Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

Đề tài cải cách kinh tế Nhật và tầm ảnh hưởng đến nền kinh tế Nhật Bản – 2 ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (342.96 KB, 19 trang )

20

quyết những vấn đề nảy sinh; và rất nhiều công ty kinh doanh chứng khoán
đã được thành lập và đi vào hoạt động. Việc hợp nhất, các ngân hàng nhằm
làm tăng sức mạnh tài chính và khả năng lợi nhuận đã được đẩy mạnh. Sự
thâm nhập của các ngân hàng thương mại và ngân hàng uỷ thác vào kinh
doanh bảo hiểm thông qua các chi nhánh cũng đã được thực hiện…

Sau hơn 5 năm triển khai và thực hiện, cuộ
c cải cách hệ thống tài
chính Nhật Bản bước đầu đã thu được những kết quả đáng khích lệ. Cuộc
cải cách này đã và đang dẫn tới những thay đổi cơ cấu sâu sắc ở Nhật Bản.
Khu vực tài chính Nhật Bản đã trở nên có sức cạnh tranh hơn, sự thâm
nhập của nước ngoài vào khu vực này cũng trở nênít khó khăn hơn, các thị
trường vố
n độc lập cũng đã được phát triển thêm một bước. Các cơ quan tài
chính Nhật Bản đã hoàn toàn được tự do trong các hoạt động của mình và
các phương tiện quản lý tài sản đã được cải thiện một cách có ý nghĩa, sự
thâm nhập lẫn nhau về công việc kinh doanh của các ngân hàng, các công
ty chứng khoán và công ty bảo hiểm, cùng với xu hướng hợp nhất các loại
cơ quan này đã được đẩy mạnh, các thị trườ
ng vốn đã được phát triển thêm
một bước, đặc biệt là mạng lưới thị trường thông qua hệ thông trao đổi
thương mại điện tử và qua Internet; Sự liên doanh, liên kết với nước ngoài
và sự thâm nhập của các công ty ài chính nước ngoài vào Nhật Bản đã
được đẩy mạnh dưới các hình thức như: FDI, mua cổ phần, tham gia trực
tiếp vào công việc quản lý của các công ty Nhật Bản và các thị trường
chứ
ng khoán ở Nhật Bản; Và chất lượng quản lý tín dụng của các cơ quan
trong hệ thống tài chính Nhật Bản đã được cải thiện rất đáng kể (Hệ thống
tài chính Nhật Bản: Những đăc trưng cơ bản và cuộc cải cách hiện nay;


chủ biên Trần Quang Minh, Nxb KHXH, Hà Nội, 2003).

II. NHỮNG CHÍNH SÁCH VÀ BIỆN PHÁP CẢI CÁCH TRONG
TỪNG LĨNH VỰC CỦA HỆ THỐNG TÀI CHÍNH
Mặc dù
đã từng có những đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh
tế của Nhật Bản, đặc biệt là trong thời kỳ tăng trưởng ngoạn mục (1955 –
1973), hệ thống tài chính Nhật Bản mà trong đó các ngân hàng đóng vai trò
trung tâm, kể từ cuối thập kỷ 80 đến nay đã bộc lộ rất nhiều những yếu kém
và bất cập, ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển kinh tế của đấ
t nước.
21

Trong suốt hơn một thập kỷ vừa qua, Chính phủ Nhật Bản đã phải thực
hiện khá nhiều chính sách và biện pháp nhằm cơ cấu lại hệ thống tài chính
thích ứng với những đòi hỏi của tình hình kinh tế trong nước và bối cảnh
quốc tế mới. Tuy nhiên, những giải pháp tình thế được thực hiện trong
những năm đầu thập kỷ 90 đã chứng tỏ r
ằng đó không phải là những
phương thuốc hữu hiệu đẻ chữa trị căn bệnh “khủng hoảng cơ cấu” kinh tế
nói chung và hệ thống tài chính của Nhật Bản nói riêng. Chỉ khi chương
trình “Big Bang” do Thủ tướng Hashimoto khởi sướng và được thực hiện
kể từ tháng 11/1996, hệ thống tà chính Nhật Bản mới thực sự bước vào một
cuộc cải cách sâu sắc và toàn diện.
Đặc
điểm nổi bật của hệ thống tài chính Nhật Bản là chủ yếu dựa vào
ngân hàng nên trước hết chúng ta sẽ đi vào các chính sách, biện pháp để cải
cách ngân hàng trung ương (NHTW) và ngân hàng thương mại (NHTM).
1. Các chính sách đối với NHTW và NHTM
Hệ thống tài chính Nhật Bản, đặc biệt là hệ thống ngân hàng, đã

được ca ngợi có vai trò sống còn trong phát triển kinh tế của Nhật Bản
trước những năm 1990. Rất nhiều ngân hàng Nhật Bản th
ời kỳ đó là những
ngân hàng lớn nhất trên thế giới: 9 trong số 10 ngân hàng hàng đầu thế giới
xét về quy mô tài sản là những ngân hàng Nhật Bản. Các ngân hàng này có
những quỹ tiền gửi khổng lồ, chi phí thấp và những đánh giá tín dụng cao
nhất. Chính vì thế, Nhật Bản đã thay đổi hẳn trong những năm 1990 với
những món nợ khó đòi khổng lồ của các ngân hàng, kinh tế triền miên
trong vòng suy thoái, giảm phát liên tục trong nhữ
ng năm gần đây. Vậy làm
thế nào để có thể lập lại trật tự của hệ thống tài chính để ngân hàng có thể
làm tốt vai trò trung gian tài chính của mình trong việc thu hút vốn nhàn rỗi
và cung cấp vốn cho doanh nghiệp, thực sự đáp ứng những yêu cầu mới
trong qua trình hội nhập quốc tế và toàn cầu hoá. Chương trình cải cách
“Big Bang” đã đưa ra những chính sách và biện pháp tương đối toàn diện
để đổi mớ
i nguyên tắc hoạt động cũng như cơ cấu tổ chức hệ thống ngân
hàng Nhật Bản.
a. Đối với NHTW
22

Như chúng ta đã biết, ngân hàng trung ương là một định chế quản lý
nhà nước về tiền tệ – tín dụng. Nó nằm trong bộ máy quyền lực quốc gia.
Song, tuỳ theo điều kiện lịch sử cụ thể của mỗi nước, HNTW có thể độc
lập hay trực thuộc Chính phủ. Chẳng hạn ở Mỹ và Đức, thực hiện thể chế
NHTW độc lập với Chính phủ. Trong th
ể chế này, Chính phủ không được
can thiệp vào hoạt động của NHTW. Nhưng ở Nhật, Anh, Pháp và một số
nước khác thực hiện thể chế NHTW trực thuộc Chính phủ, Chính phủ có
ảnh hưởng quyết định đối với hoạt động của NHTW.

Khác với tính chất quản lý nhà nước của các bộ, NHTW thực hiện
việc quản lý nhà nước qua các nghiệp vụ kinh doanh có đem lại lợi nhuận.
Song, vi
ệc kinh doanh này chỉ là phương tiện nâng cao hiệu suất của công
tác quản lý, chứ không phải là mục đích của hoạt động chính của NHTW.
Mục đích hoạt động của NHTW là cung ứng tiền tệ cho nền kinh tế,
điều hoà lưu thông tiền tệ và quản lý hệ thống ngân hàng, nhằm bảo đảm
lưu thông tiền tệ ổn định, từ đó tạo diều kiện tăng trưởng kinh t
ế, tăng việc
làm và kiềm chế lạm phát. Với 3 chức năng cơ bản là: phát hành tiền tệ,
ngân hàng của các ngân hàng và ngân hàng của nhà nước, NHTW đóng vai
trò quan trọng trong việc ổn định và phát triển kinh tế – xã hội như điều tiết
khối lượng tiền trong lưu thông, ổn định sức mua của đồng tiền quốc gia.
Ngân hàng trung ương Nhật Bản (DOJ) ra đời vào năm 1886 theo
sáng kiến của Bộ trưở
ng Tài chính Masayoshi Matsuka. Đây là một phần
trong chương trình hiện đại hoá tài chính Nhật Bản của thời Minh Trị. Mục
tiêu là để cải cách hệ thống tiền tệ, thiết lập một đồng tiền chung trong cả
nước, tạo cơ sở cho tài chính quốc gia và thúc đẩy sự phát triển của ngân
hàng nói chung. Gần 60 năm sau Pháp lệnh BOJ được thay thế bằng một
luật NHTW mới được thực hiện trong thời kỳ Chính phủ
do giới quân sự
lắm quyền vào năm 1942. Sự sửa đổi lần đó có thêm vào quyền hạn của
NHTW trong chính sách tiền tệ, nhưng vẫn coi HNTW là một bộ phận của
Bộ Tài Chính. Sau Chiến tranh Thế giới thứ II, BOJ hầu như không có sự
thay đổi. Hai sáng kiến nhằm cải cách Luật NHTW – một lần vào cuối
những năm 1950 và một lần nữa vào năm 1965 đều không đem lại kết quả
.
Vì lúc đó kinh tế đang tăng trưởng với tốc độ cao nên các chính trị gia cũng
23


như công chúng thấy không quan tâm nhiều tới sự thay đổi Luật NHTW.
Điều này mới chỉ được thực sự nghĩ tới khi nền kinh tế đã như một quả
bóng căng phồng vào cuối những năm 1980 và khi bong bóng nổ thì những
tiếng kêu cứu từ những tổ chức cho vay và của công chúng buộc Chính phủ
phải có một vài hành động để thay đổi chính sách tiền tệ và hệ thống tài
chính. Một u
ỷ ban tư vấn riêng của Thủ tướng Hashimoto và báo cáo đầu
tiên được công bốvào tháng 11 năm 1996. Sau đó quá trình sửa đổi luật bắt
đầu được Uỷ ban Nghiên cứu hệ thống tài chính và Ban Cố vấn trong Bộ
Tài chính tiến hành. Tháng 2 năm 1997 dự thảo luật được nội các chấp
thuận và được 2 viện của Quốc hội thông qua vài tháng sau đó. Với tiêu đề
“Tiến tới sự độc lập của BOJ” báo cáo của Uỷ
ban Tư vấn đã tổng hợp ý
kiến của các quan chức trong BOJ và Bộ Tài chính.
Luật NHTW mới của Nhật Bản ghi rõ NHTW được độc lập trong
chính sách tiền tệ và cụ thể hoá những vấn đề thuộc phạm vi của NHTW.
Điều 1 của Luật đưa ra 2 mục tiêu của NHTW là quản lý tiền, ổn định giá
cả, và đảm bảo cung cấp vốn cho các ngân hàng và các tổ chức tài chính
khác, duy trì trật tự củ
a hệ thống tài chính. Quy định này cho thấy NHTW
là trung tâm của hệ thống thanh toán cũng như là tổ chức để duy trì “trật tự
tài chính”. Điều 3 của Luật tuyên bố sẽ tôn trọng quyền tự quyết của
NHTW bằng sự độc lập trong quá trình ra quyết định và công bố nội dung
các quyết định. Luật cũng quy định chức năng và việc bổ nhiệm các chức
vụ của NHTW. Ban trị sự
của BOJ sẽ gồm: 1 thống đốc, 2 phó thống đốc, 6
thành viên được lựa chọn nằm trong Ban chính sách, 3 kiểm toán viên,6
giám đốc điều hành, và một số cố vấn. Thống đốc, 2 phó thống đốc, 6
thành viên được lựa chọn nằm trong Ban Chính sách, ban này do Nội các

chỉ định với sự đồng ý của 2 viện trong Quốc hội sẽ được ra những quyết
định quan trọng về chính sách tiền tệ và về hệ th
ống ngân hàng. Những
kiểm toán viên cũng do Nội các bổ nhiệm, nhưng các giám đốc điều hành
và các cố vấn thì do Bộ trưởng Tài chính bổ nhiệm theo sự giới thiệu của
Ban Chính sách. Luật ghi rõ 6 thành viên được lựa chọn phải là chuyên gia
kinh tế hoặc tài chính, hoặc những người có kiến thức uyên thâm về kinh tế
– xã hội để tăng cường tính minh bạch và có thể hạn chế sự can thiệp của
Bộ Tài chính. Như
vậy luật mới đã lành mạnh hoá chức năng của Ban
Chính sách tiền tệ, trong tổng số 9 người của ban thì 4 thành viên mới được
24

bổ nhiệm vào tháng 4 năm 1998 đều độc lập với Chính phủ. Trong Ban
Chính sách tiền tệ, không một thành viên nào có quyền áp đặt quan điểm
của riêng mình, mọi người đều có thể thẳng thắn nêu ý kiến. Bắt đầu từ
tháng 1 năm 1998, BOJ đã thực hiện các cuộc họp định kỳ 1 hoặc 2 lần
trong một tháng về chính sách tiền tệ, và sau 5 hoặc 6 tuần sẽ công bố công
khai nội dung các cuộc họp. Đ
ây có thể coi là một đột phá để đưa Nhật Bản
tiến đến các tiêu chuẩn quốc tế về tính minh bạch trong hoạt động ngân
hàng. Ngoài ra, trong việc quản lý nhân sự BOJ đã bãi bỏ quy chế thăng
chức tự động hàng năm, tăng cường hiệu quả nguồn nhân lực, áp dụng một
cách then trọng hệ thống thăng chức dựa vào sự đóng góp của các cá nhân
cho hoạt động của ngân hàng.
Nh
ư vậy vai trò, chức năng, cơ cấu tổ chức của BOJ đã có những
thay đổi đáng kể theo hướng độc lập, tự quyết chứ không phải là tổ chức
chỉ biết thực thi những mệnh lệnh của Bộ Tài chính như trước kia. Tuy
nhiên, những thay đổi này vẫn chưa thể theo kịp các đồng sự phương Tây

của họ. Có những phê phán cho rằng BOJ tuy đã được độ
c lập trong thực
thi chính sách tiền tệnhưng lại bị hạn chế trong việc quản lý tiền tệ. Khi nói
về quan hệ với Chính phủ, Điều 4 của Luật mới lại ghi “tiền mặt và quản lý
tiền tệ là một bộ phận trong chính sách kinh tế tổng thể, BOJ cần phải giữ
quan hệ mật thiết với Chính phủ và trao đổi ý kiến đầy đủ, như vậy thì
chính sách tiền tệ mới có sự hài hoà với chính sách kinh tế của Chính phủ”.
Điều này có nghĩa là BOJ phải bàn bạc với Bộ Tài chính, và nó không
giống với đồng sự của họ ở Đức hoặc ở Mỹ, các quan chức của NHTW ở 2
nước này không đựoc phép nhận xét công khai về chính sách tài chính ngay
cả khi nó không phù hợp với sự lựa chọn trong chính sách tiền tệ. Điều 37
và 38 khi nói về trường hợp cho vay khẩn cấp thì l
ại thiếu sự phân biệt giữa
việc bảo vệ hệ thống thanh toán của BOJ với sự quan tâm của Chính phủ
trong việcgiúp đỡ cho vay đối với các tổ chức. Với vai trò người cho vay
cuối cùng, về nguyên tắc BOJ chỉ cho những ngân hàng có khả năng trả nợ
được vay nhưng điều 37 của Luật lại ghi “khi các tổ chức tài chính thiếu
vốn tạm thời ngoài dự đoán do những tai nạ
n ngẫu nhiên mà không thanh
toán được” thì BOJ có thể cho vay. Ngoài ra điều 38 còn nói Bộ Tài chính
có thể yêu cầu BOJ cho vay trong những trường hợp khác như “khi thấy
cần thiết phải duy trì hệ thống theo trật tự nếu thấy tình trạng kinh doanh và
25

tài sản của một số tổ chức tài chính có thể có vấn đề dẫn đến phá vỡ trật tự
tài chính”. Điều đó không nói rõ là BOJ có thể từ chối những yêu cầu hoặc
đưa ra điều kiện gì không.
Với chức năng là ngân hàng của Chính phủ, NHTW luôn gặp phải
những vấn đề khó sử trước đây. Chính phủ các nước đều đã có lúc gây áp
lực với NHTW trong việc thay đổi chính sách lãi su

ất để có những khoản
vay với lãi suất thấp hơn cho những hoạt động của Chính phủ. Điều 34 nói
BOJ có thể cho vay không cần thế chấp đối với Chính phủ, hoặc mua trái
phiếu hoặc ghi nợ trong giới hạn của Luật Ngân sách mà Quốc hội dặt ra.
Như vậy, việc áp dụng luật NHTW sửa đổi cho phép tạo lập môi
trường pháp lý phù hợp với tiêu chwnr quốc tế về quy
ền tự chủ, tính minh
bạch và các nhân tố quan trọng khác của NHTW. Đây là những điều kiện
cần thiết để chiếm được lòng tin của thi trường. Với Luật sửa đổi này phạm
vi can thiệp của Chính phủ với BOJ đã bị thu hẹp, tuy nhiên BOJ cũng phải
luôn duy trì mối quan hệ gần gũi và trao đổi quan diểm với Chính phủ một
cách đầy đủ để đảm bảo chính sách của BOJ hài hoà v
ới chính sách kinh tế
của Chính phủ. Luật ngân hàng mới nhấn mạnh khái niệm “minh bạch” với
quy định rằng BOJ sẽ thông báo ra công chúng nội dung các quyết định
cũng như quá trình ra quyết địnhcó liên quan tới vấn đề quản lý tiền và
ngoại hối. Có thể thấy cuộc cải cách đối với BOJ tương đối toàn diện vì
không chỉ về cơ cấu luật pháp bên ngoài mà còn về cấu trúc và động lưc
bên trong của nó, tạ
o điều kiện để BOJ trở thành một ngân hàng hiện đại
theo tiêu chuẩn quốc tế. Điều này đã được chứng minh trong thời gian 4
năm qua khi BOJ luôn kiên định duy trì chính sách nới lỏng tiền tệ của
mình với việc điều chỉnh lãi suất linh hoạt, can thiệp kịp thời vào thị trường
ngoại hối. Chẳng hạn, trong thời gian qua khi đồng Yên lên giá quá mức,
tạo điều kiện thuậ
n lợi cho xuất khẩu của Nhật Bản. Chỉ tính từ cuối tháng
5/ 2002 đến đầu tháng 7/2002, BOJ đã 7 lần tung đồng Yên ra để mua Đôla
Mỹ và trong lần can thiệp thứ 6, BOJ đã yêu cầu Cục dự trữ Liên bang Mỹ
và NHTW châu Âu giúp cho việc bán đồng Yên. Đây là lần đầu tiên BOJ
có sự phối hợp với NHTW của các nước khác.

b. Đối với các NHTM
26

NHTM là doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ – tín dụng
và có thể hiểu đó là một trung gian tài chính đi vay để cho vay. Có nhiều
loại hình NHTM như NHTM công, NHTM tư, NHTM trong nước, NHTM
nước ngoài, NHTM toàn quốc, NHTM địa phương, NHTM duy nhất hoặc
NHTM mạng lưới, dựa trên tiêu thức doanh số người ta phân biệt NHTM
nhỏ, NHTM lớn hoặc siêu lớn.
NHTM có 3 chức năng: trước hết, NHTM hoạt động với tư cách là
một trung gian tín dụng. Một mặt, thu hút các khoả
n tiền nhàn rỗi trong xã
hội bao gồm tiền của các doanh nghiệp, các hộ gia đình, cá nhân và các cơ
quan nhà nước. Mặt khác, nó ding chính số tiền đã huy động được để cho
vay đối với các tổ chức, cá nhân trong xã hội khi có nhu cầu bổ sung vốn.
Thứ hai, NHTM là một trung gian thanh toán vì phần lớn các khoản chi trả
về hàng hoá, dịch vụ của xã hội đều được thực hiện qua ngân hàng. Chức
năng thứ 3 của NHTM là nguồn bổ sung ti
ền. NHTM có thể bổ sung tiền
bằng cách chuyển khoản hay các giấy tờ có giá trị để thay thế cho tiền mặt.
Cùng với vai trò độc quyền phát hành giấy bạc NHTW, NHTM góp phần
thoả mãn nhu cầu dùng tiền làm phương tiện giao dịchcủa toàn xã hội. Quá
trình bổ sung tiền của NHTM dựa trên cơ sở tiền gửi của xã hội. Song, số
tiền đó được nhân lên gấp bội khi ngân hàng cho vay thông qua cơ chế
thanh toán chuyển khoả
n giữa các ngân hàng. Khả năng làm tăng tiền của
NHTM phụ thuộc vào các yếu tố như tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tỷ lệ dự trữ dôi
dư và tỷ lệ giữa tiền lưu thông ngoài hệ thống ngân hàng và tiền gửi của xã
hội ở hệ thống ngân hàng. Việc quản lý hoạt động của NHTM cần đảm bảo
khả năng thanh toán thường xuyên đối v

ới khách hàng, bảo đảm mức sinh
lời cao, xử lý hài hoà mối quan hệ giữa yêu cầu bảo đảm khả năng thanh
toán và mức sinh lời cao. Muốn vậy, NHTM phải sắp xếp tài sản Có theo
trật tự lỏng của chúng để bố trí cơ cấu hợp lý các khoản cho vay ngắn hạn,
trung hạn, dài hạn, đầu tư chứng khoán trung và dài hạn trong mối tương
quan với các nguồn vốn tương ứng bên tài sản N
ợ.
Cho đến trước những năm1990, hệ thống ngân hàng Nhật Bản nói
chung và các NHTM Nhật Bản nói riêng luôn hoạt động dưới chế độ bảo
hộ của Chính phủ. Chính phủ đảm bảo lợi nhuận ổn định cho các ngân
hàng dù ở mức thấp nhất. Sự cạnh tranh giữa các ngân hàng để có được
27

nhiều tiền gửi cho đến những năm 1980 được xem là hết sức hợp lý vì có
nhiều đơn xin vay vốn đầy hứa hẹn và một sự đảm bảo lợi nhuận nhất định
bằng tiền những quy dịnh về lãi suất của Nhà nước.Tuy nhiên sự ổn định
lãi suất ngân hàng và quản lý ngân hàng dần dần suy giảm do những thay
đổi của môi trường kinh tế trong nước cũng như trên thế
giới như: tự do
hoá lãi suất, cạnh tranh lớn hơn trong thị trường vốn, đơn xin vay có nhiều
hứa hẹn giảm do nền kinh tế đã phát triển tương đối hoàn chỉnh. Sự bảo hộ
của Nhà nước cộng thêm với sự thay đổi trong môi trường tài chính toàn
cầu đã làm cho phương thức quản lý của các NHTM Nhật Bản trở nên lạc
hậu, kém hiệu quả. Sau sự sụp đổ
của nền kinh tế bong bóng thì hệ thống
ngân hàng Nhật Bản thực sự rơi vào khủng hoảng vì sự quản lý lỏng lẻo
của ngân hàng trong việc cho vay tràn lan, không giám sát, không thẩm
định chặt chẽ tài sản và tình hình kinh doanh của các công ty dẫn đén sự
bùng nổ của các khoản nợ khó đòi. Tháng 3 năm 1997, BOJ cũng như Bộ
Tài chính mới coi vấn đề nợ khó đòi của các ngân hàng là vấn đề cấp thiết.

Để vực d
ậy hệ thống ngân hàng, cuộc đại cải cách tài chính “Big Bang” đã
đưa ra những giải pháp dài hạn cơ cấu lại các NHTM. So với các nước phát
triển khác, các NHTM của Nhật Bản hiện tại khả năng sinh lời thấp, chất
lượng tín dụng chưa cao, trình độ công nghệ và mô hình tổ chức quản lý
còn chưa tốt. Vì vậy, để có khả năng cạnh tranh cao và hội nhập thì cần
phải có kế hoạch tổ
ng thể cơ cấu lại NHTM, cụ thể là:
Lành mạnh hoá tài chính và nâng cao năng lực tài chính của các
NHTM. Trước hết, phải xử lý triệt để nợ tồn đọng, làm sạch bảng tổng kết
tài sản, phấn đấu giảm tỷ lệ nợ quá hạn xuống dưới 5% tổng dư nợ theo
tiêu chuẩn quốc tế thông qua việc thành lập Ban Cơ cấu tài chính các
NHTM và công ty mua bán, giải quyết nợ. Tăng vố
n điều lệ cho các
NHTM nhằm đảm bảo yêu cầu về tỷ lệ vốn tự có theo tiêu chuẩn quốc tế.
Cơ cấu lại mô hình tổ chức của NHTM, tăng cường sự kiểm tra,
kiểm soát để tăng chất lượng tín dụng, dịch vụ ngân hàng, đảm bảo quyền
tự chủ của ngân hàng trong việc ra quyết định. Quản lý tín dụng theo
hướng kinh doanh tín dụng theo nguyên tắc thị
trường, giảm dần sự bảo hộ
của nhà nước, đảm bảo an toàn theo tiêu chuẩn quốc tế. Xây dựng các thiết
chế quản lý rủi ro, giảm thiểu rủi ro và tăng năng lực tài chính. Đánh giá
28

đúng thực trạngtài chính của các NHTM đồng thời xây dựng chiến lược
đào tạo và sử dụng nhân viên theo hướng đáp ứng được yêu cầu kinh
doanh, cạnh tranh và mục tiêu lợi nhuận. Như vậy mới có thể làm cho các
NHTM của Nhật Bản đạt trình độ của các đối tác phương Tây.
Ngoài ra, trong chương trình “Big Bang” còn đưa ra một loạt các cải
cách như mở rộng sự lựa chọn cho các nhà đầu tư và những ngườ

i đi vay.
Trong đó có các biện pháp như xoá bỏ hoàn toàn lệnh cấm đối với những
dẫn xuất chứng khoán, giới thiệu tài khoản quản lý tài sản, cho phép các
ngân hàng bán các tín thác đầu tư và bảo hiểm, tăng khả năng thanh toán
tiền mặt của tài sản bằng việc sử dụng chứng khoán dựa vào tài sản, tự do
hoá giao dịch vốn xuyên quốc gia và tiền gửi từ nước ngoài về. Luật Sửa
đổ
i về ngoại hối đã được Quốc hội thông qua và có hiệu lực từ 1/4/1998.
Với mục đích cứu trợ cho những ngân hàng yếu kém, cung với kế
hoạch rót 13 nghìn tỷ Yên, Chính phủ còn đề nghị khoản tiền trị giá 50
nghìn tỷ Yên trái phiếu bảo đảm của Chính phủ vào tháng 2/1998, trong đó
17 nghìn tỷ Yên sẽ chuyển cho công ty bảo hiểm tiền gửi Nhật Bản để
thanh toán cho những người gửi tiề
n tại các ngân hàng không có khả năng
thanh toán cho những người gửi tiền tại các ngân hàng không có khả năng
thanh toán. Cuối tháng 6/1998, Nhật Bản đưa ra sáng kiến thành lập ngân
hàng cầu nối để giải quyết các vụ phá sản tài chính. Ngân hàng này sẽ kế
thừa và quản lý hoạt động của các tổ chức tiền tệ phá sản, đảm bảo quyền
lợi cho người gửi, thanh toán nợ lần, thực hiện các dự án đầu tư
và cho vay
đối với những khách hàng có khả năng thanh toán cao. Ngân hàng này sẽ
duy trì hoạt động của tổ chức tiền tệ đó trong 2 năm kể từ khi phá sản. Sau
2 năm nó có thể chuyển thành ngân hàng quốc doanh mới. Chính phủ dự
kiến dành 30 nghìn tỷ Yên từ ngân sách cho ngân hàng này làm vốn hoạt
động, trong đó 17 nghìn tỷ Yên để bảo vệ người gửi và 13 nghìn tỷ Yên để
cho vay và đầu tư. Ngoài ra, Chính phủ còn lập ra một quỹ trị giá 22 nghìn
tỷ
Yên và một cơ quan kiểm soát tài chính nhằm tăng cường thanh tra,
kiểm tra nợ khó đòi trong hệ thống ngân hàng Nhật Bản.
Cuối tháng 9/1998 Nhật Bản đã thông qua Luật Khôi phục hệ thống

ngân hàng Nhật Bản và thành lập một uỷ ban khôi phục tài chính. Các ngân
29

hàng thua lỗ quá nhiều thì cuộc phá sản theo Luật phá sản. Chính phủ sẽ
mua lại cổ phiếu của những ngân hàng bị phá sản hoặc chuyển thành những
ngân hàng cầu nối cho đến khi khu vực tư nhân mua lại, cho phép ngân
hàng mua lại ngân hàng phá sản hoặc Chính phủ sẽ tạm thời quốc hữu hoá.
Ngày 12/10/1998, 8 luật liên quan đến các ngân hàng bị phá sản đã được
phê chuẩn, theo đó, Chính phủ có thể bơm tiền vào một số ngân hàng vớ
i
một số điều kiện nhất định nếu như tỷ lệ vốn trên tài sản có cao hơn 4%,
Chính phủ sẽ mua cổ phiếu ưu đãi, nếu nằm trong khoảng 2 đến 4% thì
Chính phủ có thể mua cổ phiếu thường hay cổ phiếu ưu đãi nhưng các giám
đốc của ngân hàng phải từ chức, số chi nhánh sẽ phải giảm và các cơ sở của
nó ở nước ngoài s
ẽ phải đóng cửa, nếu thấp hơn 2% thì ngân hàng sẽ tạm
thời bị quốc hữu hoá, sau đó, phải ngừng hoạt động, sáp nhập với các ngân
hàng khác hoặc cắt giảm mạnh quy mô hoạt động của mình. Tất cả những
ngân hàng muốn bơm tiền từ nguồn công quỹ đều phải cải thiện mức thu
nhập trên cổ phần đóng góp thông qua các biện pháp tái cơ cấu, loạ
i bỏ
những tài sản không cần thiết và tăng cường các tài khoản cho vay đối với
khối doanh nghiệp vừa và nhỏ. Để đảm bảo tính hiệu quả của các chính
sách và các ngân hàng không lặp lại tình trạng cho vay tràn lan như trước
kia, Chính phủ buộc các ngân hàng phải giải trình cụ thể các kế hoạch cải
cách tài chính và cải thiện cách thức cho vay. Quá trình công khai hoá
thông tin và cơ cấu lại các khoản nợ chắc chắn sẽ khiến các ngân hàng và
các công ty tài chính bị
thiệt hại nặng nề nhất. Bởi vì việc công nhận thiệt
hại ở các khoản nợ khó đòi và tính lỗ vào doanh thu sẽ không đủ riêu chuẩn

cung cấp những khoản tín dụng mới. Sự trục trặc của các ngân hàng sẽ làm
tăng những khó khăn về vốn cho các doanh nghiệp, đặc biệt doanh nghiệp
vừa và nhỏ vì hoạt động tài chính của hầu hết các doanh nghiệp là dựa vào
các ngân hàng. Do số lượ
ng các doanh nghiệp này chiếm tới 6,47 triệu
trong tổng số 6,53 triệu doanh nghiệp, chiếm 51,4% thị phần sản xuất công
nghiệp, 61,4% bán sỉ và 76,8% bán lẻ, sử dụng tới 80% lực lượng lao động
nên Nhật Bản đã tiến hành sửa đổi luật doanh nghiệp vừa và nhỏ nhằm
giúp giảm thiểu tác động trái chiều của những cải cách ngân hàng nêu trên
(Nguyễn Minh Phong – Trịnh Thanh Huyền, Cải cách hệ thống tài chính
Nh
ật Bản những năm cuối thập kỷ 90 và bài học cho Việt Nam, Nxb Tài
chính, Hà Nội).
30

Bên cạnh việc xin bơm vốn, các ngân hàng cũng có kế hoạch sáp
nhập thành các tập đoàn ngân hàng lớn hoặc thành lập liên minh để chuẩn
bị cho việc tự do hoá hoàn toàn hoạt động môi giới. Chẳng hạn, ngân hàng
Sumitomo Trust và công ty Sumitomo, Dai-Ichi Kangyo và Fuji đã sáp
nhập các công ty cổntng lĩnh vực ngân hàng và có kế hoạch mua công ty
quản lý tài sản của Yasuda Trust. Công ty Sumitomo cũng đã cùng với
công ty chứng khoán Daiwa thành lập một công ty chuyên kinh doanh công
trái, cổ phiếu, môi giới sáp nhập và mua lại cổ phiếu. Ngân hàng l
ớn nhất
Nhật Bản là Tokyo-Mitsubishi cũng đàm phán để mua lại công ty Nomura-
một trong 3 công ty môi giới chính của Nhật Bản. Ba ngân hàng hàng đầu
của Nhật Bản là ngân hàng công nghiệp Nhật Bản, Dai- Ichi Kangyo Bank
Ltd, và Fuji Bank Ltd. vào đầu năm 2000 đã liên minh với nhau để tạo ra
nhóm ngân hàng lớn nhất thế giới với tổng tài sản là 140 nghìn tỷ Yên
(1.260 tỷ USD), trong đó giá trị tài sản của Fuji Bank là 385 tỷ USD và của

ngân hàng công nghiệp Nhật Bản là 370 tỷ USD, Dai- Ichi Kangyo Bank là
456 tỷ USD. Trướ
c đó ngày 14/10/1999, hai NHTM lớn nhất Nhật Bản là
Sumitomo Bank và Skura Bank đã chính thức công bố sẽ sáp nhập với
nhau để thành lập một ngân hàng khổng lồ, lớn thứ 2 thế giới với tổng tài
sản là 99 nghìn tỷ Yên (927 tỷ USD) vào tháng 4/2002. Đây là một hướng
đi mới để tăng thêm khả năng cạnh tranh của các ngân hàng Nhật Bản
trong xu thế toàn cầu hoá và sự thay đổi nhanh chóng của công nghệ thông
tin.
Tuy nhiên các NHTM của Nhật Bản v
ẫn trong tình trạng làm ăn
không có lãi. Trong hơn một thập kỷ qua, các ngân hàng trong cả nước đã
sử lý hơn 70 nghìn tỷ nợ khó đòi nhưng vẫn còn nhiều khoản nợ xấu. Vì
vậy, giờ đây để để kiếm lãi ổn định và ít mạo hiểm hơn các ngân hàng chỉ
muốn cho các công ty lớn vay. Trong thời đại ngày nay điểm đến của các
khoản nợ mới là các công ty vừa và nhỏ bởi vì các công ty lớn có th
ể thu
hút vốn trực tiếp từ thị trường tài chính toàn cầu nên họ không cần dựa
nhiều vào ngân hàng Nhật Bản.
Như vậy, mục cải cách các NHTM của Nhật Bản là Nhằm giảm bớt
sự bảo hộ của Nhà nước, nâng mức lợi nhuận của ngân hàng bằng những
31

hoạt động kinh doanh đa dạng hơn và tiến tới có một hệ thống NHTM có
khả năng cạnh tranh cao trong bối cảnh chungcủa toàn cầu hoá tài chính.
2. Các chính sách cải cách Bộ Tài chính
Đối với Nhật Bản, Bộ Tài chính là nơi thể hiện rõ nhất những đặc
điểm và sắc thái của Nhà nước tham gia vào đời sống kinh tế của đất nước.
Sức mạnh của Bộ Tài chính lớn đến mức chính sách củ
a Bộ Tài chính là

chính sách của Chính phủ. Thẩm quyền của Bộ Tài chính rất rộng lớn như:
lập dự toán và quyết toán ngân sách, thu thuế các loại, theo dõi hoạt động
của các tổ chức tài chính, quản lý tài sản nhà nước, kể cả đề xuất và thực
hiện tư nhân hoá… Có thể nói không ở nước nào Bộ Tài chính có sự tập
trung quyền lực lớn như ở Nhật Bản. Từ trước đến nay hệ
thống tài chính
của Nhật Bản vẫn dựa vào ngân hàng là chính, vì thế các ngân hàng, kể cả
BOJ được coi như một bộ phận của Bộ Tài chính, hoạt động theo các quy
tắc do Bộ Tài chính áp đặt.
Do đó, trong chương trình “Big Bang”, Nhật Bản đã dự định cải tổ
lại Bộ Tài chính theo hướng phân rõ chức năng quản lý nhà nước và giám
sát, tách bớt chức năng vủa các bộ phận theo hướng chuyên môn hoá, đào
tạo lạ
i và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, tinh giản bộ máy, giảm bớt quyền lực
và tăng cường giám sát lẫn nhau, tách chức năng tài chính của Bộ Tài chính
và chức năng quyết sách tiền tệ của BOJ. Chính phủ thực hiện bãi bỏ các
chương trình đầu tư Nhà nước và các quỹ bí mật đi cùng với nó. Chuyển
quá trình huy động vốn đầu tư của các quỹ này theo các nguyên tắc của
kinh tế thị trườ
ng. Như vậy, vai trò của Bộ tài chính là làm sao định ra
những quy chế phù hợp để các ngân hàng hoạt động và phát triển chư
không phải can thiệp vào hoạt động kinh doanh hoặc tuỳ tiện áp đặt các
quyết sách của mình.
3. Các chính sách về lãi suất tín dụng
Trong chính sách tín dụng, công cụ lãi suất cũng được sử dụng với
mục tiêu kích thích các doanh nghiệp tăng cường đầu tư, mở rộng sản xuất
nhằm phục hồ
i mức tăng trương kinh tế và chống lại tình trạng giảm phát.
Mặc dù trước năm 1998, lãi suất các loại đã ở mức rất thấp nhưng đến
32


tháng 2/1999 BOJ đã thực hiện chính sách lãi suất bằng 0. Chính sách lãi
suất bằng 0 ngoài mục tiêu kích thích các doanh nghiệp tăng cường đầu tư,
còn nhằm giảm đi số tiền lãi cần phải trả khi nợ của Chính phủ và nợ của
các công ty đã phình ra tới mức có thể nguy hại nền kinh tế Nhật Bản. Việc
áp dụng chính sách lãi suất trên đã góp phần làm cho kinh tế Nhật Bản có
sự chuyển biến tích cực khi mứ
c tăng trưởng đạt 0,5% năm 1999 so với
mức tăng – 1,9% năm 1998. Đến tháng 8/2000 NHTW Nhật Bản lại ra
thông báo xoá bỏ chính sách lãi suất bằng 0 (xem bảng: Mức lãi suất của
Nhật Bản 1994 – 2002). Nhưng tình trạng trì trệ trong nền kinh tế sau đó đã
cho thấy sự xoá bỏ chính sách này là chưa đúng lúc. NHTW lại thông qua
chính sách lãi suất bằng 0 vào tháng 2/2001 và giới thiệu phương thức cho
vay theo kiểu Lombard (là cách cho vay thế chấp chứng khoán, tín dụng),
cộ
ng thêm sự nới lỏng hơn về số lượng cho vay.
Bên cạnh việc thực hiện chính sách lãi suất bằng 0, còn có những
biện pháp khác để giúp các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng,
giảm phí dịch vụ trong việc mua bán các giấy tờ có giá… Hiện nay, số tiền
gửi của cá nhân và của các công ty vào ngân hàng là hơn 600.000 tỷ Yên.
Trong số đó chỉ có 4 nghìn tỷ Yên được gửi vào BOJ như là khoản dự trữ
bắt buộc, nh
ư vậy tỷ lệ dự trữ bắt buộc này là quá thấp so với tiêy chuẩn
quốc tế.
Cho đến nay BOJ vẫn quyết định giữ nguyên mục tiêu dự trữ trong
tài khoản vãng lai của họ ở mức 10 – 15 nghìn tỷ Yên và mức mua trái
phiếu của Chính phủ Nhật Bản hàng tháng ở mức 1 nghìn tỷ Yên, coi đây
như là một phần của chính sách lãi suất bằng 0 và tiếp tục chính sách nới
lỏng tiề
n tệ cho tới khi nền kinh tế đạt mức lạm phát dương. Việc chuyển

mục tiêu từ lãi suất sang số lượng trong chính sách nới lỏng tiền tệ của BOJ
bắt đầu thực hiện vào tháng 3/2001, theo giáo sư Nariai Osamu của trường
đai học Reitaku là một bước chuyển quan trọng để kéo nền kinh tế ra khỏi
tình trạng giảm phát.
Mức lãi suất của Nhật Bản 1994 – 2002 (%/ năm)
Các loại lãi suất 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002
33

Lãi suất tiền gửi
không kỳ hạn
0,10 0,10 0,10 0,05 0.10 0,02 0,08
Lãi suất có kỳ hạn từ 3
đến 6 tháng
0,475 0,474 0,532 0,221 0,179 0,087 0.035
Lãi suất tiết kiệm bưu
điện không kỳ hạn
0,25 0.25 0,15 0,08 0,12 0,02 0,01
Lãi suất bưu điện kỳ
hạn 3 năm trở nên
0,80 0,45 0,25 0,20 0,20 0,07 0,07
Lãi suất trái phiếu
chính phủ kỳ hạn 10
năm
2,75 1,99 0,97 1,83 1,66 1,31 1,40
Lãi suất chiết khấu 0,50 0,50 0,50 0,50 0,50 0,10 0,10
Lãi suất cho vay ngắn
hạn
1,62 1,62 1,50 1,37 1,50 1,37 1,37
Lãi suất cho vay dài
hạn

2,50 2,30 2,20 2,20 2,10 1,85 1,75
Lãi suất cho hộ gia
đình vay mua nhà
3,10 3,00 2,20 2,80 2,80 2,60 2,60
(Nguồn: Financial and economic statistic monthly, June 2002, No.39, p.4)
Cho đến nay, sau hơn 4 năm thực hiện chương trình “Big Bang”,
BOJ vẫn không thay đổi chính sách nới lỏng tiền tệ của mình với việc duy
trì lãi suất thấp và tăng cơ số tiền.
4. Các chính sách về thuế, thu chi ngân sách và bảo hiểm
a. Về thuế
Thực tế chỉ ra rằng thuế là một vấn đề nhạy cảm và tác động nhanh
tới hoạt động kinh tế. Nhằm làm sống động nền kinh tế sau 2 n
ăm suy thoái
nặng nề 1997 – 1998, và để kích thích tiêu dùng và đầu tư, Chính phủ Nhật
Bản đã tập trung vào việc cải cách thuế, coi đó là một phần trong cải cách
cơ cấu của Nhật Bản. Trong năm tài chính 1999, Chính phủ đã thực hiện
chương trình cắt giảm thuế thường xuyên và thuế chiến lược.
34

Trong cắt giảm thuế thường xuyên thì thuế thu nhập sẽ được cắt
giảm 20% với mức cắt giảm tối đa không quá 250.000 Yên. Mức thuế thu
nhập cao nhất sẽ giảm từ 65% xuống 50%. Thuế nhà ở sẽ được giảm 15%
với mức cắt giảm tối đa là 40.000 Yên. Thuế công ty sẽ được cắt giảm từ
46,36% xuống còn 40,87% với tổng trị giá là 2,3 nghìn tỷ Yên (Nguyễn
Minh Phong – Tr
ịnh Thanh Huyền, Cải cách hệ thống tài chính Nhật Bản
những năm cuối thập kỷ 90 và bài học cho Việt Nam, Nxb Tài chính, Hà
Nội). Thuế chiến lược bao gồm việc nới lỏng thuế đối với các tài sản cầm
cố trị giá 2,5 nghìn tỷ Yên. Có thể nói đây là chương trình cắt giảm thuế
lớn nhất trong lịch sử của Nhật Bản.

Không giống như các nước công nghiệ
p khác, ở Nhật Bản thuế trực
tiếp như thuế công ty, thuế thu nhập đóng vai trò quan trọng hơn thuế gián
tiếp như thuế giá trị gia tăng.
Thời gian gần đây, do kinh tế Nhật Bản suy thoái trầm trọng nên
nhiều công ty đã không nộp thuế, và điều đó đã trực tiếp làm tổn thương
đến ngân khố quốc gia. Vì vậy, Hội đồng chính sách kinh tế và tài chính
Nhật Bả
n do thủ tướng Kozumi làm chủ tịch đã đưa một loạt đề suất mới
về cải cách thuế. Trong đó coi thuế thu nhập như là mục tiêu hàng đầu cần
thay đổi. Theo đề xuất mới này, mức thuế khởi điểm sẽ được hạ thấp nhằm
mục đích mở rộng diện chịu thuế (tăng số lượng người đóng thuế), giả
m
thuế suất tối đa từ mức 75% xuống còn 70%. Trước đây, nhiều gia đình
Nhật Bản không phải đóng thuế vì mức khởi điểm phải đóng thuế thu nhập
còn cao. Ngoài ra, sẽ đánh thuế tài sản nặng hơn, đặc biệt là những vụ mua
bán bất động sản lớn nhằm làm dịu đi sự bất ổn trong thị trường bất động
sản. Thuế đánh vào tài sản thừa kế và quà tặng sẽ giảm nhăm kích thích
tiêu dùng, hiện đang ở mức 5%. Mặc dù đây là cải cách hợp lý nhất nhưng
nó có thể ảnh hưởng xấu đến tiêu dùng như đã xảy ra vào năm 1997, khi tỷ
lệ thuế tiêu dùng tăng từ 3 lên 5%. Các nhà phân tích cho rằng năm nay là
năm thuận lợi nhất để Chính phủ đẩy mạnh cải cách thuế – một hành động
mất lòng dân, vì là năm không có tổng tuyển cử (Tin Kinh tế 25-04-2002).
Chính sách giảm thuế thu nhập có tác động tích cực nếu đó là sự cắt
giảm lâu dài vì đối với người tiêu dùng, một mức thuế thu nhập thấp hơn sẽ
35

kích thích chi tiêu, đặc biệt đối với người có thu nhập thấp. Nhưng sự cắt
giảm lâu dài lại tiềm ẩn nguy cơ chin ép đầu tư bởi vì lợi tức trái phiếu dài
hạn sẽ gia tăng – hậu quả của gia tăng nợ chính phủ. Ngược lại, một mức

thuế công ty thấp hơn chỉ kích thích đầu tư khi đó là sự cắt giảm tạm thời
bởi vì đầu t
ư phụ thuộc nhiều vào lợi nhuận, đầu tư quá mức và lòng tin.
Thu thuế ở Nhật Bản tính đến tháng 3/2003 giảm 5,5% xuống còn
47,9 nghìn tỷ Yên, thấp hơn so với dự toán 1,7 nghìn tỷ Yên. Thuế thu từ
các công ty giảm 12,7% so với năm tài chính trước, xuống còn 10,3 nghìn
tỷ Yên, giảm 935 tỷ Yên so với dự toán.
Trong năm tài chính 2002, Nhật Bản dự tính sẽ cắt giảm 1.000 tỷ
Yên thuế công ty và ngày 5/8/2002 Thủ tướng Koizumi đã cắt giả
m thêm
1.000 tỷ Yên thuế công ty thêm một năm nữa, nghĩa là năm tài chính 2003
kết thúc vào tháng 3/2004 tạo ra sự cạnh tranh bình dẳng cho các công ty.
Giảm thuế tập trung vào các công ty trong việc tăng cường sử dụng
vốn và nghiên cứu. Thuế công ty của Nhật Bản hiện nay là 40,87% so với
thu nhập, cao hơn chút ít so với Mỹ (40,75%). Nhưng mức này cao hơn
10,84% mức thuế của Anh và 6,54% của Pháp, và cao hơn các nước châu
Á khác 10 đến 15% (Việt Nam News, 12/8/2002).
b. Về thu chi ngân sách của Chính ph

Mặc dù trong những năm 1990 Nhật Bản đã nhiều lần tiến hành cải
cách thu chi ngân sách, song, đây vẫn là lĩnh vực khó khăn và gay gắt nhất.
Trong khi các nước châu Âu và Mỹ liên tục duy trì những nguyên tắc tài
chính ở trung ương và địa phương để cải thiện thu chi ngân sách, Nhật Bản
trái lại thâm hụt ngân sáchkhông ngừng tăng. Hai nhân tố chính khiến thâm
hụt ngân sách tăng là sử dụng qua mức chính sách tài chính để kích thích
phát triển kinh tế và sự cách bi
ệt giữa lợi ích và chi phí.
Về chi tiêu ngân sách: Trong năm tài chính 2001, Nhật Bản vẫn duy
trì chính sách tăng chi tiêu để kích thích nền kinh tế. Trong tháng 11/2002,
chỉ chưa đến 1 tuần, Chính phủ đã phê chuẩn2 đợt chi ngân sách bổ sung trị

giá 5,5 nghìn tỷ Yên cho năm tài chính 2001 kết thúc vào tháng 3/2002.
36

Trong đó 3 nghìn tỷ Yên được chi cho chương trình việc làm và 2,5 nghìn
tỷ Yên được chi cho hỗ trợ tăng trưởng kinh tế. Riêng khoản chi cho
chương trình việc làm đã khiến cho tổng giá trị trái phiếu phát hành của
Chính phủ đượcphát hành trong năm tài chính 2001 lên tới 30 nghìn tỷ Yên
và nợ của Chính phủ sẽ lên đến 666 nghìn tỷ Yên, tương đương với 130%
GDP, mức cao nhất trong số các nước phất triển.Tài khoản chi tiêu tổng
hợp của Chính phủ cho năm 2001 vào kho
ảng 83 nghìn tỷ Yên. Trong đó
dịch vụ nợ quốc gia chiếm khoảng 17 nghìn tỷ Yên, gần bằng 1/5 tổng số.
Trợ cấp thuế cho địa phương cũng xấp xỉ 17 nghìn tỷ Yên. Đây là những
khoản chi tiêu không nằm trong chi tiêu chung của Chính phủ. Chi tiêu
chung của Chính phủ là 48 nghìn tỷ Yên, chiếm 58,9% tổng tà khoản chi
tiêu chung. Trong đó an ninh xã hội, các công việc công cộng, giáo dục và
nghiên cứu khoa học chiếm 2/3 chi tiêu chung, còn lại là chi cho quốc
phòng và các chi tiêu khác như chi cho những tr
ường hợp khẩn cấp, trợ
giúp kinh tế, lương hưu cho nhân viên nhà nước. Chi tiêu ngân sách của
Chính phủ năm 2002 ước tính là 47,5 nghìn tỷ Yên và tăng lên 48,1 nghìn
tỷ Yên trong năm tài chính 2003.
Về đầu tư công cộng: Những công trình tạo cơ sở cho các hoạt động
kinh tế như đường giao thông, hải cảng, nhà cửa, cấp thoát nước, đê đập…
cần đầu tư của nhà nước. Lịch sử đầu tư công cộng ở
Nhật Bản, nhìn chung
so với các nước phương Tây còn cách xa và đi sau một đoạn khá dài, vì vậy
trong tương lai vẫn sẽ duy trì một mức đầu tư công cộng cao. Kết quả là
một số hạng mục sẽ được đầu tư nhiều hơn trước, trong tình trạng tài chính
khó khăn đòi hỏi phải sử dụng vốn đầu tư hiệu quả hơn. Vì vậy, khi phát

triển đầu tư
công cộngtrong tương lai sẽ phải ưu tiên cho các khu vực sẽ
phục vụ nhiều cho phát triển kinh tế của thế kỷ XXI cũng như sự hiệu quả
và minh bạch hơn.

III. NHỮNG VẤN ĐỀ KINH TẾ NHẬT BẢN CẦN ĐƯỢC TIẾP TỤC
CẢI CÁCH
37

Trước tình hình suy thoái kinh tế kéo dài, đặc biệt là vấn đề tài chính
và ngân sách khó khăn, chính phủ Nhật Bản đã quyết định tăng cường các
biện pháp chính sách cải cách nhằm đem lại sự ổn định hơn cho khu vực tài
chính bằng cách tăng cường các biện pháp chính sách cải cách nhằm đem
lại sự ổn định hơn cho khu vực tài chính bằng cách tăng cường các biện
pháp đẩy nhanh sự khôi phục các chức năng tài chính trung gian, giả
i quyết
các khoản nợ khó đòi, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phân bổ lại các nguồn
tài lực cho các lĩnh vực tăng trưởng mới, và hiện thực hoá sự phục hồi của
các nghành tàu chính và công nghiệp Nhật Bản. Chính phủ của Thủ tướng
Koizumi sẽ tiếp tục chương trình cải cách cơ cấu một cách toàn diện dưới
khẩu hiệu “Không có tăng trưởng n
ếu không có cải cách”.
Nhằm lấy lại sức sống cho nền kinh tế Nhật Bản, Chính phủ Nhật
Bản cho rằng cần phải tiến hành tất cả những biện phápchính sách có thể.
Hiện nay, Chính phủ đã và đang đẩy mạnh cải cách cơ cấu thông qua 4 trụ
cột chính là: cải cách hệ thống tài chính, cải cách thuế, cải cách sự can
thiệp của Chính phủ, cải cách cơ cấu chi tiêu củ
a Chính phủ, nhằm đẩy
mạnh những cố gắng theo hướng lấy lại sức sống cho nền kinh tế Nhật Bản,
và nhằm hiện thực hoá sự tăng trưởng bền vững dựa vào cầu của khu vực

tư nhân trong khi khắc phục sự giảm phát. Chính phủ Nhật Bản cũng đã và
đang thực hiện mọi biện pháp có thể nhằm tạo thêm việc làm và mạng lướ
i
an toàn cho các xí nghiệp vừa và nhỏ, phân cấp mạnh mẽ cho các chính
quyền địa phương trong việc giải quyết các khoản nợ khó đòi. Sau đây là
nội dung cụ thể của các chính sách và biện pháp cải cách trong lĩnh vực
kinh tế hiện nay.
1. Cải cách hệ thống tài chính
Đây được coi là lĩnh vực nóng bổng và kho khăn nhất của các cuộc
cải cách hiện nay. Trong lĩnh vực này, Chính phủ Nhật Bản chủ trương:
Cần phải giải quyết ngay vấn đề nợ khó đòi của các ngân hàng chủ yếu
nhằm lấy lại lòng tin cho hệ thống tài chính Nhật Bản và sự quản lý tài
chính cũng như tạo ra một thị trường tài chính được thế giới đánh cao;
Chính phủ đặt mục tiêu giải quyết một bước vấn đề nợ khó đòi vào cuối
năm tài chính 2004 bằng cách giảm một nửa tỷ l
ệ các khoản cho vay không
38

hoạt động của các ngân hàng chủ yếu, và chủ trương tạo ra một hệ thống tài
chính mạnh hơn có thể hỗ trợ cho cải cách cơ cấu; Nhằm xây dựng một
khung khổ mới cho việc quản lý tài chính và tạo thuận lợi cho cải cách cơ
cấu, Chính phủ sẽ tiến hành 3 biện pháp chủ yếu là: Thắt chặt việc đánh giá
tài sản; đảm bảo sự dủ vốn; và t
ăng cường công tác quản lý.
2. Cải cách thuế
Chính phủ sẽ xúc tiến cải cách thuế một cách toàn diện và mạnh mẽ
nhằm làm cho hệ thống thuế thích hợp nhất với tình hình của thế kỷ XXI.
Cuộc cải cách này cũng nhằm tạo ra một hệ thống thuế gọn nhẹ và đơn
giản. Hiện nay các chính sách cải cách thuế đang trong quá trình xem xét
dựa trên cơ sở 6 điểm chính sau đây:

Dành
ưu tiên cao nhất cho sự phục hồi nền kinh tế Nhật Bản
Tính toán đầy đủ đến những đặc trưng và khả năng của mỗi cá nhân
trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội
Thực hiện cải cách thuế kết hợp với cải cách chi tiêu của Chính phủ
Thực hiện cải cách thuế phù hợp với cải cách hệ thống đảm bảo xã
hội
Thực hiện cải cách thuế kết hợp với giảm sự can thiệp của Chính phủ
và cải cách tài chính ở các đia phương
Chia sẻ gánh nặng một cách công bằng cho tất cả các cá nhân và các
công ty, có tính đến các nhóm thu nhập thấp khi thật sự cần thiết.
3. Cải cách sự can thiệp của Chính phủ
Về vấn đề này, Chính phủ Nhật Bản chủ trương: Thực hiện giảm hơn
nữa s
ự can thiệp của Chính phủ vào nền kinh tế nhằm phát huy đến mức tối
đa khả năngcủa khu vực tư nhân và mở rộng kinh doanh tư nhân; Thực
hiện các “Đặc khu dành cho cải cách cơ cấu”. Điều này đã cho phép các
chính quyền địa phương hoặc các hãng tư nhân áp dụng và tận hưởng sự
miễn trừ đặc biệt của Chính phủ, dựa trên cơ sở những đóng góp của
địa

×