Barry Field & Nancy Olewiler
234
CHƯƠNG 7
PHÂN TÍCH LỢI ÍCH – CHI PHÍ: LỢI ÍCH
Lợi ích của một vật nào đó bằng đúng với những gì mà người ta sẵn lòng trả để có nó, với
những giả định cho trước về phân phối thu nhập và thông tin sẵn có. Đường thiệt hại biên
(MD) trong mô hình MAC-MD thể hiện giá sẵn lòng trả của xã hội để giảm lượng phát
thải từ một chất ô nhiễm và do đó cải thiện chất lượng môi trường
1
. Đường MD lúc này
tương tự như đường cầu cho hàng hóa thông thường, nhưng dĩ nhiên sẽ dốc đứng bởi vì
hàng hóa được đo lường là hàng hóa không mong muốn và phúc lợi của chúng ta tăng khi
sử dụng ít hàng hóa này. Tổng lợi ích được đo lường bằng diện tích nằm dưới đường MD,
giới hạn bởi điểm thiệt hại biên bằng 0 và mức ô nhiễm mục tiêu như đã trình bày ở
chương 5. Đây là phần thiệt hại giảm được do giảm ô nhiễm/cải thiện chất lượng môi
trường (EQ). Chương này khảo sát các kỹ thuật nhằm đánh giá giá sẵn lòng trả (WTP) để
giảm ô nhiễm. Một thách thức mà chúng ta phải đối đầu là không có thị trường cho người
mua và bán chất lượng môi trường, do đó chúng ta không thể sử dụng những kỹ thuật trực
tiếp dùng thị trường để đánh giá lợi ích. Chúng ta phải sử dụng những kỹ thuật gián tiếp.
Một nhà kinh tế học môi trường từng nói: “Công việc ước lượng lợi ích thường gồm việc
thăm dò nhằm lắp ráp các giá trị mà cá nhân gán cho dịch vụ môi trường khi họ phản ứng
với các tín hiệu kinh tế khác”
2
.
Có nhiều mức độ trong việc đánh giá giá trị lợi ích. Đối với một nhà phân tích làm việc
cho một văn phòng môi trường thì đánh giá giá trị lợi ích là công việc thế số vào các công
thức. Diện tích đất ngập mặn nuôi nghêu bị giảm (do các nhà sinh học cung cấp) nhân với
giá nghêu hiện hành trên thị trường (lấy được từ một cuộc khảo sát nhanh tại chợ) sẽ bằng
với giá trị thiệt hại của ô nhiễm nước ở Howe Sound hay vịnh Fundy. Trong trường hợp
này, giá thị trường của một hàng hóa rõ ràng phản ánh giá sẵn lòng trả của người tiêu dùng
cho hàng hóa đó như đã thảo luận ở chương 3. Có thể dùng đường cầu thị trường để xác
định tổng lợi ích (diện tích dưới đường cầu) của việc giảm ô nhiễm. Lợi ích này bằng với
việc giảm tổng thiệt hại (diện tích dưới đường MD).
Có thể dùng giá thị trường để đánh giá giá trị thiệt hại của một hàng hóa thị
trường bởi vì giá thị trường đại diện giá sẵn lòng trả biên cho hàng hóa đó.
Nhìn khía cạnh khác, các nhà kinh tế học môi trường đang tìm cách giải quyết với tất cả
các loại hàng hóa môi trường không có giá trên thị trường bằng cách đo WTP cho ô nhiễm
giảm/chất lượng môi trường tăng. Họ phát triển các phương pháp đo lường WTP và xây
dựng đường MD (hoặc khái niệm tương đương là đường cầu cho cải thiện chất lượ
ng môi
trường).
1
Nhớ rằng chúng ta đang bàn về phát thải ô nhiễm; mối liên hệ giữa lượng phát thải giảm được và chất lượng
môi trường tăng khá phức tạp bởi vì chúng ta phải biết ảnh hưởng của lượng phát thải lên chất lượng môi
trường xung quanh, đặc biệt đối với những chất thải tích tụ. Để cho đơn giản, ta tiếp tục giả định mối quan hệ
trực tiế
p giữa lượng phát thải giảm và chất lượng môi trường tăng.
2
Myrick Freeman III, “Benefits of Pollution Control in U.S. Environmental Protection Agency, Critical
Review of Estimating Benefits of Air and Water Pollution Control, Washington, D.C., EPA 600/5-78-014,
1978, pp. II-16
Barry Field & Nancy Olewiler
235
Đánh giá thiệt hại của một loại hàng hóa phi thị trường do ô nhiễm cần phải có
phương pháp tính toán giá sẵn lòng trả biên cho việc giảm ô nhiễm/cải thiện
chất lượng môi trường bởi vì giá thị trường của hàng hóa này không hiện hữu.
Chương này cung cấp danh sách các kỹ thuật khác nhau để đánh giá WTP cho việc giảm ô
nhiễm/cải thiện chất lượng môi trường. Không có phương pháp nào áp dụng được cho mọi
trường hợp.
Có thể phân các kỹ thuật này thành 2 cách tiếp cận:
- Cách tiếp cận dùng giá thị trường để phản ánh WTP. Cách này đo lường thiệt hại
dưới dạng mất mát thu nhập hoặc sản lượng, năng suất bị giảm, và chi tiêu cần thiết
để bù đắp thiệt hại môi trường. Thuật ngữ thường được dùng là phương pháp đo
lường WTP trực tiếp.
- Cách tiếp cận tính WTP của cá nhân thông qua hành vi tiêu dùng của họ hoặc hỏi
trực tiếp. Cách này được sử dụng khi không có thị trường thực hoặc giá thị trường
phần nào phản ánh được giá trị môi trường. Thuật ngữ thường được dùng là
phương pháp đo lường WTP gián tiếp.
Bảng 7.1 liệt kê danh sách các kỹ thuật đánh giá cho các vấn đề môi trường tương ứng.
Chúng ta bắt đầu bằng việc trình bày các phương pháp thiệt hại kinh tế (economic damage
approaches), tập trung vào lĩnh vực giá trị sức khỏe.
ƯỚC LƯỢNG THIỆT HẠI KINH TẾ
Suy thoái môi trường gây ra thiệt hại; mô hình kiểm soát phát thải trong chương 5 dựa một
phần trên mối quan hệ giữa phát thải và thiệt hại biên – hàm số MD. Do đó ta có thể thấy
một cách trực tiếp là lợi ích của việc cải thiện chất lượng môi trường đến từ việc giảm thiệt
hại. Để đo lường một hàm số thiệt hại do phát thải, chúng ta phải thực hiện các bước sau:
1. Đo lượng phát thải,
2. Xác định chất lượng môi trường xung quanh lượng phát thải đó,
3. Ước lượng lượng ảnh hưởng đến con người,
4. Đo lường ảnh hưởng (sức khỏe, mỹ quan, giải trí, hệ sinh thái v.v.),
5. Ước lượng giá trị của các ảnh hưởng này.
Bảng 7.1: Các phương pháp đánh giá giá trị lợi ích
Phương pháp Ứng dụng môi trường
Phương pháp trực tiếp (sử dụng giá thị trường)
Ảnh hưởng ô nhiễm đến sức khỏe 1. Thay đổi năng suất
Ảnh hưởng ô nhiễm lên đến nông nghiệp,
tài nguyên thiên nhiên
2. Chi phí chăm sóc sức khỏe Ảnh hưởng ô nhiễm đến sức khỏe
3. Thiệt hại vốn nhân lực Ảnh hưởng ô nhiễm đến sức khỏe
Barry Field & Nancy Olewiler
236
Thiệt hại ô nhiễm gây ra cho cơ sở vật chất 4. Chi phí thay thế/phục hồi thiệt hại tài
sản, kinh doanh
Thiệt hại hệ sinh thái (ví dụ tràn dầu)
Phương pháp gián tiếp (sử dụng giá sẵn lòng trả)
1. Chi tiêu bảo vệ/giảm thiệt hại Ảnh hưởng của ô nhiễm không khí, nước,
tiếng ồn, tầm nhìn đến người tiêu dùng, các
ngành công nghiệp, hệ sinh thái
2. Đánh giá hưởng thụ
Giá trị tài sản Ô nhiễm không khí, ô nhiễm tiếng ồn, bãi
chứa chất thải độc hại
Sự chênh lệch lương Ảnh hưởng ô nhiễm đến sức khỏe
3. Thị trường đại diện
Chi phí du hành Lợi ích giải trí từ việc nâng cao chất lượng
môi trường
“Hàng hóa xanh” Hàng hóa thân thiên môi trường thay thế
cho hàng hóa có hàm lượng ô nhiễm cao
(chẳng hạn giấy có thể tái chế)
4. Đánh giá ngẫu nhiên Chất lượng môi trường hiện tại và tương lai
Tất cả các loại ô nhiễm
Ba bước đầu tiên của quy trình là phần công việc của các nhà kỹ thuật. Mô hình trình bày
mối quan hệ giữa mức phát thải và chất lượng môi trường xung quanh thường được gọi là
mô hình khuếch tán (diffusion models). Nhà kinh tế học có thể tham gia vô bước thứ tư,
nhưng vẫn cần phối hợp với các nhà sinh vật học và các nhà dịch tễ học. Liên kết giữa
bước 3 và 4 thường được gọi là hàm số liều lượng - đáp ứng (dose – response function)
Nghĩa là hàm này ước lượng phản ứng dưới dạng tử vong hoặc bệnh tật của con người với
các mức phơi nhiễm khác nhau của chất gây ô nhiễm môi trường. Bước 5 là nơi nhà kinh
tế học thể hiện mạnh mẽ vai trò của mình bằng việc đánh giá giá trị của các mức ảnh
hưởng khác nhau được xác định từ các bước trước. Nói chung đây là bước có nhiều thách
thức như chúng ta sẽ thấy ở các phần tiếp theo.
Ước lượng trực tiếp thiệt hại kinh tế
Thiệt hại sức khỏe
Tất cả các dạng ô nhiễm đều có ảnh hưởng bất lợi tới sức khỏe. Ví dụ người ta cho rằng ô
nhiễm không khí làm tăng tỷ lệ tử vong và bệnh tật cho người tiếp xúc, do cả việc tiếp xúc
chất độc hại và tiếp xúc lâu dài với những loại ô nhiễm như SO
2
hay bụi. Các loại bệnh
như viêm cuống phổi, khí thũng, ung thư phổi cũng được cho rằng một phần là do ô nhiễm
không khí. Người ta tính được giá trị thiệt hại sức khỏe do ô nhiễm không khí lên đến hàng
tỷ đô la mỗi năm. Ô nhiễm nước cũng gây ra thiệt hại cho sức khỏe, chủ yếu thông qua các
nguồn cung cấp nước sinh hoạt bị nhiễm bẩn. Do đó đo lường thiệt h
ại sức khỏe từ ô
nhiễm môi trường là công việc quan trọng của các nhà kinh tế môi trường.
Nền tảng của công việc đánh giá này là hàm số liều lượng - đáp ứng diễn tả mối quan hệ
giữa sức khỏe con người và quá trình tiếp xúc với chất ô nhiễm môi trường. Có rất nhiều
yếu tố tác động đến sức khỏe con người bên cạnh mức ô nhiễm môi trường xung quanh
như cách s
ống, ăn uống, di truyền, tuổi tác. Để tách biệt tác động của ô nhiễm, hoặc người
ta phải đưa vào tất cả các biến số khác hoặc phải chịu rủi ro tính toán tác động của ô nhiễm
Barry Field & Nancy Olewiler
237
trong khi thực sự thiệt hại sức khỏe lại bị các biến số khác tác động. Điều này yêu cầu một
số lượng lớn dữ liệu chính xác liên quan đến các tác động sức khỏe cũng như các dữ liệu
cho các yếu tố tác động khác. Một số số liệu như chất lượng nước hay không khí, thống kê
về tử vong v.v. có thể tìm thấy trong các tài liệu thống kê nhưng thường rất tổng quát, khó
đem lại kết quả chính xác. Tương tự, mặc dù số liệu thống kê có thể cung cấp thông tin đại
loại như mức ô nhiễm không khí trung bình trong một khu vực của thành phố, nó cũng
không thể cho biết dữ liệu chính xác về lượng ô nhiễm một cá nhân tiếp xúc vì còn phụ
thuộc vào cá nhân đó sống bao nhiêu lâu trong môi trường đó. Trong xã hội hiện đại ngày
nay càng khó để có số liệu chính xác về lượng tiếp xúc ô nhiễm của con người, bởi vì họ
có thể sống ở nhiều nơi trong suốt cuộc đời. Các nhà dịch tễ học đã có rất nhiều kinh
nghiệm với các loại dữ liệu chéo, thông tin từ các cuộc phỏng vấn kỹ lưỡng về cách sống,
thói quen tiêu dùng, các nơi đã sống v.v. Một số nghiên cứu đã được thực hiện nhằm ước
lượng tình trạng tử vong hoặc bệnh t
ật giảm bao nhiêu khi giảm ô nhiễm. Đo lường bệnh
tật thường quan sát các chỉ số như số ngày nghỉ làm việc hoặc số ngày ảnh hưởng bởi sức
khỏe kém. Không có kết quả chung về ước lượng ảnh hưởng của ô nhiễm không khí hay ô
nhiễm nước. Một kết luận chung có thể thấy là kết quả thường phụ thuộc nhiều vào dữ liệu
sử dụng trong mô hình và cách thứ
c xử lý số liệu này, nghĩa là chúng ta vẫn thực sự không
chắc chắn về mối liên kết chính xác giữa ô nhiễm không khí và tỷ lệ tử vong và bệnh tật.
Sau khi nghiên cứu mô hình liều lượng - đáp ứng, công việc chính của nhà kinh tế học là
tính toán giá trị của các ảnh hưởng sức khỏe. Chúng ta làm thế nào để tính giá trị cho một
cuộc sống bị rút ngắn hay tình trạng suy nhược sức khỏe do phơi nhiễm các chất ô nhiễm
môi trường? Phản ứng đầu tiên thường là phương pháp này không chấp nhận đuợc về mặt
đạo đức khi cố gắng gáo giá trị tiền tệ cho sinh mạng con người. Cuộc sống con người có
giá không? Ở một khía cạnh nào đó, câu trả lời là có. Nếu bạn hỏi một người đi đường
cuộc sống của anh ta đáng giá bao nhiêu, bạn có thể sẽ không có câu trả lời bởi vì câu hỏi
dường như đã vi phạm những tiêu chuẩn đạo đức thông thường. Tuy nhiên, xã hội như là
một tổng thể, nghĩa là chúng ta hành động tập thể, không ứng xử như vậy. Thật sự thông
qua cách chúng ta ra quyết định và hành xử tập thể, chúng ta ngầm gán giá trị cho cuộc
sống con người. Rõ ràng nhất là xem cách kiểm soát giao thông. Mỗi năm, hàng ngàn
người bị chết trên đường quốc lộ. Nhưng chúng ta đâu thấy một lượng tiền lớn đổ ra để
thiết kế lại quốc lộ, làm chậm giao thông lại hoặc sản xuất xe cộ an toàn hơn. Đó là vì
chúng ta đã ngầm đánh đổi giữa số người chết do tai nạn giao thông và các tác động giao
thông khác, đặc biệt là lợi ích đi lại nhanh chóng thuận tiện. Tương tự chúng ta có thể kể
đến những công nghệ hoặc hoạt động rủi ro khác mà chúng ta thường thấy. Do đó, có lý
khi chúng ta nghiên cứu giá trị mà xã hội thực sự gán cho cuộc sống và sức khỏe con
người trong hoạt động hàng ngày.
Trong nhiều năm, thủ tục chuẩn để đánh giá thiệt hại sức khỏe như sau:
- Xem xét năng suất lao động của công nhân giảm cùng với sức khỏe giảm và cuộc
sống bị rút ngắn làm giảm vốn nhân lực;
- Chi tiêu chăm sóc sức khỏe tăng.
Chẳng hạn chúng ta có thể cố đánh giá giá trị cuộc sống bằng cách xem xét những đóng
góp kinh tế bị mất đi do không còn sống nữa. Trong suốt cuộc đời làm việc, một người có
thể đóng góp vào quá trình sản xuất hàng hóa và dịch vụ mà xã hội tiêu dùng. Khi người
đó chết, quá trình sản xuất dừng lại; do đó chúng ta có thể tính được giá trị sản xuất người
đó có thể tạo ra nếu người đó còn sống. Giá trị sản xuất bị mất có thể thay đổi theo hàm số
Barry Field & Nancy Olewiler
238
của tuổi tác, kỹ năng và quá trình làm việc, do đó chúng ta có thể tính giá trị trung bình cho
những nhóm người khác nhau. Bệnh tật hay mất khả năng làm việc do ô nhiễm cũng làm
giảm vốn nhân lực của một người và do đó là khả năng kiếm thu nhập của người đó. Ví dụ
trẻ em bị tổn thương thần kinh do chì (từ xăng pha chì, màu vẽ) hoặc thủy ngân (cá bị
nhiễm thủy ngân, thủy ngân trong nước) trong môi trường sẽ không có khả năng trí tuệ mà
chúng có được nếu sống trong môi trường sạch hơn.
Một phương pháp khác được dùng để đo thiệt hại sức khỏe là tính chi phí y tế. Vì ô nhiễm
tăng gây thiệt hại sức khỏe, chúng ta có thể ước lượng chi phí y tế tăng cho bệnh viện, bác
sĩ, và quá trình phục hồi. Giảm ô nhiễm do đó làm giảm chi phí y tế, nghĩa là lợi ích của
thay đổi chất lượng môi trường.
Mất mát sản lượng và thiệt hại thiết bị
Ô nhiễm không khí có thể làm giảm sản lượng nông sản thu hoạch ở những nơi bị tác
động; nó cũng có thể làm giảm tốc độc tăng trưởng của rừng trồng lấy gỗ. Ô nhiễm nước
có thể ảnh hưởng đến việc sử dụng nước trong sản xuất cũng như sinh hoạt của công ty
hoặc người dân. Chất lượng nước giảm cũng ảnh hưở
ng xấu đến ngành công nghiệp đánh
bắt thủy sản. Ô nhiễm đất gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất nông nghiệp. Ô nhiễm
nơi làm việc có thể làm giảm hiệu suất làm việc của công nhân và làm máy móc nhà xưởng
xuống cấp nhanh hơn. Trong những trường hợp này ta có thể nhận biết ảnh hưởng của ô
nhiễm lên sản xuất hàng hóa và dịch vụ. Sở dĩ có thiệt hại là vì ô nhiễm bằng nhiều cách
can thiệp vào quá trình sản xuất, làm cho sản phẩm làm ra tốn nhiều chi phí hơn. Cách
chúng ta ước lượng lợi ích sản xuất liên quan đến việc giảm ô nhiễm phụ thuộc vào từng
hoàn cảnh khác nhau.
Ví dụ: Tăng sản lượng nông nghiệp do giảm ô nhiễm
Một nhóm nhỏ nhà sản xuất nông nghiệp ở thung lũng B.C.’s Fraser bị ảnh hưởng bởi khói
thải từ một nhà máy trong khu vực. Chất ô nhiễm của nhà máy làm giảm sản lượng thu
hoạch, do đó giảm phát thải sẽ làm tăng sản lượng. Sản phẩm thu hoạch được bán ở thị
trường trong nước, và giá sẽ không bị ảnh hưởng bởi sản lượng thay đổi trong vùng. Hình
7.1 minh họa tình huống này. Trong đồ thị, S
1
(= MC
1
) là đường cung (chi phí biên) của
các nhà sản xuất nông nghiệp này trước khi cải thiện chất lượng không khí. S
2
(= MC
2
) là
đường cung (chi phí biên) sau khi cải thiện. Giá sản phẩm là p
1
. Trước khi thay đổi, mức
sản lượng là q
1
, sau thay đổi sản lượng tăng lên q
2
.
Một cách để ước lượng lợi ích cải thiện môi trường là đo lường giá trị sản lượng tăng thêm
cho các nhà sản xuất này. Sản lượng tăng thêm đơn giản nhân với giá nông sản cho ước
lượng tương đương với diện tích (d+e) trong hình 7.1.
Nhưng giá trị sản lượng tăng lên không tương ứng với khái niệm căn bản của mô hình, là
WTP cho cải thiện chất lượng môi trường. Giá trị sản lượng tăng thêm có vấn đề là nó
không phải là lợi ích ròng cho nông dân và do đó không đo lường được WTP. Lợi ích ròng
là thu nhập ròng
3
. Chi phí sản xuất có thể thay đổi nên phải được loại trừ ra khỏi tính toán.
Khi ô nhiễm không khí giảm, có thể nông dân tăng sử dụng nhập lượng nào đó và canh tác
thâm canh hơn. Làm thế nào chúng ta kiểm soát được những vấn đề này?
3
Trong ví dụ này, thu nhập ròng bằng với lợi nhuận hoạt động (tổng doanh thu trừ chi phí hoạt động) vì
không có chi phí sản xuất cố định.
Barry Field & Nancy Olewiler
239
Hình 7.1: Lợi ích giảm chi phí sản xuất
Sử dụng thu nhập ròng của nông dân (tổng giá trị sản lượng trừ tổng chi phí sản xuất), thay
đổi tổng thể này được tính như sau.
Tính thu nhập ròng:
Trước khi thay đổi:
Tổng giá trị sản lượng: a + b + c
Tổng chi phí: b + c
Thu nhập ròng: a
Sau khi thay đổi:
Tổng giá trị sản lượng: a + b + c + d + e
Tổng chi phí: c + e
Thu nhập ròng: a + b + d
Do đó thu nhập ròng tăng (a + b + d) – a, bằng diện tích (b + d) trong hình 7.1. Diện tích
trên đuờng cung và dưới đường giá, giới hạn bởi sản lượng (nghĩa là từ 0 đến q
1
hoặc q
2
)
được gọi là thặng dư sản xuất. Thặng dư sản xuất được hiểu là thu nhập ròng (lợi ích ròng)
của nhà sản xuất. Với giá thị trường cố định và chi phí biên tăng (đường cung dốc lên), nhà
sản xuất có thu nhập ròng lớn hơn 0 đối với tất cả các đơn vị sản lượng cho đến đơn vị sản
lượng cuối cùng (q
1
hoặc q
2
) nơi giá bằng với chi phí biên trong thị trường cạnh tranh.
Phần thu nhập ròng tăng lên do giảm chi phí sản xuất là thay đổi thặng dư sản xuất ròng: từ
q
1
đến q
2
là diện tích b + d. Đây là giá tối đa nông dân sẵn lòng trả để giảm ô nhiễm và do
đó có thể hiểu đó là lợi ích của họ có được từ giảm thiệt hại do ô nhiễm (diện tích dưới
đường MD).
Thường thì khó có thể có được số liệu cần thiết để ước lượng đường cung, nhưng có thể
thấy dễ có được thông tin vể lợi nhuận hoạt động hơn. Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu đo
$
P
1
q
1
q
2
a
b
c
d
e
S
1
=MC
1
S
2
=MC
2
Sản lượng
Đường cung dịch chuyển từ S
1
tới S
2
diễn tả lợi ích từ giảm chi phí sản xuất do chất lượng
môi trường tốt hơn. Giá trị sản lượng tăng thêm từ q
1
tới q
2
là diện tích d cộng e. Nếu
nông dân cũng tăng nhập lượng, tổng lợi ích sẽ là sự gia tăng thu nhập ròng do cải thiện
chất lượng môi trường. Đó là diện tích (a+b+d) trừ diện tích a, còn lại (b+d), gọi là thay
đổi thặng dư sản xuất.
Barry Field & Nancy Olewiler
240
lường thay đổi sản lượng chứ ít khi là thay đổi thặng dư sản xuất (thu nhập ròng của nhà
sản xuất). Có một số nghiên cứu làm theo cách này.
4
Moskowitz và cộng sự
5
nghiên cứu
ảnh hưởng của ôn nhiễm không khí lên cỏ linh lăng ở Hoa Kỳ. Họ đo lường sản lượng
giảm vì ô nhiễm không khí và đánh giá giá trị phần sản lượng giảm này dựa trên giá thị
trường hiện hành của cỏ linh lăng. Họ kết luận rằng trong năm 1974 ô nhiễm không khí
gây ra thiệt hại ước tính từ 24 triệu đến 210 triệu đô la Canada. Sở dĩ có chênh lệch trong
kết quả là vì các nhà nghiên cứu không chắc chắn liều lượng ô nhiễm mà cỏ linh lăng phải
chịu trong năm đó. Một nghiên cứu khác do Page và cộng sự
6
thực hiện đã đo lường thiệt
hại sản lượng do ô nhiễm không khí tại 6 bang. Họ ước tính thiệt hại hàng năm trong sản
xuất đậu nành, lúa mì, bắp và sau đó tổng hợp lại để tính giá trị hiện tại ròng của tổng thiệt
hại cho giai đoạn 1976-2000. Kết quả ước lượng cuối cùng là khoảng 7 tỷ đô la Canada.
Có một số nghiên cứu thực hiện ở Canada v
ề ảnh hưởng của tầng ozon thấp lên sản lượng
nông nghiệp
7
. Khí ozon được xem là tác nhân ô nhiễm không khí gây thiệt hại nhiều nhất
cho nông nghiệp ở Canada. Giá trị sản lượng nông nghiệp giảm hàng năm ở Ontario
khoảng từ 17 triệu đô đến 70 triệu đô la Canada, tùy thuộc vào năm nghiên cứu. Nguyên
nhân của khoảng ước lượng quá lớn là do số ngày có khí ozon đo được thay đổi theo năm.
Ước lượng thiệt hại sản lượng trong thung lũng Fraser vào khoảng 8.8 triệu đô la Canada
hàng năm.
Ô nhiễm không khí gây thiệt hại lên các bề mặt tiếp xúc, bề mặt kim loại của máy móc, bề
mặt đá của các tòa nhà và tượng đài và bề mặt sơn của tất cả các loại vật dụng. Chất gây ô
nhiễm nặng nề nhất là hợp chất Sulphur, bụi, chất gây ô xi hóa và ôxít nitơ. Trong hầu hết
trường hợp, thiệt hại do vật dụng xuống cấp phải được bù đắp bằng tăng bảo dưỡng và thay
thế. Đối với trường hợp những công trình điêu khắc ngoài trời, thiệt hại là chất lượng mỹ
quan của vật thể bị giảm.
Trong trường hợp này mối quan hệ liều lượng - đáp ứng cho thấy sự xuống cấp liên quan
đến việc phơi nhiễm thay đổi theo lượng chất ô nhiễm không khí. Có thể nghiên cứu mối
quan hệ vật lý căn bản trong phòng thí nghiệm, nhưng khi áp dụng cho một khu vực cụ thể
cần phải có dữ liệu số lượng vật liệu phơi nhiễm trong khu vực đó thay đổi như thế nào. Từ
đó có thể ước lượng tổng lượng vật liệu bị xuống cấp trung bình trong một năm phơi
nhiễm không khí trong khu vực, với lượng tiếp xúc “bình thường” các loại chất gây ô
nhiễm khác nhau. Sau đó ta có thể gán giá trị cho sự xuống cấp. Sử dụng chặt chẽ phương
pháp hàm thiệt hại, chúng ta có thể có thể ước lượng chi phí bảo dưỡng tăng (lao động,
sơn) cần thiết để ngăn chặn sự xuống cấp
8
.
4
Các nghiên cứu này được tóm lược trong cuốn Gardner M. Brown Jr. và Mark L. Plummer, “Market
Measures of User Benefits”, trong Acid Deposition: State of Science and Technology, Report 27, Methods for
Valuing Acidic Deposition and Air Pollution Effects (Washington, D.C., U.S. Superintendent of Document:
National Acid Precipitation Assessment Program, 1990) 27-35 to 27-73.
5
Paul D. Moskowitz et al., “Oxidant Air Pollution: A Model for Estimating Effects on U.S. Vegetation”,
Journal of Air Pollution Control Association 32(2)(February 1982): 155-160.
6
Walter P. Page et al., “Estimation fo Economic Losses to the Agricultural Sector from Airbone Residuals in
the Ohio River Basin”, Journal of Air Pollution Control Association, 32(2) (February 1982): 151-154.
7
Những nghiên cứu này được trích trong cuốn Environment Canada, Ground-Level Ozone in Canada, A
State of Environment Fact Sheet, No. 92-1, Catalogue No. EN1-12/92-1E (Ottawa: Ministry of Supply and
Services, 1992), 4.
8
Phương pháp này được trích từ R. L. Horst et al., A Damage Function Assessment of Bilding Materials:
The Impact of Acid Deposition (Whashington, D.C. Environmental Protection Agency, 1986)
Barry Field & Nancy Olewiler
241
Các vấn đề đối với phương pháp đo lường thiệt hại trực tiếp
Lợi ích của việc sử dụng phương pháp ước lượng thiệt hại trực tiếp là các phương pháp này
dùng giá thị trường để đánh giá. Vấn đề căn bản là kết quả luôn luôn không hoàn toàn và
luôn dưới giá trị thiệt hại thực. Xem xét trường hợp đo lường thiệt hại sức khỏe thông qua
sản lượng giảm và chi phí y tế. Phương pháp này đo lường giá trị thị trường của hàng hóa
và dịch vụ mà một người có thể làm ra. Do đó có rất nhiều đóng góp phi thị trường mà
người đó tạo ra, cả trong và ngoài nhà anh ta, thì không được tính. Phương pháp này cho
rằng bất cứ ai không thể làm việc hoặc nghỉ hưu thì có giá trị bằng không. Cũng có câu hỏi
là vậy có nên trừ tiêu dùng của một người ra khỏi phần sản phẩm anh ta làm ra để đo lường
đóng góp ròng thực. Điều này có vẻ hợp lý, nhưng sẽ dẫn đến một kết luận nguy hiểm-
chẳng hạn một người hưởng phúc lợi xã hội chết sớm sẽ đem lại lợi ích cho xã hội. Có rất
nhiều lợi ích vật chất và tinh thần mà những người khác như bạn bè họ hàng nhận được thì
phương pháp này lại không tính đến. Nó cũng không tính đến những đau khổ và chịu đựng
do bệnh tật đem đến. Do đó mặc dù phương pháp nghiên cứu sản lượng (productivity
study appoach) này có thể dùng được trong một số tình huống, nó có thể đem lại kết quả
sai lạc trong nhiều tình huống khác bởi vì nó không hoàn toàn phản ánh giá sẵn lòng trả.
Chẳng hạn trường hợp sử dụng chi phí y tế để ước lượng thiệt hại do chất lượng môi
trường giảm. Bệnh hen suyễn do khói bụi ở đô thị có thể làm một người phụ nữ tốn 300 đô
la Canada một ngày vào tiền thuốc và chi phí chữa trị ở bệnh viện nếu bị bệnh nặng. Trong
khi chúng ta tính 300 đô la Canada một người một ngày có nhiều khói bụi nhân với tất cả
số người bị ảnh hưởng có thể tạo ra giá trị thiệt hại lớn, chúng ta không nghi ngờ gì rằng
đây là con số dưới mực giá trị thực của nó. Nếu chúng ta hỏi người bị hen suyễn rằng
người đó sẵn lòng trả bao nhiêu để không bị bệnh hoặc muốn bồi trường bao nhiêu nếu bị
bệnh, câu trả lời sẽ đem lại giá trị cao hơn chi phí y tế. Tương tự, ước lượng thiệt hại vật
chất không tính đến mất mát vẻ đẹp mỹ quan; giảm sản lượng nông nghiệp không đo lường
thiệt hại cho đa dạng sinh học hoặc cho cả hệ sinh thái. Điểm chính yếu là
Đo lường trực tiếp không hoàn toàn phản ánh giá sẵn lòng trả của con người
WTP cho việc cải thiện chất lượng môi trường.
GIÁ SẴN LÒNG TRẢ
Như đã đề cập ở trên, hàm thiệt hại biên chỉ ra thiệt hại cho con người hoặc các yếu tố
khác của hệ sinh thái thay đổi như thế nào khi tiếp xúc với ô nhiễm hoặc thay đổi môi
trường. Thiệt hại có thể xảy ra dưới nhiều hình thức, từ thiệt hại vật chất trực tiếp, chẳng
hạn thiệt hại sức khỏe, đến ảnh hưởng m
ỹ quan môi trường (ví dụ cản trở tầm nhìn, thiệt
hại tinh thần). Nói cách khác, thuật ngữ “thiệt hại” bao gồm tất cả các tác động bất lợi của
chất thải. Từ một quan điểm khác, hàm thiệt hại biên cho chật ô nhiễm tăng thêm tương tực
với hàm cầu/giá sẵn lòng trả cho việc giảm phát thải. Nếu chất thải tăng lên một lượng nhỏ
tạo ra thiệt hại có giá $10 cho một người, giá sẵng lòng trả của anh ta để giảm lượng phát
thải đó sẽ khoảng $10. Do đó chúng ta sẽ tập trung thảo luận giá sẵn lòng trả cho cải thiện
chất lượng môi trường
9
.
9
C hai cách để đo lường giá trị thiệt hại của môi trường đối với con người: giá sẵn lòng trả của họ để tránh
thiệt hại hoặc giá sẵn lòng chấp nhận (WTA) đề bù thiệt hại. Trên lý thuyết, cả 2 cách này đều cho kết quả
gần nhau, nhưng khác nhau bởi tác động của thu nhập. Tuy nhiên, các nghiên cứu thực tế cho thấy kết quả
WTP và WTA rất khác nhau, trong đó WTA luông lớn hơn WTP. Xem Knetsch (1994) về vấn đề
này. Chúng
ta sẽ trở lại vấn đề này ở phần cuối chương này.
Barry Field & Nancy Olewiler
242
Đo lường WTP bằng thay đổi thặng dư tiêu dùng
Trong phân tích lợi ích chi phí, phần chúng ta qun tâm chủ yếu là lợi ích. Một khái niệm
các nhà kinh tế học thường sử dụng là thặng dư tiêu dùng.
Thặng dư tiêu dùng đo lường lợi ích ròng của một người có được từ tiêu dùng
một lượng hàng hóa.
Đầu tiên thặng dư sản xuất thường được minh họa cho hàng hóa tư nhân, hàng hóa mà giá
thị trường phản ánh giá sẵn lòng trả, rồi sau đó mới dùng cho hành hóa công, chẳng hạn
chất lượng môi trường, là hàng hóa mà chúng ta phải suy ra “giá” từ WTP.
Xác định thặng dư tiêu dùng cho hàng hóa tư nhân
Trong trường hợp hàng hóa tư nhân, thặng dư tiêu dùng là sự khác nhau giữa giá sẵn lòng
trả cho một lượng hàng hóa và giá mà người đó thực trả
10
.
Hình 7-2 minh họa cầu về táo của một người (và như vậy giống với đường cầu trong hình
7-1). Giả sử giá thị trường của táo là $3/kg. Từ đường cầu có thể thấy người tiêu dùng sẽ
mua 4kg táo với giá này. Bây giờ ta sẽ xem lợi ích ròng của người này khi mua 4kg táo.
Anh ta sẵn lòng trả $4.5 cho kilogram táo đầu tiên. Chúng ta có thễ thấy điều này trên
đường cầu hoặc suy ra từ đường cầu đảo ở chương 3 (P = 5 – 0.5Q
D
). Điều đó có nghĩa lợi
ích ròng của người này là $1.5, bằng giá sẵn lòng trả $4.5 trừ giá mua $3.0. Kilogram táo
thứ 2 sẽ có lợi ích ròng là $1 và thứ 3 là $0.5 và thứ 4 bằng 0 do lợi ích ròng lúc này bằng
với giá. Do đó thặng dư tiêu dùng được tính là tổng cộng tất cả lợi ích ròng từ 0 cho tới
lượng táo tiêu thụ. Đó chính là diện tích nằm dưới đường cầu, trên đường giá, giới hạn bởi
lượng táo tiêu thụ từ 0 đến 4kg (diện tích a). Chúng ta có thể dễ dàng tính diện tích này, đó
là tam giác có đáy bằng 4 và đường cao bằng $2, kết quả là $4. Kết quả này là lợi ích ròng
của người tiêu dùng khi mua 4kg táo với giá là $3/kg. Nguyên tắc này luông đúng khi
chúng ta sử dụng được cầu cá nhân hay đường cầu thị trường. Tóm lại,
Thặng dư tiêu dùng từ tiêu thụ một hàng hóa tư nhân được đo bằng diện tích
nằm dưới đường cầu, trên đường giá, giới hạn bởi lượng hàng hóa từ 0 đơn vị
đến đơn vị được tiêu thụ.
Ví dụ sau đây sẹ minh họa thặng dư tiêu dùng được sử dụng như thế nào để đo lường
WTP.
Ví dụ: Sử dụng thặng dư tiêu dùng trong phân tích lợi ích chi phí
Phân tích lợi ích chi phí một chính sách hay dự án công sẽ đánh giá sự thay đổi. Người tiêu
dùng có thể ở trạng thái cân bằng ban đầu, sau đó di chuyển đến trạng thái cân bằng mới là
kết quả của chính sách hay dự án. Lợi ích ròng của họ do đó được tính bằng thay đổi thặng
dư tiêu dùng của có và không có dự án. Chẳng hạn có một chính sách trợ giá cho người
trồng táo, là một phần trong chương trình nông nghiệp bền vững. Trợ giá sẽ làm giá táo
giảm từ $3 xuống $2/kg. Hãy nhìn lại hình 7-2. Tại mức giá $2/kg, người tiêu dùng sẽ mua
6kg. Họ cũng có lợi ích ròng cao hơn từ mỗi kilogram táo mua được, bởi vì giá táo đã rẻ
10
Thặng dư tiêu dùng do đó tương đương với thặng dư sản xuất, là lợi ích ròng của tiêu thụ hoặc sản xuất do
đó tối đa hóa WTP cho giảm ô nhiễm hoặc cải thiện chất lượng môi trường.
Barry Field & Nancy Olewiler
243
hơn $1. Tổng thặng dư tiêu dùng khi có chính sách là 0.5x3x6 = $9. Thay đổi trong thặng
dư tiêu dùng do đó là sự chênh lệch thặng dư tiêu dùng giữa có và không có chính sách ($9
- $4) = $5. Diện tích này là phần tô đậm trong hình 7-2. Thay đổi trong thặng dư tiêu dùng
là lợi ích ròng người tiêu dùng có được từ chính sách của chính phủ, do đó sẽ là WTP cho
chính sách.
Xác định thặng dư tiêu dùng cho hàng hóa công
Trong trường hợp hàng hóa công, tuy không có giá thị trường nhưng nguyên tắc thặng dư
tiêu dùng vẫn thích hợp. Sự khác biệt là nhà nghiên cứu phải tìm ra WTP của con người
thay vì dùng giá thị trường. Với hàng hóa công, chẳng hạn chất lượng môi trường, chúng ta
đã có sẵn thông tin về lượng hàng hóa. Người sử dụng sẽ được hỏi WTP của anh ta cho
lượng hàng hóa đó. Hình 7-3 minh họa điều này: chúng ta sử dụng đúng phương trình
đường cầu như trong hình 7-2 để d
ễ so sánh, nhưng biểu diễn trục số lượng (trục hoành)
bằng chất lượng môi trường.
Giá sử mức chất lượng môi trường ban đầu là 4 đơn vị. Người tiêu dùng sẽ được hỏi anh ta
sẵn lòng trả bao nhiêu cho 4 đơn vị đó. Anh ta trả lời (lấy từ đường cầu): $3. Xem xét một
dự án công nâng cao chất lượng môi trường lên 6 đơn vị. Hỏi lại: anh sẵn lòng trả bao
nhiêu cho 6 đơn vị này? Tr
ả lời: $2. Điều này giúp ta đo lường được tổng lợi ích của hàng
hóa công như đã thảo luận trong chương 3 (xem hình 3-2), là diện tích dưới đường cầu giới
hạn bởi hai lượng tiêu dùng, không giới hạn bởi giá vì anh ta không phải trả tiền để tiêu
dùng hàng hóa. Diện tích dưới đường cầu giới hạn bởi lượng tiêu dùng trước và sau đại
diện cho WTP của người tiêu dùng cho chất lượng môi trường tăng. Thặng dư tiêu dùng
thay đổi có thể tính được từ hình 7-3, là diện tích hình chữ nhật a cộng với diện tích tam
giác b (a + b) = $5. Con số này chắc hẳn quen thuộc với chúng ta. Nó chính xác bằng thay
đổi thặng dư tiêu dùng đo lường cho thị trường tư nhân (sử dụng cùng đường cầu và là
diện tích tô đậm trong hình 7-2).
Giá $
Kilo
g
ram táo1 2 3 4 5 6 10
1
2
3
5
4 a
0
Cầu
Thặng dư tiêu dùng là sự chênh lệch giữa WTP của người tiêu dùng cho một hàng hóa, đại diện
bởi đường cầu, với giá thị trường của lượng hàng hóa được tiêu thụ. Nếu giá thị trường của táo là
$3/kg, người tịêu dùng mua 4kg và thặng dư tiêu dùng là diện tích a, bằng $4. Nếu giá thị trường
giảm xuống $2/kg, diện tích được tô đậm là thay đổi trong thặng dư tiêu dùng, bằng với chênh
lệch thặng dư tiêu dùng của đi
ểm cân bằng ban đầu giá $3/kg và lượng tiêu thụ 4kg với điểm cân
bằng sau có giá $2/kg và 6kg. Thặng dư tiêu dùng thay đổi $5.
Hình 7-2: Xác định thặng dư tiêu dùng cho hàng hóa tư nhân
Barry Field & Nancy Olewiler
244
Thay đổi thặng dư tiêu dùng do thay đổi chất lượng môi trường, một hàng hóa
công, có thể được đo lường giống như cách đo lường thay đổi thặng dư tiêu dùng
cho hàng hóa tư nhân.
CÁC PHƯƠNG PHÁP SUY RA GIÁ SẴN LÒNG TRẢ CHO NHỮNG
CẢI THIỆN CHẤT LƯỢNG MÔI TRƯỜNG
Căn bản chúng ta có 4 cách tìm ra giá sẵn lòng trả cho việc cải thiện chất lượng môi
trường. Tất cả đều đo lường thay đổi thặng dư tiêu dùng khi chất lượng môi trường thay
đổi. Bốn cách này (được trình bày trong bảng 7-1) là:
Chi phí ngăn ngừa
Ước lượng hưởng thụ
Thị trường đại diện
Đánh giá ngẫu nhiên
Chúng ta sẽ sử dụng ví dụ minh họa là ô nhiễm tiếng ồn.
Ví dụ: Làm thế nào đánh giá giá trị giảm tiếng ồn giao thông
Một đặc điểm của xã hội hiện đại là các loại đường cao tốc, và các loại đường này có đặc
điểm chính là tiếng ồn giao thông. Do đó dân cư sống gần sẽ chịu thiệt hại từ tiếng ồn giao
thông này. Giả sử chúng ta muốn đánh giá giá sẵn lòng trả của cư dân ở đây cho việc giảm
tiếng ồn giao thông. Chúng ta làm điều đó thế nào? Chúng ta có thể sử dụng 3 trong 4 cách
ở trên
11
.
Cách 1: Chi phí ngăn ngừa
Chủ nhà có thể sẽ chi tiêu để giảm tiếng ồn vào nhà họ. Ví dụ, học có thể lắp thêm thiết bị
cách ly vào tường, lắp gương cửa sổ dày gấp đôi, trồng cây quanh vườn hoặc lắp thiết bị
11
Sẽ khó trình bày làm cách nào sử dụng phương pháp thị trường đại diện trong ví dụ này. Cuối chương sẽ
có phần minh họa phương pháp này.
Hình 7-3: Xác định thặng dư tiều dùng cho hàng hóa công
Chỉ số chất lư
ợ
n
g
môi t
r
ườn
g
$
1 2 3 4 5 6 10
1
2
3
5
4
a
0
Thay đổi thặng dư tiêu dùng do cải thiện chất lượng môi trường từ 4 đến 6 đơn
vị là diện tích dưới đường cầu, giới hạn bởi hai mức chất lượng môi trường, là (a
+ b) bằng $5.
b
Barry Field & Nancy Olewiler
245
thẩm thấu tiếng ồn bên ngoài. Khi người ta chi tiêu như vậy, một cách nào đấy họ cho thấy
giá sẵn lòng trả cho môi trường yên tĩnh. Nói chung, nếu chúng ta có thể tìm ra những
trường hợp người tiêu dùng mua hàng hóa thị trường để thay đổi mức tiếp xúc với môi
trường xung quanh, chúng ta có thể phân tích việc mua hàng hóa này để biết được giá trị
mà họ gán cho những thay đổi môi trường.
Cách 2: Ước lượng hưởng thụ
Tiếng ồn của con đường có thể ảnh hưởng đến giá nhà trong khu vực xung quanh. Nếu hai
nhà có các đặc tính đều giống nhau, chỉ khác nhau tiếng ồn của môi trường xung quanh,
chúng ta có thể dự đoán là nhà có tiếng ồn nhiều hơn sẽ kém giá trị hơn nhà có tiếng ồn ít.
Nếu thị trường nhà cạnh tranh, giá nhà ồn hơn sẽ thấp hơn giá nhà kia. Do đó, bằng cách
nghiên cứu sự khác biệt giá nhà, chúng ta có thể ước lượng được giá trị mọi người gán cho
tiếng ồn. Bất cứ trường hợp nào giá hàng hóa hoặc dịch vụ thay đổi theo đặc tính môi
trường chúng ta đều có thể phân tích sự thay đổi giá này để biết giá sẵn lòng trả cho các
đặc tính đó.
Cách 3: Đánh giá ngẫu nhiên
Cả hai cách trên đều tìm giá trị đại diện cho WTP bằng cách phân tích dữ liệu thị trường
suy ra giá sẵn lòng trả cho những đặc tính môi trường có liên hệ với giá thị trường đó.
Cách thứ 3 khá trực tiếp. Chúng ta thực hiện một cuộc khảo sát và hỏi cư dân sẵn lòng trả
bao nhiêu để giảm tiếng ồn tác động đến nhà họ. Trong những năm gần đây, các nhà kinh
tế học rất quan tâm phương pháp khảo sát trực tiếp này, chủ yếu bởi vì nó khá linh động.
Phương pháp này có thể đánh giá giá trị bất cứ tài nguyên môi trường nào nếu tài nguyên
môi trường đó có thể mô tả được chính xác.
Trong phần còn lại của chương này, chúng ta với ví dụ cụ thể hơn sẽ minh họa làm thế nào
sử dụng các phương pháp này để ước lượng lợi ích cải thiện chất lượng môi trường, cũng
như nêu ra các vấn đề, khó khăn mà phân tích lợi ích chi phí gặp phải.
Chi tiêu ngăn ngừa
Ô nhiễm nước và không khí có thể tác động nhiều đến sức khỏe, từ tức ngực nhẹ, đau đầu
đến những bệnh cấp tính cần chăm sóc tại bện viện. Con người thường chi tiêu để tránh,
ngăn ngừa các tác động này. Chi tiêu loại này là một cách thể hiện giá sẵn lòng trả của họ
để tránh các tác động. Xem xét ví dụ sau đây.
Ví dụ: Mua máy lọc không khí để giảm tác động của sương mù gây bện hen suyễn
Sương mù ở đô thị hình thành từ các chất ô nhiễm không khí (sulphur đioxyt, bụi, oxit
nitơ) vào ban ngày khi nhiệt độ cao và bị gió phân tán hoặc khi không khí lạnh bị dồn nén
trong một vùng có không khí nóng ở trên. Một số thành phố ở Canada (chẳng hạn Toronto,
Vancouver, Montreal) bị nhiễm loại sương mù này vì ở đây có lượng khói thải cao và điều
kiện thuận lợi để tạo sương mù. Các chất tạo nên sương (cùng với khí ozon ở tầng thấp tạo
ra bởi tương tác giữa các chất ô nhiễm và ánh sáng) đã gây ra bệnh suyễn và các vấn đề hô
hấp khác.
Giả sử bạn bị bệnh suyễn và muốn giảm tiếp xúc với sương mù. Khoản chi tiêu ngăn ngừa
của bạn sẽ là tiền mua thiết bị lọc không khí. Chi phí này bao gồm tiền mua lọc nước ban
đầu (chi phí đầu tư) và chi phí vận hành máy lọc vào những ngày có nhiều sương (điện, bộ
lọc không khí). Chúng ta giả sử bạn sẽ không mua thiết bị lọc không khí nếu sương mù
không phải là vấn đề lớn trong thành phố. Tuy nhiên, cũng có một số người (ví dụ người
hút thuốc) mua máy lọc không khí không phải để lọc sương mù.
Barry Field & Nancy Olewiler
246
Phân tích kinh tế có thể tính chi phí ngăn ngừa dựa trên dữ liệu thị trường máy lọc không
khí. Các bước phân tích có thể như sau:
1. Thu thập dữ liệu thị trường máy lọc không khí ở 2 thành phố - một có rất nhiều sương
mù và thành phố kia không có.
2. Ước lượng đường cầu thị trường máy lọc không khí ở 2 thành phố
3. Sử dụng đường cầu để tính lợi ích giảm sương mù bằng cách đo lường chênh lệch giữa
giá sẵn lòng trả cho máy lọc không khí trong trường hợp có và không có sương mù.
Chúng ta giả sử nhà nghiên cứu đã hoàn thành bước 1 và 2. Hình 7-4 trình bày 2 đường
cầu ước lượng từ bước 2
12
. Hai thành phố Hamilton, Ontario nằm trong vòng đai sương mù
ở đông Canada có một số ngày trong năm bị sương mù ảnh hưởng. Các thành phố
Winnipeg, Manitoba có rất ít ngày bị sương mù ảnh hưởng do vị trí nằm xa nguồn tạo
sương, có địa hình và thời tiết thuận lợi (không có núi, gió nhiều và rất lạnh nên không tạo
ra sương mù trong hầu hết năm). Đường cầu cho máy lọc không khí ở Winnipeg nằm trong
hẳn đường cầu của Hamilton.
Bước 3 yêu cầu tính lợi ích do giảm sương mù. Nếu thành phố Hamilton có thể giảm
sương mù xuống ngang bằng mức của thành phố Winnipeg, có thể giả định rằng dân cư sẽ
giảm chi tiêu mua máy lọc không khí xuống ngang mức chi tiêu của dân Winnipeg (mọi
yếu tố khác không đổi). Có thể ước lượng WTP để giảm lượng sương mù xuống ngang
mức của Winnipeg bằng chênh lệch giữa hai đường cầu trong hình 7-4. Đây là chênh lệch
tổng WTP cho máy lọc không khí. Chúng ta đơn giản đo lường diện tích dưới đường cầu
của mỗi thành phố và lấy Himilton trừ Winnipeg. Tổng giá sẵn lòng trả của cư dân
Hamilton để loại bỏ sương mù là $150.000, của cư dân Winnioeg là $50.000. Sự chênh
lệch là $100.000. Sự chênh lệch này là WTP của cư dân Hamilton để cải thiện chất lượng
không khí lên mức của Winnipeg. Bây giờ giả sử giá trung bình của máy lọc không khí ở
cả hai thành phố là $75. WTP phải được đo bằng sự thay đổi thặng dư tiêu dùng từ các
mức chất lượng không khí khác nhau. Đó chính là sự chênh lệch giữa diện tích trên mức
giá thị trường giữa 2 đường cầu, là diện tích phần tô đậm trong hình 7-4, bằng
$55,468.75.
13
Nhớ rằng chúng ta sử dụng thay đổi thăng dư tiêu dùng vì chúng ta muốn
loại bỏ chi tiêu. Nếu mọi người không chi tiêu cho hàng hóa chúng ta đang xét, họ sẽ chi
tiêu cho hàng hóa khá, do đó chúng ta chỉ đo lường WTP là nhưng khoản thặng dư.
12
Cuốn sách này không trình bày cách xây dựng đường cầu này. Muốn xây dựng đường cầu, cần các kỹ thuật
kinh tế lượng để hối quy.
13
Cách đơn giản nhất để tính thay đổi thặng dư tiêu dùng là tính thặng dư tiêu dùng trên đường giá $75 cho
mỗi thành phố. Đối với thành phố Hamilton, thặng dư tiêu dùng là fi($125 x 937.5) = $58.593,75. Đối với
Winnipeg, thặng dư tiêu dùng là ½($25 x 250) = $3.125. Chênh lệch $55.468,75.
Barry Field & Nancy Olewiler
247
Hình 7-4: Sử dụng Chi tiêu ngăn ngừa để tính WTP cho giảm sương mù
Trong phân tích lợi ích chi phí, để sử dụng thay đổi thặng dư tiêu dùng tính WTP cho việc
cải thiện chất lượng không khí, cần phải chuyển thành giá trị từng năm. Đó là vì máy lọc
không khí là tài sản vốn được dùng trong thời gian dài có khấu hao. Giả sử máy được sử
dụng trong 10 năm và khấu hao đều hàng năm. Do đó giá trị/khấu hao của máy là 1/10 giá
trị ban đầu, bằng $5.547.
14
Giá trị này là lợi ích hàng năm do giảm sương mù của cư dân
Hamilton đến mức của cư dân Winnipeg và giá trị này được chiết khấu theo cách thông
thường thường thấy trong phân tích lợi ích chi phí.
Ví dụ này cho thấy cách thức sử dụng chi tiêu ngăn ngừa để đo lường giá sẵn lòng trả cho
cải thiện chất lượng môi trường hoặc thiệt hại xảy ra do ô nhiễm. Đây là một phương pháp
đại diện: chúng ta ước lượng người ta đánh giá chất lượng môi trường bao nhiêu bằng cách
suy từ hành vi tiêu dùng của họ. Trong thực tế có rất nhiều thách thức. Không thể sử dụng
phương pháp này cho tất cả các vấn đề môi trường vì chúng ta có thể không đo lường được
chi phí ngăn ngừa trong mối liên hệ với một vấn đề môi trường cụ thể nào đó, hoặc cũng
có thể không dùng được vì không có hành vi ngăn ngừa. Như ví dụ đã đề cập, sẽ rất khó
phân biệt một khoản chi tiêu có liên hệ với vấn đề môi trường nào đó hay không. Có phải
chênh lệch đường cầu giữa các thành phố phản ánh chất lượng không khí hay là các đặc
điểm khác? Cuối cùng, chi phí ngăn ngừa không thể tính được hết các tác hại do ô nhiễm
môi trường con người phải chịu, nó chỉ tính được một phần tổn thất thông qua các hoạt
động ngăn ngừa.
Phương pháp Ước lượng Hưởng thụ
Phương pháp ước lượng hưởng thụ có thể được dùng trong những trường hợp giá hàng hóa
thị trường có liên hệ đến đặc tính của nó. Chúng ta có thể nghiên cứu cấu trúc chênh lệch
giá để suy ra giá trị mà con người gán cho những đặc tính nào đó. Những đặc tính mà các
nhà kinh tế học môi trường quan tâm tất nhiên là các đặc tính về môi trường như chất
lượng không khí, tiếng ồn, hoặc chất thải độc hại. Nhà phân tích sẽ tách phần đóng góp của
đặc tính môi trường trong giá hàng hóa. Giá biên này sau đó được sử dụng để đo lường giá
14
Có thể dùng cách chiết khấu khác, ví dụ như chiết khấu giảm dần.
Lư
ợ
n
g
má
y
l
ọ
c khôn
g
khí
$
Giá
250 1
,
000 1
,
500
75
100
200
0
Cầu ở Winni
p
e
g
Cầu ở Hamilton
Hình trên biểu diễn 2 đường cầu máy lọc nước đã được ước lượng sẵn. Hamilton là thành phố có nhiều
ngày có sương mù; Winnipeg là thành phố ít ngày có sương. Đường cầu của Hamilton nằm trên đường
cầu của Winnipeg vì cư dân ở đây phải chi tiêu ngăn ngừa để giảm thiệt hại từ sương mù. Sự chênh lệch
giữa 2 đường cầu cho thấy giá sẵn lòng trả của cư dân Hamilton để ngăn chặn sươ
ng mù. Giá sẵn lòng
trả để ngăn chặn sương mù là diện tích được tô đậm. Nếu sương mù ở Hamilton giảm tới mức của
Winnipeg, diện tích tô đậm sẽ là lợi ích giảm thiệt hại do sương mù.
Barry Field & Nancy Olewiler
248
sẵn lòng trả cho việc cải thiện chất lượng môi trường. Phương pháp ước lượng hưởng thụ
có thể áp dụng đặc biệt cho thị trường nhà đất và cũng được áo dụng cho chênh lệch lương
giữa các ngành công nghiệp có và không có tác hại môi trường. Các bước thực hiện
phương pháp ước lượng hưởng thụ bao gồm:
1. Xác định và đo lường các đặc tính môi trường
2. Xây dựng hàm giá hưởng thụ
3. Thu thập số liệu chuỗi thời gian hoặc số liệu dạng bảng
4. Sử dụng phân tích hồi quy bội để đánh giá giá trị biến số môi trường
5. Xây dựng đường cầu cho chất lượng môi trường
6. Tính thay đổi thặng dư tiêu dùng từ thay đổi các mức chất lượng môi trường
Xem xét ví dụ về thị trường nhà sau đây.
Ví dụ: Sử dụng phương pháp ước lượng hưởng thụ cho thị trường nhà để suy ra
WTP cho cải thiện chất lượng môi trường
15
Giả sử bạn có hai ngôi nhà giống nhau hoàn toàn từ các đặc điểm vật lý (số phòng, diện
tích, năm xâu dựng) đến đặc điểm khu vực xung quanh (khoảng cách đến trung tâm, đến
chợ). Nhưng giả sử một nhà nằm trong khu vực bị ô nhiễm không khí nặng, còn nhà kia
nằm trong khu vực không khí khá trong lành. Chúng ta có thể dự đoán giá thị trường của 2
nhà này khác nhau do khác nhau về độ ô nhiễm không khí. Cũng có thể tổng quát hóa kết
luận này cho thị trường bất động sản vốn có rất nhiều đặc tính khác nhau. Chất lượng
không khí xung quanh là một đặc tính rất quan trọng của ngôi nhà, do đó vì nhà được mua
và bán trên thị trường, chất lượng không khí khác nhau sẽ được tiền tệ hóa vào trong giá
nhà.
16
Dĩ nhiên nhà khác nhau rất nhiều chứ không riêng gì đặc tính chất lượng không khí.
Do đó chúng ta phải thu thập rất nhiều dữ liệu về thị trường nhà để dùng cho phương pháp
ước lượng hưởng thụ.
Các nhà nghiên cứu dùng phương pháp thống kê để xây dựng các hàm số giá hưởng thụ.
Căn bản, các nhà nghiên cứu sẽ thu thập số liệu mẫu của các căn nhà được bán ra trên thị
trường trong một khoảng thời gian nhất định. Mối quan hệ giữa giá nhà và các đặc tính có
thể ảnh hưởng đến giá sẵn lòng trả của người mua nhà được ước lượng dùng các kỹ thuật
kinh tế lượng. Các đặc tính này có thể bao gồm diện tích nhà, số phòng ngủ, số phòng vệ
sinh, năm xây dựng, vị trí, đặc điểm khu vực xung quanh như có gần trường học, công
viên, và một biến số môi trường đo được, chẳng hạn chất lượng không khí. Nhà nghiên cứu
sẽ vẽ đồ thị hàm số giá hưởng thụ theo biến số chất lượng môi trường (đo bởi chỉ số chất
lượng không khí – AQI), giữ các biến số khác không đổi. Hình (a) trong hình 7-5 minh họa
15
Có thể dùng phương pháp ước lượng hưởng thụ cho các nghiên cứu về lương trong các ngành công nghiệp.
Công nhân có thể tiếp xúc với lượng ô nhiễm tích tụ cao. Rủi ro rất cao ở những ngành công nghiệp mà công
nhân phải làm việc hoặc tiếp xúc với các chất có nguy cơ gây hại cao, có thể qua công việc hàng ngày hoặc
tai nạn. Ví dụ có thể kể ra bao gồm bệnh phổi do làm việc trong các hầm mỏ và các nhà máy giấy, bệnh trong
nông nghiệp do tiếp xúc với thuốc tr
ừ sâu và thuốc diệt cả. Trong thị truờng hoàn hảo, lương sẽ phản ánh
mức độ tiếp xúc của công nhân với chất ô nhiễm. Lương sẽ cao hơn ở những ngành công nghiệp có rủi ro
bệnh tật hoặc tử vong từ ô nhiễm cao hơn.
16
Tiền tệ hóa nghĩa là giá nhà điểu chỉnh để phản ánh giá trị hiện tại ròng của thiệt hại của chủ nhà do tiếp
xúc với không khí ô nhiễm nếu anh ta mua nhà đó.
Barry Field & Nancy Olewiler
249
mối quan hệ này. Hàm giá hưởng thụ là P(AQI;z), với z là các đặc tính khác được giữ cố
định. Hàm số không phải tuyến tính này cho thấy đối với hầu hết mọi người, giá sẵn lòng
trả của họ cho một đặc tính sẽ thay đổi khi số lượng đặc tính đó tăng lên. Tại mức chất
lượng không hí thấp, giá sẵn lòng trả cho một lượng tăng nhỏ chất lượng không khí sẽ cao.
Nhưng tại mức chất lượng không khí cao, giá sẵn lòng trả cho việc tăng thêm một đơn vị
chất lượng không khí sẽ không còn cao. Nếu một người tính được độ dốc của hàm giá
hưởng thụ này với các mức chất lượng không khí khác nhau, anh ta sẽ có được hàm cầu
hưởng thụ cho chất lượng không khí. Hàm cầu này có thể dùng để ước lượng giá sẵn lòng
trả cho mỗi mức chất lượng không khí tăng trong điều kiện các yếu tố khác không đổi.
Hình (b) của hình 7-5 minh họa hàm cầu hưởng thụ D(AQI;z). AQI vẫn ở trục hoành,
nhưng trục tung bây giờ đo lường giá sẵn lòng trả cho chất lượng không khí (AQ). Hàm
cầu hưởng thụ là hàm độ dốc của hàm giá hưởng thụ và cho biết WTP biên cho mỗi đơn vị
chất lượng không khí.
17
Bởi vì WTP giảm, hàm cầu là hàm dốc xuống. Khi chúng ta có
hàm cầu, chúng ta có thể tính được lợi ích của cải thiện chất lượng không khí. Với chất
lượng không khí thay đổi từ AQ
0
đến AQ
1
, diện tích nằm dưới đường cầu hưởng thụ, giới
hạn bởi hai mức chất lượng không khí (diện tích tô đậm trong Hình 7-5) là tổng lợi ích của
việc cải thiện chất lượng không khí, tính được từ kỹ thuật đánh giá thay đổi thặng dư tiêu
dùng cho hành hóa công ở trên.
Sự thay đổi trong thặng dư tiêu dùng được diễn tả trong giá nhà. Người mua nhà mua một
tài sản tạo ra lợi ích trong một khoảng thời gian nào đó, như trường hợp máy lọc không
khí. Nhà nghiên cứu phải chuyển đổi giá nhà thành giá trị hàng năm để có thể tính lợi ích
hàng năm do tăng chất lượng môi trường. Một cách tính đơn giản là giả sử ngôi nhà sẽ
được dùng mãi mãi (nghĩa là không tính đến khấu hao và chi phí bảo dưỡng). Ví dụ, ngôi
nhà bán giá $200.000. Nghiên cứu hưởng thụ tìm ra rằng cứ 1 phần trăm ô nhiễm không
khí giảm thì có 2.5 phần trăm giá nhà tăng. Do đó một căn nhà trong khu vực giảm được 1
phần trăm ô nhiễm so với khu vực khác sẽ bán được cao giá hơn $5.000. Đây là cách tính
WTP. Giá trị $5.000 được chuyển thành giá trị hàng năm bằng cách sử dụng chiết khấu.
Giả sử nhà được sử dụng mãi mãi, nhà nghiên cứu có thể sử dụng công thức tính niên kim
PV cho dòng lợi ích kéo dài mãi mãi PV=m/r. $5.00 là giá trị hiện tại PV, và nếu ta biết r,
có thể tính ra lợi ích hàng năm m với m=$5.000 × r. Nếu r=5%, thì m=$250. Do đó 1%
giảm ô nhiễm không khí sẽ đem lại lợi ích hàng năm là $250.
17
Hàm cầu hưởng thụ cho chất lượng không khí là đạo hàm của hàm giá hưởng thụ theo chỉ số chất lượng
không khí.
Barry Field & Nancy Olewiler
250
Hình 7-5: Xây dựng đường cầu hưởng thụ cho chất lượng không khí
Phương pháp đánh giá hưởng thụ chỉ áp dụng được và có ý nghĩa khi có thị trường bất
động sản thật sự, nghĩa là có nhiều người mua và bán tạo nên thị trường cạnh tranh.
Phương pháp cũng yêu cầu người mua nhà phải hiểu rõ chất lượng môi trường (hoặc bằng
cách nhìn, ngửi hoặc các cách khác) trong khu vực mà họ dự định sinh sống. Như mọi
phương pháp khác, áp dụng phương pháp này cũng có một số phức tạp và thách thức. Thị
trường nhà, và giá, bị bóp méo bởi một số người (hoặc hiện tượng thị trường bong bóng có
quá nhiều đầu cơ). Phương pháp đánh giá hưởng thụ cần lượng lớn số liệu cũng như các kỹ
thuật kinh tế lượng cao cấp để giải quyết các vấn đề về thống kê. Vấn đề chung thường
thấy là không dễ dàng đo lường các biế
n số môi trường. Cuối cùng, nhận thức của các cá
nhân về chất lượng môi trường là chủ quan và chưa chắc được phản ánh trong giá trị tài
sản.
Mặc dù gặp phải những thách thức như vậy, đã có nhiều nghiên cứu được hoàn thành, đặc
biệt tại Hoa Kỳ. Các nghiên cứu này tính WTP dưới dạng hệ số co giãn: phần trăm thay
đổi giá nhà khi có 1 phần trăm thay đổi mức ô nhiễm môi trường xunh quanh. Họ
đã
nghiên cứu nhiều loại ô nhiễm không khí và tìm ra các kết quả tương đương. Ví dụ, với ô
nhiễm sulphur đioxyt, 1 phần trăm giảm độ tích tụ trong môi trường xunh quanh đem lại
thay đổi trong giá nhà từ 0,06 đến 0,12 phần trăm. Đối với bụi ô nhiễm, hệ số co giãn có
giá trị từ 0,05 đến 0,22 phần trăm.
A
Q
I
P
(
A
Q
I
;
z
)
(
a
)
$
Giá
nhà
D
(
A
Q
I
;
z
)
A
Q
IA
Q
1
A
Q
0
$
WTP
cho
chất
lượng
không
khí
(
b
)
Hình (a) biểu diễn hàm giá hưởng thụ, là hàm số cho biết mối quan hệ giữa giá nhà và một trong
các đặc tính; ở đây là chỉ số chất lượng không khí (AQI), các đặc tính khác không đổi (z). Dạng
hàm số của hàm giá hưởng thụ cho thấy giá sẵn lòng trả biên cho chất lượng không khí giảm khi
AQI tăng. Hình (b) minh hoạ hàm cầu hưởng thụ, D(AQI;z) được thiết lập từ hàm giá hưởng thụ.
Từ độ dốc của hàm giá hưởng thụ ta tạo ra
đường cầu dốc xuống. Diện tích nằm dưới đường cầu
giữa AQ
0
và AQ
1
là WTP cho lượng chất lượng không khí tăng lên đó.
Barry Field & Nancy Olewiler
251
Thị trường đại diện – Phương pháp Chi phí Du hành
18
Một trong những phương pháp đầu tiên các nhà kinh tế học môi trường dùng để đánh giá
nhu cầu hưởng thụ cảnh quan môi trường là phương pháp thị trường đại diện, là phương
pháp sử dụng chi phí du hành làm đại diện cho giá. Mặc dù chúng ta không quan sát được
con người mua các đơn vị hàng hóa chất lượng môi trường, chúng ta lại quan sát được cách
họ đi du lịch để hưởng thụ tài nguyên môi trường, ví dụ đi nghỉ ngơi giải trí ở các công
viên quốc gia, bơi và câu cá ở các hồ, sông, suối, xem thiên nhiên hoang dã v.v. Đi du lịch
là tốn tiền, và cũng tốn thời gian. Các chi phí du hành này có thể làm đại diện cho cái giá
mà con người phải trả để hưởng thụ được cảnh quan môi trường. Có thể sử dụng phương
pháp chi phí du hành để xây dựng đường cầu cho các cảnh quan môi trường này.
Bằng cách thu thập một số lượng lớn số liệu chi phí du hành, chúng ta có thể ước lượng giá
sẵn lòng trả tổ
ng cộng cho những cảnh quan môi trường cụ thể. Dĩ nhiên ngoài số liệu về
chi phí du hành, chúng ta phải thu thập thêm các số liệu khác. Các gia đình có thể có rất
nhiều yếu tố khác nhau chứ không chỉ chi phí du hành đến một công viên. Họ có thể có thu
nhập khác nhau, số lần đến thăm công viên khác nhau, và các kinh nghiệm giải trí khác
nhau. Do đó các cuộc khảo sát phải thu thập lượng lớn số liệu cho nhiều khách du lịch để
có thể nghiên cứu ả
nh hưởng của các yếu tố này lên tỷ lệ đến thăm công viên một cách có
ý nghĩa thống kê.
Chúng ta có thể sử dụng phương pháp này để ước lượng lợi ích cải thiện chất lượng môi
trường ở những điểm có khách du lịch đến thăm; ví dụ, ước lượng lợi ích cải thiện chất
lượng nước tại một hồ nước dùng cho vui chơi giải trí sẽ làm câu cá dễ dàng hơn hoặc có
nhiều động vật hoang dã đến hơn. Để làm việc đó chúng ta không chỉ thu thập số liệu chi
phí du hành của du khách đến một địa điểm mà còn chi phí du hành đến các địa điểm khác
có các đặc điểm tự nhiên khác nhau. Từ đó chúng ta có thể xây dựng đường cầu và sử dụng
nó để tính WTP cho cải thiện chất lượng môi trường bằng cách đo sự thay đổi trong thặng
dư tiêu dùng.
Các bước thực hiện phương pháp Chi phí Du hành như sau.
1. Lấy mẫu khách du lịch đến các điểm khác nhau (công viên, khu vực vui chơi giải
trí, hoặc khu vực hoang dã). Các địa điểm có các biến số chất lượng môi trường có
thể đo được khác nhau. Chúng ta hỏi khách du lịch về:
Họ tới từ đâu (thành phố nào, nước nào)
Số khách trên một phương tiện chuyên chở tới
Phương tiện chuyên chở (ô tô, máy bay, xe đò)
Tổng thời gian đi đến và ở tại địa điểm
Tần suất du lịch, thời gian của chuyến đi
Các đặc điểm kinh tế xã hội
Chi phí du hành trực tiếp (Chi phí di chuyển, thức ăn, chổ ở)
Mục đích đi du lịch, sở thích du lịch.
18
Chúng ta chỉ xem xét chi phí du hành là một ví dụ của thị trường đại diện. Trong chương 10 chúng ta sẽ
thảo luận phương pháp “hàng hóa xanh”.
Barry Field & Nancy Olewiler
252
2. Sử dụng kỹ thuật hồi quy để ước lượng đường cầu giải trí cho từng địa điểm.
Đường cầu có biến số lượng là tổng số khách viếng thăm và biến giá là chi phí du
hành.
3. So sánh các đường cầu để thấy được tác động của chất lượng môi trường cao hơn.
Tính thay đổi thặng dư tiêu dùng giữa các điểm.
Ví dụ: Tích tụ tảo biển ở các hồ tỉnh Ontario
Xem xét một ứng dụng giả định sau đây. Giả sử có một nghiên cứu chi phí du hành thực
hiện cho 2 hồ ở Ontario: hồ Ahmic và hồ Eagle. Hồ Ahmic bị xâm thực bởi lượng lớn một
số loài thực vật không phải ở bản địa tăng trưởng nhanh do những người lái tàu vô tình để
tảo biển ngoại lai bám trên tàu của họ trên đường về từ Hoa Kỳ.
19
Tảo biển tạo nên lớp
thảm dày trên mặt hồ Ahmic, giết chết thực vật bản địa và các loài cá. Bơi thuyền, câu cá,
hoặc bơi lội trở nên kém hấp dẫn do lớp tảo biển này. Hồ Eagle rất gần hồ Ahmic nhưng
không có tảo biển ngoại lai do chính sách hạn chế tàu bè. Tỉnh Ontario muốn đánh giá giá
WTP cho cải thiện chất lượng nước hồ Ahmic. Họ thực hiện nghiên cứu chi phí du hành
cho cả 2 hồ; đường cầu được trình bày trong Hình 7-6.
Hình 7-6: Ước lượng chi phí du hành cho lợi ích giảm mật độ tảo biển
Đường cầu cho hồ Eagle nằm trên đường cầu hồ Ahmic. Nếu các hồ này tương tự nhau,
chỉ khác nhau chất lượng nước, nhà nghiên cứu có thể suy ra sự chênh lệch thặng dư tiêu
dùng (diện tích tô đậm) giữa 2 hồ là WTP của khách du lịch cho chất lượng nước tốt hơn.
Không có phí vào cổng ở các hồ này, do đó không cần tính thay đổi thặng dư tiêu dùng
trên bất cứ giá nào. (Câu hỏi: Tính toán thay đổi thế nào nếu có phí vào cửa?) Thay đổi
19
Đây là vấn đề thực có rất nhiều ở các con sông Hoa Kỳ và những người lái tàu đã quên lau chùi tàu bè so
đó phát tán đến Canada. Hồ Ahmic và hồ Eagle là những hồ có thực ở bắc Toronto, nhưng hồ Ahmic không
có vấn đề về tảo biển. Một trong những loài tảo biển có hại, loài hydrilla, có xuất xứ từ Ấn độ và Hàn Quốc
đã được nhập vào Hoa Kỳ để làm thực vật nuôi các cảnh. Tại Florida, hơn 70% hệ thố
ng mương dẫn nước
của bang bị tảo hydrilla tấn công, làm chính quyền bang tốn $14,5 triệu đô la hàng năm để mua thuốc trừ sâu
và hóa chất để diệt trừ (theo Environment, Vol. 42, No.4, May 2000, p.4).
Số lượng khách tới hồ Ahmic và Eagle
hàng năm
Hồ
Ahmic
Hồ
Eagle
$
Chi phí
du
hành
biên
Đường cầu được xây dựng từ các cuộc khảo sát tại hồ Eagle and Ahmic. Hồ Eagle có chất lượng
nước cao hơn hồ Ahmic vì không bị tảo biển gây hại. Giá trị con người trả cho chất lượng nước cao
hơn chính là sự chênh lệch thặng dư tiêu dùng giữa hai hồ, trong hình là phần tô đậm. Không có phí
vào cổng cho cả hai hồ.
Barry Field & Nancy Olewiler
253
thặng dư tiêu dùng là giá trị hàng năm bởi vì ta thực hiện ước lượng chi phí du hành cho số
lượng khách du lịch trong một năm. Có thể sử dụng ước lượng giá trị thặng dư tiêu dùng
này cho các nghiên cứu lợi ích-chi phí (chiết khấu cho các năm) của bất cứ chương trình
nào của chính phủ thiết kế để loại trừ tác hại của tảo biển.
Phê bình phương pháp Chi phí Du hành
Phương pháp Chi phí Du hành được sử dụng tốt nhất trong trường hợp các địa điểm các
đặc tính tương tự nhau (trừ chỉ số chất lượng môi trường) và có tần suất các chuyến du lịch
cao trong một năm. Có một số khó khăn khi thực hiện phương pháp Chi phí Du hành này.
Chuyến đi đa mục tiêu: Địa điểm đang nghiên cứu có thể không phải là điểm cuối
cùng trong hành trình; có thể mục đích của chuyến đi là thăm bạn bè hoặc có liên quan
đến công việc và tranh thủ nghỉ ngơi giải trí. Nhà nghiên cứu sẽ phải tách chi phí cho
địa điểm giải trí trong tổng chi phí của chuyến đi. Đây là một công việc khó khăn.
Hữu dụng/phi hữu dụng từ việc di chuyển: Quá trình di chuyển đến địa điểm có thể
rất thú vị hoặc rất khó chịu. Đều này có nghĩa ước lượng chi phí du hành có thể không
phản ánh đầy đủ giá sẵn lòng trả. Có một cách giải quyết là hỏi khách du lịch đánh giá
chủ quan của họ về việc di chuyển.
Thiên lệch lấy mẫu trong khảo sát: Vấn đề lớn nhất của phương pháp này là nó chỉ
lấy mẫu người sử dụng địa điểm đó. Điều này làm thiên lệch ước lượng giá sẵn lòng trả
bởi vì người không sử dụng có thể không sẵn lòng gánh chịu chi phí du hành.
Lợi ích của người không sử dụng: Không có cách nào tính được lợi ích môi trường
của địa điểm mà người sử dụng không hưởng thụ được. Người ta có thể thấy vui khi
biết tảo biển ở hồ Ahmic được loại bỏ ngay cả khi họ không có ý định sử dụng nó. Ý
tưởng loại bỏ tảo biển ngoại lai này sẽ cải thiện đa dạng sinh học và bảo vệ lưu vực
sông, do đó đem lại giá trị cho con người. Tại các nước đang phát triển, các địa điểm
môi trường thiên nhiên có thể cung cấp nhiều loại hàng hóa và dịch vụ cho cư dân (củi,
thực phẩm, chỗ vui chơi, thuốc chữa bệnh). Các cư dân ở đây sẽ không được tính là
khách du lịch, do đó ta không tính được lợ
i ích của họ.
Đo lường sự thay đổi chất lượng môi trường là công việc khó khăn. Cái mà người ta muốn
đo lường là giá trị thay đổi chất lượng môi trường tại địa điểm. Phương pháp chi phí du
hành chỉ đại diện cho giá sẵn lòng trả cho một mức chất lượng môi trường. Với những khó
khăn này, phương pháp chi phí du hành được sử dụng hạn chế trong phân tích lợi ích chi
phí.
Phương pháp Đánh giá Ngẫu nhiên
Phương pháp trực tiếp để ước lượng giá sẵn lòng trả gọi là Phương pháp Đánh giá Ngẫu
nhiên (CVM). CVM dựa trên ý tưởng đơn giản là nếu bạn muốn biết giá sẵn lòng trả của
một người cho tính chất nào đó của môi trường, bạn hãy đơn giản hỏi họ. Từ “đơn giản” ở
đây hơi cực đoan bởi vì cuối cùng bạn sẽ thấy nó trở thành chẳng
đơn giản chút nào mặc
dù ý tưởng ban đầu dường như rất rõ ràng. Phương pháp gọi là đánh giá “ngẫu nhiên” bởi
vì nó cố làm người được hỏi nói họ hành động thế nào nếu họ được đặt trong một tình
huống giả định. Nếu hàng hóa chúng ta đang xem xét là hàng hóa thị trường, chúng ta chỉ
Barry Field & Nancy Olewiler
254
cần quan sát hành vi của con người trên thị trường. Nhưng khi hàng hóa không có thị
trường, chẳng hạn đặc tính chất lượng môi trường, chúng ta chỉ có cách hỏi xem họ chọn
như thế nào nếu được đặt vào một tình huống nhất định, nghĩa là nếu họ được giả định phải
quyết định trong thị trường các đặc tính chất lượng môi trường đó.
Ngày nay nghiên cứu đánh giá ngẫu nhiên được thực hiện cho rất nhiều yếu tố môi trường:
chất lượng không khí, giá trị cảnh quan, giá trị giải trí của bãi biển, bảo tồn các loài động
vật hoang dã, hoạt động câu cá và săn bắn, phát thải chất độc hại, bảo tồn các con sông, sẵn
lòng tránh bệnh tật do ô nhiễm và nhiều loại khác.
20
CVM cũng được sử dụng trong các
nghiên cứu phi-môi trường như đánh giá các chương trình giảm rủi ro với bệnh tim, giá trị
thông tin giá ở siêu thị. Qua quá trình phát triển và cải tiến, ngày nay chúng ta có một
phương pháp có thể tin tưởng được dùng để đo lường lợi ích của nhiều loại hàng hóa công,
đặc biệt là chất lượng môi trường.
Các bược thực hiện phân tích CVM như sau:
1. Nhận dạng và mô tả các đặc tính chất lượng môi trường cần đánh giá.
2. Nhận dạng đối tượng cần hỏi, bao gồm cả quá trình lấy mẫu để chọn người trả lời.
3. Thiết kế bảng phỏng vấn và tiến hành khảo sát thông qua phỏng vấn trực tiếp, bằng
điện thoại hoặc gửi thư (trong những năm gần đây, thảo luận nhóm cũng thường được
sử dụng).
4. Phân tích kết quả và tổng hợp các kết quả cá nhân để giá trị cho nhóm bị ảnh hưởng do
thay đổi chất lượng môi trường. Bước này có thể gồm trình bày các bảng tính đơn giản
hoặc phân tích kinh tế lượng.
5. Sử dụng ước lượng WTP trong phân tích lợi ích chi phí. Bởi vì giá trị WTP đo được sẽ
được sử dụng để ước lượng thay đổi thặng dư tiêu dùng, nên có thể coi như là lợi ích
ròng và đưa trực tiếp vào trong phân tích lợi ích chi phí.
Cách tốt nhất để chúng ta hiểu bản chất của CVM là xem xét các bước thiết kế bảng phỏng
vấn.
Bảng câu hỏi phỏng vấn Đánh giá Ngẫu nhiên
Bảng câu hỏi phỏng vấn đánh giá ngẫu nhiên được thiết kế để làm người được phỏng vấn
nghĩ về các đặc điểm môi trường và phát biểu giá sẵn lòng trả tối đa cho các đặc điểm môi
trường đó. Bảng phỏng vấn có 3 thành phần quan trọng:
Một mô tả chính xác đặc điểm môi trường là gì để từ đó có thể hỏi người được phỏng
vấn.
Các câu hỏi về người được phỏng vấn được đưa ra một cách ngắn gọn và thích thích
hợp, ví dụ thu nhập, nơi sinh sống, tuổi tác, việc sử dụng các hàng hóa liên quan.
20
Có rất nhiều ví dụ về đánh giá ngẫu nhiên trong lý thuyết kinh tế học. Xem phần tài liệu tham khảo của
chương này ở cuối cuốn sách để biết nhiều cách thực hiện CVM.
Barry Field & Nancy Olewiler
255
Một câu hỏi, hay một bộ câu hỏi, được thiết kế để rút ra phản hồi về giá sẵn lòng trả
của người được phỏng vấn.
Mục tiêu trung tâm của bảng phỏng vấn là để biết người được phỏng vấn đánh giá đặc
điểm môi trường có giá trị như thế nào đối với họ. Thuật ngữ kinh tế gọi là làm cho người
được phỏng vấn bộc lộ giá sẵn lòng trả tối đa so với trường hợp không có sử dụng hàng
hóa môi trường. Nếu họ trả lời trung thực, con số họ bộc lộ chính là giá trị lợi ích ròng của
hàng hóa môi trường mà họ đánh giá. Người ta đã phát triển một số kỹ thuật để thu thập
được những phản hồi này. Rõ ràng nhất là hỏi người được phỏng vấn cung cấp con số này
mà phỏng vấn viên không được gợi ý hoặc thăm dò. Có thể dùng kỹ thuật khác như sử
dụng trò chơi đấu giá: phỏng vấn viên sẽ bắt đầu hỏi bằng cách nêu ra một mức giá thấp và
sau đó tăng dần lên cho đến khi người được phỏng vấn chỉ ra giới hạn sẵn lòng trả của họ.
Một cách khác là phỏng vấn viên bắt đầu hỏi mức giá cao và sau đó hạ xuống để tìm ra
mức ngưỡng giá trị của người được hỏi. Một kỹ thuật nữa là đưa cho người được phỏng
vấn một thẻ in sẵn các mức giá trị và đề nghị họ đánh dấu vào con số tương ứng với giá
sẵn lòng trả cao nhất của họ. Chúng ta sẽ minh họa bảng phỏng vấn CVM bằng một ví dụ
giả định và xem kết quả của nó được sử dụng như thế nào.
Ví dụ: Giá sẵn lòng trả để giảm ô nhiễm không khí ở thành phố
Khu vực tiểu vùng Vancouver đang cố gắng giảm ô nhiễm không khí.
21
Có thể sử dụng một
số chính sách để hoàn thành mục tiêu này, chẳng hạn như khuyến khích người dân sử dụng
phương tiện giao thông công cộng thay vì phương tiện cá nhân, đánh thuế lên việc sử dụng
xe có gắn động cơ theo loại phương tiện hay theo trọng lượng, tăng thuế xăng, thu lệ phí
cầu đường, đánh thuế lên chỗ đậu xe ở khu vực trung tâm thành phố v.v.
Nhà nghiên cứu muốn khảo sát giá sẵn lòng trả của người dân cho hai phương án: đánh
thuế lên phương tiện giao thông dựa vàp trọng lượng, và thu phí trên mọi cây cầu ở
Vancouver. Nhà nghiên cứu thiết kế bảng phỏng vấn như trình bày ở trang bên.
Có 2.000 người được phỏng vấn và kết quả như sau. Đối với đánh thuế, WTP trung bình là
$5 trên 100kg phương tiện chuyên chở. Phưong tiện chuyên chở (xe khách và xe tải nhẹ)
có trọng lượng từ 1.500kg đến 2.500kg. Nhà nghiên cứu khảo sát loại xe ở British
Columbia và thu thập trọng lượng từng loại từ nhà sản xuất và sau đó tính tổng WTP mỗi
năm cho thuế phương tiện giao thông là $15 triệu.
Đối với lệ phí cầu, WTP trung bình là $1. Nhà nghiên cứu thu thập số liệu giao thông từ
phòng công trình TransLink và tính toán có trung bình 100,000 lượt quan cầu tiểu vùng
Vancouver mỗi ngày (ngày trong tuần có nhiều lượt qua lại hơn ngày cuối tuần). Doanh
thu do đó sẽ là $100,000 ngày hoặc $36.5 triệu năm.
Nhà nghiên cứu kết luận rằng dân cư trong cuộc khảo sát sẵn lòng trả phí qua cầu cao hơn
đánh thuế phương tiện giao thông. Các con số tính toán được này sau đó được dùng để
thiết kế các chính sách hiệu quả cho vùng.
21
Đây là vấn đề thực được một số nghiên cứu sử dụng phương pháp đánh giá ngẫu nhiên thực hiện. Ví dụ là
giả định nhưng có trình bày một số số liệu thực.
Barry Field & Nancy Olewiler
256
Bảng câu hỏi phỏng vấn CVM
Thiết lập tình huống
Khu vực tiểu vùng Vancouver chịu vấn đề ô nhiễm không khí nghiêm trọng. Hàng năm, có
ít nhất 15 ngày chất lượng không khí xuống thấp hơn mức tiêu chuẩn quốc gia đặt ra cho
sương mù. It nhất 50 ngày trong năm có sương mù, mặc dù vẫn nằm trong mức tiêu chuẩn
cho phép. Sương mù gây khó thở cho một số người, đặc biệt có hại với trẻ em và người
già. Sương mù cò làm giảm năng suất cây trồng trong thung lũ
ng Fraser, làm hư hỏng thiết
bị, đặc biệt là các thiết bị bằng nhựa và cao su. Các nhà khoa học không biết lượng sương
mù tối thiểu an toàn cho con người. Translink (cơ quan giao thông khu vực tiểu vùng
Vancouver) đang xem xét một số chính sách để giúp giảm số ngày có sương mù. Chúng tôi
đánh giá cao sự giúp đỡ của ông bà qua việc trả lời một số câu hỏi cho hai chính sách sau
đây.
Chính sách 1: Đánh thuế phương tiện giao thông dựa trên trong lượng phương tiện
Sẽ
đánh mức thuế hàng năm dựa trên trọng lượng của phương tiện giao thông. Trọng lượng
của phưong tiện có thể đại diện cho số tấn khói thải vào bầu khí quyển. Trung bình thì
phưong tiện vận tải nặng sẽ gây ô nhiễm nhiều hơn phương tiện vận tải nhẹ. Thuế sẽ tính
trên 100kg trọng lượng phương tiện. Mục tiêu của chính sách này là thúc đẩy mọi người
mua xe nhẹ hơn và tiết kiệm nhiên liệu hơn và làm những người gây ô nhiễm nhiều phải
trả cho phần của họ.
Chính sách 2: Thu phí trên mọi cây cầu trong khu vực tiểu vùng Vancouver
Sẽ thu phí tự động trên mọi cây cầu trong khu vực. Phí sẽ được thu chỉ cho những chuyến
xe vào Vancouver. Hầu như tất cả phương tiện giao thông vào thành phố đều qua một cây
cầu. Mức phí này thúc đẩy mọi người sử dụng phương tiện giao công cộng hoặc thay đổi
chỗ ở gần chỗ làm việc hơn.
Câu hỏi
1. Thuế phương tiện
Ông/bà sẵn lòng trả bao nhiêu mỗi năm cho 100kg trọng lượng phương tiện (đánh dấu X
bên cạnh con số mà ông/bà cho rằng phù hợp với mình nhất
$ 0 ____________
$ 5 ____________
$ 10 ____________
$ 20 ____________
$ 30 ____________
$ 50 ____________
Trên $ 50 ____________
2. Phí cầu đường
Ông/bà có sẵn lòng trả $_________* cho phí cầu đường mỗi lần qua một cây cầu ở tiểu
vùng Vancouver? Yes No (khoanh tròn)
Barry Field & Nancy Olewiler
257
* Nhà nghiên cứu sẽ đặt vào khoảng trống này một con số nào đó. Người được phỏng vấn khác nhau sẽ có
các con số khác nhau. Những giá trị này sẽ nằm trong phạm vi nhà nghiên cứu cho rằng thích hợp.
Phê bình phương pháp Đánh giá Ngẫu nhiên
Điểm mạnh chính của phương pháp CVM là linh động. Có thể thiết kế CVM cho bất cứ
tình huống nào và do đó có thể áp dụng cho rất nhiều hàng hóa môi trường, không chỉ áp
dụng cho những hàng hóa đo được chỉ khi có liên hệ với hàng hóa thị trường. Hầu như tất
cả những thứ gì mà con người có thể hiểu được đều có thể dùng phương pháp CVM này
nghiên cứu. Phương pháp này được dùng rộng rãi để đánh giá giá trị lợi ích môi trường.
Phương pháp có một số nhược điểm chính:
Đặc tính giả định. Khi một người mua hàng hóa thị trường, muốn có món hàng, anh ta
phải thật sự đưa tiền cho người bán hàng. Đó là tình huống thật, nếu lựa chọn sai lầ,
người đó sẽ phải chịu hậu quả thật. Nhưng đối với một bảng phỏng vấn CVM tình
huống thực như trên không hiện hữu. Người trả lời đối mặt với một tình huống giả định
và họ sẽ đưa ra câu trả lời giả định mà không bị chi phối bởi quy luật của thị trường
thực. Có hai câu hỏi về vấn đề này. Thứ nhất, liệu người trả lời có biết hoàn toàn về sự
ưa thích thực của mình để đưa ra câu trả lời đúng đắn? Thứ hai, Ngay cả khi họ biết sự
ưa thích của họ, có động lực nào làm họ không nói thực sự ưa thích của họ với phỏng
vấn viên?
Trên thị trường, hầu hết mọi người đều có kinh nghiệm mua sắm, tuy không phải mọi
người. Vào thế kỷ 17 ở New England, người ta đã từng mua bán chỗ ngồi trong nhà
thờ. Ở một số nước, để xin được giấy phép xây dựng toà nhà hay chỗ đậu xe phải có
hối lộ. Xã hội chúng ta ngày nay thì có giá cho mọi thứ mua bán trên thị trường. Khi
một người đứng trước giá thị trường của một hàng hóa hoặc dịch vụ, anh ta có thời
gian để nhận biết giá trị của nó, điều chỉnh mua sắm của mình và quyết định giá sẵn
lòng trả cho hàng hóa và dịch vụ đó – giá sẵn lòng trả này phản ánh chính xác sự ưa
thích của anh ta. Nhưng khi đề nghị anh ta nói lên một số tiền cho một thứ không có
giá thị trường, sẽ rất khó để anh ta nói đúng giá sẵn lòng trả của mình. Bạn sẵn lòng trả
bao nhiêu tiền để có thêm 10 buổi chiều hoàng hôn tuyệt đẹp mỗi năm? Nếu bạn chưa
từng trả cho hàng hóa môi trường, tất cả chúng ta cũng vậy, bạn sẽ không có ý tưởng gì
về giá mà bạn sẽ trả cho món hàng.
Động lực nói không đúng giá sẵn lòng trả. Các đặc tính chất lượng môi trường là
hàng hóa công, như chúng ta đã thấy trong chương 4. Một người sẽ nói thấp sự ưa thích
đối khi đoán rằng câu trả lời của anh ta sẽ được dùng để lập nên mức giá cho các hàng
hóa công cộng này. Nhưng trong nghiên cứu CVM, cũng không có áp lực nào cho rằng
sẽ dùng các câu trả lời để, chẳng hạn đánh thuế món hàng đang đượx xem xét. Do đó
loại thiên lệch này không đáng kể lắm. Loại thiên lệch ngược lại có thể lớn hơn: một
người có thể đưa ra mức giá sẵn lòng trả cao hơn mức thực và nghĩ rằng mọi người sẽ
làm tương tự, do cho rằng để làm cho món hàng hiện hữu, phần chia chi phí của mỗi
người sẽ rất nhỏ.
Các vấn đề thực tiễn. Bao gồm những thiên lệch do người nghiên cứu gây ra (ví dụ,
chọn phương pháp trả tiền, ph
ạm vi chọn lựa WTP, thiết kế tình huống trong bảng
phỏng vấn v.v.), kích thước mẫu nhỏ, các vấn đề xảy ra trong cuộc phỏng vấn (chẳng
hạn chỉ hỏi được những người quan tâm thực sự đến môi trường), và nhiều vấn đề khác
nữa. Các nhà kinh tế học đang phát triển một số kỹ thuật để giúp nghiên cứu CVM tốt
Barry Field & Nancy Olewiler
258
hơn. Ví dụ, họ khảo sát những tình huống người trả lời bộc lộ sự ưa thích của học
thông qua bộc lộ hành vi (vi dụ mua giấy phép câu cá). Phương pháp này gọi là phương
pháp phát biểu sự ưa thích.
Trong khi có nhiều phê bình, phương pháp CVM vẫn được sử dụng rộng rãi và là công cụ
có thể áp dụng được để đánh giá lợi ích.
NHẬN XÉT CÁC PHƯƠNG PHÁP ĐÁNH GIÁ GIÁ TRỊ LỢI ÍCH
MÔI TRƯỜNG
Giá sẵn lòng trả và Giá sẵn lòng chấp nhận
Trong sách này chúng ta đã sử dụng khái niệm giá sẵn lòng trả để đo lường lợi ích cải thiện
chất lượng môi trường và do đó đo lường thay đổi trong tổng thiệt hại (diện tích dưới
đường MD). Giá sẵn lòng trả, bên cạnh việc phản ánh sở thích còn phản ánh thu nhập. Một
cách khác để giải quyết các vấn đề đánh giá giá trị cải thiện chất lượng môi trường là hỏi
người dân giá sẵn lòng chấp nhận từ bỏ sử dụng hàng hóa môi trường. Để đánh giá cải
thiện chất lượng không khí, chúng ta có thể hoặc hỏi họ sẵn lòng trả bao nhiên cho một
đơn vị cải thiện hoặc họ sẵn lòng chấp nhận đền bù bao nhiêu để giảm một đơn vị chất
lượng không khí. Giả sử cơ quan quản lý đang dự tính xây dựng nhà máy lò đốt rác thải
độc hại ở một khu vực cụ thể. Để đo thiệt hại cho cộng đồng, chúng ta có thể tính số tiền
đền bù cần thiết để cộng đồng sẵn lòng chấp nhận nhà máy (nói các khác, là số tiền họ sẵn
lòng trả để không có nhà máy đó).
Rõ ràng giá sẵn lòng chấp nhận (WTA) không bị giới hạn bởi thu nhập như giá sẵn lòng
trả. Do đó sẽ không ngạc nhiên khi được hỏi câu hỏi giá sẵn lòng chấp nhận, câu trả lời
thường cao hơn câu hỏi giá sẵn lòng trả cho cùng một loại hàng hóa. Ở mức độ nào đó, giá
trị tính được phụ thuộc vào câu hỏi hỏi cái gì. Hai loại câu hỏi này sẽ cho kết quả tương
đương nhau nếu hỏi về một thay đổi nhỏ. Xem xét ví dụ về trái dưa gang. Nếu một người
sẵn lòng trả $1.49 để mua thêm một trái dưa, giá trị này rất gần với khoản tiền cần để đền
bù nếu lấy trái dưa gang của anh ta. Ngay cả trong những trường hợp thay đổi nhỏ, giá sẵn
lòng chấp nhận vẫn lớn hơn gí sẵn lòng trả. Trong những cuộc khảo sát và thực nghiệm,
người dân có xu hướng so sánh được và mất từ một điểm tham chiếu. Họ đánh giá mất từ
điểm tham chiếu nhiều hơn là được. Một khoản đền bù tối thiểu thông thường cao hơn vài
lần khoản sẵn lòng trả.
22
Sinh viên Canada đã tham gia vào một số thí nghiệm đo lường giá
sẵn lòng trả so với giá sẵn lòng chấp nhận. Hàng hóa là sô cô la và cà phê. Đây là những
hàng hóa mà chúng ta dự đoán sinh viên sẽ không phân biệt gì nhiều giữa giá sẵn lòng trả
và giá sẵn lòng chấp nhận. Nhưng thực sự là họ đã phân biệt.
Đối với những thay đổi lớn (gọi là những thay đổi “không biên tế”), sự phân biệt này càng
lớn. Ví dụ nếu chúng ta nói về thay đổi ô nhiễm không khí nhiều trong khu vực đến nỗi
làm thay đổi phúc lợi của cư dân sống ở đó, hai cách đo này có thể đem lại kết quả khác
nhau nhiều.
Các nhà kinh tế học thường có một số phương pháp phân tích vấn đề này. Một trong những
cách đó là xem xét kỹ lưỡng bảng phỏng vấn và cách thức đặt câu hỏi trong bảng phỏng
22
Xem công trình của Jack Knetsch và cộng sự, ví dụ “Environmental Policy Implications of Disparities
between Willingness to Pay and Compensation Demanded Measures of Values”, Journal of Environmental
Economics and Management 18 (1990): 227-237, và tài liệu tham khảo trong bài này.