Tải bản đầy đủ (.doc) (96 trang)

đổi mới cơ chế quản lý đấu thầu ở việt nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (409.98 KB, 96 trang )

Mục lục
Tiêu đề Trang
Danh mục những chữ viết tắt 3
Lời mở đầu 4
Chương 1. Tổng quan về đấu thầu và quản lý đấu thầu 8
1.1. Đấu thầu 8
1.1.1. Một số khái niệm về đấu thầu 8
1.1.2. Phân loại đấu thầu 14
1.2. Quản lý đấu thầu 21
1.2.1. Khái niệm quản lý đấu thầu 21
1.2.2. Đặc điểm của quản lý đấu thầu 22
1.2.3. Nội dung của quản lý đấu thầu 24
1.2.4. Vai trò của Nhà nước trong quản lý đấu thầu 26
Chương 2. Thực trạng quản lý đấu thầu ở VN 29
2.1. Thực trạng hoạt động đấu thầu ở Việt Nam 29
2.1.1. Kết quả đấu thầu theo đánh giá chung 29
2.1.2. Kết quả đấu thầu theo hình thức lựa chọn 30
2.2. Cơ chế quản lý đấu thầu ở Việt Nam 33
2.2.1. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về đấu thầu 33
2.2.2. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý đấu thầu 34
2.2.3. Quy trình thực hiện đấu thầu 36
2.3. Một số vấn đề tồn tại trong cơ chế quản lý đấu thầu ở Việt
Nam
46
2.4. Kinh nghiệm quản lý đấu thầu của một số tổ chức quốc tế và
quốc gia trên thế giới
47
2.4.1. Quản lý đấu thầu của Ngân hàng thế giới (WB) 47
2.4.2. Quản lý đấu thầu của Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB) 53
2.4.3. Quản lý đấu thầu của Ba Lan 55
2.4.4. Quản lý đấu thầu của Hàn Quốc 57


Chương 3. Một số giải pháp hoàn thiện cơ chế quản lý đấu thầu ở
Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế
59
3.1. Thuận lợi và khó khăn của Việt Nam trong tiến trình hội nhập
kinh tế quốc tế
59
3.1.1. Những khó khăn 59
1
3.1.2. Những thuận lợi 62
3.2. Một số giải pháp hoàn thiện cơ chế quản lý đấu thầu của Việt
Nam
63
3.2.1. Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp lý điều chỉnh hoạt động đấu
thầu
63
3.2.2. Cải cách bộ máy hành chính Nhà nước tham gia quản lý công tác
đấu thầu
72
3.2.3. Nâng cao năng lực chuyên môn của đội ngũ cán bộ trực tiếp điều
hành công tác đấu thầu
76
Kết luận 80
Phụ lục 83
Danh mục tài liệu tham khảo 92
2
Danh mục những chữ viết tắt
ADB Ngân hàng phát triển Châu Á - Asian Development Bank
EPC Gói thầu bao gồm toàn bộ các công việc thiết kế, cung cấp thiết
bị, vật tư và xây lắp - Engineering, Procurement, Construction
ICB Đấu thầu cạnh tranh quốc tế - International Competitive Bidding

MFN Nguyên tắc tối huệ quốc - Most Favoured Nation
NT Nguyên tắc đối xử quốc gia - National Treatment
ODA Viện trợ phát triển chính thức - Official Development Assistance
PMU Ban quản lý các dự án - Project Management Unit
PPO Cục mua sắm công - Public Procurement Office
SAROK Trung tâm mua sắm công Hàn Quốc - Supply Administration of
the Republic Of Korea
WB Ngân hàng thế giới - World Bank
WTO Tổ chức thương mại thế giới - World Trade Organisation
3
Lời mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam mở cửa với những bước phát triển
ban đầu khá nhanh và sôi nổi, hoạt động đấu thầu cũng đang dần dần được phổ
biến trong các hoạt động kinh tế nước nhà. Qua trên dưới mười năm áp dụng
rộng rãi vào nền kinh tế Việt Nam, đấu thầu đã đóng góp một phần không nhỏ
vào những thành quả phát triển của đất nước. Tuy nhiên, vì là lĩnh vực khá mới,
việc áp dụng hoạt động này vào nền kinh tế Việt Nam không thể tránh khỏi
những tồn tại, bất cập thậm chí là sai lầm cả về thực hiện và quản lý. Điều này
đòi hỏi Đảng, Nhà nước và các cơ quan hữu quan phải đi sâu nghiên cứu, phân
tích, cập nhật để đổi mới cơ chế quản lý đấu thầu trên cơ sở những tồn tại,
thiếu sót của hoạt động đấu thầu trong nước và rút kinh nghiệm từ bài học của
các tổ chức và quốc gia trên thế giới.
Đấu thầu là một phạm trù kinh tế mang tính khách quan của nền kinh tế thị
trường, là một mắt xích cực kỳ quan trọng trong việc mua sắm của Chính phủ,
giúp cho Nhà nước tiết kiệm được chi phí cũng như phòng tránh thất thoát ngân
sách quốc gia. Bởi vậy, việc đi sâu nghiên cứu hoàn thiện chính sách về đấu thầu
là điều hết sức cần thiết cho quá trình phát triển một nền kinh tế nhanh và bền
vững.
Hơn nữa, trong thời gian gần đây, những tiêu cực kinh tế liên quan đến đấu

thầu ở nước ta trở nên phổ biến và nghiêm trọng hơn bao giờ hết. Với những tiêu
cực này, công tác đấu thầu không còn thực hiện được chức năng và nhiệm vụ của
4
mình đối với nền kinh tế, mà trái lại, một số cá nhân, tổ chức liên quan lại lợi
dụng chính hoạt động đó để “rút ruột” ngân sách quốc gia, tham nhũng, tư lợi
cho riêng mình. Trong những trường hợp đó, hoạt động đấu thầu, từ bản chất tích
cực lại bị biến hoá thành tiêu cực và kéo lùi sự phát triển của nền kinh tế nước
nhà. Điều này càng đặt ra tính cấp thiết của việc hoàn thiện cơ chế quản lý đấu
thầu ở Việt Nam, chuẩn bị cho quá trình chính thức gia nhập WTO của chúng ta
vào cuối năm 2006.
Tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội khoá XI diễn ra vào tháng 10 và 11 năm 2005,
lần đầu tiên, Nhà nước Việt Nam đã ban hành Luật Đấu thầu, có hiệu lực thi
hành từ ngày 01 tháng 4 năm 2006, tập hợp những quy định mới nhất về hoạt
động đấu thầu qua thời gian dài nghiên cứu, chỉnh sửa và rút kinh nghiệm từ
thực trạng đấu thầu Việt Nam. Luật Đấu thầu này đã đánh dấu một bước tiến mới
quan trọng của công tác quản lý đấu thầu của Việt Nam. Tuy nhiên, bên cạnh
những điểm tiến bộ của nó, vẫn còn tồn tại nhiều ý kiến trái ngược xung quanh
tính đúng đắn của Luật này.
Cũng chính từ tính thời sự và quan trọng đối với nền kinh tế nước nhà của
hoạt động này mà em đã lựa chọn “ Đổi mới cơ chế quản lý đấu thầu ở Việt Nam
trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế” làm đề tài cho khoá luận tốt nghiệp của
mình.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Khoá luận tốt nghiệp này được thực hiện nhằm hai mục đích chính:
- Đi sâu nghiên cứu, phân tích cơ chế hoạt động đấu thầu, công tác quản lý
đấu thầu ở Việt Nam và của một số tổ chức, quốc gia điển hình trên thế giới;
5
- Từ thực trạng những tồn tại, bất cập của công tác quản lý đấu thầu ở Việt
Nam và kinh nghiệm thế giới, đề xuất một số giải pháp đổi mới, hoàn thiện cơ
chế quản lý đấu thầu ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế toàn cầu mà

gần nhất là gia nhập WTO vào cuối năm nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Đối tượng: thực trạng của công tác quản lý đấu thầu ở Việt Nam, kinh
nghiệm quản lý đấu thầu thế giới và một số giải pháp đổi mới cơ chế quản lý đấu
thầu ở Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu: giới hạn trong việc nghiên cứu những quy định và
thực trạng đấu thầu ở Việt Nam và một vài tổ chức quốc tế, quốc gia trên thế giới
trong những năm gần đây nhất.
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Khoá luận được thực hiện dựa trên nghiên cứu những văn bản pháp luật về
đấu thầu ban hành bởi Nhà nước Việt Nam; đường lối chính sách phát triển kinh
tế của Đảng và Nhà nước. Ngoài ra, người thực hiện còn sử dụng các phương
pháp nghiên cứu: phân tích, tổng hợp, diễn giải, quy nạp, so sánh, điều tra dựa
trên cơ sở những tài liệu và số liệu sưu tầm được từ sách, báo và mạng Internet.
5. Bố cục của đề tài.
Bố cục của đề tài gồm có 3 phần
Phần 1 bao gồm những nội dung mang tính lý thuyết tổng quan về đấu thầu
như: các khái niệm, phân loại, vai trò của Nhà nước trong quản lý đấu thầu.
6
Phần 2 đi sâu nghiên cứu, phân tích thực trạng công tác quản lý đấu thầu ở
Việt Nam và kinh nghiệm của một số tổ chức, quốc gia trên thế giới.
Phần 3 đễ xuất một số kiến nghị, giải pháp nhắm nâng cao hiệu quả công tác
quản lý đấu thầu ở Việt Nam.
Vì trình độ và thời gian có hạn, khoá luận này khó có thể tránh được những
thiếu sót, em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của các thày cô giáo và
người đọc.
Qua bài viết này, em cũng muốn gửi lời cảm ơn chân thành đến khoa Kinh
tế Ngoại thương Đại học Ngoại thương, mà đặc biệt là thày giáo PGS.TS Phạm
Duy Liên đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo và giúp đỡ em về nội dung khoá luận,
xin cảm ơn chị Vũ Quỳnh Lê - chuyên viên đấu thầu của Vụ Quản lý đấu thầu,

anh Hoàng Trí Ngọc - cán bộ Văn phòng Quốc hội và chị Trần Lệ Trinh - biên
tập viên Nhà xuất bản Tư pháp, đã cung cấp tài liệu giúp em hoàn thành khoá
luận tốt nghiệp của mình.
Hà Nội, ngày 20 tháng 10 năm 2006
7
Chương 1. Tổng quan về đấu thầu và quản lý đấu thầu
1.1. Đấu thầu
1.1.1. Một số khái niệm về đấu thầu
1.1.1.1. Đấu thầu
Trong nền kinh tế thị trường, với bất kỳ một loại hàng hoá, dịch vụ nào
cũng đều có sự tham gia của vô số những nhà cung cấp, tức là không có sự độc
quyền trong cung cấp một loại hàng hoá và dịch vụ trong xã hội (trừ trường hợp
những hàng hoá quốc phòng theo quy định của Nhà nước). Vì thế, đấu thầu ra
đời trong hoạt động mua sắm hàng hoá, dịch vụ giúp cho người mua có thể mua
được những sản phẩm phù hợp nhất về chất lượng, mẫu mã, công nghệ… với
một giá cả cạnh tranh nhất. Trong đấu thầu, người mua sẽ đưa ra những yêu cầu,
thông tin liên quan đến loại hàng hoá, dịch vụ mà mình muốn mua. Người bán
tức nhà thầu sẽ căn cứ vào nội dung yêu cầu của người mua để gửi hồ sơ dự thầu
đến người mua. Dựa vào những cam kết về chất lượng, giá cả…của sản phẩm
mà người bán đưa ra, người mua sẽ lựa chọn cho mình nhà thầu tốt nhất, đáp ứng
được nhiều nhất nhu cầu của họ. Không phải trong mọi trường hợp người mua
đều yêu cầu những sản phẩm chất lượng tốt nhất hay giá cả rẻ nhất vì thế những
nhà thầu được lựa chọn chỉ là những nhà thầu có hàng hoá, dịch vụ thích hợp
nhất với yêu cầu của người mua.
Theo quy định tại Điều 4 Luật Đấu thầu Việt Nam năm 2005: đấu thầu là
quỏ trỡnh lựa chọn nhà thầu đáp ứng các yêu cầu của bên mời thầu để thực hiện
8
gói thầu thuộc các dự án theo quy định trên cơ sở bảo đảm tính cạnh tranh, công
bằng, minh bạch và hiệu quả kinh tế.
Điều 1 Luật Đấu thầu 2005 quy định: các hoạt động về cung cấp dịch vụ tư

vấn, mua sắm hàng hoá, xây lắp được nhà nước quy định phải thực hiện thông
qua đấu thầu đối với gói thầu thuộc các dự án sau đây:
- Dự án sử dụng vốn nhà nước từ 30% trở lên cho mục tiêu đầu tư phát
triển, bao gồm:
+ Dự án đầu tư xây dựng mới, nâng cấp mở rộng các dự án đó đầu tư xây
dựng;
+ Dự án đầu tư để mua sắm tài sản kể cả thiết bị, máy móc không cần lắp
đặt;
+ Dự án quy hoạch phát triển vùng, quy hoạch phát triển ngành, quy hoạch
xây dựng đô thị, nông thôn;
+ Dự ỏn nghiờn cứu khoa học, phỏt triển cụng nghệ, hỗ trợ kỹ thuật;
+ Các dự án khác cho mục tiêu đầu tư phát triển;
- Dự án sử dụng vốn nhà nước để mua sắm tài sản nhằm duy trỡ hoạt động
thường xuyên của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xó hội,
tổ chức chớnh trị xó hội - nghề nghiệp, tổ chức xó hội, tổ chức xó hội - nghề
nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dõn;
9
- Dự án sử dụng vốn nhà nước để mua sắm tài sản nhằm phục vụ việc cải
tạo, sửa chữa lớn các thiết bị, dây chuyền sản xuất, công trỡnh, nhà xưởng đó
đầu tư của doanh nghiệp nhà nước.
Tóm lại, Đấu thầu là một hoạt động kinh tế tồn tại tất yếu trong nền kinh tế
thị trường. Trong đó, người mua là những cá nhân, tổ chức đưa ra yêu cầu của
mình về hàng hoá, dịch vụ và tổ chức việc xét tuyển những người bán tham gia
với mong muốn được cung cấp hàng ho, dịch vụ đó. Kết quả của đấu thầu là
người mua tìm được những hàng hoá, dịch vụ đáp ứng phù hợp nhất với giá cả
cạnh tranh nhất còn người bán, tức nhà thầu, giành được quyền cung cấp loại
hàng hoá, dịch vụ đó với giá cả đủ bù đắp các chi phí đầu vào mà vẫn đảm bảo
một mức lợi nhuận cao nhất có thể.
1.1.1.2. Nhà thầu
Nhà thầu là tất cả các tổ chức, cá nhân gửi hồ sơ tham gia vào đấu thầu với

mục đích giành được quyền ký kết và thực hiện việc cung cấp loại hàng hoá,
dịch vụ mà người mua đưa ra. Tuy nhiên, để trở thành nhà thầu hợp lệ, họ phải
đáp ứng được những yêu cầu nhất định mà pháp luật đưa ra.
Theo Điều 4 Luật Đấu thầu 2005, Nhà thầu là tổ chức, cá nhân có đủ tư
cách hợp lệ theo quy định của Luật Đấu thầu.
a. Với nhà thầu là tổ chức
Nhà thầu là tổ chức có tư cách hợp lệ khi có đủ các điều kiện sau đây:
- Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, Giấy chứng nhận đầu tư được cấp
theo quy định của pháp luật hoặc có quyết định thành lập đối với các tổ chức
10
không có đăng ký kinh doanh trong trường hợp là nhà thầu trong nước; có đăng
ký hoạt động do cơ quan có thẩm quyền của nước mà nhà thầu mang quốc tịch
cấp trong trường hợp là nhà thầu nước ngoài;
- Hạch toán kinh tế độc lập;
- Không bị cơ quan có thẩm quyền kết luận về tỡnh hỡnh tài chớnh khụng
lành mạnh, đang lâm vào tỡnh trạng phỏ sản hoặc nợ đọng không có khả năng
chi trả; đang trong quá trỡnh giải thể.
b. Với nhà thầu là cỏ nhõn
Nhà thầu là cá nhân có tư cách hợp lệ khi có đủ các điều kiện sau đây: (Điều
8 Luật Đấu thầu 2005)
- Năng lực hành vi dân sự đầy đủ theo quy định pháp luật của nước mà cá
nhân đó là công dân;
- Đăng ký hoạt động hợp pháp hoặc chứng chỉ chuyên môn phù hợp do cơ
quan có thẩm quyền cấp;
- Khụng bị truy cứu trỏch nhiệm hỡnh sự.
Tóm lại, nhà thầu là các cá nhân có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, tổ
chức kinh tế độc lập về tài chính có năng lực pháp luật dân sự, có đủ điều kiện
hoạt động trong lĩnh vực đấu thầu, ký kết và thực hiện hợp đồng đấu thầu theo
quy định của pháp luật.
1.1.1.3. Bên mời thầu

11
Thông thường, bất cứ cá nhân, tổ chức nào đứng ra tổ chức đấu thầu đều
được coi là bên mời thầu. Bên mời thầu không chỉ là người mua tức chủ đầu tư,
chủ dự án mà còn có thể là đại diện của họ. Đặc biệt, trong trường hợp đấu thầu
để lựa chọn đối tác đầu tư, bên mời thầu chỉ đóng vai trò chủ dự án, khi đó nhà
thầu trúng thầu sẽ là chủ đầu tư.
Theo quy định tại Điều 9 Luật Đấu thầu Việt Nam năm 2005, Bên mời thầu
là chủ đầu tư hoặc tổ chức chuyên môn có đủ năng lực và kinh nghiệm được chủ
đầu tư sử dụng để tổ chức đấu thầu theo các quy định của pháp luật về đấu thầu.
Cá nhân tham gia bên mời thầu phải có đủ các điều kiện sau đây:
- Am hiểu pháp luật về đấu thầu;
- Cú kiến thức về quản lý dự ỏn;
- Cú trỡnh độ chuyên môn phù hợp với yêu cầu của gói thầu theo các lĩnh
vực kỹ thuật, tài chính, thương mại, hành chính và pháp lý;
- Cú trỡnh độ ngoại ngữ đáp ứng yêu cầu đối với gói thầu được tổ chức đấu
thầu quốc tế, gói thầu thuộc dự án sử dụng vốn ODA.
Như vậy, bên mời thầu là chủ dự án, chủ đầu tư hay đại diện hợp pháp của
chủ dự án, chủ đầu tư đứng ra tổ chức đấu thầu.
1.1.1.4. Hồ sơ mời thầu
Trước khi tổ chức đấu thầu, bên mời thầu phải lập ra một hồ sơ mời thầu là
một tài liệu thống nhất và không thay đổi trong suốt quá trình đấu thầu để làm
12
căn cứ cho nhà thầu chuẩn bị hồ sơ dự thầu, làm cơ sở để bên mời thầu đánh giá
các hồ sơ dự thầu và xem xét, quyết định nhà thầu trúng thấu. Hồ sơ mời thầu
gồm toàn bộ các yêu cầu của gói thầu về chất lượng, số lượng, yêu cầu kỹ thuật,
công nghệ, giá cả, các điều kiện ký kết hợp đồng, tài chính…
Vậy, hồ sơ mời thầu là toàn bộ tài liệu sử dụng cho đấu thầu rộng rói hoặc
đấu thầu hạn chế bao gồm các yêu cầu cho một gói thầu làm căn cứ pháp lý để
nhà thầu chuẩn bị hồ sơ dự thầu và để bên mời thầu đánh giá hồ sơ dự thầu nhằm
lựa chọn nhà thầu trúng thầu; là căn cứ cho việc thương thảo, hoàn thiện và ký

kết hợp đồng.
1.1.1.5. Hồ sơ dự thầu
Là bộ hồ sơ của nhà thầu bao gồm các tài liệu kỹ thuật, tài chính, thương
mại liên quan đến gói thầu để nộp cho bên mời thầu trong thời gian hiêu lực của
gói thầu. Dựa trên những thông số của hồ sơ dự thầu này, bên mua sẽ chọn ra
nhà thầu phù hợp nhất với yêu cầu của mình và đề nghị cho trúng thầu.
Hồ sơ dự thầu là toàn bộ tài liệu do nhà thầu lập theo yêu cầu của hồ sơ
mời thầu và được nộp cho bên mời thầu theo quy định nêu trong hồ sơ mời thầu.
1.1.1.6. Hiệu quả của hoạt động đấu thầu
Trước hết, đấu thầu đem lại hiệu quả kinh tế cho bên mời thầu, thông qua
đấu thầu họ sẽ mua được những hàng hoá, dịch vụ có chất lượng phù hợp với
yêu cầu của mình ở một mức giá thấp nhất. Mặt khác, cũng nhờ đấu thầu, cùng
với sự cạnh tranh gay gắt để thắng thầu, các nhà thầu cũng luôn phải không
ngừng tìm tòi, cải tiến công nghệ, kỹ thuật, nâng cao năng lực cạnh tranh, từ đó
13
thúc đẩy sự phát triển của toàn xã hội. Ngoài ra, quá trình này còn giúp cho
những nhà lập pháp và hành pháp có thể hoàn thiện những quy định pháp lý tạo
ra sân chơi công bằng, bình đẳng cho các nhà thầu. Tất cả những hiệu quả đó của
đấu thầu có được đều ra do đấu thầu đã tận dụng được lợi thế từ những quy luật
kinh tế khách quan của nền kinh tế thị trường mà đặc biệt là quy luật bàn tay vô
hình của Adam Smith và quy luật cung cầu, giá cả.
Hiệu quả của đấu thầu thể hiện ở ba mặt: thứ nhất, đem lại lợi ích kinh tế
cho bên mời thầu, thứ hai, thúc đẩy sự phát triển của xã hội mà đặc biệt là của
các nhà thầu, thứ ba là giúp hoàn thiện hệ thống pháp lý về đấu thầu.
1.1.2. Phân loại đấu thầu
1.1.2.1. Theo hình thức lựa chọn nhà thầu
a. Đấu thầu rộng rãi
Đấu thầu rộng rãi là hình thức đấu thầu không hạn chế số lượng nhà thầu
tham gia. Bên mời thầu phải thông báo công khai về các điều kiện, thời gian dự
thầu trên các phương tiện thông tin đại chúng trước khi phát hành hồ sơ mời

thầu. Đấu thầu rộng rãi là hình thức chủ yếu được áp dụng trong đấu thầu.
Đấu thầu rộng rãi được sử dụng phổ biến cho tất cả các lĩnh vực hàng hoá
và dịch vụ. Đây cũng là hình thức đấu thầu hiệu quả nhất cho người mua vì
người bán sẽ phải đối đầu với sự cạnh tranh khốc liệt nhất với số lượng đối thủ
lớn nhất. Trong nền kinh tế thị trường, hình thức đấu thầu được sử dụng chủ yếu
là đấu thầu rộng rãi, hình thức này tận dụng triệt để học thuyết bàn tay vô hình
của Adam Smith.
14
Theo quy định của Luật Đấu thầu Việt Nam, khi sử dụng hình thức đấu thầu
này, trước khi phát hồ sơ mời thầu, bên mời thầu phải thông báo mời thầu một
cách rộng rãi và đầy đủ trên các phương tiện thông tin đại chúng như báo chí,
website của cơ quan quản lý về đấu thầu.
Bên mời thầu phải cung cấp hồ sơ mời thầu cho các nhà thầu có nhu cầu
tham gia đấu thầu. Trong hồ sơ mời thầu không được nêu bất cứ điều kiện nào
nhằm hạn chế sự tham gia của nhà thầu hoặc nhằm tạo lợi thế cho một hoặc một
số nhà thầu gây ra sự cạnh tranh khụng bỡnh đẳng.
b. Đấu thầu hạn chế
Đấu thầu hạn chế là hình thức đấu thầu mà bên mời thầu mời một số nhà
thầu (tối thiểu là 5) có đủ năng lực tham dự. Danh sách nhà thầu tham dự phải
được người có thẩm quyền hoặc cấp có thẩm quyền chấp thuận.
Ngược lại với đấu thầu rộng rãi, đấu thầu hạn chế lại chỉ cho phép một số
nhà thầu nhất định được tham gia dự thầu. Người ta áp dụng hình thức đấu thầu
này khi biết chắc rằng chỉ có một số nhà thầu nhất định có đủ khả năng hay được
phép thực hiện gói thầu đó. Tuy nhiên việc áp dụng hình thức đấu thầu này có
nhiều hạn chế vì số lượng nhà thầu tham dự càng ít thì tính cạnh tranh càng giảm
làm cho hiệu quả công tác đấu thầu sẽ giảm theo. Vì thế trong tương lai cùng với
sự phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, hình thức đấu thầu hạn chế chắc
chắn sẽ ít được sử dụng hơn.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam thì đấu thầu hạn chế được sử dụng
trong những trường hợp sau đây:

15
- Theo yêu cầu của nhà tài trợ nước ngoài đối với nguồn vốn sử dụng cho
gói thầu;
- Gúi thầu có yêu cầu cao về kỹ thuật hoặc kỹ thuật có tính đặc thù; gói thầu
có tính chất nghiên cứu, thử nghiệm mà chỉ có một số nhà thầu có khả năng đáp
ứng yêu cầu của gói thầu.
c. Chỉ định thầu
Chỉ định thầu là hình thức chọn trực tiếp nhà thầu đáp ứng yêu cầu của gói
thầu để thương thảo hợp đồng.
Trong trường hợp này, bên mời thầu vẫn phải đưa ra các yêu cầu của gói
thầu cho nhà thầu để nhà thầu chuẩn bị. Tiếp đó, bên mời thầu vẫn phải đánh giá
hồ sơ dự thầu của nhà thầu so với các yêu cầu của gói thầu, nếu đạt yêu cầu mới
mời nhà thầu này vào thương thảo để ký hợp đồng.
Do sự hạn chế của hình thức này nên nó chỉ được áp dụng trong một số
trường hợp đặc biệt
d. Chào hàng cạnh tranh
Hình thức này được áp dụng cho những gói thầu mua sắm hàng hóa có giá
trị nhỏ (theo Luật Đấu thầu của Việt Nam là dưới 2 tỷ đồng). Mỗi gói thầu phải
có ít nhất 3 chào hàng của 3 nhà thầu khác nhau trên cơ sở yêu cầu chào hàng
của Bên mời thầu. Việc gửi chào hàng có thể được thực hiện bằng cách gửi trực
tiếp, bằng fax, bằng đường bưu điện hoặc bằng các phương tiện khác.
16
Gói thầu áp dụng hình thức này thường có sản phẩm thông dụng, có sẵn trên
thị trường với những đặc tính kỹ thuật được tiêu chuẩn hoá và tương đương nhau
về chất lượng. Đơn vị trúng thầu thường là đơn vị đưa ra giá thấp nhất, không
thương thảo về giá.
e. Mua sắm trực tiếp
Được áp dụng khi hợp đồng đối với gói thầu có nộ dung tương tự được ký
trước đó một thời gian ngắn quy định (Luật Đấu thầu Việt Nam quy định là dưới
6 tháng) hoặc hợp đồng đang thực hiện với điều kiện chủ đầu tư có nhu cầu tăng

thêm số lượng hàng hóa hoặc khối lượng công việc mà trước đó được tiến hành
đấu thầu, nhưng phải đảm bảo không được vượt mức giá hoặc đơn giá trong hợp
đồng đó ký trước đó. Trước khi ký hợp đồng, nhà thầu phải chứng minh có đủ
năng lực về kỹ thuật và tài chính để thực hiện gói thầu.
Để hạn chế những tiêu cực có thể xảy ra khi áp dụng hình thức lựa chọn nhà
thầu này, Luật Đấu thầu của Việt Nam còn quy định đơn giá đối với các nội
dung thuộc gói thầu áp dụng mua sắm trực tiếp không được vượt đơn giá của các
nội dung tương ứng thuộc gói thầu tương tự đã ký hợp đồng trước đó.
f. Tự thực hiện
Hình thức này chỉ được áp dụng đối với các gói thầu mà chủ đầu tư có đủ
năng lực thực hiện trên cơ sở tuân thủ quy định Quy chế Quản lý đầu tư và xây
dựng.
17
Khi áp dụng hình thức này, dự toán cho gói thầu phải được phê duyệt theo
quy định. Đơn vị giám sát việc thực hiện gói thầu phải độc lập với chủ đấu tư về
tổ chức và tài chính.
g. Mua sắm đặc biệt
Hình thức này được áp dụng đối với các gói thầu có đặc thù riêng biệt mà
không thể áp dụng các hình thức lựa chọn nhà thầu đã nêu trên thù chủ đầu tư
phải lập phương án lựa chọn nhà thầu, bảo đảm mục tiêu cạnh tranh và hiệu quả
kinh tế trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.
Đây là quy định theo hướng mở để áp dụng đối với các ngành hết sức đặc
biệt mà nếu không có những quy định riêng thì không thể đấu thầu được,
1.1.2.2. Theo phương thức đấu thầu
a. Đấu thầu một túi hồ sơ
Là phương thức mà nhà thầu nộp hồ sơ dự thầu trong một túi hồ sơ. Phương
thức này được áp dụng đối với đấu thầu rộng rãi và đấu thầu hạn chế cho gói
thầu mua sắm hàng hóa, xây lắp và gói thầu EPC. Các nội dung chính của hồ sơ
dự thầu do các nhà thầu nộp đúng hạn đều được công khai trong buổi mở đầu.
Nội dung chính của hồ sơ này bao gồm đề xuất kỹ thuật và tài chính. Việc mở

thầu được tiến hành một lần.
b. Đấu thầu hai túi hồ sơ
Là phương thức mà nhà thầu nộp đề xuất kỹ thuật và đề xuất tài chính trong
từng túi hồ sơ riêng vào cùng một thời điểm. Việc mở thầu được tiến hành 2 lần.
18
Túi hồ sơ đề xuất kỹ thuật sẽ được xem xét trước để đánh giá. Các nhà thầu đạt
tiêu chuẩn kỹ thuật sẽ được mở tiếp túi hồ sơ đề xuất về giá để đánh giá. Phương
thức này được áp dụng đối với đấu thầu rộng rãi và đấu thầu hạn chế trong tuyển
chọn nhà thầu cung cấp dịch vụ tư vấn.
c. Đấu thầu hai giai đoạn
Phương thức này áp dụng cho hình thức đấu thầu rộng rãi, đấu thầu hạn chế
cho gói thầu mua sắm hàng hoá, xây lắp, gói thầu EPC có kỹ thuật, công nghệ
mới, phức tạo, đa dạng.
Hai giai đoạn đó như sau:
- Giai đoạn sơ tuyển lựa chọn nhà thầu - Tùy theo quy mô, tính chất gói
thầu, chủ đầu tư thông báo mời thầu trên các phương tiện thông tin đại chúng
hoặc gửi thư mời thầu. Chủ đầu tư có trách nhiệm cung cấp cho các nhà thầu
tham dự hồ sơ mời dự thầu bao gồm các thông tin sơ bộ về gói thầu và các nội
dung chính của hồ sơ mời dự thầu. Nhà thầu tham dự sơ tuyển phải nộp hồ sơ dự
thầu kèm theo bảo lãnh dự thầu nhằm bảo đảm nhà thầu đó qua giai đoạn sơ
tuyển phải tham dự đấu thầu. Mức bảo lãnh dự thầu do chủ đầu tư quyết định
nhưng không vượt quá 1% giá gói thầu.
Tiêu chuẩn đấnh giá ở vũng sơ tuyển bao gồm:
+ Năng lực kỹ thuật
+ Năng lực tài chính
+ Kinh nghiệm
19
- Giai đoạn đấu thầu - Chủ đầu tư cung cấp hồ sơ mời đấu thầu cho các nhà
thầu được lựa chọn vào giai đoạn đấu thầu. Nhà thầu tham dự đấu thầu phải nộp
hồ sơ đấu thầu kèm theo bảo lãnh đấu thầu nhằm đảm bảo nhà thầu đàm phán ký

kết hợp đồng sau khi được tuyên bố trúng thầu. Mức bảo lãnh dự thầu do chủ
đầu tư quyết định nhưng không vượt quá 3% giá gói thầu.
Tiêu chuẩn đánh giá ở vòng đấu thầu bao gồm:
+ Khả năng cung cấp sản phẩm, dịch vụ
+ Tiến độ thực hiện
+ Giá dự thầu
+ Các điều kiện khác của nhà thầu đề xuất nhằm đạt mục tiêu đầu tư và hiệu
quả cho dự án.
Nhà thầu được lựa chọn là nhà thầu có giá dự thầu hợp lý và mang lại hiệu
quả cao nhất cho dự án.
1.1.2.3. Theo mục đích của đấu thầu
a. Đấu thầu tuyển chọn tư vấn
Là loại hình đấu thầu do chủ đầu tư tổ chức với mục đích tuyển chọn tư vấn
để thực hiện các dịch vụ khảo sát, thiết kế, lập hồ sơ mời thầu, giám sát quá trình
thực hiện một công việc cho chủ đầu tư. Hình thức này thường được sử dụng
trong xây dựng cơ sở hạ tầng, nhà xưởng, máy móc… là những công việc phức
tạp đòi hỏi đến chuyên môn cao của người thực hiện.
20
Trong đấu thầu tuyển chọn tư vấn, các nhà thầu (nhà tư vấn) cạnh tranh
nhau thông qua việc cung cấp các chuyên gia có kiến thức và kinh nghiệm
chuyên môn. Đối với loại đấu thầu này, uy tín của các nhà thầu là yếu tố cực kỳ
quan trọng, quyết định khả năng thắng thầu của các nhà thầu. Thông thường, các
nhà tư vần khi tham gia dự thầu không phải nộp bảo lãnh dự thầu như đối với
các lĩnh vực mua sắm hàng hoá và xây lắp.
b. Đấu thầu xây lắp
Đấu thầu xây lắp là hình thức đấu thầu lựa chọn nhà thầu thực hiện công
việc xây lắp tức là những cụng việc thuộc quỏ trỡnh xõy dựng và lắp đặt thiết bị
các công trỡnh, hạng mục cụng trỡnh, cải tạo, sửa chữa lớn
Trong đấu thầu xây lắp, các nhà thầu cạnh tranh nhau về giải pháp để thực
hiện thiết kế nêu trong hồ sơ mời thầu với chất lượng phù hợp yêu cầu bên mua

với chi phí thấp nhất. Thông thường, giải pháp thực hiện được đúc kết từ kinh
nghiệm và do nắm giữ công nghệ mới, biết cách thực hiện phù hợp với điều kiện
thi công thực tế sẽ là yếu tố quan trọng để giúp người bán thắng thầu. Tuy nhiên,
trong những trường hợp yêu cầu kỹ thuật không cao thì chính giá cả cạnh tranh
lại là nhân tố quyết định.
c. Đấu thầu mua sắm hàng hóa
Đấu thầu mua sắm hàng hoá là hình thức đấu thầu lựa chọn ra người bán
đảm bảo cung cấp được hàng hoá đủ về số lượng, phù hợp về chất lượng với giả
cả cạnh tranh nhất và có thể kèm theo các dịch vụ hậu mãi (bảo hành, bảo trì).
21
Đối với đấu thầu mua sắm hàng hoá, sự cạnh tranh của các nhà thầu thể
hiện trước hết ở giá trị sử dụng của sản phẩm. Trong trường hợp giá trị sử dụng
của các sản phẩm là tương đương nhau thì người mua mới xét đến các giá trị bổ
sung khác để chọn nhà thầu mang lại nhiều lợi ích hơn cho họ. Trong đấu thầu
mua sắm hàng hoá, uy tín của nhà thầu cũng rất quan trọng.
1.2. Quản lý đấu thầu
1.2.1. Khái niệm quản lý đấu thầu
Trước khi tìm hiểu khái niệm quản lý đấu thầu, ta cần phải hiểu thế nào là
quản lý và thế nào là quản lý nhà nước vì quản lý đấu thầu trước hết là một hoạt
động quản lý nhà nước.
Có nhiều khái niệm khác nhau về quản lý nhưng nói chung, quản lý là sự
tác động bất kỳ lên một hệ thống nào đó nhằm trật tự hóa nó và hướng nó phát
triển phù hợp với những quy luật nhất định. Quản lý là quỏ trỡnh điều khiển và
dẫn hướng tất cả các bộ phận của một tổ chức, thường là tổ chức kinh tế, thông
qua việc thành lập và thay đổi các nguồn tài nguyên (nhõn lực, tài chớnh, vật tư,
trớ thực và giỏ trị vụ hỡnh) nhằm đạt được một mục tiêu cụ thể.
Quản lý nhà nước là hoạt động chấp hành và điều hành của nhà nước, là
một loại hoạt động cơ bản của nhà nước. Hoạt động đó chủ yếu được giao cho
các cơ quan hành chính nhà nước và bộ máy trực thuộc thực hiện… nhưng các
cơ quan khác của nhà nước, tổ chức xã hội cũng tham gia thực hiện quản lý nhà

nước khi được trao quyền.
22
Từ những khái niệm trên, chúng ta có thể đưa ra khái niệm về quản lý đấu
thầu: Quản lý đấu thầu là hoạt động quản lý nhà nước trong lĩnh vực đấu thầu,
trong đó, các cơ quan hành chính nhà nước và bộ máy trực thuộc được Nhà
nước trao quyền sẽ đảm nhận những công tác như: soạn thảo, ban hành các văn
bản pháp luật điều chỉnh hoạt động đấu thầu, hướng dẫn thực hiện, chỉ đạo thực
hiện, giám sát, kiểm tra việc thực hiện cũng như xử lý những vi phạm trong quá
trình thực hiện đấu thầu nhằm mục đích đưa hoạt động đấu thầu phát triển
đúng hướng mà Nhà nước đề ra.
1.2.2. Đặc điểm của quản lý đấu thầu
Đấu thầu là một hoạt động kinh tế được sử dụng chủ yếu trong mua sắm
công của nhà nước với mục đích sử dụng hợp lý và tiết kiệm nguồn Ngân sách
quốc gia, bởi vậy, hoạt động quản lý đấu thầu do cơ quan chuyên trách của Nhà
nước đảm nhiệm cũng phải mang những đặc điểm có thể đảm bảo mục đích của
đấu thầu. Các đặc điểm chính của hoạt động quản lý đấu thầu là:
- Thống nhất, ổn định: Các cơ quan Nhà nước cùng đảm nhận việc quản lý
đấu thầu phải đảm bảo hoạt động một cách thống nhất, ổn định. Ở Việt Nam,
ngoài Bộ Kế hoạch và Đầu tư - cơ quan quản lý chung về hoạt động đấu thầu,
còn có nhiều cơ quan hành chính Nhà nước khác cũng tham gia quản lý đấu thầu
trong lĩnh vực của mình như Bộ Xây dựng, Bộ Tài chính… và đưa ra nhiều văn
bản pháp luật khác nhau quy định về đấu thầu. Những quy định này nhiều khi
còn mâu thuẫn, thường xuyên thay đổi, sửa chữa, không ổn định gây khó khăn
cho công tác quản lý đấu thầu và hoạt động của các nhà thầu. Tình trạng thiếu
thống nhất, thiếu ổn định này cần nhanh chóng được giải quyết để tạo điều kiện
thuận lợi cho sự phát triển đúng hướng của hoạt động đấu thầu ở Việt Nam.
23
- Công bằng, bình đẳng: Công bằng, bình đẳng trong quản lý đấu thầu thể
hiện ở chỗ các nhà thầu tham gia hoạt động đấu thầu phải có được những nghĩa
vụ và quyền lợi ngang nhau, không có sự ưu tiên quá nhiều đối với những nhà

thầu trong nước so với nhà thầu quốc tế.
- Công khai, minh bạch: Hoạt động đấu thầu luôn liên quan tới việc sử dụng
các nguồn tiền của Nhà nước, của toàn xã hội, bởi vậy, việc xây dựng các quy
định pháp luật về đầu tư và đấu thầu phải luôn gắn với việc tạo điều kiện để các
hoạt động này không tách rời sự giám sát của cộng đồng xã hội. Việc công khai,
minh bạch những thông tin về đấu thầu ra toàn bộ xã hội là rất cần thiết vì áp lực
của xã hội có tác dụng làm cho các đối tượng tham gia trong các hoạt động đấu
thầu phải thực hiện theo đúng quy định, giảm thiểu tiêu cực
- Xử lý nghiêm minh các vi phạm: Vi phạm các quy định của pháp luật đầu
tư và đấu thầu là hiện tượng phổ biến ở Việt Nam, gây thất thoát, lãng phí cho
ngân sách quốc gia. Muốn giải quyết nhanh chóng vấn đề cấp bách này, Nhà
nước cần đưa ra những biện pháp xử lý nghiêm khắc với những hành vi vi phạm.
Rút kinh nghiệm từ công tác diệt trừ tệ nạn tham nhũng tại Trung Quốc bằng
những hình phạt vô cùng nghiêm khắc đã đem lại kết quả rất khả quan, chúng ta
cần phải xử lý nghiêm minh hơn nữa nhưng sai phạm có liên quan đến việc gây
thất thoát tiền bạc quốc gia thì mới có thể đảm bảo được hiệu quả của công tác
đấu thầu.
- Tạo sự cạnh tranh tối đa: Đây cũng là nguyên tắc quan trọng nhất của
Ngân hàng thế giới về quản lý đấu thầu. Cạnh tranh là động lực thúc đẩy của mọi
hoạt động trong xã hội, muốn phát triển thì phải cạnh tranh, phải cải tiến. Hoạt
động đấu thầu cũng không nằm ngoài quy luật này. Hiện tại, do các nhà thầu
24
trong nước chưa đủ sức để cạnh tranh với các nhà thầu quốc tế, nên trong quy
định về quản lý đấu thầu ở nước ta vẫn còn có những ưu tiên cho nhà thầu trong
nước. Tuy nhiên, trong thời gian sắp tới, khi đã thực sự hội nhập nền kinh tế toàn
cầu, công tác quản lý đấu thầu ở Việt Nam sẽ phải đảm bảo được điều này.
1.2.3. Nội dung của quản lý nhà nước về đấu thầu
Hoạt động quản lý nhà nước nói chung, về thực chất, là quá trình Nhà nước
tiến hành tổng thể các biện pháp nhằm tác động vào các quan hệ xã hội để các
quan hệ xã hội đó phát triển một cách lành mạnh, theo những định hướng, chiến

lược do Nhà nước đặt ra, đồng thời, phù hợp với các quy luật khách quan. So sự
phong phú, phức tạo của các loại quan hệ xã hội nên hoạt động quản lý của Nhà
nước trong các lĩnh vực khác nhau phải tính đến những đặc thù riêng để có các
biện pháp thích hợp cho từng lĩnh vực đó. Tuy nhiên, về cơ bản, các nội dung
của quản lý nhà nước thường tập trung vào việc ban hành và tổ chức thực hiện
văn bản pháp luật, quản lý và đào tạo cán bộ, kiểm tra và xử lý các hành vi vi
phạm trong quá trình thực hiện…
Tuỳ vào từng nền kinh tế, từng định hướng phát triển khác nhau của mỗi
quốc gia mà các Nhà nước có những mức độ và biện pháp quản lý khác nhau
trong lĩnh vực đấu thầu. Đối với những nước Tư bản chủ nghĩa có nền kinh tế
phát triển, khi hoạt động đấu thầu đã trở thành quá đỗi quen thuộc và là một
phần tất yếu của nến kinh tế, Nhà nước không đi sâu can thiệp vào hoạt động đấu
thầu mà để cho hoạt động này tự do phát triển theo quy luật bàn tay vô hình. Nhà
nước chỉ can thiệp vào hoạt động này với vai trò định hướng và giải quyết những
tranh chấp, khiếu nại giữa các bên nếu có.
25

×