Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

SỞ HỮU TRÍ TUỆ - NHÃN HIỆU VÀ CHỈ DẪN ĐỊA LÝ - 5 doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (318.26 KB, 12 trang )

Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
65
Hiệp ước cũng cho phép Cơ quan yêu cầu việc nộp đơn hoặc các thông tin trao đổi
được đăng ký phải được làm bằng một ngôn ngữ nhất định, hoặc một trong số các
ngôn ngữ mà Cơ quan đó cho phép.

(k) Tuân thủ các Công ước khác

Hiệp ước Luật Nhãn hiệu không yêu cầu các Nước thành viên phải có nghĩa vụ tham
gia các điều ước quốc tế khác. Tuy nhiên, Điều 15 quy định các Nước thành viên phải
tuân thủ
các quy định của Công ước Paris liên quan đến nhãn hiệu và Điều 3 liên
quan đến việc nộp đơn, theo đó các Nước thành viên phải đảm bảo rằng Bảng phân
loại Nice được áp dụng cho việc phân nhóm hàng hoá và dịch vụ nêu trong đơn.

(l) Quy chế và các Mẫu đơn quốc tế

Các quy định của Hiệp ước được bổ sung bằng Quy chế, Quy chế này quy định các
quy tắc liên quan đến hướng dẫn chi tiết việc thi hành các đ
iều khoản về các thủ tục
và yêu cầu hành chính theo Hiệp ước. Quy chế này được áp dụng đối với các yêu cầu
về đơn, đại diện, ngày nộp đơn, chữ ký, thời hạn, gia hạn, cách ghi tên và địa chỉ,
cách nhận biết đơn mà không có số đơn. Ví dụ, Quy chế quy định về số lượng mẫu
nhãn hiệu cần nộp kèm theo đơn, thời hạn nộp lệ phí và nộp các tài liệu khác cho C
ơ
quan như giấy uỷ quyền, yêu cầu sửa đổi trong trường hợp không đúng quy định, v.v.

Quy chế còn bao gồm 8 mẫu Đơn quốc tế về việc nộp đơn đăng ký, yêu cầu gia hạn,
ghi nhận việc thay đổi tên, địa chỉ và quyền sở hữu, sửa chữa các thiếu sót, chỉ định
đại diện, giấy xác nhận việc chuyển giao và các văn bản chuyển giao. Trong trường
hợ


p yêu cầu cung cấp thông tin không được quy định theo luật quốc gia nhưng lại
được thừa nhận theo yêu cầu của Hiệp ước, ví dụ, về đơn, Cơ quan phải chuẩn bị một
"Mẫu đơn quốc tế riêng". Mẫu này không được quy định thêm các yêu cầu mang tính
bắt buộc bổ sung hoặc trái với Hiệp ước hoặc Quy chế. Bằng việc sử dụng Mẫu đơn
quốc tế hoặ
c Mẫu đơn quốc tế riêng, người nộp đơn và các bên khác được đảm bảo
rằng Cơ quan của Bên tham gia sẽ không thể từ chối đơn đăng ký hoặc đơn yêu cầu
được làm theo các mẫu đó.

(m) Các điều khoản chuyển tiếp

Các điều khoản chuyển tiếp của Hiệp ước cho phép các Nước thành viên được hoãn
thi hành một số quy định của Hiệp ước đến ngày 28/10/2004, ví dụ
, đối với hệ thống
đơn có nhiều nhóm hàng hoá, dịch vụ, quy định cấm việc yêu cầu xác nhận chữ ký
trong đơn và giấy uỷ quyền, nộp tuyên bố và/hoặc chứng cứ về việc sử dụng liên tục
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
66
nhãn hiệu khi yêu cầu gia hạn đăng ký nhãn hiệu và tiến hành thẩm định nội dung khi
gia hạn.

(g) Tên miền có xung đột

Điều 6 quy định rằng một tên miền sẽ bị coi là xung đột với một nhãn hiệu nổi tiếng ít
nhất nếu tên miền đó, hoặc một phần chủ yếu của nó, tạo thành sự mô phỏng, bắt
chước, biên dịch, hoặc chuyển ngữ của nhãn hiệu nổ
i tiếng, và tên miền đó được đăng
ký hoặc sử dụng với mục đích không trung thực.

Chủ sở hữu nhãn hiệu nổi tiếng sẽ có quyền yêu cầu, bằng quyết định của cơ quan có

thẩm quyền, người đăng ký tên miền xung đột đó phải hủy bỏ đăng ký, hoặc chuyển
giao đăng ký đó cho chủ sở hữu nhãn hiệu nổi tiếng.

Chỉ dẫn địa lý

1. Giới thiệu

Chỉ dẫn địa lý là những dấu hiệu chỉ xuất xứ được nhà sản xuất sử dụng để có được sự
thừa nhận của thị trường. Các nhãn hiệu chỉ nguồn gốc địa lý của hàng hoá có lẽ là các
loại nhãn hiệu sớm nhất. Ví dụ, dòng chữ Hy Lạp khắc trên bia được tìm thấy trên các
bình Etruscan có niên đại từ 800 đến 400 năm trước công nguyên.

Luậ
t đầu tiên của Pháp về chỉ dẫn xuất xứ của nho trồng có từ ngày 1 tháng 8 năm
1905; Một luật năm 1935 đã thiết lập hệ thống kiểm soát tên gọi xuất xứ quốc gia
(appellations d’origine contrôlée (AOC)) dưới sự kiểm soát của một cơ quan công:
Viện quốc gia về tên gọi xuất xứ (Institut Nationale des Appellations d’Origine
(INAO)); các loại pho mát được bảo hộ bởi nhiều luật, như Roquefort (1925), Comté
(1952) và Cantal (1956).

Một h
ệ thống bảo hộ các chỉ dẫn địa lý tạo ra một quyền độc quyền thông qua (i) việc
đăng ký một từ hoặc biểu tượng mang ý nghĩa địa lý, (ii) việc xác định mối liên hệ
giữa một sản phẩm và một lãnh thổ về mặt địa lý. Trong ví dụ thứ hai, các chỉ dẫn địa
lý là một hình thức can thiệp của nhà nước vào việc điều chỉnh sản phẩ
m. Các chế độ
đa phương đã phát triển việc thiết lập các tiêu chuẩn bảo hộ chỉ dẫn địa lý theo một,
hoặc cả hai chức năng này. Nhưng chế độ quan trọng nhất là Công ước Paris về Bảo
hộ sở hữu công nghiệp (1883); Thoả ước Madrid về Ngăn chặn chỉ dẫn sai hoặc lừa
dối về nguồn gốc (1891); Thoả ước Lisbon về Bả

o hộ và đăng ký tên gọi xuất xứ
(1958); và Hiệp định của WTO về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền
sở hữu trí tuệ (Hiệp định TRIPS 1994).
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
67

2. Các định nghĩa

(a) Các chỉ dẫn địa lý

Vì có rất nhiều cách khác nhau mà việc bảo hộ các chỉ dẫn địa lý được tạo ra theo các
luật quốc gia nên không có một thuật ngữ được chấp nhận chung. Các thuật ngữ dưới
đây là các định nghĩa thông thường mà có thể được tìm thấy trong tài liệu về các chỉ
dẫn địa lý:

‘Chỉ dẫn nguồn gốc’ chỉ một dấu hiệu th
ể hiện việc một sản phẩm có nguồn gốc từ
một vùng địa lý đặc biệt.

‘Tên gọi xuất xứ' chỉ một dấu hiệu thể hiện việc một sản phẩm có xuất xứ từ một khu
vực địa lý đặc biệt chỉ khi các chất lượng đặc thù của sản phẩm có do môi trường địa
lý, bao gồm cả các yếu tố tự nhiên và con ngườ
i.

‘Chỉ dẫn địa lý’ bao gồm cả hai khái niệm trên.

Với mục đích bàn luận các đề xuất cải cách vào tháng tư năm 2001 của Hội đồng
TRIPS, Ban thư ký WTO đã thông qua thuật ngữ "chỉ dẫn nguồn gốc địa lý" để chỉ các
sự thể hiện khác nhau được các thành viên của WTO sử dụng để bảo hộ nguồn gốc địa
lý của sản phẩm.


(b) Các nhãn hiệu

Trong các điều kiện chung, các nhãn hiệu là các dấu hiệu được sử dụng để phân biệt
hàng hoá hoặc dịch vụ của một doanh nghiệp này với hàng hoá hoặc dịch vụ của
doanh nghiệp khác. Điều 15.1 Hiệp định TRIPS quy định rằng: "Dấu hiệu bất kỳ, hoặc
sự kết hợp của các dấu hiệu có khả năng phân biệt hàng hoá hoặc dịch vụ của một
doanh nghiệp này với hàng hoá hoặc dịch vụ của các doanh nghiệp khác đều có thể
được coi là một nhãn hiệu". Theo định nghĩa này thì chức năng chính của nhãn hiệu là
phân biệt hàng hoá và/hoặc dịch vụ trong đó nhãn hiệu được sử dụng. Chỉ những nhãn
hiệu có tính phân biệt mới có thể thực hiện được chức năng này.

Hiệp định TRIPS không đưa ra chỉ dẫn nào về việc trong trường hợp nào thì một dấ
u
hiệu phải được coi là có tính phân biệt đối với hàng hoá hoặc dịch vụ nhất định. Tuy
nhiên, thường chấp nhận rằng để được coi là có tính phân biệt, các dấu hiệu được sử
dụng như nhãn hiệu phải không mang tính mô tả hoặc lừa dối.

Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
68
Như một đề xuất chung, các chỉ dẫn địa lý không chắc được nghĩ đến hơn là mang tính
mô tả. Thực vậy, nhiều luật nhãn hiệu loại trừ một cách rõ ràng các dấu hiệu chỉ địa lý
khỏi bảo hộ như những dấu hiệu vốn mang tính phân biệt và đồng thời quy định như
một sự bảo vệ đối với sự xâm phạm nhãn hiệu, thực tế
rằng một dấu hiệu khu vực địa
lý được hiểu ngầm để tuyên bố một sự liên hệ đối với xuất xứ của hàng hoá có liên
quan. Tuy nhiên, nó có thể sử dụng một tên địa lý như một nhãn hiệu trong các trường
hợp khi nhãn hiệu đó, cho dù mang tính mô tả về nguồn gốc, có được đặc tính phân
biệt (hoặc ý nghĩa thứ hai) thông qua việc sử dụng.


(c) Những sự khác nhau giữa Ch
ỉ dẫn địa lý và Nhãn hiệu

Như đã được chỉ ra trong phần bàn luận trên đây, một chỉ dẫn địa lý là một sự mô tả
chung có khả năng áp dụng bởi mọi thương nhân ở một khu vực địa lý cụ thể đối với
hàng hóa mà có nguồn gốc từ khu vực đó. Nhãn hiệu là một dấu hiệu phân biệt các sản
phẩm của một thương nhân cụ th
ể với những hàng hóa của các đối thủ cạnh tranh của
mình. Vì vậy, nó không thể mang tính mô tả và không thể là tên chung.

Mọi thương nhân từ khu vực địa lý cụ thể được hưởng quyền bảo hộ chỉ dẫn địa lý đối
với sự chiếm đoạt trái phép, trong khi đó một nhãn hiệu được bảo hộ khỏi việc chiếm
đoạt trái phép theo đơn yêu cầu của chủ s
ở hữu đã đăng ký của nhãn hiệu đó. Nói
chung, các chỉ dẫn địa lý được giám sát và bảo hộ bởi các hiệp hội của các nhà sản
xuất ở khu vực có liên quan.

Không giống các nhãn hiệu, các chỉ dẫn địa lý không thể tự do chuyển giao từ một chủ
sở hữu này sang chủ sở hữu khác, bởi vì một người sử dụng phải có sự liên tưởng phù
hợp với khu vự
c địa lý và phải tương thích với thực tiễn sản xuất của khu vực đó.

3. Bảo hộ quốc tế Chỉ dẫn địa lý

(a) Công ước Paris về Bảo hộ sở hữu công nghiệp, năm 1883

Công ước đa phương đầu tiên đưa "các chỉ dẫn nguồn gốc hoặc các tên gọi xuất xứ"
vào như các đối tượng bảo hộ của pháp luật sở
hữu công nghiệp, là Công ước Paris.
Theo Điều 10(1) của Công ước Paris, quy định được xây dựng để nhằm bắt giữ việc

nhập khẩu hàng hoá mang các chỉ dẫn sai lệch về nguồn gốc của hàng hoá hoặc chỉ
dẫn sai của nhà sản xuất.

Theo Điều 10(2),

Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
69
nhà sản xuất, nhà chế tạo, hoặc thương gia bất kỳ dù là cá nhân hay pháp
nhân, tham dự hay không vào việc sản xuất, hoặc chế tạo hoặc buôn bán các
hàng hoá như vậy và được thành lập ở khu vực bị chỉ dẫn sai lệch như nguồn
gốc hoặc tại vùng có khu vực như vậy, hoặc ở nước bị chỉ dẫn sai lệch, hoặc ở
nước nơi chỉ dẫn sai lệ
ch về nguồn gốc được sử dụng, trong trường hợp bất kỳ
cũng được coi là bên có liên quan.

Điều 10bis cũng đưa ra sự bảo hộ chống lại các chỉ dẫn sai lệch hoặc lừa dối về nguồn
gốc như một cách thức ngăn chặn sự cạnh tranh không lành mạnh.

Theo định nghĩa, sự cạnh tranh không lành mạnh là những hành động bất k
ỳ tạo ra sự
nhầm lẫn hoặc những sự viện dẫn bất kỳ mà việc sử dụng chúng trong tiến trình
thương mại có khả năng khiến cho công chúng nhầm lẫn về bản chất đối với quy trình
sản xuất, các đặc tính, tính phù hợp với mục đích của chúng, hoặc chất lượng của hàng
hoá.

(b) Thỏa ước Madrid về ngăn chặn các chỉ dẫn sai hoặ
c lừa dối về nguồn
gốc của hàng hoá, năm 1891

Hình thức nguyên thủy của Công ước Paris cấm việc sử dụng các chỉ dẫn địa lý sai

lệch. Một số nước đã ký kết Công ước đề xuất một hình thức toàn diện hơn đối với
việc điều chỉnh được coi là lạm dụng đáng kể quyền SHTT. Năm 1891 Thỏa ước
Madrid đối v
ới việc bảo hộ các chỉ dẫn địa lý là câu trả lời của các nước này. Điều 1
quy định tất cả hàng hóa "mang chỉ dẫn sai lệch hoặc lừa dối" tới một nước ký kết
Thỏa ước, hoặc tới một nơi ở nước đó “sẽ bị bắt giữ đối với việc nhập khẩu”. Tuy
nhiên, thoả thuận này không thu hút được sự tham gia của các n
ước có nền thương mại
chủ yếu như Mỹ, Đức và Ý. Vấn đề ban đầu đối với Thoả ước này và với các sửa đổi
tiếp theo là khả năng các nước không miễn trừ những chỉ dẫn địa lý đã trở thành tên
gọi chung trong phạm vi biên giới của họ.

(c) Thoả ước Lisbon về Bảo hộ và đăng ký tên gọi xuất xứ, năm 1958

Thoả ướ
c Lisbon thiết lập một hệ thống quốc tế về đăng ký và bảo hộ tên gọi xuất xứ.
Thoả ước đã thông qua định nghĩa bằng tiếng Pháp đối với tên gọi xuất xứ bằng việc
hạn chế các chỉ dẫn được bảo hộ cho những trường hợp mà trong đó chất lượng và các
đặc tính của sản phẩm “hoàn toàn hoặc hầu như do môi trường
địa lý, gồm các yếu tố
tự nhiên và con người tạo ra".

Thoả ước quy định về việc đăng ký tại Văn phòng quốc tế của WIPO các tên gọi xuất
xứ "được công nhận và bảo hộ như tại nước xuất xứ của chúng". Do đó, các nước được
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
70
tự do trong việc thông qua hệ thống của mình về việc xác định tên gọi hoặc bằng quyết
định hành chính hoặc quyết định tư pháp, hoặc cả hai. Một khi đã được đăng ký, một
chỉ dẫn địa lý sẽ được bảo hộ ở các nước thành viên khác. Các nước phải đảm bảo
rằng luật quốc gia của mình cấm hình thức chiếm đoạt hoặc bắt chước b

ất kỳ. Cuối
cùng, Thoả ước quy định rằng không chỉ dẫn chung nào có thể bị coi là tên gọi chung
ở nước bất kỳ khác chừng nào nó còn được bảo hộ ở nước xuất xứ.

Thoả ước Lisbon không thu hút được sự ủng hộ từ nhiều nước mà chỉ là một số. Một
vấn đề là việc gia nhập chỉ dành cho những nước bảo hộ các tên gọi xuất xứ
"theo
nghĩa như vậy". Do đó, các nước bảo hộ hình thức này của quyền sở hữu trí tuệ theo
luật cạnh tranh không lành mạnh hoặc luật bảo hộ người tiêu dùng đã không được
tham gia. Ngoài ra, Thoả ước không quy định ngoại lệ đối với các chỉ dẫn địa lý đã
hầu như trở thành tên gọi chung ở các nước thành viên.

(e) Hiệp định của WTO về các khía cạnh liên quan đến thương m
ại của quyền sở
hữu trí tuệ (TRIPS)

(i) Định nghĩa và phạm vi

Điều 22 định nghĩa chỉ dẫn địa lý như sau:

các chỉ dẫn để nhận biết một hàng hoá có nguồn gốc từ lãnh thổ của một
Thành viên, hoặc từ một vùng hoặc khu vực thuộc lãnh thổ đó, có chất lượng,
danh tiếng hoặc đặc tính khác của hàng hoá chủ yếu do xuất xứ
địa lý quyết
định.

Định nghĩa này mở rộng khái niệm về tên gọi xuất xứ của Thoả ước Lisbon nhằm bảo
hộ những hàng hoá chỉ có danh tiếng bắt nguồn từ nơi xuất xứ mà không có chất lượng
hoặc các đặc tính khác có do nơi đó mang lại. Ngoài ra, theo Hiệp định TRIPS, một
chỉ dẫn địa lý được bảo hộ phải là một chỉ dẫn, nhưng không nh

ất thiết phải là tên của
một địa danh trên thế giới. Vì vậy, ví dụ, “Basmati” được sử dụng như một chỉ dẫn cho
gạo đến từ tiểu lục địa Ấn Độ mặc dù không có tên địa danh như vậy. Chỉ dẫn phải xác
định hàng hoá có nguồn gốc từ lãnh thổ của Thành viên, một vùng hoặc một địa điểm
của lãnh thổ đó. Định nghĩa này c
ũng chỉ ra rằng hàng hoá được bảo hộ phải bắt nguồn
từ lãnh thổ, vùng hoặc khu vực có liên quan. Điều này ngụ ý rằng các hợp đồng
chuyển giao quyền sử dụng các chỉ dẫn địa lý không thể được bảo hộ theo Hiệp định
TRIPS.

Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
71
Định nghĩa của TRIPS cho phép các Thành viên bảo hộ các chỉ dẫn địa lý của hàng
hoá nếu chất lượng, danh tiếng hoặc đặc tính khác của hàng hoá có được là do nguồn
gốc địa lý của chúng mang lại.

(ii) Các tiêu chuẩn tối thiểu và bảo hộ chung được quy định cho các chỉ dẫn địa lý
đối với tất cả các sản phẩm

Điều 22.2 Hiệp định TRIPS yêu cầu các Thành viên "phải quy định các biện pháp
pháp lý để
các bên liên quan ngăn ngừa "việc sử dụng phương tiện bất kỳ để chỉ dẫn
hoặc giới thiệu hàng hoá để biểu thị rằng hàng hóa đó có nguồn gốc từ một khu vực
địa lý khác với xuất xứ thực, khiến cho công chúng nhầm lẫn về xuất xứ địa lý của
hàng hoá". Ví dụ, việc sử dụng các biểu tượng như Tháp Eiffel hoặc Tượng Nữ thần t

do để tạo ra mối liên tưởng tới nước Pháp hoặc nước Mỹ, hoặc việc sử dụng một ngôn
ngữ hoặc chữ viết để gợi ra hàm ý sai lệch về nguồn gốc cũng nằm trong phạm vi cấm
này.
Hiệp định TRIPS không xác định các biện pháp pháp lý để bảo hộ các chỉ dẫn địa lý.

Việc này dành cho các Thành viên quyết định.

Điều 22.2 cũng cấm việc sử
dụng bất kỳ "cấu thành một hành vi cạnh tranh không lành
mạnh theo Điều 10bis của Công ước Paris. Phạm vi của Điều 10bis được mở rộng tới
cả chỉ dẫn địa lý mà mặc dù đúng theo nghĩa đen với một lãnh thổ, vùng hoặc khu vực
mà hàng hóa có nguồn gốc từ đó, nhưng lại chỉ dẫn sai cho công chúng rằng hàng hóa
có nguồn gốc từ một lãnh thổ khác.

(iii) Bảo hộ Chỉ dẫn địa lý và Nhãn hiệu

Mối tương quan giữa bảo hộ nhãn hiệu và tên gọi xuất xứ được điều chỉnh bởi Điều
22.3 Hiệp định TRIPS cho phép Thành viên, theo thẩm quyền nếu pháp pháp luật quốc
gia cho phép hoặc theo yêu cầu của một bên có liên quan, "từ chối hoặc huỷ bỏ hiệu
lực đăng ký nhãn hiệu có chứa hoặc được cấu thành b
ằng một chỉ dẫn địa lý đối với
hàng hoá không có nguồn gốc từ lãnh thổ được chỉ dẫn, nếu việc sử dụng chỉ dẫn đó
trên nhãn hiệu cho những hàng hoá như vậy tại nước Thành viên đó về bản chất khiến
công chúng hiểu sai lệch về nơi xuất xứ thực".

Biết rõ sự kiện rằng đối với hầu hết các nước, vi
ệc bảo hộ chỉ dẫn địa lý sẽ là một sự
đổi mới, Điều 24.4 loại bỏ khỏi hình thức bảo hộ những nhãn hiệu "được sử dụng hoặc
đăng ký với thiện ý" hoặc các nếu các quyền đối với nhãn hiệu có được thông qua việc
sử dụng có thiện ý" hoặc trước khi thực thi các quy định của Hiệp định TRIPS hoặc
trước khi chỉ dẫ
n địa lý được bảo hộ ở nước xuất xứ của nó.

Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
72

Điều 24.7 quy định rằng một Thành viên có thể quy định rằng đề nghị bất kỳ được làm
theo mục liên quan đến việc sử dụng hoặc đăng ký một nhãn hiệu phải được đưa ra
trong vòng 5 năm kể từ khi việc sử dụng đối nghịch chỉ dẫn được bảo hộ trở nên được
biết đến chung ở nước Thành viên đó hoặc sau ngày đăng ký của nhãn hiệu
đó với
điều kiện đăng ký đó đã được công bố và chỉ dẫn địa lý này không được sử dụng hoặc
đăng ký với dụng ý xấu.

Giống với quy định tương tự trong hầu hết các luật về nhãn hiệu, Điều 24.8 bảo vệ
"quyền của một người sử dụng tên của mình hoặc tên của người tiền nhiệm trong kinh
doanh theo tiến trình hoạ
t động, trừ khi tên đó được sử dụng theo cách thức khiến cho
công chúng nhầm lẫn".

Cuối cùng, Điều 24.9 quy định rằng không có nghĩa vụ nào theo Hiệp định TRIPS để
bảo hộ những chỉ dẫn địa lý mà "không hoặc đã bị đình chỉ bảo hộ ở nước xuất xứ
hoặc không còn được sử dụng ở nước đó nữa".

(iv) Bảo hộ
bổ sung các chỉ dẫn địa lý cho rượu vang và rượu mạnh

Bổ sung cho việc bảo hộ chung đối với các chỉ dẫn địa lý cho rượu vang và rượu mạnh
trong ngữ cảnh chung của việc bảo hộ các chỉ dẫn địa lý nêu trong Điều 22, việc bảo
hộ bổ sung được quy định đối với chỉ dẫn địa lý cho rượu vang và rượu mạnh bằng
Điều 23. Việc b
ảo hộ bổ sung này gồm hai phần. Thứ nhất, bảo hộ cho từng chỉ dẫn
địa lý trong trường hợp các chỉ dẫn đồng âm. Thứ hai, thiết lập một hệ thống đa
phương để thông báo và đăng ký các chỉ dẫn địa lý cho rượu vang có khả năng được
bảo hộ ở các nước Thành viên tham gia vào hệ thống.


Các quy định này đã đem lại cho các chỉ dẫn địa lý cho rượu vang và r
ượu mạnh
những sự bảo hộ mạnh hơn so với những quy định nêu trong Điều 22 đối với tất cả sản
phẩm. Đối với một số nước, việc bảo hộ bổ sung này được xem như một sự phân biệt
đối xử không chấp nhận được chống lại tất cả các sản phẩm khác và họ đã tuyên
truyền đối với vi
ệc mở rộng bảo hộ đó dành cho tất cả các dạng chỉ dẫn địa lý.

Các yêu cầu về đăng ký

Hiệp định TRIPS không đặt ra các yêu cầu về đăng ký cho một chỉ dẫn địa lý. Nó đưa
ra vấn đề theo cách phủ định bằng cách cho phép, nêu trong Điều 23.2, các Thành viên
tự xây dựng luật để quy định “một người có quan tâm” yêu cầu từ chối hoặc huỷ bỏ
hiệ
u lực đăng ký của một nhãn hiệu có chứa chỉ dẫn địa lý nhận biết rượu vang hoặc
rượu mạnh bao gồm hoặc chứa một chỉ dẫn địa lý mà không có xuất xứ như đã được
chỉ dẫn. Những người có quan tâm sẽ thường gồm các nhà sản xuất có liên quan từ
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
73
khu vực địa lý đó, do hiệp hội đại diện từ các khu vực đó, hoặc thậm chí là các hiệp
hội của người tiêu dùng. Thông thường, đơn đăng ký chỉ dẫn địa lý sẽ ghi rõ người
nộp đơn, tên gọi xuất xứ, khu vực địa lý có liên quan, các sản phẩm mang tên gọi xuất
xứ được sử dụng và “các chất lượng đặc trưng chủ yếu của sản phẩm mang tên gọ
i
xuất xứ đó”. Như đối với các nhãn hiệu, các tên gọi xuất xứ "trái với đạo đức hoặc trật
tự công cộng hoặc lừa dối về bản chất, nguồn gốc, quy trình sản xuất, chất lượng đặc
trưng hoặc tính tương thích đối với mục đích sử dụng của hàng hoá có liên quan" có
thể bị từ chối bảo hộ.

Việc s

ử dụng bị cấm

Điều 23.1 cho phép từng Thành viên "quy định các biện pháp pháp lý để các bên có
quan tâm ngăn chặn việc sử dụng chỉ dẫn địa lý để chỉ dẫn cho rượu vang hoặc rượu
mạnh mà không có nguồn gốc từ nơi được chỉ dẫn bởi chỉ dẫn địa lý đó. Quy định cấm
này mượn từ Điều 3 Thoả ước Lisbon, bao gồm những chỉ dẫ
n về xuất xứ thật của
hàng hoá như vậy hoặc khi chỉ dẫn địa lý được sử dụng dưới dạng dịch nghĩa, hoặc khi
chỉ dẫn địa lý "được kèm theo các cụm từ như "loại", "kiểu", "dạng", "phỏng theo"
hoặc loại tương tự. Cũng đã chỉ ra rằng, cũng có thể điều chỉnh các chỉ dẫn địa lý bởi
các biện pháp hành chính.


Các chỉ dẫn địa lý đồng âm cho rượu vang

Trong trường hợp các chỉ dẫn địa lý đồng âm cho rượu vang, Điều 23.3 cho phép từng
Thành viên "xác định các điều kiện thực tế để các chỉ dẫn đồng âm được phân biệt với
nhau, khi tính đến nhu cầu đảm bảo việc đối xử công bằng với các nhà sản xuất có liên
quan và người tiêu dùng không bị nhầm lẫn". Các chỉ dẫn đồng âm là những t
ừ mà
được đánh vần và phát âm giống nhau nhưng khác nhau về nghĩa và được sử dụng để
chỉ dẫn nguồn gốc địa lý của những sản phẩm bắt nguồn từ các nước khác nhau. Ví dụ
“Rioja” là tên của một khu vực ở Tây Ban Nha và Achentina và tên này được dùng
cho những rượu vang được sản xuất ở cả hai nước.

Các xung đột thường gia tăng khi các sản phẩm mang các chỉ dẫn địa lý đồng âm đượ
c
sử dụng và bán ở cùng thị trường. Vấn đề được nhấn mạnh là nếu các chỉ dẫn địa lý
đồng âm đó được sử dụng cho những sản phẩm đồng nhất. Việc sử dụng trung thực
những chỉ dẫn địa lý như vậy là có thể vì các chỉ dẫn đó chỉ nguồn gốc địa lý thật của

các sản phẩm mà các chỉ dẫn đị
a lý được sử dụng. Tuy nhiên, việc sử dụng đồng thời
các chỉ dẫn địa lý đồng âm trên cùng một lãnh thổ có thể là vấn đề nếu các sản phẩm
mang chỉ dẫn địa lý đó có những đặc tính và chất lượng đặc thù mà không có trong
những sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý đồng âm. Trong trường hợp này, việc sử dụng chỉ
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
74
dẫn địa lý đồng âm sẽ là sự lừa dối bởi những kỳ vọng liên quan đến chất lượng của
các sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý đồng âm không được đáp ứng.

(v) Những ngoại lệ đối với bảo hộ các chỉ dẫn địa lý

Trong nỗ lực hòa giải việc đăng ký và sử dụng của các nước có các chỉ dẫn địa lý liên
quan đế
n rượu vang và rượu mạnh, Điều 24.4 giải phóng các Thành viên ra khỏi điều:
phải "ngăn chặn việc sử dụng tiếp tục và tương tự một chỉ dẫn địa lý cụ thể về rượu
vang và rượu mạnh của một Thành viên khác cho các hàng hoá hoặc các dịch vụ" nếu
chỉ dẫn địa lý đó được sử dụng "một cách liên tục đối với các hàng hoá hoặc các dịch
vụ cùng loại hoặc có liên quan trên lãnh thổ của Thành viên đó trong hoặc ít nhất 10
năm trước ngày 15/4/1994 (ngày Hiệp định TRIPS có hiệu lực) hoặc khi việc sử dụng
liên tục dựa trên thiện ý.

Như đã chỉ ra các dạng của các vấn đề rơi vào các ngoại lệ nêu trong Điều 24. Việc
tham khảo có thể thực hiện đối với việc bảo hộ chỉ dẫn địa lý cho rượu vang và rượ
u
mạnh do Văn phòng của Mỹ về Rượu, Thuốc lá và Súng (BATF). Các quy định của
Văn phòng này cho phép sử dụng "các tên bán chung" như ‘Champagne’, ‘Burgundy’
và ‘Chablis’ nếu "khu vực xuất xứ chính xác cùng liên kết với tên này một cách trực
tiếp". Thực tiễn này có thể rơi vào ngoại lệ nêu trong Điều 24.4 hoặc ngoại lệ nêu
trong Điều 24.6 mà miễn trừ những chỉ dẫn địa lý của Thành viên "đối với các sản

phẩm củ
a cây nho, theo đó chỉ dẫn có liên quan trùng với tên gọi thông thường của
một giống nho quả đã có ở lãnh thổ của Thành viên đó vào thời điểm Hiệp định WTO
có hiệu lực".

Điều 24.5 tuyên bố rằng khi một nhãn hiệu có được hoặc được đăng ký với thiện ý
trước ngày áp dụng Hiệp định tại nước Thành viên đó hoặc trước khi chỉ dẫn địa lý
được bảo hộ
ở nước xuất xứ của nó, các biện pháp được thông qua để thực thi Mục 3
sẽ không ảnh hưởng đến khả năng có thể được bảo hộ hoặc hiệu lực đăng ký của một
nhãn hiệu hoặc quyền sử dụng một nhãn hiệu trên cơ sở nhãn hiệu như vậy trùng hoặc
tương tự với chỉ dẫn địa lý.

(vi) Đàm phán và Xem xét lại

Điều 24.1 buộc các Thành viên phải "tham gia vào các cuộc đàm phán nhằm tăng
cường sự bảo hộ các chỉ dẫn địa lý cá nhân theo Điều 23". Mặc dù Điều 24 chứa đựng
một số mục loại trừ một số đối tượng ra khỏi sự bảo hộ chỉ dẫn địa lý, Điều 24.1
không cho phép Các thành viên sử dụng những ngoại lệ này như một lý do để từ
chối
việc thực hiện đàm phán. Cũng trong thực hiện nghĩa vụ đàm phán, Điều 24.3 yêu cầu
rằng Thành viên không được "giảm sự bảo hộ các chỉ dẫn địa lý" đã tồn tại ở Thành
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
75
viên đó trước ngày Hiệp định WTO có hiệu lực. Mặc dù vậy, một nhóm nước cho rằng
giải thích trên đây dẫn tới một cách tiếp cận rất hợp pháp. Họ tin rằng quy định này
cho phép đàm phán để mở rộng sự bảo hộ bổ sung cho các chỉ dẫn địa lý đối với rượu
vang và rượu mạnh cho tất cả các loại sản phẩm.

Để thúc đẩy việc bảo h

ộ các chỉ dẫn địa lý cho rượu vang, Điều 23.4 quy định rằng
"Các cuộc đàm phán về việc thành lập một hệ thống đa phương để thông báo và đăng
ký các chỉ dẫn địa lý dùng cho rượu vang mà có thể được bảo hộ tại các Thành viên
tham gia hệ thống đó phải được tiến hành tại Hội đồng TRIPS". Hiệu quả của quy định
này sẽ là sự tiếp thu mô hình đăng ký được thiế
t lập theo Thoả ước Lisbon và xoá bỏ
những lý lẽ trong các cuộc đàm phán trong khuôn khổ WIPO về một điều ước mới đối
với việc bảo hộ các chỉ dẫn địa lý đã được chuẩn bị từ năm 1974.


Theo Điều 24.2 Hội đồng TRIPS có nghĩa vụ giám sát việc áp dụng các quy định trên
đây và thực hiện việc xem xét lại trong vòng 2 năm đầu kể từ khi Hiệp
định WTO có
hiệu lực. Các vấn đề liên quan đến tính phù hợp với các nghĩa vụ của các Thành viên
theo các quy định này đều có thể được Hội đồng xem xét, "theo yêu cầu của một
Thành viên, sẽ tham vấn với một hay các Thành viên bất kỳ về vấn đề như vậy mà
chưa thể tìm ra giải pháp thoả đáng thông qua những cuộc thương lượng song phương
hoặc đa phương giữa các Thành viên có liên quan". Hội đồng được trao th
ẩm quyền
chung "để tiến hành hoạt động như vậy giống như có thể đã được thống nhất để thúc
đẩy việc thực hiện và các mục tiêu tiếp theo về bảo hộ các chỉ dẫn địa lý đã được đặt
ra trong Hiệp định TRIPS.

Hội đồng TRIPS đã hạn chế những nỗ lực ban đầu của mình trong việc xem xét lại các
chỉ dẫn địa lý đố
i với một đề xuất về đăng ký đa phương các chỉ dẫn địa lý của rượu
vang. Trước Hội nghị bộ trưởng tại Seattle, một đệ trình của Thổ Nhĩ Kỳ vào 9/7/1999
đề xuất mở rộng các chỉ dẫn địa lý trong TRIPS ra ngoài rượu vang và rượu mạnh. Đề
xuất này được nhóm các nước châu Phi tán thành khi đề nghị việc bảo hộ các chỉ dẫn
địa lý được mở

rộng "tới cả các sản phẩm khác có thể được công nhận bởi nguồn gốc
địa lý của chúng (các sản phẩm nông - lương, thủ công nghiệp)". Đề xuất này cũng
được tiếp tục bởi Cu Ba, Cộng hoà Czech, Cộng hoà Dominican, Honduras, Ấn Độ,
Indonesa, Nicaragua, Pakistan và Sri Lanka, Uganda và Venezuela.

Tại các cuộc họp của Hội đồng TRIPS năm 2000, Chủ tịch đã tìm cách để tách thảo
luận Điều 23.2 ra khỏi Điều 24.2 nh
ằm tránh sự nhầm lẫn. Đáp lại đề nghị này là một
đề xuất từ Bungari, Cộng hoà Czech, Ai Cập, Ailen, Kenya, Liechtenstein, Pakistan,
Slovenia, Sri Lanka, Thuỵ Sỹ và Thổ Nhĩ Kỳ rằng việc mở rộng các chỉ dẫn địa lý tới
các sản phẩm khác ngoài rượu vang và rượu mạnh được tính đến như việc mở rộng
Bản dịch này do Chương trình hợp tác EC-ASEAN về sở hữu trí tuệ (ECAP II) cung cấp
76
chương trình nghị sự gắn liền. Vấn đề này cũng được tiếp tục bởi Uỷ ban thường trực
của WIPO về Nhãn hiệu và Chỉ dẫn địa lý.

Khoản 18 của Tuyên bố Doha mở ra một cách rõ ràng khả năng mở rộng việc bảo hộ
bổ sung, thông qua hệ thống đăng ký đa phương, cho các sản phẩm khác ngoài rượu
vang và rượu mạnh và các nước hiện đang thă
m dò các ảnh hưởng về mặt chi phí và
các vấn đề thực tiễn khác của việc mở rộng này.

×