Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

HỖ TRỢ THƯƠNG MẠI ĐA BIÊN 2 - CƠ CHẾ HOẠT ĐỘNG CỦA WTO - 3 docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (443.43 KB, 26 trang )


59
Hộp 1.1. Hệ thống các hiệp định của WTO
Hiệp định thành lập Tổ chức Thương mại Thế giới (Hiệp định Marrakesh)
Các hiệp định Thương mại đa phương
Phụ lục 1A. Các hiệp định đa phương về thương mại hàng hóa
1. Hiệp định Chung về Thuế quan và Thương mại 1994 (GATT 1994)
2. Hiệp định Nông nghiệp
3. Hiệp định về việc Áp dụ
ng các biện pháp vệ sinh và Kiểm dịch động
thực vật
4. Hiệp định về Hàng dệt và May mặc
5. Hiệp định về các Hàng rào kỹ thuật đối với thương mại
6. Hiệp định về các Biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại
7. Hiệp định về việc Thực hiện Điều VI của Hiệp định Chung về Thuế quan
và Thương mại 1994 (Hiệp định Ch
ống bán phá giá)
8. Hiệp định về việc Thực hiện Điều VII của Hiệp định Chung về Thuế
quan và Thương mại 1994 (Hiệp định Xác định Trị giá Hải quan)
9. Hiệp định về Giám định trước khi gửi hàng
10. Hiệp định về Qui tắc Xuất xứ
11. Hiệp định về các Thủ tục cấp phép nhập khẩu
12. Hiệp định về Trợ cấp và các Biện pháp đố
i kháng
13. Hiệp định về các Biện pháp tự vệ
Phụ lục 1B. Hiệp định Chung về Thương mại Dịch vụ (GATS) và các phụ
lục
Phụ lục 1C. Hiệp định về các Khía cạnh liên quan đến Thương mại của
Quyền Sở hữu trí tuệ (TRIPS)
Phụ lục 2: Thỏa thuận về các qui tắc và thủ tục giải quyết tranh chấp
Phụ lục 3: Cơ chế rà soát chính sách thươ


ng mại
Các hiệp định Thương mại nhiều bên
1. Hiệp định về Mua bán máy bay dân dụng
2. Hiệp định về Mua sắm chính phủ
3. Hiệp định quốc tế về sản phẩm từ sữa (đã chấm dứt hiệu lực năm 1997)
4. Hiệp định quốc tế về thịt bò (đã chấm dứt hiệu lực năm 1997)



60
1.2.1.3. Chức năng của WTO
Hiệp định Marrakesh đã nêu lên các chức năng sau của WTO:
- Quản lý, điều hành việc thực thi Hiệp định Marrakesh cũng
như các hiệp định Thương mại đa phương, đồng thời tạo khuôn
khổ pháp lý cho việc quản lý và thực thi các hiệp định Thương
mại nhiều bên.
- Tạo ra diễn đàn đàm phán giữa các Thành viên về các mối
quan hệ thương mại
đa phương, và tạo ra những khuôn khổ chung
cho việc thực hiện các kết quả đàm phán đã đạt được.
- Điều hành Thỏa thuận về các quy tắc và thủ tục giải quyết
tranh chấp.
- Điều hành Cơ chế rà soát chính sách thương mại.
- Hợp tác với các tổ chức quốc tế khác đặc biệt là với Quĩ Tiền
tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB) nhằ
m đạt tới sự phối
hợp tốt hơn trong việc hoạch định chính sách kinh tế toàn cầu.
1.2.1.4. Cơ cấu tổ chức của WTO
Về cơ cấu tổ chức, WTO có ba cơ quan chủ yếu là Hội nghị Bộ
trưởng, Đại Hội đồng và Ban thư ký, trong đó Hội nghị Bộ trưởng và Đại

Hội đồng là các cơ quan có quyền ra quyết định (xem Hình 1.1).
- Hội nghị Bộ trưởng. Hội nghị Bộ trưởng là cơ quan quyền lực
cao nhất của WTO, gồm đại diện của tất cả các Thành viên, họp ít
nhất hai năm một lần. Đây là cơ quan có quyền đưa ra quyết định
cao nhất của WTO. Hội nghị Bộ trưởng thực thi các chức năng
của WTO, đưa ra những quyết định mang tính chiến lược và quan
trọng nhất như nh
ững quyết định liên quan đến mọi vấn đề trong
các hiệp định Thương mại đa phương, kết nạp Thành viên mới
v.v… Hội nghị Bộ trưởng còn đứng ra thành lập các ủy ban
chuyên trách của mình như Ủy ban về thương mại và phát triển,
Ủy ban về các hạn chế đối với cán cân thanh toán, Ủy ban về
ngân sách, tài chính và quản trị v.v…

61
Đến nay, tính đến ngày 01/08/2007, đã có tổng cộng sáu Hội nghị
Bộ trưởng. Đó là Hội nghị Bộ trưởng Singapore (họp tại Singapore từ
ngày 09-13/12/1996); Hội nghị Geneva (họp tại Geneva, Thụy Sĩ, từ
ngày 18-20/5/1998); Hội nghị Seattle (họp tại Seattle, Hoa Kỳ, từ ngày
30/11 đến ngày 03/12/1999); Hội nghị Doha (họp tại Doha, Qatar, từ
ngày 09-13/11/2001); Hội nghị Cancun (họp tại Cancun, Mêhicô, từ ngày
10-14/09/2003) và Hội nghị Hồng Kông (họp tại Hồng Kông, Trung
Quốc, từ ngày 13-18/12/2005. Tại Hội nghị Doha năm 2001, WTO đã
khởi xướng Vòng đàm phán mới - Vòng Doha.
- Đại Hội đồng. Đại Hội đồng là cơ quan chấp hành của WTO,
gồm đại diện của tất cả các Thành viên và được nhóm họp ở
thời điểm cần thiết. Đại Hội đồng thực hiện các chức năng của
WTO giữa hai kỳ Hội nghị Bộ
trưởng và thực hiện các chức
năng khác được Hiệp định WTO giao phó. Đại Hội đồng còn

có quyền hạn đưa ra và thông qua các qui tắc liên quan đến
hoạt động của các ủy ban chuyên trách của WTO. Đại Hội
đồng cũng có thể kiêm chức năng là Cơ quan Giải quyết tranh
chấp và Cơ quan rà soát chính sách thương mại. Đại Hội đồng
cũng có quyền quyết định kết nạp Thành viên mới như trường
h
ợp cuộc họp của Đại Hội đồng quyết định kết nạp Việt Nam
trở thành Thành viên của WTO vào ngày 07/11/2006.
- Các Ủy ban, Hội đồng chuyên trách. Cấp tiếp theo là các Hội
đồng thương mại hàng hóa, Hội đồng thương mại dịch vụ và
Hội đồng về các khía cạnh liên quan đến thương mại của
quyền sở hữu trí tuệ. Những Hội đồng này có trách nhiệm báo
cáo lên Đại hộ
i đồng. Ngoài ra, còn có rất nhiều Ủy ban
chuyên trách và các nhóm công tác khác nhau trực thuộc các
Hội đồng như Ủy ban chống bán phá giá, Ủy ban trợ cấp và
các biện pháp đối kháng, Ủy ban về môi trường, Nhóm công
tác về mở cửa thị trường v.v… Sơ đồ tổ chức của WTO được
trình bày chi tiết trong trang web của WTO. Sơ đồ dưới đây
được lấy từ nguồn của tác giả Norio Komuro.

62
- Ban thư ký. Mặc dù không phải là một cơ quan ra quyết định và
đơn thuần là một cơ quan hành chính nhưng Ban thư ký có vai trò
rất quan trọng. Nhiệm vụ chủ yếu của Ban thư ký là cung cấp các
hỗ trợ kỹ thuật và chuyên môn cho các hội đồng, các ủy ban; cung
cấp các hỗ trợ kỹ thuật cho các Thành viên đang phát triển; theo
dõi và phân tích tình hình phát triển của thương mại thế giới; và là
phát ngôn viên của WTO trước báo chí và công chúng và tổ chức
các H

ội nghị Bộ trưởng. Đứng đầu Ban thư ký là Tổng giám đốc
do Đại Hội đồng chỉ định. Ban thư ký có khoảng 600 nhân viên.
Hình I.1. Sơ đồ tổ chức của WTO

















Nguồn: Norio Komuro 2005. The WTO How are you?. Worldbank
seminar Russian Academy of State Services. Moscow March/April 2005.

Hội nghị Bộ trưởng

DSB (Cơ quan
Giải quyết tranh chấp)

Đại hội đồng


Cơ quan rà soát
chính sách
Ủy ban
Phát triển
Môi trường
Ngân sách
v.v.

Hội đồng
Dịch vụ

Hội đồng
TRIPs

Hội đồng
Hàng hóa
Ủy ban
Nông nghiệp,
BT, AD,
ROO, SG v.v.

Ủy ban
Tài chính v.v.

Cơ quan tố
tụng

63
1.2.2. Quá trình ra quyết định của WTO
Quá trình ra quyết định của WTO được dựa trên nguyên tắc đồng

thuận. Khi có một vấn đề được trình lên Hội nghị Bộ trưởng hoặc Đại
Hội đồng để thông qua, nếu không một Thành viên nào có mặt có ý kiến
phản đối thì có nghĩa là quyết định được thông qua trên cơ sở đồng
thuận, còn gọi là nguyên tắc đồng thuận thuận.
Trong trường hợp không đạt đượ
c sự đồng thuận, để quyết định
một vấn đề cụ thể WTO sẽ tiến hành bỏ phiếu. Tại các cuộc họp của Hội
nghị Bộ trưởng và Đại hội đồng, mỗi Thành viên sẽ được bỏ một phiếu.
Trường hợp của Liên minh châu Âu (EU), hiện nay gồm 27 nước thành
viên, số phiếu biểu quyết bằng số nước Thành viên EU cộng với bản thân
EU được coi là một Thành viên WTO thành 28 phiếu. Quyết định của
Hội nghị Bộ trưởng hoặc Đại Hội đồng lúc đó sẽ dựa trên đa số phiếu,
trừ trường hợp quyết định của Đại Hội đồng với tư cách là Cơ quan Giải
quyết tranh chấp sẽ tuân theo các điều khoản của Thỏa thuận về các qui
tắc và thủ tục giải quyết tranh ch
ấp.
WTO còn có những qui định cụ thể cho việc ra quyết định ở
những trường hợp đặc biệt khác.
1.2.3. Các nguyên tắc của hệ thống thương mại của WTO
Như đã trình bày ở phần trên, nền tảng cho sự tồn tại và vận hành
của WTO là hệ thống các hiệp định. Các hiệp định này có dung lượng rất
lớn và bao trùm rất nhiều lĩnh vực khác nhau, từ thương mạ
i hàng hóa tới
thương mại dịch vụ, sở hữu trí tuệ, các qui tắc giải quyết tranh chấp và rà
soát chính sách thương mại. Tuy nhiên, có những nguyên tắc chung
xuyên suốt toàn bộ các hiệp định đó và những nguyên tắc này là các trụ
cột của hệ thống thương mại đa phương. Các nguyên tắc đó gồm:
1.2.3.1. Không phân biệt đối xử
Nguyên tắc không phân biệt đối xử được thực hiện thông qua hai
chế độ

. Đó là chế độ đối xử tối huệ quốc và chế độ đối xử quốc gia.
- Đối xử tối huệ quốc (MFN). Đối xử tối huệ quốc có nghĩa là
dành sự ưu đãi như nhau cho mọi đối tác. Nói cách khác, nếu một
Thành viên dành ưu đãi cho một Thành viên khác, như áp dụng

64
mức thuế thấp cho một sản phẩm nhập khẩu nào đó, hay dành cho
một sự miễn trừ nào đó, thì ngay lập tức và không điều kiện các
Thành viên khác cũng sẽ được hưởng sự ưu đãi đó. Đây là nguyên
tắc bao trùm mọi Hiệp định của WTO, đặc biệt nó được ghi thành
điều khoản trong GATT, trong Hiệp định Chung về Thương mại
Dịch vụ (GATS) và trong Hiệp đị
nh về các Khía cạnh Liên quan
đến Thương mại của Quyền Sở hữu trí tuệ (TRIPs). Cụ thể:
“… bất kỳ một sự ưu đãi, ưu tiên, đặc quyền hay miễn trừ mà một
bên ký kết dành cho bất kỳ sản phẩm nào có xuất xứ từ hoặc được giao
đến bất kỳ nước nào khác thì ngay lập tức và không điều kiện phải được
dành cho sản phẩm tương tự
có xuất xứ từ hoặc được giao đến lãnh thổ
của tất cả các bên ký kết khác”. (Điều I khoản 1 GATT 1947).
“Đối với bất kỳ biện pháp nào thuộc phạm vi điều chỉnh của Hiệp
định này, mỗi Thành viên phải ngay lập tức và không điều kiện dành cho
dịch vụ và người cung cấp dịch vụ của bất kỳ Thành viên nào khác sự đãi
ngộ không kém thuận lợ
i hơn sự đãi ngộ mà Thành viên đó dành cho
dịch vụ và người cung cấp dịch vụ tương tự của bất kỳ nước nào khác”.
(Điều II khoản 1 GATS).
“Đối với việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, bất kỳ một sự ưu tiên,
chiếu cố, đặc quyền hoặc miễn trừ nào được một Thành viên dành cho
công dân của bất kỳ nước nào khác c

ũng phải được ngay lập tức và
không điều kiện dành cho công dân của tất cả các Thành viên khác”.
(Điều 4 khoản 1 TRIPs).
- Đối xử quốc gia (NT). Có nghĩa là phải có sự đối xử bình đẳng
giữa trong nước và nước ngoài. Chẳng hạn giữa hàng hóa sản xuất
trong nước và hàng hóa nhập khẩu, giữa dịch vụ do các nhà cung
ứng nội địa cung cấp và dịch vụ do các công ty nước ngoài cung
cấp, giữa công dân hay công ty trong nướ
c và công dân hay công
ty nước ngoài, giữa bản quyền tác phẩm của các tác giả trong
nước và của các tác giả nước ngoài. Tuy nhiên Chính phủ một
nước chỉ có nghĩa vụ thực thi đối xử quốc gia khi một sản phẩm,
dịch vụ hay một thực thể sở hữu trí tuệ của nước ngoài thực sự gia

65
nhập thị trường nước đó. Cũng giống như đối xử tối huệ quốc, đối
xử quốc gia là một nguyên tắc bao trùm các hiệp định của GATT
và WTO. Nguyên tắc này cũng được ghi thành điều khoản ở Điều
III của GATT, Điều XVII của GATS, và Điều 3 của TRIPs.
Khác với nguyên tắc đối xử tối huệ quốc điều chỉnh các biệ
n pháp
hạn chế mở cửa thị trường, nguyên tắc đối xử quốc gia hướng tới tạo ra
một môi trường kinh doanh bình đẳng giữa các doanh nghiệp trong nước
và ngoài nước. Bởi vậy, đối xử quốc gia liên quan trực tiếp tới các biện
pháp, luật lệ và chính sách của Chính phủ như chính sách thuế, chính
sách liên quan đến tiếp cận và sử dụng các nguồn lực trong nước, qui chế
đấu thầu v.v… Đây là lĩ
nh vực thường bị các doanh nghiệp chỉ trích và
phàn nàn nhiều nhất.
Thực tế trong quá trình đàm phán gia nhập WTO, Việt Nam đã có

những nỗ lực vượt bậc trong sửa đổi chính sách và pháp luật của mình để
đảm bảo thực hiện nguyên tắc không phân biệt đối xử của WTO. Đặc
biệt, nguyên tắc cơ bản này của WTO được quán triệt trong Luật Đầu tư
Việt Nam năm 2005. Điều 4 khoả
n 2 của Luật khẳng định: “Nhà nước
đối xử bình đẳng trước pháp luật đối với các nhà đầu tư thuộc mọi thành
phần kinh tế, giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài”. Ở Điều 10,
Chính phủ Việt Nam cam kết áp dụng giá, phí, lệ phí thống nhất đối với
hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước kiểm soát. Điều 14 về “Quyền tiếp cận,
s
ử dụng nguồn lực đầu tư”, các nhà đầu tư được “bình đẳng trong việc
tiếp cận, sử dụng các nguồn vốn tín dụng, quĩ hỗ trợ; sử dụng đất đai và
tài nguyên theo qui định của pháp luật”. Điều 19 xác nhận quyền của
nhà đầu tư “tiếp cận, sử dụng các dịch vụ công theo nguyên tắc không
phân biệt đối xử”.
WTO có đưa ra m
ột số ngoại lệ đối với nguyên tắc không phân
biệt đối xử này. Các trường hợp ngoại lệ điển hình về phân biệt đối xử
được GATT và các hiệp định của WTO cho phép gồm:
- Điều XIV của GATT về “Các ngoại lệ đối với qui tắc không
phân biệt đối xử” cho phép phân biệt đối xử trong một số trường
hợp liên quan đến áp dụng các hạn chế
định lượng nhập khẩu.

66
- Dựa vào “điều khoản được phép” (Enabling Clause) các nước
công nghiệp phát triển đã dành cho hầu hết các nước đang phát
triển Chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP), một loại ưu đãi
thông qua giảm thuế đơn phương của nước công nghiệp cho hàng
nhập khẩu từ các nước đang phát triển, không yêu cầu có đi có lại.

- Trong thương mại dịch vụ, m
ột Thành viên có thể áp dụng
một số biện pháp phân biệt đối xử được qui định trong Điều II
khoản 2 của Hiệp định GATS và phù hợp với các điều kiện của
Phụ lục về các miễn trừ của Điều II.
- Theo Hiệp định về các Biện pháp Tự vệ, Hiệp định về trợ cấp
và các biện pháp đối kháng, Hiệp định Chống bán phá giá, trong
trường hợp diễn ra thương mại không lành mạnh từ phía nước
xuất khẩu, một nước nhập khẩu có thể gia tăng các rào cản thương
mại (như tăng thuế và áp dụng hạn ngạch) đối với hàng hoá nhập
khẩu từ nước xuất khẩu đó.
- Ngoài ra còn một số ngoại lệ khác được qui định trong các
hiệp định khác nhau như cho phép áp dụng hạn ngạch thuế
quan
đối với nhập khẩu nông sản, phân biệt đối xử trong cấp hạn ngạch
dệt may trong Hiệp định Dệt may, ưu đãi hơn cho các nước đang
phát triển và các nước kém phát triển v.v…
- Qui tắc của WTO về mua sắm của Chính phủ được xem là
một ngoại lệ điển hình của nguyên tắc đối xử quốc gia.
1.2.3.2.Thương mại tự do hơn
Thương mại ngày càng t
ự do có thể nói là nguyên tắc mà GATT
và WTO theo đuổi suốt quá trình hoạt động của của mình. Tự do hoá
thương mại không chỉ được quán triệt trong GATT và trong các hiệp
định của WTO mà còn cả trong thực tiễn hoạt động của chúng. GATT và
tiếp theo các hiệp định của WTO đã đưa ra các điều khoản và qui tắc
nhằm ràng buộc và thúc đẩy các nước Thành viên mở cửa thị trường.
GATT là Hiệp định đầu tiên về cắt gi
ảm thuế quan trong thương mại đa
phương. Với tám vòng đàm phán của GATT, thuế quan hàng công

nghiệp đã giảm một cách căn bản. Vào cuối thập niên 80 của thế kỷ 20,

67
thuế suất hàng công nghiệp ở các nước công nghiệp giảm xuống chỉ còn
khoảng 6,3%. Việc dỡ bỏ các rào cản phi thuế quan cũng từng bước được
đưa vào đàm phán và thực thi. Trước hết đó là hạn ngạch và một số hạn
chế định lượng hạn chế nhập khẩu khác. Tiếp theo, nhất là vào thập niên
80 của thế kỷ 20, các rào cản phi thuế quan khác đã được dỡ b
ỏ hoặc đưa
vào điều chỉnh với các hiệp định về thương mại hàng hoá được ký kết ở
Vòng đàm phán Uruguay.
Vòng đàm phán Uruguay đã mở rộng tự do hoá thương mại sang
các lĩnh vực mới là dịch vụ và sở hữu trí tuệ. GATS đã qui định nghĩa vụ
pháp lý của các Thành viên đối với các cam kết về mở cửa thị trường
dịch vụ. Bên cạnh đ
ó TRIPs với các qui tắc về bảo hộ quyền sở hữu trí
tuệ đã đưa ra một khuôn khổ pháp lý an toàn hơn cho tự do hoá thương
mại.
Tuy nhiên, các hiệp định của WTO không bắt buộc các Thành
viên phải nhanh chóng tự do hoá thương mại. Chúng không chỉ cho phép
các Thành viên tiến hành cải cách và tự do hoá thương mại một cách từ
từ với các bước quá độ mà còn tạo ra một cơ chế an toàn cho cải cách.
Các cơ chế an toàn đó là rấ
t nhiều điều khoản ngoại lệ cho các Thành
viên đang và kém phát triển, là các ngoại lệ liên quan đến an ninh quốc
gia, vệ sinh, an toàn và môi trường. Ngoài ra, đó còn là các qui tắc về các
biện pháp tự vệ, các biện pháp chống bán phá giá, các biện pháp đánh
thuế đối kháng v.v…
1.2.3.3. Tính minh bạch: Báo cáo và giám sát
Để hướng tới tạo ra một môi trường kinh doanh ổn định và có thể

dự đoán trong hệ thống thương mại đa phương, WTO yêu cầu các Thành
viên phải th
ực thi các biện pháp để đảm bảo tính minh bạch trong hệ
thống kinh tế cũng như thương mại của mình. Môi trường kinh doanh
như vậy giúp doanh ngHiệp định hướng một cách hiệu quả chiến lược
kinh doanh trong tương lai, khích lệ họ đầu tư và nhờ đó tạo ra nhiều
việc làm và góp phần nâng cao mức sống của dân cư. Nguyên tắc tăng
cường tính minh bạch được thể chế hóa ở
Điều X của GATT và Điều III

68
của GATS. Để thực hiện nguyên tắc này, WTO yêu cầu các Thành viên
phải thực thi các biện pháp:
- Đưa ra các cam kết ràng buộc khi mở cửa thị trường. Điều đó
có nghĩa là phải đưa ra mức trần của cam kết trong đàm phán mở
cửa thị trường. Ví dụ: trong thương mại hàng hoá, một nước trong
đàm phán mở cửa thị trường thịt bò có thể đặt cam kết ràng buộc
đối vớ
i thuế nhập khẩu thịt bò là 15%. Khi cam kết mở cửa thị
trường có hiệu lực, nước đó sẽ không được tăng thuế vượt mức
đó. Trong thương mại dịch vụ, khi có cam kết mở cửa thị trường
thì mức mở cửa thị trường không được thấp hơn mức hiện hành
và các Thành viên không được duy trì hoặc ban hành những biện
pháp hạn chế được nêu trong Điều XVI c
ủa GATS.
- Hạn chế áp dụng hạn ngạch, các biện pháp hạn chế định lượng
và những biện pháp khác có thể làm giảm tính minh bạch của môi
trường kinh doanh. Thực tế của Việt Nam cũng cho thấy áp dụng
hạn ngạch với cơ chế xin - cho không minh bạch dễ dẫn đến tình
trạng tiêu cực và cạnh tranh không công bằng.

- Chính phủ các Thành viên phải công bố công khai và phải
đảm bảo công chúng cũng như các doanh nghiệp trong và ngoài
n
ước có thể tiếp cận dễ dàng các chính sách, các qui định, luật lệ
và thông tin liên quan đến ngoại thương.
- Thành lập các cơ quan có thẩm quyền để rà soát các quyết
định hành chính có ảnh hưởng đến thương mại; xem xét các yêu
cầu và kiến nghị của các Thành viên khác.
- Các Thành viên phải đảm bảo sự phù hợp giữa luật lệ và chính
sách của mình với các hiệp định của WTO. Đây là một nghĩa vụ
pháp lý của các Thành viên. “Mỗi Thành viên phải b
ảo đảm sự
phủ hợp của các luật, các chính sách và thủ tục hành chính của
mình với các nghĩa vụ được quy định tại các hiệp định ở phần phụ
lục” (Điều XVI khoản 4 Hiệp định Marrakesh về thành lập Tổ
chức Thương mại Thế giới).

69
Để đảm bảo tính minh bạch, WTO có cơ chế giám sát được đưa
vào Hiệp định về Cơ chế rà soát chính sách thương mại. Theo cơ chế
này, WTO yêu cầu các Thành viên phải thông báo cho WTO và các
Thành viên khác những biện pháp, các chính sách hoặc luật lệ mà Chính
phủ áp dụng để điều chỉnh thương mại (theo nghĩa rộng). Ngoài ra, WTO
còn tiến hành rà soát theo định kỳ chính sách thương mại của các Thành
viên. Bốn thực thể thương mại lớn nhất c
ủa thế giới gồm EU, Hoa Kỳ,
Nhật Bản và Canada bị rà soát hai năm một lần. 16 thực thể thương mại
lớn tiếp theo sẽ bị rà soát bốn năm một lần. Các Thành viên còn lại bị rà
soát sáu năm một lần, trừ trường hợp có thể áp dụng một thời kỳ dài hơn
đối với các Thành viên kém phát triển. WTO lập ra Cơ quan Rà soát

Chính sách Thương mại (TPRB) để thực thi công việc này.
Nguyên tắc minh b
ạch là rất cần thiết cho việc thực thi các cam
kết, cho việc trao đổi thông tin trong WTO. Ngoài ra nó còn giúp nâng
cao quyền lực của WTO đối với các Thành viên. Trong quá trình đàm
phán gia nhập WTO, Việt Nam cam kết đảm bảo tính minh bạch của
những biện pháp, chính sách và luật lệ của mình liên quan đến thương
mại.
1.2.3.4. Hỗ trợ các nước đang phát triển và kém phát triển
WTO đã sớm đề ra nguyên tắc đối xử đặc biệt và khác biệt (S&D)
nhằ
m hỗ trợ các Thành viên kém phát triển, đang phát triển và cả các nền
kinh tế đang chuyển đổi. Trong hầu hết các hiệp định của WTO đều đưa
vào các điều khoản này với các qui định cụ thể về ưu đãi cho các Thành
viên kém và đang phát triển. Nội dung các điều khoản đặc biệt này gồm:
- Có một thời kỳ quá độ dài hơn khi thực thi các hiệp định và
cam kết của WTO;
- Có các bi
ện pháp để gia tăng cơ hội thương mại cho các
Thành viên đang phát triển;
- Mức độ cam kết thấp hơn;
- Được hỗ trợ về mặt kỹ thuật hoặc được hưởng một số ưu đãi
khác như hỗ trợ trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng, trong giải
quyết tranh chấp, trong thực hiện các tiêu chuẩn kỹ thuật;

70
- Yêu cầu các Thành viên phải bảo vệ lợi ích của các Thành
viên đang phát triển;
- Ngoài ra còn có các điều khoản yêu cầu các nước công nghiệp
dành những ưu đãi khác cho các nước kém phát triển như đơn

phương miễn thuế hoặc xóa bỏ hạn ngạch đối với hàng nhập khẩu
từ các nước kém phát triển.
Hội nghị Bộ trưởng lần thứ tư họp tại Doha đã uỷ quyề
n cho Uỷ
ban Thương mại và phát triển giám sát việc thực thi các điều khoản về
đối xử đặc biệt và khác biệt này.
1.2.4. Đàm phán gia nhập
Về nguyên tắc, tất cả các quốc gia và lãnh thổ hải quan có đầy đủ
chủ quyền kinh tế trong hoạch định và thực thi các chính sách thương
mại của mình đều có thể gia nhập WTO. Tuy nhiên, muốn trở thành
Thành viên của WTO, quốc gia hay lãnh thổ hải quan đó phải đượ
c sự
đồng thuận của tất cả các Thành viên. Muốn đạt được sự đồng thuận này
quốc gia xin gia nhập phải tiến hành đàm phán. Quá trình đàm phán xin
gia nhập gồm các nội dung chủ yếu sau:
- Nước xin gia nhập nộp đơn xin gia nhập.
- Đại Hội đồng thành lập Ban Công tác. Về nguyên tắc tất cả
các Thành viên của WTO có yêu cầu đàm phán với đối tác gia
nhập đều có thể là Thành viên của Ban Công tác.
- Minh bạch hóa chính sách. Ở
giai đoạn này nước xin gia nhập
phải gửi văn kiện thuyết minh toàn bộ các chính sách kinh tế và
thương mại của mình có liên quan đến các hiệp định của WTO.
Văn kiện sẽ được Ban Công tác của WTO xem xét. Ngoài ra nước
xin gia nhập còn phải trả lời tất cả các câu hỏi do các Thành viên
của Ban Công tác nêu ra.
- Đàm phán gia nhập, bao gồm đàm phán song phương và đàm
phán đa phương. Đàm phán song phương là đàm phán giữa nước
xin gia nhập và các Thành viên khác. S
ở dĩ có đàm phán song

phương là do mỗi Thành viên với những đặc thù về kinh tế và

71
thương mại của mình có những yêu cầu đàm phán khác nhau. Nội
dung đàm phán có thể bao trùm toàn bộ các hiệp định của WTO
từ thuế quan và các rào cản phi thuế quan đối với thương mại
hàng hóa đến mở cửa thị trường dịch vụ, vấn đề bảo hộ quyền sở
hữu trí tuệ. Do nguyên tắc không phân biệt đối xử, cam kết của
nước xin gia nhập với bất kỳ m
ột Thành viên nào cũng sẽ được áp
dụng cho tất cả các Thành viên khác của WTO, kể cả những nước
không tham gia đàm phán. Đàm phán đa phương là đàm phán với
WTO nói chung thông qua đại diện là Ban Công tác. Trọng tâm
của nó là đàm phán về các điều khoản gia nhập liên quan tới các
quy tắc và nghĩa vụ được quy định trong các hiệp định của WTO
trên 3 lĩnh vực chính là: (i) thương mại hàng hóa; (ii) quyền sở
hữu trí tuệ và (iii) các vấn đề mang tính h
ệ thống liên quan tới
thương mại dịch vụ. Nội dung đàm phán đa phương tập trung vào
việc xem xét các luật và thể chế chính sách của nước xin gia nhập.
Nếu luật lệ và thể chế chính sách của nước xin gia nhập chưa phù
hợp với các hiệp định của WTO, WTO yêu cầu nước xin gia nhập
phải tiến hành những sửa đổi phù hợp.
- Ban Công tác soạn thảo văn kiện gia nhập. Sau khi hoàn tấ
t
việc đàm phán song phương và đa phương, Ban Công tác sẽ hoàn
tất bộ văn kiện trọn gói cuối cùng về các điều khoản gia nhập. Bộ
văn kiện này gồm: Báo cáo của Ban Công tác, Nghị định thư gia
nhập, các Biểu cam kết của nước xin gia nhập và Quyết định gia
nhập do Đại Hội đồng phê chuẩn.

- Xem xét ra quyết định và các thủ tục pháp lý khác. Bộ văn
kiện trọn gói cuố
i cùng sẽ được trình cho Đại Hội đồng hoặc Hội
nghị Bộ trưởng xem xét. Nếu hai phần ba số Thành viên của
WTO biểu quyết tán thành, thì WTO sẽ phê chuẩn Quyết định gia
nhập. Đồng thời nước xin gia nhập sẽ ký Nghị định thư gia nhập.
Đối với một số nước, văn kiện xin gia nhập còn phải được Quốc
hội hoặc Nghị viện của nước đó thông qua. N
ước gia nhập sẽ
chính thức trở thành Thành viên của WTO sau 30 ngày kể từ khi

72
WTO nhận được thông báo của nước xin gia nhập về việc đã hoàn
thành thủ tục phê chuẩn Nghị định thư gia nhập và các phụ lục.
1.2.5. Tổng quan về quá trình đàm phán gia nhập WTO của
Việt Nam
Quá trình đàm phán gia nhập WTO của Việt Nam đã trải qua các
giai đoạn sau:
- Nộp đơn. Ngày 4 tháng 1 năm 1995 WTO tiếp nhận đơn xin
gia nhập của Việt Nam.
- Đại Hội đồng thành lập Ban Công tác. Ngày 31/01/1995, Ban
Công tác được thành l
ập. Đại sứ Seung Ho (Hàn Quốc) làm chủ
tịch Ban Công tác trong giai đoạn 1998-2004, và Đại sứ Eirik
Glene (Na Uy) làm chủ tịch Ban Công tác giai đoạn 2005-2006.
- Minh bạch hóa chính sách. Tiếp theo, Việt Nam bước vào giai
đoạn minh bạch hóa chính sách. Việt Nam gửi văn kiện cho WTO
thuyết minh về chính sách kinh tế và thương mại của mình và trả
lời các câu hỏi do các Thành viên Ban Công tác nêu ra. Tổng
cộng Việt Nam phải trả lời khoảng 3516 câu hỏi.

- Đàm phán về thực chất. Về
đàm phán song phương, lúc đầu
khoảng hơn 40 Thành viên yêu cầu đàm phán với Việt Nam. Khi
kết thúc đàm phán song phương, Việt Nam tổng cộng phải hoàn
tất đàm phán với 28 đối tác. Mỹ là nước cuối cùng kết thúc đàm
phán với Việt Nam. Văn kiện kết thúc đàm phán với Mỹ được ký
kết vào ngày 31/05/2006.
Về đàm phán đa phương, tổng cộng Việt Nam phải trải qua 14
phiên đàm phán chính thức với Ban Công tác. Phiên
đầu tiên diễn ra vào
các ngày 30-31/07/1998. Phiên cuối cùng diễn ra vào ngày 26/10/2006.
Trong các phiên đàm phán này, về thương mại hàng hóa, Việt Nam đã
đưa ra bốn bản chào về thuế quan. Về thương mại dịch vụ, Việt Nam đã
đưa ra bản chào về các cam kết cụ thể trong dịch vụ lần đầu vào ngày
07/01/2002. Bản chào này sau đó còn được sửa đổi ba lần nữa. Trong quá
trình đàm phán, để đáp ứng các yêu cầu của đàm phán đa phương, Việ
t
Nam đã có những nỗ lực vượt bậc nhằm hoàn thiện hệ thống luật pháp và

73
chính sách của mình phù hợp với các chuẩn mực của WTO. Tổng cộng
Việt Nam đã sửa đổi và xây dựng mới 25 luật và pháp lệnh, trong đó có
các đạo luật mới được ban hành, như Luật Cạnh tranh năm 2004, Pháp
lệnh Chống bán phá giá năm 2004, Luật Đầu tư năm 2005, Luật Sở hữu
trí tuệ năm 2005…
- Văn kiện gia nhập. Báo cáo của Ban Công tác về việc Việt
Nam gia nhập WTO lần đầ
u tiên được dự thảo vào ngày
22/11/2004, sau đó được tiếp tục hoàn chỉnh vào ngày
19/10/2006. Tuy nhiên phải đợi đến phiên đàm phán đa phương

lần thứ 14 vào ngày 26/10/2006, bộ văn kiện về việc Việt Nam
gia nhập WTO mới được hoàn tất để trình lên Đại Hội đồng.
- Xem xét, biểu quyết kết nạp. Ngày 07/11/2006, Đại Hội đồng
họp tại Geneva xem xét và biểu quyết kết nạp Việt Nam trở thành
Thành viên của WTO. Đạ
i Hội đồng đã bỏ phiếu chính thức kết
nạp Việt Nam là Thành viên của WTO. Sau lễ kết nạp, Bộ trưởng
Bộ Thương mại Trương Đình Tuyển đã ký Nghị định thư về việc
Việt Nam gia nhập WTO. Vào ngày 28/11/2006, Quốc hội đã
thông qua Nghị quyết phê chuẩn Nghị định thư gia nhập Tổ chức
Thương mại Thế giới của Việt Nam. Ngày 12/12/2006, WTO
nh
ận được thông báo của Việt Nam về việc chính thức phê chuẩn
bộ văn kiện gia nhập. Như vậy, kể từ ngày 11/01/2007, Việt Nam
chính thức trở thành Thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại
Thế giới.
Hộp 1.2. Tóm tắt các cam kết gia nhập WTO của Việt Nam
7

Bộ văn kiện gia nhập của Việt Nam bao gồm các tài liệu: Nghị định
thư về việc gia nhập WTO của Việt Nam; Quyết định của Đại Hội đồng về
việc gia nhập WTO của Việt Nam; Báo cáo của Ban Công tác về việc gia nhập
của Việt Nam; Biểu cam kết về thương mại hàng hoá (bao gồm cam kết về
thuế nhập khẩu, hạn ngạch thuế quan và trợ cấp nông nghiệp); và Biểu cam

7
Hộp 1.2 được viết dựa trên các văn kiện gia nhập WTO của Việt Nam, và dựa trên văn
bản của Bộ Thương mại trình Quốc hội về “Báo cáo tóm tắt kết quả đàm phán gia nhập Tổ
chức Thương mại Thế giới và phê
chuẩn Nghị định thư gia nhập Hiệp định thành lập Tổ

chức Thương mại Thế giới (WTO)”, ngày 24 tháng 11 năm 2006.

74
kết cụ thể về thương mại dịch vụ. Các cam kết của Việt Nam có thể qui thành
ba nhóm lớn là các cam kết đa phương, các cam kết về mở cửa thị trường
hàng hoá và các cam kết về mở cửa thị trường dịch vụ.
- Các cam kết đa phương. Các cam kết đa phương gia nhập WTO
của Việt Nam được tổng hợp trong Báo cáo của Ban Công tác. Đây là cam kết
chung với WTO về việc thực hiện các nghĩa vụ, qui tắc và việc tuân thủ các
hiệp định của WTO. Việt Nam cam kết thực hiện toàn bộ các hiệp định đa
phương của WTO ngay thời điểm gia nhập. Trên thực tế, phần lớn các cam kết
của Việt Nam đã được luật hoá trong các đạo luật ban hành trong những năm
gần đây. Các nhóm vấn đề chính Việt Nam cam kết gồm: Chính sách kinh tế;
Khuôn khổ ban hành và thực thi chính sách; Các chính sách ảnh hưởng đến
thương mại hàng hoá; Những vấn đề liên quan đến thương mại của quyền sở
hữu trí tuệ; Các chính sách ảnh hưởng đến thương mại dịch vụ; Minh bạch
hoá; Các hiệp định thương mại; Kết luận; và hai phụ lục. Dưới đây là một số
điểm chính trong các cam kết đa phương.
Về chính sách kinh tế, Việt Nam có các cam kết liên quan đến: chính
sách tài chính tiền tệ; chính sách ngoại hối và thanh toán; chính sách đầu tư;
các doanh nghiệp nhà nước; tư nhân hoá và cổ phần hoá; chính sách giá cả;
chính sách cạnh tranh. Liên quan đến chính sách tài chính, tiền tệ, ngoại hối và
thanh toán, Việt Nam sẽ tuân thủ các nghĩa vụ có liên quan đến ngoại hối theo
đúng qui định của WTO cũng như các tuyên bố và quyết định của WTO liên
quan đến IMF. Việt Nam đồng thời chấp nhận tuân thủ Điều VIII của Điều lệ
IMF. Các doanh nghiệp nhà nước sẽ hoạt động bình đẳng như những doanh
nghiệp của các thành phần kinh tế khác, hoàn toàn theo tiêu chí của thị trường
và chịu sự điều chỉnh chung của pháp luật. Nhà nước không can thiệp trực tiếp
hay gián tiếp vào các hoạt động sản xuất và kinh doanh của doanh nghiệp nhà
nước. Mua sắm của doanh nghiệp nhà nước cũng không được coi là mua sắm

của Chính phủ. Chính phủ Việt Nam cũng có trách nhiệm báo cáo thường niên
cho WTO tiến độ tiến hành cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước. Việt
Nam cam kết thực thi quản lý giá phù hợp với các qui định của WTO và bảo
đảm sự minh bạch trong kiểm soát giá cả thông qua việc thông báo rộng rãi
cho công chúng và doanh nghiệp các mặt hàng chịu sự quản lý giá cũng như
các văn bản pháp luật có liên quan.
Về ban hành và thực thi các luật và chính sách, cam kết về lĩnh vực
này thể hiện ở ba nguyên tắc sau. Thứ nhất, tuân thủ qui định của Hiệp định
Marrakesh, trong quá trình phê chuẩn các văn kiện pháp luật Việt Nam ưu tiên
áp dụng các điều khoản trong các cam kết quốc tế. Ngoài ra, Việt Nam sẽ thực

75
thi các cách thức phù hợp để thực hiện các cam kết. Thứ hai, đảm bảo sự
thống nhất và nhất quán việc thực hiện các qui tắc của WTO trên toàn bộ lãnh
thổ hải quan, không chỉ ở cấp Trung ương mà cả các cấp địa phương. Thứ ba,
bảo đảm sự khách quan và công bằng khi tiến hành tố tụng, xét xử các tranh
chấp liên quan đến các lĩnh vực WTO điều chỉnh.
Về chính sách ảnh hưởng đến thương mại hàng hoá, cam kết quan
trọng nhất là cam kết về quyền kinh doanh (quyền xuất khẩu và nhập khẩu).
Việt Nam cam kết tuân thủ các qui định có liên quan của WTO. Kể từ thời
điểm Việt Nam gia nhập, các doanh nghiệp và cá nhân nước ngoài có quyền
xuất khẩu và nhập khẩu hàng hoá như các doanh nghiệp và cá nhân Việt Nam.
Ngoại lệ về quyền này được áp dụng chung cho các doanh nghiệp và cá nhân
trong nước cũng như nước ngoài, bao gồm một số mặt hàng thuộc diện thương
mại nhà nước như xăng dầu, thuốc lá điếu, xì gà, băng đĩa hình, báo, tạp chí.
Ngoài ra, còn một số mặt hàng khác các doanh nghiệp và cá nhân nước ngoài
sẽ được phép kinh doanh sau một thời kỳ quá độ. Các doanh nghiệp và cá
nhân nước ngoài không có hiện diện thương mại tại Việt Nam được phép đăng
ký quyền xuất nhập khẩu tại Việt Nam. Tuy nhiên, doanh nghiệp và cá nhân
nước ngoài sẽ không được tự động tham gia vào hệ thống phân phối trong

nước. Việt Nam vẫn giữ quyền đưa ra các quy định về quản lý dịch vụ phân
phối.
Về những vấn đề liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ,
Việt Nam cam kết thực thi đầy đủ nghĩa vụ của mình đối với bảo hộ quyền sở
hữu trí tuệ theo Hiệp định TRIPs. Những cam kết chi tiết đã được đưa vào
Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005.
Về minh bạch hoá, Việt Nam cam kết đăng tải công khai các dự thảo
văn bản quy phạm pháp luật để nhân dân có thể đóng góp ý kiến. Các văn bản
pháp luật cũng sẽ được công bố trên các phương tiện khác nhau nhằm tạo điều
kiện cho nhân dân và doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận với các văn bản đó.
Về nghĩa vụ thông báo chính sách, Việt Nam cam kết thực thi nghĩa
vụ thông báo thường xuyên các chính sách, luật lệ của mình cho WTO để
phục vụ cho công tác rà soát chính sách thương mại của WTO.
- Các cam kết về mở cửa thị trường hàng hoá. Liên quan đến lĩnh
vực mở cửa thị trường hàng hoá, Việt Nam cam kết:
(i) Ràng buộc mức trần cho tất cả các dòng thuế trong biểu thuế nhập
khẩu, gồm 10.600 dòng thuế. Mức thuế bình quân giảm từ 17,4% mức hiện
hành xuống còn 13,4%, với lộ trình cắt giảm kéo dài trong vòng năm đến bảy

76
năm. Mức thuế bình quân hàng nông sản giảm từ mức hiện hành 23,5% xuống
còn 20,9%, thực hiện trong khoảng năm năm. Giảm thuế hàng công nghiệp
thực hiện trong vòng năm đến bảy năm từ mức thuế bình quân hiện hành
16,8% xuống còn 12,6%.
8

(ii) Chỉ dùng thuế nhập khẩu làm công cụ để bảo hộ. Việt Nam phải
cắt giảm thuế, nhất là đối với các dòng thuế có thuế suất cao trên 20%. Trong
việc áp dụng các loại thuế và phí, Việt Nam cam kết thực thi các qui tắc của
WTO, tuân thủ nguyên tắc không phân biệt đối xử, cũng như cam kết sửa đổi

những điểm chưa phù hợp. Về các biện pháp hạn chế định lượng, hiện nay,
Việt Nam chỉ còn áp dụng đối với một số ít mặt hàng, và cam kết cho phép
nhập khẩu xe máy phân khối lớn không muộn hơn ngày 31/05/2007. Việt
Nam bảo lưu quyền áp dụng hạn ngạch thuế quan đối với đường, trứng gia
cầm, lá thuốc lá và muối. Về các rào cản và qui định khác, Việt Nam sẽ tuân
thủ các qui tắc của WTO về xác định trị giá hải quan, qui tắc xuất xứ, về các
rào cản kỹ thuật đối với thương mại, các biện pháp vệ sinh an toàn thực phẩm
và kiểm dịch động thực vật, qui tắc về quá cảnh, chống bán phá giá, trợ cấp và
các biện pháp tự vệ, bãi bỏ trợ cấp xuất khẩu nông sản. Việt Nam còn cam kết
tham gia một số Hiệp định tự do hoá theo ngành như sản phẩm công nghệ
thông tin (ITA), dệt may và thiết bị y tế.
(iii) Tại các cửa khẩu, ngoài thuế nhập khẩu không sử dụng phí, lệ phí
và các khoản thu khác nhằm mục đích thu ngân sách.
Các cam kết mở cửa thị trường dịch vụ. So với Hiệp định Thương mại
song phương Việt Nam - Hoa Kỳ (BTA), Việt Nam đã có những cam kết ở
mức cao hơn về mở cửa thị trường dịch vụ. Việt Nam đã cam kết mở cửa
khoảng 110 phân ngành trên tổng số 155 phân ngành của 11 ngành trên tổng
số 12 ngành dịch vụ theo phân loại của WTO. Biểu cam kết dịch vụ gồm ba
phần là cam kết chung, cam kết cụ thể và danh mục các biện pháp miễn trừ
đối xử tối huệ quốc. Bốn phương thức cung cấp dịch vụ theo qui định của
WTO được trình bày trong Biểu cam kết dịch vụ lần lượt gồm: (1) cung cấp
qua biên giới; (2) tiêu dùng ngoài lãnh thổ; (3) hiện diện thương mại; (4) hiện
diện thể nhân.
Cam kết chung bao gồm các nội dung cam kết được áp dụng cho tất
cả các ngành dịch vụ. Các công ty nước ngoài có nhiều quyền hạn hơn so với
BTA như được phép phát hành cổ phiếu ra công chúng, thành lập doanh

8
Lương Văn Tự. “Giới thiệu bộ văn kiện gia nhập WTO”. Trong Uỷ ban Quốc gia về hợp
tác kinh tế quốc tế, Các văn kiện gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới WTO của Việt

Nam. NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 11.

77
nghiệp 100% vốn nước ngoài v.v… Công ty nước ngoài không được hiện diện
tại Việt Nam dưới hình thức chi nhánh trừ một số ngoại lệ được qui định cho
các ngành cụ thể. Công ty nước ngoài được phép đưa cán bộ quản lý vào làm
việc tại Việt Nam nhưng ít nhất 20% cán bộ quản lý của công ty phải là người
Việt Nam. Các tổ chức và cá nhân nước ngoài được mua cổ phần trong các
doanh nghiệp Việt Nam theo tỷ lệ được qui định cụ thể ở từng ngành. Các
doanh nghiệp cung ứng dịch vụ sẽ được hưởng qui tắc đối xử quốc gia. Việc
cấp giấy phép cung ứng dịch vụ cũng sẽ được thực thi theo tiêu chí khách
quan, minh bạch.
Cam kết cụ thể gồm các cam kết áp dụng cho từng ngành dịch vụ nhất
định. Những điểm chính về cam kết cụ thể trong các ngành dịch vụ là như sau:
Dịch vụ kinh doanh: Nhìn chung tuỳ theo lĩnh vực cụ thể phía nước
ngoài chỉ được thành lập doanh nghiệp 100% vốn sau 2 đến 5 năm sau khi
Việt Nam gia nhập. Ngoài ra Việt Nam bên cạnh nới rộng quyền kinh doanh
trong một số lĩnh vực vẫn tiến hành bảo lưu một số ràng buộc đối với các
doanh nghiệp nước ngoài.
Dịch vụ viễn thông: Về cung cấp dịch vụ viễn thông có gắn với hạ
tầng mạng, bên nước ngoài chỉ được đầu tư dưới hình thức liên doanh với phía
Việt Nam với vốn góp tối đa của phía nước ngoài là 49%. Về các dịch vụ viễn
thông khác các nhà đầu tư nước ngoài cũng chỉ được cung ứng thông qua liên
doanh tuy mức ràng buộc về vốn góp được nới lỏng hơn, có thể là 51%, hay
65%, 70% sau 3 năm Việt Nam gia nhập tuỳ theo loại hình dịch vụ.
Dịch vụ phân phối: Phía nước ngoài phải thành lập liên doanh với đối
tác Việt Nam với tỷ lệ vốn góp tối đa 49%. Từ ngày 1 tháng 1 năm 2008 hạn
chế vốn góp 49% sẽ được bãi bỏ nhưng chưa đạt mức 100%. Từ ngày 1 tháng
1 năm 2009 các công ty nước ngoài được phép thành lập công ty 100% vốn
nước ngoài. Tuy nhiên Việt Nam không mở cửa một số thị trường phân phối

cho nước ngoài như xăng dầu, dược phẩm, sách, báo v.v… và một số thị
trường khác chỉ mở cửa sau 3 năm như sắt thép, phân bón. Ngoài ra, Việt Nam
hạn chế chặt chẽ việc mở điểm bán lẻ của các công ty nước ngoài.
Dịch vụ giáo dục: Chỉ cam kết các lĩnh vực kỹ thuật, khoa học tự
nhiên và công nghệ, quản trị kinh doanh và khoa học kinh doanh, kinh tế học,
kế toán, luật quốc tế và đào tạo ngôn ngữ. Đối với giáo dục phổ thông chưa
cam kết cho phép nước ngoài mở cơ sở đào tạo tại Việt Nam. Các dịch vụ giáo
dục khác tuy có cam kết mở cửa nhưng vẫn đi kèm với nhiều ràng buộc như
phải tuân thủ các qui định của Nhà nước đối với giáo viên nước ngoài.

78
Dich vụ tài chính: Về dịch vụ bảo hiểm, các công ty nước ngoài được
thành lập công ty bảo hiểm 100% vốn nước ngoài ngay từ thời điểm Việt Nam
gia nhập. Các công ty nước ngoài được cung cấp bảo hiểm bắt buộc từ ngày 1
tháng 1 năm 2008 và thành lập chi nhánh bảo hiểm phi nhân thọ sau năm năm
kể từ thời điểm Việt Nam gia nhập WTO. Việt Nam cũng cam kết mở cửa
nhiều loại hình dịch vụ bảo hiểm khác cho các công ty nước ngoài. Về dịch vụ
ngân hàng, ngân hàng nước ngoài được phép thành lập ngân hàng con 100%
vốn nước ngoài không muộn hơn ngày 1 tháng 4 năm 2007. Ngân hàng nước
ngoài còn được phép huy động tiền gửi bằng tiền đồng Việt Nam theo một lộ
trình. Bên cạnh đó còn nhiều ràng buộc khác như hạn chế mua cổ phần của
các ngân hàng thương mại, không cho phép chi nhánh ngân hàng nước ngoài
mở điểm giao dịch ngoài trụ sở chi nhánh v.v… Về dịch vụ chứng khoán, các
công ty nước ngoài được kinh doanh dưới hình thức liên doanh với vốn góp
tối đa 49% ngay sau thời điểm gia nhập, và thành lập công ty chứng khoán
100% vốn nước ngoài sau 5 năm. Các nhà đầu tư nước ngoài cũng được quyền
cung ứng một số dịch vụ chứng khoán qua biên giới.
Dịch vụ vận tải: Về vận tải biển và hỗ trợ vận tải biển, Việt Nam
không hạn chế các công ty nước ngoài vận chuyển hàng hoá qua biên giới
nhưng không cam kết đối với vận tải hành khách. Trong vòng 5 năm đầu kể từ

khi gia nhập, các nhà cung ứng nước ngoài được kinh doanh dưới hình thức
liên doanh với vốn góp tối đa 51% để cung ứng một số dịch vụ vận tải biển
quốc tế. Sau 5 năm có thể thành lập công ty 100% vốn nước ngoài. Một số
dịch vụ hỗ trợ vận tải như xếp dỡ công-te-nơ, dịch vụ thông quan, dịch vụ kho
bãi công-te-nơ cũng được mở cửa cho các công ty nước ngoài. Về dịch vụ vận
tải đường bộ, đường thuỷ, đường sắt và đường không, Việt Nam không cam
kết về vận chuyển hàng hoá và hành khách qua biên giới. Tuy nhiên các doanh
nghiệp nước ngoài có thể tham gia cung ứng thông qua liên doanh.
Các loại hình dịch vụ khác: Các loại hình dịch vụ khác như dịch vụ
nghe nhìn, dịch vụ xây dựng, dịch vụ môi trường, dịch vụ y tế, dịch vụ văn
hoá giải trí v.v… Việt Nam đều cam kết mở cửa nhưng với mức độ khác nhau.
Tuỳ theo lĩnh vực và thời gian sau gia nhập, các nhà cung ứng nước ngoài có
thể kinh doanh dưới hình thức liên doanh hoặc 100% vốn nước ngoài.
Danh mục các biện pháp miễn trừ đối xử tối huệ quốc bao gồm các
biện pháp được áp dụng đối với một số dịch vụ nhưng trái với nguyên tắc đối
xử tối huệ quốc. Việc áp dụng những biện pháp như vậy vẫn được phép theo
qui tắc của GATS nếu những biện pháp này được đưa vào danh mục miễn trừ
đối xử tối huệ quốc và được các Thành viên khác chấp nhận.

79
1.2.6. Bài học kinh nghiệm từ quá trình đàm phán gia nhập
WTO của Việt Nam
Mặc dù đàm phán gia nhập WTO đã kết thúc và Việt Nam đã trở
thành Thành viên của WTO nhưng việc rút ra những bài học trong quá
trình đàm phán vẫn rất cần thiết và bổ ích cho những cuộc đàm phán
thương mại trong tương lai của đất nước. Sơ bộ từ thực tiễn đàm phán
kéo dài trong suốt hơn 10 năm qua có thể rút ra những bài họ
c kinh
nghiệm sau:
- Nắm vững thể chế, qui tắc của WTO cũng như những điều

luật quốc tế có liên quan để có thể chủ động vận dụng trong quá
trình đàm phán. Cũng nhờ đó, Việt Nam có thể đưa ra những đòi
hỏi ưu đãi cũng như những nhân nhượng phù hợp với qui tắc của
WTO và thông lệ quốc tế.
- Kiên trì và cương quyết giữ
vững những vấn đề có tính
nguyên tắc để bảo vệ tối đa lợi ích của đất nước, bên cạnh đó cần
vận dụng linh hoạt các chiến thuật đàm phán. Có thể nói Việt
Nam đã quán triệt phương châm “Dĩ bất biến ứng vạn biến”. Đàm
phán gia nhập kéo dài hơn 10 năm đã thể hiện sự kiên trì bền bỉ
của Việt Nam. Trong quá trình đàm phán đ
ó nhiều khi ta đã phải
kiên trì thuyết phục đối tác và chỉ có những nhượng bộ hợp lý
hoặc có thể chấp nhận được. So với nhiều nước gia nhập trước ta
gần đây, mức độ cam kết của Việt Nam trong nhiều lĩnh vực thấp
hơn. Trong những cuộc đàm phán song phương với các đối tác
thương mại cũng như trong các cuộc đàm phán đa phương, đ
oàn
đàm phán của Việt Nam có lúc mềm mỏng với đối tác nhưng
cũng có những lúc tỏ ra rất cương quyết trước những đòi hỏi vô lý
của các đối tác. Ở vòng đàm phán cuối cùng với Mỹ tại
Washington cũng như ở phiên đàm phán đa phương lần thứ 13 tại
Geneva, Bộ trưởng Thương mại Trương Đình Tuyển cũng như
đoàn đàm phán, đã có những tuyên b
ố và ứng xử rất cương quyết
nhưng linh hoạt, kịp thời.
- Huy động tổng lực các ngành các cấp tham gia vào quá trình
đàm phán. Nhờ đó, những nội dung mà Việt Nam đặt ra trên bàn
đàm phán đã phản ánh được yêu cầu cải cách, hội nhập của nền


80
kinh tế và đi đến những cam kết phù hợp với trình độ chung của
nền kinh tế.
- Thông qua quá trình đàm phán thúc đẩy quá trình cải cách và
đổi mới của đất nước cả ở Trung ương và địa phương. Để thực
hiện cam kết gia nhập chúng ta đã tích cực và khẩn trương cải
cách hệ thống pháp luật, hoàn thiện môi trường đầu tư, thúc đẩy
sự cạnh tranh của nền kinh tế.
- Thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng cũng như
các hình thức khác, tuyên truyền phổ biến rộng rãi cho cán bộ và
nhân dân về quá trình đàm phán cũng như những lợi ích và thách
thức của đất nước khi gia nhập WTO. Nhờ đó đã tranh thủ được
sự đồng tình và ủng hộ của nhân dân đối với chủ trương gia nhập
WTO. Tuy nhiên ở khía cạnh này, cũng cần rút kinh nghiệm tránh
có những tuyên truyền thái quá có thể dẫn
đến những hiệu ứng
không mong muốn.
1.2.7. WTO và những tổ chức quốc tế khác
Điều V của Hiệp định Marrakesh nêu rõ, Đại Hội đồng có trách
nhiệm đưa ra các chương trình phù hợp nhằm thúc đẩy sự hợp tác có hiệu
quả với các tổ chức liên chính phủ có chức năng nhiệm vụ liên quan với
chức năng nhiệm vụ của WTO. Sự hợp tác đó là nhu cầu tất yếu trong s

phát triển của toàn cầu hóa cũng như của hệ thống thương mại đa
phương, đặc biệt trên khía cạnh hoạch định và thực thi các chính sách
kinh tế toàn cầu. Trong số những tổ chức liên chính phủ, WTO đặc biệt
nhấn mạnh sự hợp tác với Quĩ Tiền tệ Quốc tế (IMF) và Ngân hàng Thế
giới (WB). Sự hợp tác với các tổ chức quốc tế này được th
ực thi thông
qua việc ký kết các hiệp định hợp tác. Những Hiệp định đó là cơ sở cho

sự hợp tác Đa phương, cho việc tư vấn thường xuyên giữa WTO và IMF,
WB. Trong bộ văn kiện kết thúc Vòng đàm phán Uruguay vào tháng
04/1994 đã bao gồm các văn kiện: Tuyên bố về sự đóng góp của Tổ
chức Thương mại Thế giới vào việc đạt được sự nhất quán cao hơn trong
hoạ
ch định chính sách kinh tế toàn cầu, Tuyên bố về mối quan hệ giữa
Tổ chức Thương mại Thế giới và Quĩ Tiền tệ Quốc tế. Năm 1996, WTO,
IMF và WB đã ký kết Hiệp định giữa WTO và IMF, WB.

81
Ngoài IMF và WB, WTO còn có sự phối hợp và hợp tác chặt chẽ
với các tổ chức quốc tế khác như Hội nghị về Thương mại và Phát triển
của Liên hiệp quốc (UNCTAD), Tổ chức Phát triển Công nghiệp của
Liên hiệp quốc (UNIDO), Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), Tổ chức Sở
hữu trí tuệ Thế giới (WIPO).
Điều V của Hiệp định Marrakesh cũng qui định, Đạ
i Hội đồng có
trách nhiệm đưa ra các chương trình phù hợp nhằm thúc đẩy sự tư vấn và
hợp tác với các tổ chức phi chính phủ quan tâm tới các vấn đề liên quan
tới WTO.
Trên thực tế, không chỉ đối với WTO, các tổ chức phi chính phủ,
đại diện cho tiếng nói của công chúng, đã quan tâm đến GATT từ những
ngày đầu mới ra đời của nó vào năm 1947. Sự ra đời của WTO làm cho
mối quan tâm của công chúng với h
ệ thống thương mại đa phươngngày
càng gia tăng. Sự quan tâm của WTO đối với vấn đề này không chỉ thể
hiện ở Điều V của Hiệp định Marrakesh như nói ở trên mà còn ở nhiều
văn kiện khác, đặc biệt là ở các văn bản hướng dẫn. Chẳng hạn văn bản
WT/L/162 về Hướng dẫn về thiết lập các mối quan hệ với các tổ
chức

phi chính phủ, do Đại Hội đồng thông qua vào ngày 18/07/1996. Văn bản
pháp lý này đã đưa ra định hướng cho việc đối thoại giữa WTO và công
chúng. Các tổ chức phi chính phủ còn có thể bày tỏ tiếng nói của mình
thông qua các kênh như tham dự các Hội nghị Bộ trưởng, tham gia diễn
đàn thảo luận các chuyên đề, và có thể liên hệ thường xuyên với Ban Thư
ký của WTO. Tháng 07/1998, Tổng Giám đốc của WTO Renato
Ruggiero còn đưa ra kế hoạch của WTO đẩy m
ạnh sự hợp tác với các tổ
chức phi chính phủ bằng việc tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức phi
chính phủ có tiếng nói của mình đối với WTO.
Trên thực tế các tổ chức phi chính phủ đã tham gia dự ngay từ
Hội nghị Bộ trưởng đầu tiên của WTO, Hội nghị Singapore vào năm
1996. Họ là đại diện cho tiếng nói của công chúng về các vấn đề như môi
trường, phát triển, lợi ích của người tiêu dùng, kinh doanh, các liên minh
thương mại và lợi ích của nông dân. Các Hội nghị Bộ trưởng tiếp theo
tiếp tục dành được sự quan tâm ngày càng gia tăng của các tổ chức phi
chính phủ.

82
Nhiều diễn đàn chuyên đề cũng đã được Ban Thư ký của WTO tổ
chức nhằm đáp ứng yêu cầu của các tổ chức phi chính phủ. Đặc biệt đó là
diễn đàn các vấn đề về thương mại và môi trường, thương mại và phát
triển, và tạo thuận lợi cho thương mại. Những vấn đề này sau đó đã được
đưa vào Chương trình nghị sự c
ủa Vòng đàm phán Doha.
Thực tế cho thấy các vấn đề của hệ thống thương mại đa phương
đã và đang dành được sự quan tâm rộng rãi của xã hội dân sự, và WTO
chứng tỏ đã biết lắng nghe tiếng nói của công chúng trong quá trình giải
quyết các vấn đề của mình.


1
1
.
.
3
3
.
.


W
W
T
T
O
O


L
L
À
À


M
M


T
T



D
D
I
I


N
N


Đ
Đ
À
À
N
N


Đ
Đ
À
À
M
M


P
P

H
H
Á
Á
N
N


1.3.1. Tổng quan về quá trình đàm phán của WTO
WTO ra đời vào ngày 01/01/1995, nhưng tiền thân của nó, Hiệp
định Chung về Thuế quan và Thương mại (GATT 1947) đã được ký kết
vào năm 1947. Trong suốt 47 năm tồn tại của mình, GATT giữ vai trò
điều chỉnh hệ thống thươ
ng mại đa phương với các điều khoản thể chế
của mình. Ngoài ra, GATT còn tạo ra một diễn đàn cho đàm phán thương
mại đa phương, với tổng cộng có tám vòng đàm phán về thương mại như
đã trình bày ở phần trên.
WTO tiếp tục những nỗ lực của GATT về đàm phán thương mại
đa phương. Tháng 01/1997, WTO đạt được thỏa thuận về dịch vụ
viễn
thông với việc mở rộng hơn nữa các biện pháp tự do hóa đã đạt được ở
Vòng đàm phán Uruguay. Cũng trong năm 1997, 40 nước đã đạt được
thỏa thuận về thương mại tự do đối với các sản phẩm công nghệ thông
tin và 70 nước khác đạt được thỏa thuận về thương mại dịch vụ tài chính,
chiếm tới 95% thương mại về ngân hàng, bảo hiể
m, chứng khoán và
thông tin tài chính.
Tại Hội nghị Bộ trưởng Doha, Vòng đàm phán Doha, Vòng đàm
phán đầu tiên của WTO, được khởi xướng. Vòng đàm phán này tiếp tục
giải quyết những vấn đề còn tồn tại của hệ thống thương mại đa phương

chưa được giải quyết ở các vòng đàm phán trước đó. Chương trình nghị
sự của Vòng đàm phán Doha gồm các vấn đề như thu
ế quan đối với sản
phẩm phi nông nghiệp, vấn đề nông nghiệp, quyền sở hữu trí tuệ, vấn đề

83
ưu đãi đối với các nước đang phát triển, vấn đề về mối quan hệ giữa
thương mại và môi trường, các qui tắc của WTO như chống bán phá giá
và trợ cấp, đầu tư, chính sách cạnh tranh, tạo thuận lợi cho thương mại,
tính minh bạch trong mua sắm của Chính phủ.
1.3.2. Tự do hóa thương mại đa phương
Trên thực tế, từ khi ra đời đến nay, hệ thống thương m
ại đa
phương đã phát triển theo hướng tự do hóa. GATT trước đây và WTO
ngày nay luôn phấn đấu cho mục tiêu thương mại tự do hơn bằng những
nỗ lực đàm phán để giảm thiểu các rào cản thương mại. Với tám vòng
đàm phán của GATT, thuế quan nhập khẩu đối với hàng công nghiệp đã
được cắt giảm một cách cơ bản. Vào những năm 1970, và nhất là vào
những năm 1980 củ
a thế kỷ 20, GATT bắt đầu mở rộng diện đàm phán
sang cắt giảm các rào cản phi thuế quan đối với thương mại hàng hóa, dỡ
bỏ các rào cản đối với thương mại dịch vụ và vấn đề bảo hộ quyền sở
hữu trí tuệ. Vòng đàm phán Doha của WTO được khởi xướng từ năm
2001 đang nỗ lực đi theo xu hướng thương mại tự do h
ơn, đặc biệt đối
với thương mại hàng nông sản. Các hiệp định của GATT và WTO được
xây dựng trên nền tảng kim chỉ nam của tự do hóa thương mại.
Quá trình tự do hóa thương mại đa phương diễn ra trong các thập
kỷ qua với các đặc trưng chủ yếu sau:
- Về thuế quan, thuế quan đã được cắt giảm mạnh sau các vòng

đàm phán thương mại đa phương. Tuy nhiên sự cắt gi
ảm còn có
sự khác biệt theo chủng loại hàng hóa và xuất xứ của hàng hóa.
Hiện nay mức thuế quan nhập khẩu bình quân ở các nước công
nghiệp thấp hơn ở các nước đang phát triển, và thuế quan nhập
khẩu hàng nông sản cao hơn so với hàng công nghiệp. Vấn đề còn
tồn tại hiện nay là thuế cao và thuế đỉnh đối với một số hàng công
nghiệp và hàng nông sản.
- Về các rào cản phi thuế quan, các rào cản phi thu
ế quan đã
được dỡ bỏ đáng kể trong hơn 20 năm gần đây nhờ các hiệp định
liên quan của GATT và WTO. Tuy nhiên bên cạnh đó các hình
thức bảo hộ phần nhiều được phép với các qui tắc của WTO đã
gia tăng đáng kể. Các hành vi chống bán phá giá, áp dụng các
biện pháp tự vệ, đánh thuế đối kháng xuất hiện ngày càng nhiều

×