các khoản mục trên báo cáo tài chính, nên các mục tiêu đặc thù của chu
trình này cần được cụ thể hoá thành các mục tiêu kiểm toán tài chính và kiểm toán
nghiệp vụ một cách phù hợp. Các nghiệp vụ bán hàng và thu tiền dù cấu thành một
chu trình chung nhưng lại đòi hỏi được hạch toán một cách độc lập tương đối trên
các sổ sách kế toán riêng. Chính vì vậy, các mục tiêu đặc thù cho các nghiệp vụ
bán hàng và thu tiền cần được định hướng một cách cụ thể thông qua các mục tiêu
kiểm toán đặc thù riêng biệt.
*Nhóm các mục tiêu chung bao gồm:

-Mục tiêu hợp lý chung: giúp kiểm toán viên đánh giá thông tin về các số
dư trên tài khoản phải thu khách hàng có hợp lý hay không dựa trên thông tin
chung về tình hình hoạt động kinh doanh của khách hàng.
-Các mục tiêu chung khác:
16
+Tính có căn cứ hợp lý: Số tiền ghi trên sổ và trên báo cáo tài chính thực sự
là số tiền phát sinh trong quá trình xảy ra nghiệp vụ bán hàng và các nghiệp vụ
khác có liên quan.
+Tính đầy đủ: Mọi nghiệp vụ phát sinh đều được ghi sổ.
+Quyền sở hữu: Số tiền hoặc tài sản được ghi nhận thuộc quyền sở hữu của
doanh nghiệp tại ngày lập báo cáo tài chính.
+Sự đánh giá: tiền và tài sản của doanh nghiệp phải được đánh giá đúng với
giá trị hiện tại trên thị trường và được ghi sổ chính xác, hợp lý.
+Sự phân loại: Số tiền ghi trên sổ phải được phản ánh đúng nội dung tài
khoản và các tài khoản phải được trình bày một cách đúng đắn trên các báo cáo tài
chính.
+Tính đúng kỳ: Các nghiệp vụ kinh tế phát sinh được ghi chép đúng với
thời gian phát sinh nghiệp vụ.
*Các mục tiêu đặc thù của chu trình Bán hàng- Thu tiền:
-Tính có căn cứ hợp lý: Hàng bán vận chuyển đến khách hàng và các khoản
phải thu khách hàng là có thật.
-Tính đầy đủ: Mọi nghiệp vụ bán hàng và mọi khoản phải thu khách hàng
là có thật.
-Quyền sở hữu: Hàng hoá đã bán thuộc quyền sở hữu của đơn vị và các
khoản phải thu có người sở hữu.
-Sự đánh giá: Hàng đã vận chuyển và có hoá đơn ghi giá bán được thoả
thuận. Các khoản phải thu được đánh giá đúng.
-Sự phân loại: Doanh thu phải được phân loại đúng đắn thành các loại
doanh thu bán ra và doanh thu nội bộ, doanh thu hàng bán bị trả lại, doanh thu
nhận trước. Các khoản phải thu được phân loại đúng.

-Tính đúng kỳ: Doanh thu và các khoản phải thu khách hàng được ghi chép
đúng kỳ, không có hiện tượng ghi giảm doanh thu, ghi tăng các khoản phải thu và
ngược lại.
-Trình bày và thể hiện: Doanh thu tiền mặt và các khoản phải thu được
trình bày chính xác trên các báo cáo tài chính theo đúng các chế độ và quy định
hiện hành.
17
1.2.2.3. Chứng từ và sổ sách sử dụng trong kiểm toán chu trình Bán hang- Thu
tiền
*Các chứng từ sử dụng:
-Báo cáo kết quả kinh doanh của năm trước và năm nay.
-Các đơn đặt hàng của khách hàng: đây là cơ sở pháp lý ràng buộc trách
nhiệm của các bên tham gia hợp đồng.
-Hợp đồng đã ký kết về bán hàng và cung cấp dịch vụ.
-Hoá đơn bán hàng, hoá đơn kiêm phiếu xuất kho.
-Các quyết toán, thanh lý hợp đồng bán hàng.
-Các phiếu thu tiền mặt, séc, giấy báo nợ, sao kê của ngân hàng.
-Các hợp đồng, khế ước tín dụng.
-Các chứng từ hay hợp đồng vận chuyển hàng hoá.
*Sổ sách sử dụng:
Nếu doanh nghiệp áp dụng hình thức nhạt ký chung để hạch toán kế toán
thì hệ thống sổ sách bao gồm:
-Nhật ký chung
-Nhật ký thu tiền
-Sổ cái các khoản phải thu
-Các sổ liên quan khác (nếu có)
1.2.3. Trình tự kiểm toán chu trình Bán hàng- Thu tiền trong kiểm toán tài
chính.
Do chu trình Bán hàng- Thu tiền bao gồm những khoản mục cấu thành nên
báo cáo tài chính, nên khi tiến hành kiểm toán cũng phải tuân theo quy trình kiểm

toán chung của một cuộc kiểm toán để đảm bảo tính nhất quán.
Trình tự kiểm toán bao gồm các giai đoạn sau:
-Lập kế hoạch, thiết kế phương pháp kiểm toán với chu trình Bán hàng-
Thu tiền.
-Thực hiện kiểm toán chu trình Bán hàng- Thu tiền.
-Kết thúc kiểm toán, hoàn tất và công bố báo cáo kiểm toán.
1.2.3.1. Lập kế hoạch kiểm toán
a. Chuẩn bị kiểm toán
18
Ngoài các công việc chung trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán, kiểm
toán viên cần tiến hành thu thập đầy đủ các thông tin cần thiết sau đây:
-Tìm hiểu về doanh nghiệp: Bao gồm sơ đồ tổ chức các phòng ban, bao
gồm phòng kinh doanh, bộ phận bán hàng, các loại chứng từ, sổ sách sử dụng tại
doanh nghiệp liên quan đến chu trình.
-Thực địa tại nhà xưởng, cơ sở sản xuất: Nhằm thu thập các thông tin về
tính chất, đặc điểm của sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ được doanh nghiệp sản xuất
hay cung cấp, cũng như các thông tin về công tác bảo vệ tài sản, nhà xưởng, kho
hàng,…
-Xem xét các chính sách của công ty: Cần tìm hiểu các chính sách bán
hàng, khuyến mại, chiết khấu, giảm giá của doanh nghiệp cũng như các chính sách
tín dụng áp dụng cho khách hàng.
-Thu thập các thông tin về trách nhiệm pháp lý của khách hàng:
+Biên bản cuộc họp: Có hay không các thông tin liên quan đến các chính
sách, thủ tục trong chu trình Bán hàng- Thu tiền,
+Các hợp đồng: Như trên đã nêu, đây là các tài liệu quan trọng chứa đựng
các thông tin về nghĩa vụ pháp lý của khách hàng trong kinh doanh, cung cấp hàng
hoá, dịch vụ. Kiểm toán viên cần tìm hiểu để biết chắc chắn rằng doanh nghiệp có
hợp đồng cung cấp sản phẩm dịch vụ dài hạn hay hợp đồng đặc biệt nào với khách
hàng hay không.
b. Đánh giá trọng yếu và rủi ro trong kiểm toán chu trình Bán hàng- Thu tiền

Trên cơ sở các thông tin đã thu thập được, kiểm toán viên tiến hành đánh
giá, nhận xét để đưa ra một kế hoạch kiểm toán chi tiết, phù hợp.
*Đánh giá tính trọng yếu:
Sau khi đánh giá mức trọng yếu cho toàn bộ báo cáo tài chính, kiểm toán
viên tiến hành phân bổ mức đánh giá này cho từng khoản mục.
Đối với chu trình Bán hàng- Thu tiền, kiểm toán viên tiến hành phân bổ
mức ước lượng trọng yếu cho các khoản mục như doanh thu, các khoản phải thu
và khoản mục tiền. Thông qua đó, kiểm toán viên có thể xác định được số lượng
bằng chứng kiểm toán thích hợp phải thu thập đối với từng khoản mục ở mức chi
19
phí thấp nhất có thể mà vẫn đảm bảo được tổng các sai sót trên báo cáo tài chính
không vượt quá mức ước lượng ban đầu về tính trọng yếu.
*Đánh giá rủi ro
Trong bước này, kiểm toán viên phải xác định mức độ rủi ro kiểm toán
trong quá trình thực hiện chu trình Bán hàng- Thu tiền là cao hay thấp, bao gồm
việc đánh giá rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát và rủi ro phát hiện.
-Rủi ro tiềm tàng (IR): đối với chu trình Bán hàng- Thu tiền, IR là rủi ro đối
với quản lý tiền mặt hay các phương tiện thanh toán khác, tính trung thực của ban
giám đốc khách hàng trong việc khai báo các khoản doanh thu, các nghiệp vụ bán
hàng bất thường, các ước tính kế toán,…
-Rủi ro kiểm soát (CR): đối với chu trình Bán hàng- Thu tiền, CR là việc
khách thể kiểm toán không tuân thủ theo các quy định của hệ thống kiểm soát nội
bộ như quy tắc phân công phân nhiệm, nguyên tắc bất kiêm nhiệm,…
-Rủi ro phát hiện (DR): là khả năng xảy ra các sai sót hợc gian lận trên báo
cáo tài chính mà không được ngăn chặn hay phát hiện bởi hệ thống kiểm soát nội
bộ, cũng như không được phát hiện bởi kiểm toán viên trong quá trình thực hiện
kiểm toán.
c. Tìm hiểu hệ thống kiểm soát nội bộ của khách hàng và đánh giá rủi ro kiểm
soát
*Tìm hiểu hệ thống kiểm soát nội bộ của khách hàng: Được thực hiện trên

các mặt chủ yếu là thiết kế kiểm soát nội bộ bao gồm thiết kế về quy chế và về bộ
máy kiểm soát, tính hoạt động liên tục và có hiệu lực. Kiểm toán viên cần tìm hiểu
về quy trình hoạt động cùng các thủ tục kiểm soát được thực hiện để ngăn ngừa sai
phạm xảy ra đối với từng bước trong chu trình, từ việc ký hợp đồng với khách
hàng, chuyển giao hàng, thu tiền và ghi sổ doanh thu,…
*Đánh giá rủi ro kiểm soát: Sau khi đã có được sự hiểu biết về hệ thống
kiểm soát nội bộ, kiểm toán viên cần tiến hành đánh giá rủi ro kiểm soát đối với cơ
sở dẫn liệu cho số dư các tài khoản hay các loại nghiệp vụ kinh tế chủ yếu.
d. Thiết kế chương trình kiểm toán và các thủ tục tiến hành kiểm toán chu trình
Bán hàng- Thu tiền.
20
Kiểm toán viên xác định các thủ tục cần thiết phải thực hiện đối với chu
trình Bán hàng- thu tiền bao gồm thử nghiệm kiểm soát, thủ tục phân tích và kiểm
tra chi tiết,…
1.2.3.2. Thực hiện kế hoạch kiểm toán.
a. Thực hiện thủ tục kiểm soát
*Thực hiện thủ tục kiểm soát đối với nghiệp vụ bán hàng
Kiểm toán viên tiến hành thực hiện các thử nghiệm kiểm soát theo các mục
tiêu sau:
*Tính hiệu lực: các nghiệp vụ bán hàng được ghi sổ là có thật. Kiểm toán
viên tiến hành:
-Xem xét, đối chiếu các hoá đơn bán hàng của một nghiệp vụ cũng như các
vận đơn và đơn đặt hàng có liên quan.
-Xem xét tính hiệu lực của các hoá đơn bán hàng đã được đánh số trước,
chú ý tính liên tục của các hoá đơn đó.
-Kiểm tra xem quá trình gửi bảng cân đối bán hàng- thu tiền có được thực
hiện độc lập hay không, cũng như tiếp nhận các xác nhận hay khiếu nại của người
mua.

*Tính cho phép: Các nghiệp vụ bán hàng được phê duyệt đầy đủ và đúng

đắn. Mục tiêu này có liên quan trực tiếp đến các quyết định về bán chịu, về vận
chuyển và về giá cả. Kiểm toán viên cần xem xét những quyết định về chính sách
chung cũng như những thay đổi cụ thể trong từng thương vụ. Kiểm toán viên tiến
hành các công việc sau:
-xem xét bảng kê hay sổ chi tiết bán hàng.
-Đối chiếu hợp đồng mua hàng, thu tiền đối với từng khách hàng
-Đối chiếu lệnh vận chuyển, hợp đồng vận chuyển
-Đối chiếu các chứng từ phê chuẩn xuất kho hàng hoá và phương thức bán
hàng.
-Xem xét chức vụ và quyền hạn của người phê duyệt.
*Các nghiệp vụ bán hàng được ghi sổ đầy đủ:
21
Kiểm toán viên tiến hành xem xét tính liên tục của các chứng từ vạn
chuyển, hoá đơn bán hàng để xác minh xem doanh nghiệp có thực hiện việc đấnh
số thứ tự trước hay không, xem xét các chứng từ vận chuyển để kiểm tra tính đầy
đủ của các bộ chứng từ vận chuyển,…
*Tính phân loại: Các nghiệp vụ bán hàng đã được phân loại thích hợp. Với các
nghiệp vụ bán hàng, phân loại chính xác các nghiệp vụ vào các tài khoản thường
không chứa đựng nhiều vấn đề như các loại nghiệp khác. Tuy nhiên việc kiểm tra
các nghiệp vụ này vẫn cần được kiểm toán viên tiến hành bằng cách xem xét thông
qua sơ đồ tài khoản, hay dấu hiệu của việc kiểm soát nội bộ trên các chứng từ,…
*Tính kịp thời: Các nghiệp vụ bán hàng được ghi sổ kịp thời. Các nghiệp vụ bán
hàng cần được ghi sổ cập nhật để tránh bỏ sót các nghiệp vụ. Kiểm toán viên cần
kiểm tra các chứng từ vận chuyển chưa lập hoá đơn để tìm ra các khoản đã lập hoá
đơn nhưng chưa vào sổ, đồng thời xem xét dấu hiệu kiểm soát nội bộ trên các
chứng từ liên quan.
*Tính chính xác: các nghiệp vụ được vào sổ đúng và cộng dồn chính xác. Việc vào
sổ, cộng dồn và chuyển sổ chính xác phản ánh tương quan giữa bán hàng- thu tiền
và quan hệ giữa hàng- tiền đã thu và còn phải thu, đặc biệt là đối với các khoản
còn tồn đọng.

Kiểm toán viên cần xem xét việc thực hiện các thủ tục phân cách trách
nhiệm, kiểm tra việc lập bảng cân đối bán hàng- thu tiền cho người mua và các
dấu hiệu kiểm soát nội bộ.
*Thực hiện thử nghiệm kiểm soát đối với nghiệp vụ thu tiền
-Các khoản thu tiền ghi sổ thực tế đã nhận.
Kiểm toán viên kiểm tra việc phân cách trách nhiệm giữa người thu tiền và
người ghi sổ, đồng thời xem xét việc thực hiện đối chiếu với ngân hàng trên các tài
khoản có liên quan.
-Khoản chiết khấu đã được xét duyệt đúng đắn, phiếu thu tiền đã được đối chiếu
và ký duyệt.
Kiểm toán viên xem xét quy chế tu tiền hàng, trao đổi với các giám đốc tài
chính hoặc kinh doanh, xem xét giấy báo nhận tiền trước thời hạn, khoả sát trình
tự lập phiếu thu tiền.
22
-Tiền mặt thu được đã được ghi nhận đầy đủ vào Sổ quỹ và nhật ký thu tiền.
Kiểm toán viên tiến hành kiểm tra việc phân cách trách nhiệm giữa thủ quỹ
và nghười ghi sổ; xem xét tính liên tục của các giấy báo nhận tiền hoặc bảng kê
tiền mặt đánh số trước; xem xét dấu hiệu kiểm soát nội bộ; rà soát quan hệ giữa
các séc và bảng kê.
-Các khoản thu tiền đã ghi sổ và đã nộp đều đúng với giá hàng bán
Kiểm toán viên tiến hành khảo sát kế toán chi tiết các khoản phải thu; xem
xét việc thực hiện đối chiếu hàng tháng với ngân hàng.
-Các khoản thu tiền đều được phân loại đúng
Kiểm toán viên xem xét việc tổ chức thực hiện sơ đố tài khoản và các quy
định về đối ứng; xem xét dấu hiệu của kiểm soát nội bộ.
-Các khoản thu tiền ghi đúng thời hạn
Kiểm toán viên xem xét việc tổ chức ghi thu, chế độ báo cáo thu tiền ở các
bộ phận có liên quan; xem xét dấu hiệu kiểm soát nội bộ.
-Các khoản thu tiền ghi đúng vào sổ quỹ, sổ cái và được tổng hợp đúng.
Kiểm toán viên kiểm tra tính độc lập của người ghi sổ quỹ và người thanh

toán; thẩm tra việc gửi các bảng cân đối bán hàng- thu tiền; xem xét dấu hiệu kiểm
soát nội bộ.
b. Thực hiện thủ tục phân tích
*Phát triển một mô hình: Cần xác định các biến tài chính, biến hoạt động và mối
quan hệ giữa chúng. Với mỗi mô hình cần căn cứ vào mục đích cụ thể của việc áp
dụng thủ tục phân tích cũng như các nguồn thông tin về dữ liệu. Việc dự đoán thay
đổi số dư năm nay so với năm trước áp dụng trong trường hợp số dư của năm
trước đã được kiểm toán.
*Xem xét tính độc lập và tin cậy của dữ liệu tài chính và nghiệp vụ: Để đảm bảo
tính trung thực và độc lập của các dữ liệu cần chi tiết hoá các dự tính. Kiểm toán
viên cần xem xét nhiều yếu tố như nguồn dữ liệu, tính kế thừa và phát triển của
các thủ tục kiểm toán, mở rộng phạm vi dữ liệu sử dụng,…
*Ước tính giá trị so sánh và giá trị ghi sổ: Chú ý tới tính thường xuyên của việc
đánh giá mối quan hệ đang được nghiên cứu, biến động tất yếu và biến động bất
thường.
23
*Phân tích nguyên nhân chênh lệch: Nếu có chênh lệch phát sinh, kiểm toán viên
phải tiến hành phân tích và tìm hiểu nguyên nhân chênh lệch
*Xem xét những phát hiện của kiểm toán: Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 520
quy định: “Trường hợp quy trình phân tích phát hiện được những chênh lệch trọng
yếu hoặc mối liên hệ không hợp lý giữa các thông tin tương ứng hoặc có chênh
lệch lớn hơn so với dự tính, kiẻm toán viên phải tiến hành các thủ tục điều tra để
thu thập bằng chứng kiểm toán thích hợp”.
Các thủ tục phân tích cụ thể như sau:
-So sánh doanh thu bán hàng của từng loại hàng hoá, dịch vụ giữa kỳ này
với kỳ trước, tỉ lệ lãi gộp của năm nay so với năm trước.
-So sánh tỉ lệ doanh thu hàng bán bị trả lại, các khoản giảm giá trên doanh
thu kỳ này so với kỳ trước.
-So sánh số dư của các khách hàng có giá trị lớn giữa các kỳ để phát hiện
doanh thu và các khoản phải thu bị ghi khống.

-So sánh tỉ lệ dự phòng các khoản nợ phải thu khó đòi trên tổng doanh thu
hay trên tổng các khoản phải thu khách hàng kỳ này so với kỳ trước để đánh giá
khả năng tài chính của khách hàng và có cơ sở trích lập dự phòng phải thu khó đòi.
-So sánh các khoản thu lớn chưa thanh toán hoặc đá đến hạn, quá hạn chưa
thanh toán năm nay so với năm trước.
-So sánh tỷ lệ phần trăm các khoản phải thu phân loại theo bảng phân tích
tuổi nợ trên tổng các khoản phải thu của năm nay so với năm trước.
-So sánh sự biến động của chỉ tiêu tiền mặt và tiền gửi ngân hàng qua các
năm.
c. Thực hiện thủ tục kiểm tra chi tiết
*Thực hiện thủ tục kiểm tra chi tiết đối với doanh thu bán hàng: dựa trên các mục
tiêu sau:
-Doanh thu bán hàng được ghi sổ là có thật
-Doanh thu được ghi sổ đầy đủ
-Doanh thu được phê chuẩn đúng đắn
-Doanh thu được tính toán đúng đắn
-Doanh thu được phân loại đúng đắn
24
-Doanh thu được ghi chép đúng kỳ
-Doanh thu được tổng hợp và chuyển sổ đúng đắn
*Thực hiện thủ tục kiểm tra chi tiết đối với các khoản thu tiền mặt: Kiểm toán viên
hướng tới các mục tiêu:
-Các khoản thu tiền thực tế đã nhận
-Các khoản chiết khấu được xét duyệt đúng đắn, phiếu thu tiền được đối
chiếu và ký duyệt.
-Tiền mặt được ghi đầy đủ vào sổ quỹ và các nhật ký thu tiền
-Các khoản tiền đã ghi sổ và đã nộp đúng với giá hàng bán
-Các khoản thu tiền đều được phân loại đúng.
-Các khoản thu tiền được ghi sổ kịp thời
-Các khoản thu tiền ghi đúng vào sổ cái, sổ quỹ và được tổng hợp đúng.

* Thực hiện thủ tục kiểm tra chi tiết đối với các khoản phải thu
-Số dư các tài khoản bán hàng và thu tiền đều hợp lý
-Các khoản phải thu trong bảng kê hoặc bảng cân đối thu tiền theo thời hạn
khớp đúng với sổ theo dõi thu tiền và số tổng cộng được chuyển đúng vào sổ cái
-Các khoản phải thu trong bảng kê hoặc bảng cân đối thu tiền theo thời hạn
đều có thật
-Các khoản phải thu hiện hữu đều đã được ghi sổ
-Các khoản phải thu khách hàng thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp
-Các khoản phải thu trong bảng kê hoặc bảng cân đối theo thời hạn đều
được tính giá đúng
-Các khoản phải thu được phân loại đúng đắn
-Các khoản phải thu được ghi sổ đúng kỳ
1.2.3.3. Kết thúc kiểm toán
Kết thúc kiểm toán chu trình Bán hàng- Thu tiền là việc tổng hợp các thông
tin đã thu được để đi đến một kết luận chung về sự trình bày các khoản mục có
liên quan đến chu trình Bán hàng- Thu tiền trên báo cáo tài chính có trung thực và
hợp lý hay không. Để đưa ra kết luận cuối cùng, kiểm toán viên cần thực hiện các
thủ tục bổ sung sau:
25

×