Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Tăng trưởng xanh và giải pháp phat triển nền kinh tế xanh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.64 KB, 17 trang )

Nhóm 5
Chủ đề
I) Tăng trưởng xanh
1) Bối cảnh
Trong thời gian qua, các quốc gia trên thế giới đang phải đối mặt
với một tình hình chung, đó là các thách thức do hậu quả của các
cuộc khủng hoảng kinh tế, xã hội xảy ra liên tiếp tại nhiều quốc
gia. Đồng thời, bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng có nhiều
diễn biến phức tạp, phát triển kinh tế-xã hội vẫn còn dựa nhiều
vào việc khai thác tài nguyên thiên nhiên; năng suất lao động
còn thấp; công nghệ sản xuất, mô hình tiêu dùng còn sử dụng
nhiều năng lượng, nguyên liệu và thải ra nhiều chất thải. Dân số
tăng nhanh, tỷ lệ hộ nghèo còn cao; các dịch vụ cơ bản về giáo
dục và y tế hiện còn bất cập, các loại tệ nạn xã hội chưa được
ngăn chăn triệt để, nhiều nguồn tài nguyên thiên nhiên bị khai
thác cạn kiệt, sử dụng lãng phí và kém hiệu quả. Môi trường
thiên nhiên ở nhiều nơi bị phá hoại nghiêm trọng, ô nhiễm và
suy thoái đến mức báo động đang là những vấn đề bức xúc và
thách thức lớn đối với các quốc gia.
Tại hội nghị Thượng đỉnh Trái đất về Môi trường và phát triển tổ
chức ở Rio de Janeiro (Braxin) năm 1992 và Hội nghị Thượng
đỉnh Thế giới về Phát triển bền vững tổ chức ở Johannesburg
(Cộng hoà Nam Phi) năm 2002 đã xác định: Phát triển bền vững
là nhu cầu cấp bách và xu thế tất yếu trong tiến trình phát triển
của xã hội loài người, vì vậy đã được các quốc gia trên thế giới
đồng thuận xây dựng thành Chương trình nghị sự cho từng thời
kỳ phát triển của lịch sử.
Để xây dựng mô hình phát triển bền vững, các nước cần xây
dựng những công cụ mới và chuyển đổi mô hình tăng trưởng
hiện có giải quyết hiệu quả các vấn đề mà thế giới đang phải đối
mặt, đồng thời có thể biến những thách thức thành cơ hội để


phát triển và là động lực quan trọng thúc đẩy cả thế giới đi theo
hướng tăng trưởng xanh nhằm xanh hóa con đường phát triển
kinh tế thông qua việc khuyến khích tăng trưởng và phát triển
kinh tế trong khi vẫn bảo đảm bảo vệ môi trường, giảm phát thải
khí nhà kính, bảo tồn đa dạng sinh học, các nguồn tài nguyên
thiên nhiên và thích ứng với biến đổi khí hậu.
2) Khái niệm tăng trưởng xanh:
Một số khái niệm của tăng trưởng xanh:
Theo tổ chức Sáng kiến tăng trưởng xanh của Liên Hợp
Quốc: Tăng trưởng xanh hay xây dựng nền kinh tế xanh là quá
trình tái cơ cấu lại hoạt động kinh tế và cơ sở hạ tầng để thu
được kết quả tốt hơn từ các khoản đầu tư cho tài nguyên, nhân
lực và tài chính, đồng thời giảm phát thải khí nhà kính, khai thác
và sử dụng ít tài nguyên thiên nhiên hơn, tạo ra ít chất thải hơn
và giảm sự mất công bằng trong xã hội.
Theo (Organization for Economic Cooperation and
Development-Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế): Tăng
trưởng xanh là thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế đồng
thời đảm bảo rằng các nguồn tài sản tự nhiên tiếp tục cung cấp
các tài nguyên và dịch vụ môi trường thiết yếu cho cuộc sống
của chúng ta. Để thực hiện điều này, tăng trưởng xanh phải là
nhân tố xúc tác trong việc đầu tư và đổi mới, là cơ sở cho sự
tăng trưởng bền vững và tăng cường tạo ra các cơ hội kinh tế
mới.
Định nghĩa tăng trưởng xanh của Việt Nam: Tăng trưởng xanh
ở Việt Nam là sự tăng trưởng dựa trên quá trình thay đổi mô
hình tăng trưởng, tái cơ cấu nền kinh tế nhằm tận dụng lợi thế so
sánh, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế thông
qua việc nghiên cứu và áp dụng công nghệ tiên tiến, phát triển
hệ thống cơ sở hạ tầng hiện đại để sử dụng hiệu quả tài nguyên

thiên nhiên, giảm phát thải khí nhà kính, ứng phó với biến đổi
khí hậu, góp phần xóa đói giảm nghèo và tạo động lực thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế một cách bền vững.
3) Tăng trưởng xanh trên thế giới
Nhiều quốc gia như Hàn Quốc, Nhật Bản ở châu Á, Đức, Anh,
Pháp, Hà Lan ở châu Âu đã đi tiên phong trong việc thúc đẩy
tăng trưởng xanh với nhiều nội dung quan trọng thể hiện sự cam
kết mạnh mẽ hướng tới nền kinh tế xanh.
Kinh nghiệm của Hàn Quốc- một trong những quốc gia đi đầu
về tăng trưởng xanh cho thấy, ngay từ năm 2008, Hàn Quốc đã
dành 80% trong gói kích cầu kinh tế khoảng 38,1 tỷ USD để
dùng cho sự chuyển dịch từ nền kinh tế nâu sang nền kinh tế
xanh. Chiến lược quốc gia về “tăng trưởng xanh, các-bon thấp”
của Hàn Quốc xác định tỷ lệ năng lượng tái tạo trong tổng cung
năng lượng là 2,7% (năm 2009), 3,78% (năm 2013) và hơn gấp
đôi lên đến 6,08% (năm 2020); đồng thời đề ra mục tiêu trung
hạn giảm phát thải khí nhà kính dự kiến sẽ xuống còn 30% vào
trước năm 2020 (đây là mức cắt giảm phát thải cao nhất do
IPCC đề xuất).
Tại các nước trong khu vực, ví dụ như Lào cũng đang trong quá
trình xây dựng một lộ trình tăng trưởng xanh quốc gia.
Campuchia cũng đang nỗ lực xây dựng một kế hoạch hành động
chi tiết sau khi ban hành lộ trình tăng trưởng xanh quốc gia. Để
tăng trưởng xanh, Trung Quốc cũng tiến hành những cuộc cách
mạng sạch, cách mạng xanh, cách mạng công nghệ cao Chỉ
riêng trong lĩnh vực tái chế và năng lượng tái tạo, mỗi năm,
Trung Quốc đã kiếm được 17 tỷ USD và tạo công ăn việc làm
cho 10 triệu người.
Tại Hội nghị Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á – Thái Bình
Dương (APEC) bế mạc ngày 13/11 tại đảo Hawaii, Hoa Kỳ, các

nhà lãnh đạo APEC đã thông qua Tuyên bố Honolulu, trong đó,
APEC xác định cần phải giải quyết các thách thức môi trường và
kinh tế của khu vực bằng cách hướng đến nền kinh tế xanh,
carbon thấp, nâng cao an ninh năng lượng và tạo nguồn mới cho
tăng trưởng kinh tế và việc làm.
Năm 2012, APEC sẽ phát triển danh mục hàng hóa môi trường
(hàng hóa xanh) và giảm thuế quan đối các mặt hàng này vào
cuối năm 2015. APEC sẽ xóa bỏ rào cản phi thuế quan bao gồm
các yêu cầu tỉ lệ nội địa hóa đối với các dịch vụ và hàng hóa môi
trường.
Để thúc đẩy các mục tiêu tăng trưởng xanh, APEC sẽ thực hiện
các biện pháp như giảm 45% cường độ sử dụng năng lượng của
APEC vào năm 2035 so với năm 2005, kết hợp các chiến lược
phát triển về thải carbon thấp vào các kế hoạch tăng trưởng kinh
tế thông qua dự án Thành phố mẫu carbon thấp
(
các chỉ số phát triển xanh trên thế giới)

4) Sự cần thiết của tăng trưởng xanh ở Việt Nam
· Phát triển kinh tế chưa bền vững. Chất lượng tăng trưởng,
hiệu suất, hiệu quả và tính cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp.
· Tăng trưởng kinh tế còn dựa nhiều vào các yếu tố phát triển
theo chiều rộng, dựa vào khai thác tài nguyên với cường độ cao,
hiệu quả thấp.
· Tài nguyên bị khai thác cạn kiệt, môi trường bị ô nhiễm
nặng. Các ngành kinh tế thân thiện với môi trường chưa được
phát triển.
· Phụ thuộc vào nguồn năng lượng hóa thạch nhập khẩu phục
vụ cho sản xuất trong nước do công nghệ chậm được đổi mới
với mức độ tiêu tốn năng lượng, tài nguyên thiên nhiên cao.

· Nỗ lực toàn cầu ứng phó với biển đổi khí hậu, giảm phát
thải khí nhà kính đòi hỏi Việt Nam phải điều chỉnh Chiến lược
tăng trưởng.
5). Quan điểm của Việt Nam về tăng trưởng xanh
· Là một phần quan trọng của Định hướng Chiến lược phát
triển bền vững của Việt Nam.
· Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thông qua tái cơ cấu nền kinh
tế, điều chỉnh mô hình tăng trưởng.
· Giảm phát thải khí nhà kính và đóng góp vào nỗ lực chung
của thế giới trong quá trình thích ứng và giảm thiểu biến đổi khí
hậu.
· Tạo việc làm và cải thiện cuộc sống.
· Là định hướng để điều chỉnh các chiến lược và quy hoạch
phát triển các ngành, địa phương liên quan.
6). Mục tiêu của Việt Nam trong chiến lược tăng trưởng xanh
· Khuyến khích các ngành kinh tế sử dụng hiệu quả tài
nguyên thiên nhiên với giá trị gia tăng cao, hạn chế tiến tới xóa
bỏ những ngành sử dụng lãng phí tài nguyên thiên nhiên, gây ô
nhiễm môi trường.
· Ứng dụng và phát triển công nghệ hiện đại nhằm sử dụng
hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, giảm phát thải khí nhà kính,
góp phần ứng phó hiệu quả với vấn đề biến đổi khí hậu.
· Nâng cao đời sống nhân dân thông qua việc tạo thêm việc
làm từ các ngành công nghiệp xanh và cải thiện chất lượng cuộc
sống thông qua việc xây dựng lối sống thân thiện với môi
trường.
II) Nỗ lực của Việt Nam trong việc hướng tới nền kinh tế
xanh
Trải qua 25 năm đổi mới và mở cửa phát triển kinh tế, Việt Nam
cũng đã phải trả giá cho suy giảm tài nguyên và ô nhiễm môi

trường. Do đó, việc chuyển đổi mô hình phát triển, hướng tới
nền kinh tế xanh là lựa chọn hợp lý
Xanh hóa nền kinh tế không làm trở ngại tới tăng trưởng, trái lại
đó là động lực tăng trưởng mới, tạo thêm việc làm và góp phần
xóa đói giảm nghèo…
Biến đổi khí hậu đang là mối quan tâm lớn nhất của cộng đồng
thế giới. Do đó, Việt Nam cũng sẽ đón nhận được sự ủng hộ và
giúp đỡ của các quốc gia và các tổ chức quốc tế trên thế giới
trong nỗ lực chung nhằm giảm thiểu và thích ứng với biến đổi
khí hậu trên cơ sở hướng tới nền kinh tế xanh.
Với lợi thế nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa Đông Nam Á,
có nguồn năng lượng mặt trời dồi dào, năng lượng gió phong
phú, sinh vật tăng trưởng nhanh là cơ hội cho Việt Nam tham gia
vào các chương trình mục tiêu thiên niên kỷ để hướng tới nền
kinh tế xanh và thực hiện thành công Chiến lược Tăng trưởng
xanh đang trong quá trình hoàn thiện.
Kinh tế Việt Nam liên tục tăng trưởng trong những năm vừa qua
đã tạo ra nội lực bên trong cho một xu thế phát triển mới. Những
vấn đề bức xúc về ô nhiễm môi trường và suy giảm tài nguyên
trong thời gian qua đã thức tỉnh các cấp lãnh đạo và người dân
ủng hộ hướng phát triển mới - nền kinh tế xanh để tạo đà cho sự
đồng thuận cao của xã hội loại bỏ phát triển “kinh tế nâu”.
Việt Nam cũng sẽ đẩy mạnh “Tái cơ cấu nền kinh tế gắn với mô
hình tăng trưởng”, và coi đó là nhiệm vụ hàng đầu trong chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 – 2015. Cùng với
đó là tiềm lực con người của Việt Nam nắm bắt vấn đề nhanh,
chịu khó học hỏi mà linh hoạt trong triển khai thực hiện đã và
đang tạo nhiều cơ hội để hướng tới “nền kinh tế xanh” và “tăng
trưởng xanh”.
Việt Nam cũng cam kết về xóa đói, giảm nghèo, cải thiện an

sinh xã hội cũng như vấn đề sử dụng bền vững, hiệu quả tài
nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường bên cạnh nhiệm vụ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Khi tái cấu trúc nền kinh tế
đang là đòi hỏi cấp thiết của Việt Nam hiện nay, hướng tiếp cận
“kinh tế xanh,tăng trưởng xanh”
Mục tiêu của kế hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh
giai đoạn 2013 - 2020 là tái cấu trúc và hoàn thiện thể chế theo
hướng khuyến khích các ngành kinh tế sử dụng hiệu quả năng
lượng và tài nguyên thiên nhiên với giá trị gia tăng cao. Nghiên
cứu, ứng dụng ngày càng rộng rãi công nghệ tiên tiến nhằm sử
dụng hiệu quả hơn tài nguyên thiên nhiên, giảm cường độ phát
thải khí nhà kính, góp phần ứng phó hiệu quả với biến đổi khí
hậu. Kế hoạch sẽ được trình Thủ tướng Chính phủ ban hành vào
tháng 9/2013.
Để áp dụng mô hình mới, các nhà nghiên cứu đề xuất phương
hướng chuyển dịch sang nền “kinh tế xanh” theo hướng thân
thiện với môi trường, hạn chế những ngành gây ô nhiễm, cơ cấu
kinh tế vùng dựa trên các hệ sinh thái, phát triển hàng hóa, dịch
vụ môi trường và năng lượng sạch… Đồng thời, đẩy mạnh việc
chuyển giao công nghệ môi trường, đầu tư phát triển một số
ngành kinh tế xanh mũi nhọn như nông nghiệp hữu cơ, du lịch
sinh thái, công nghiệp tái chế, năng lượng tái tạo, sinh học, tái
sinh rừng tự nhiên… Mặt khác, định hình những khó khăn trước
mắt và lâu dài, khách quan và chủ quan để sớm thay đổi nhận
thức, thiết lập hành lang pháp lý, chính sách mở đường
cho “kinh tế xanh”, nhất là sự nhận thức của việc chuyển sang
mô hình “kinh tế xanh” sẽ mang lại hiệu quả lâu dài cho nền
kinh tế của đất nước.
Vận dụng kinh nghiệm quốc tế phân tích ở các phần trên, Chiến
lược tăng trưởng xanh của Việt Nam đang được xây dựng và

cùng với sự giúp đỡ, hỗ trợ của một số nước đi trước, cộng đồng
quốc tế, sự chuyển dịch sang nền “kinh tế xanh” ở Việt Nam đã
có những bước đi ban đầu như đã và đang xây dựng, đưa vào
vận hành nhiều công trình thủy điện nhỏ, phong điện, sử dụng
khí ga ở bãi chôn lấp rác để phát điện, sử dụng ni-lông phế thải
trong xây dựng, áp dụng cơ chế phát triển sạch, sử dụng năng
lượng mặt trời, khí sinh học trong chăn nuôi, phụ phẩm rơm, rạ
làm nấm, phân hữu cơ, tăng cường trồng và tái sinh rừng, kiểm
soát nhằm hạn chế phá rừng. Đặc biệt, đã có đề xuất “Tạm đóng
cửa rừng tự nhiên” góp phần giảm phát thải GHG. Tháng 10-
2012, Đức đã hỗ trợ Việt Nam 272 triệu euro cho xây
dựng “kinh tế xanh” nên càng kích lệ Việt Nam chuyển dịch
sang mô hình kinh tế này.
Từ tháng 8-2011, Chính phủ đã cho thành lập Tổ công tác xây
dựng Khung chiến lược tăng trưởng xanh. Mục tiêu tổng quát
mà dự thảo khung chiến lược đề xuất là Việt Nam hình thành về
cơ bản cơ sở kinh tế, xã hội và khoa học, công nghệ để thực hiện
tăng trưởng xanh, ít các-bon, xây dựng cơ cấu kinh tế hiệu quả
về kinh tế, xã hội và môi trường, áp dụng ngày càng nhiều công
nghệ xanh, hình thành lối sống xanh và tiêu dùng bền vững. Các
mục tiêu cụ thể đến năm 2020 được đề ra, trong đó tập trung vào
3 mục tiêu chủ yếu đổi mới mô hình tăng trưởng và tái cơ cấu
nền kinh tế:
(i) giảm GHG và tăng cường sử dụng năng lượng sạch, năng
lượng tái tạo
(ii) xanh hóa sản xuất
(iii) xanh hóa lối sống và thúc đẩy tiêu dùng bền vững. Với tầm
nhìn đến năm 2050, Việt Nam sẽ thiết lập được đầy đủ nền tảng
vật chất, kỹ thuật, nguồn nhân lực và thể chế phù hợp để phổ
biến và thực hiện triệt để các phương thức tăng trưởng xanh.

Chiến lược cũng xác định một số chỉ tiêu định lượng như tiết
kiệm năng lượng; sử dụng năng lượng tái tạo, giảm phát thải
trong nông nghiệp; sản xuất sạch hơn; tỷ lệ phần trăm đầu tư cho
môi trường; GDP xanh. Các giải pháp, lựa chọn chính sách như
tái cấu trúc kinh tế, công nghệ, tài chính; tổ chức chỉ đạo, giám
sát, xử lý vi phạm, lồng ghép… sẽ được thực hiện. Khi Khung
chiến lược tăng trưởng xanh hoàn thành sẽ mở ra triển vọng và
đặt nền móng cho phát triển nền “kinh tế xanh”ở Việt Nam.
1) Trong công nghiệp:
Xu thế chung của thế giới hiện nay là hướng sự quan tâm và
tham gia của cộng đồng không chỉ vào lĩnh vực sản xuất mà cả
lĩnh vực tiêu dùng vì mục tiêu sử dụng
hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi trường. Ngày nay, khái niệm
sản xuất sạch hơn (SXSH) ngày càng được sử dụng rộng rãi
trong ngành công nghiệp và thay dần các thuật ngữ giảm thiểu
chất thải, phòng ngừa ô nhiễm.
Trong Chương trình nghị sự 21, tổ chức Môi trường và phát
triển của Liên Hợp quốc (UNCED) đã dành ưu tiên lớn cho việc
giới thiệu các phương pháp SXSH, các công nghệ tuần hoàn
chất thải và phòng ngừa ô nhiễm để đạt được sự phát triển bền
vững.
Theo định nghĩa của UNEP thì “SXSH là áp dụng liên tục một
chiến lược phòng ngừa tổng hợp về môi trường vào quá trình
sản xuất, sản phẩm và dịch vụ, nhằm nâng cao hiệu quả tổng thể
và giảm thiểu rủi ro cho con người và môi trường”.
Việc áp dụng sản xuất sạch hơn trong ngành công nghiệp hơn 10
năm qua ở nước ta đã mang lại lợi ích kinh tế rõ ràng do hiệu
quả sản xuất được nâng cao thông qua sử dụng hiệu quả hơn
nguyên vật liệu, năng lượng, nước để giảm đáng kể lượng chất
thải và các chất ô nhiễm cần xử lý, cải thiện môi trường lao

động và quan trọng hơn là nâng cao năng lực cạnh tranh của các
doanh nghiệp.
Số liệu thống kê cho thấy, ngày càng có nhiều doanh nghiệp áp
dụng SXSH trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Hơn
thế nữa, Việt Nam đang trong tiến trình công nghiệp hoá và hiện
đại hoá thì việc xây dựng và phát triển các đô thị và công nghiệp
bền vững có tầm quan trọng đặc biệt đối với sự bền vững, bởi vì
dân số đô thị ngày càng chiếm tỉ lệ cao, các hoạt động kinh tế-xã
hội ngày càng tập trung trong các đô thị và khu công
nghiệp.Việc xây dựng và phát triển các đô thị và khu công
nghiệpbền vững sẽ góp phần giảm thiểu ô nhiễm môi trường, tiết
liệm tài nguyên thiên nhiên, giảm thiểu chất thải đồng thời nâng
cao hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh doanh cũng như nâng cao
chất lượng cuộc sống người dân.
2) Trong nông nghiệp
Thực hiện một nền nông nghiệp sinh thái với nguyên lý cơ bản
là canh tác tổng hợp, lấy xen canh, luân canh, nông lâm súc kết
hợp làm trọng tâm. Nội dung chính của nó là: Sự đa dạng về
sinh học và cấu trúc của các hệ thống canh tác tổng hợp, các hệ
thống nông lâm nghiệp kết hợp, quản lý dinh dưỡng tổng hợp.
Ngoài ra cần quan tâm đến vấn đề: Hạn chế xói mòn đất và rửa
trôi dinh dưỡng, quay vòng tất cả những dòng các chất dinh
dưỡng hữu cơ, xúc tiến các nguồn dinh dưỡng sinh học, tuyển
chọn và sử dụng các loài cây con phù hợp, hiệu quả là những
hợp phần của các hệ thống được cải tiến và được xem là ưu việt
của khái niệm INM (Integrated Pest Management), phòng trừ
sâu hại tổng hợp.
3) Trong dịch vụ và tiêu dùng
Lồng ghép mua sắm xanh vào chương trình dân nhân sinh thái.
Trong xu thế phat triển bền vững hiện nay co 2 nội dung được

đề cập tới la sản xuất bền vững va tiêu dùng bền vững. Để thực
hiện tiêu dùng bền vững trước tiên cần phải sử dụng các sản
phẩm và dịch vụ thân thiện với môi trường. Sản phẩm-dịch vụ
thân thiện môi trường la những sản phẩm, những dịch vụ: tiết
kiệm năng lượng va nước trong qua trinh sản xuất va tieu dung;
không hoặc it phat sinh chất thải va ro rỉ cac chất ô nhiễm; được
sản xuất từ nguyen liệu tai chế va co thể tai sử dụng; sử dụng
năng lượng tai tạo trong qua trinh sản xuất va tieu dung; khong
hoặc it sử dụng hoa chất nguy hại, vật liệu phong xạ va chế
phẩm sinh học độc hại. Song song với mua sắm xanh nhiều
nước con sử dụng nhan sinh thai hay nhan moi
trường. Ban đầu việc sử dụng nhan nay chỉ xuất hiện ở cac nước
phat triển một cach rất tự phat theo xu thế thị trường do co nhiều
cong ty/hang kinh doanh nhận thấy rằng co thể biến mối quan
ngại về moi trường thanh yếu tố co lợi nhằm tăng tinh cạnh
tranh của sản phẩm tren thị trường. Chinh vi thế đa xuất hiện rất
nhiều nhan thong tin gắn tren cac sản phẩm như “tai chế”, “than
thiện moi trường”, “sử dụng it năng lượng”, “co
thanh phần được tai chế”… Những loại nhan nay tự no đa gay
được sự chu y va thu hut những người tieu dung co y thức va
mong muốn bảo vệ moi trường (BVMT) hay giảm thiểu những
tac động xấu tới moi trường. Chinh vi vậy ma nhom người tieu
dung nay đa quyết định lựa chọn những sản phẩm co gắn nhan
moi trường thay vi việc mua cac sản phẩm cung nhom ma khong
được gắn nhan.
4) Năng lượng xanh
Trên thực tế, Việt Nam đã và đang thử nghiệm một số mô
hình năng lượng xanh như mô hình phân loại rác tại
nguồn 3R (giảm thiểu, tái chế và tái sử dụng). Đồng thời
để giảm thiểu ô nhiễm môi trường, đảm bảo an ninh năng

lượng lâu dài, Việt Nam đang cố gắng nghiên cứu sử dụng
nhiên liệu sinh học (xăng/diesel pha ethanol và diesel sinh
học), thay thế một phần xăng, dầu khoáng, tiến tới xây
dựng ngành “xăng dầu sạch” . Ngày 31/1/2009, tại Hà
Nội, tập đoàn ô tô Thành Công đã tổ chức lễ ký kết và
giao lô hàng 50 xe đầu tiên trong hợp đồng cung cấp 500
chiếc xe buýt hiệu Daewoo chạy bằng khí tự nhiên cho
công ty Sonadezi ở Đồng Nai. Số xe buýt này sẽ được sử
dụng trong việc đưa đón công nhân ở các khu công
nghiệp cũng như vận chuyển hành khách công cộng tại
tỉnh Đồng Nai.
5) Về năng lượng tái tạo
Việt Nam có tiềm năng lớn để phát triển điện gió, lớn hơn
cả các nước láng giềng trong khu vực Đông Nam Á. Theo
Ngân hàng thế giới thì tiềm năng lý thuyết là 500 GW ở
độ cao 65m với tốc độ gió trung bình ≥ 6m/s. Theo Tổng
công ty điện lực Việt Nam (EVN) thì tiềm năng kỹ thuật
là 1.785 MW (miền Bắc: 50MW; miền Trung: 880MW và
miền Nam: 855MW) ở độ cao 60m với tốc độ gió trung
bình ≥ 6m/s.Tiềm năng thuỷ điện nhỏ (≤ 30 MW) cũng rất
lớn, với hơn 2.200 sông suối cùng chiều dài hơn 10km.
Tiềm năng lý thuyết : 300 tỉ kWh/năm; tiềm năng kỹ
thuật: 12 triệu kWh/năm (> 4.000 MW). Hiện nay đã có
319 dự án thuỷ điện nhỏ ở31 tỉnh thành phố với tổng công
suất lắp đặt khoảng 3.443 MW. Từ sau năm 1990, nhiều
hộ gia đình đã tự đầu tư lắp đặt các tổ máy thuỷ điện cực
nhỏ, loại công suất 0.1-1KW với giá thành thấp. Tính đến
năm 2008 đã xây dựng và đưa vào khai thác hơn 500 trạm
thuỷ điện công suất 5kW-10MW/trạm với tổng công suất
97273kW. Ngoài ra, còn có 110-130 nghìn trạm và tổ máy

thủy điện cực nhỏ 5-20W/trạm. Tiềm năng năng lượng khí
sinh học xấp xỉ 10 tỷ m3/năm từ các nguồn rác thải, chất
thải gia súc và phế phụ phẩm nông nghiệp. Đến nay có
khoảng 1000.000 hầm khí sinh học, trong đó có
vài chục nghìn túi chất dẻo, còn lại là các hầm xây
kiên cố. Công nghệ sinh học đã được phổ cập ở
nhiều nơi và đã xuất hiện nhiều tổ chức dịch vụ
làm công nghệ khí sinh học.
III) Môt số câu chuyện thành công
1)Năng lượng tái tạo ở Trung Quốc
- Năng lương gió
Từ năm 2005 - 2009, tốc độ tăng trưởng hàng năm công suất
phát điện từ năng lượng gió đều hơn 100%. Cùng với việc lắp
đặt thêm nâng tổng công suất thêm 13,8GW (năm 2009), Trung
Quốc đã trở thành nước dẫn đầu thế giới về công suất bổ sung
và thứ 2 thế giới (sau Mỹ) về công suất lắp đặt. Tham vọng phát
triển ngành này còn thể hiện ở mục tiêu tăng công suất lắp đặt từ
30 GW lên 100 GW năm 2020 của chính phủ.
Để trực tiếp khuyến khích sản xuất turbine gió ở các địa phương,
Trung Quốc đãthực hiện chính sách khuyến khích liên doanh và
chuyển giao công nghệ trong công nghệ tua-bin gió lớn và bắt
buộc sử dụng các sản phẩm turbine gió của địa phương
trong các công trình. Bộ Khoa học và Công nghệ cũng trợ cấp
chi phí R&D (nghiên cứu và phát triển) cho việc sản xuất năng
lượng gió, đặc biệt năm 1996 đã thành lập Quỹ Năng lượng tái
tạo. Các nhà sản xuất turbine gió địa phương như Sinovel Wind,
GoldwindScience & Technology, và Dongfang Electric, tới năm
2008, đã chiếm hơn một nửa thị trường, vốn bị chi phối bởi các
nhà cung cấp nước ngoài.
Năm 2006, Ủy ban Phát triển và Cải cách Quốc gia Trung Quốc

đã ban hành cácbiện pháp tạm thời về quản lý thuế và phân bố
phí năng lượng tái tạo. Cùng với LuậtNăng lượng tái tạo, các
quy định khuyến khích giảm giá năng lượng gió quy định
một mô hình giá cả cạnh tranh đấu thầu được sử dụng cho thị
trường điện gió ở Trung Quốc.
-Năng lượng điện mặt trời
Trung Quốc là nhà sản xuất pin năng lượng mặt trời (PV) lớn
nhất của thế giới, đáp ứng 45% nhu cầu PV năng lượng mặt trời
toàn cầu (năm 2009). Thị trường trong nước về năng lượng mặt
trời đã bắt đầu phát triển những năm gần đây, với khoảng 160
MW PV năng lượng mặt trời được cài đặt và kết nối với lưới
điện trong năm 2009.
Cùng với 12GW ở các dự án lớn, Trung Quốc có thể nhanh
chóng trở thành một thị trường lớn ở châu Á và trên thế giới.
Đối với pin mặt trời, chính phủ cũng đã chỉ
ra rằng các mục tiêu cho công suất lắp đặt vào năm 2020 có thể
được tăng từ 1,8GWđến 20GW.
Trung Quốc hiện là thị trường lớn nhất thế giới về năng lượng
nước nóng mặt trời, chiếm gần hai phần ba tổng lượng tiêu thụ
toàn cầu. Hơn 10% hộ gia đình ở Trung Quốc sử dụng thiết bị
đun nước nóng mặt trời với hơn 160 triệu m2 diện tích lắp đặt.
Sự phát triển nhanh chóng của ngành công nghiệp sản xuất bình
nước nóng năng lượng mặt trời mang lại lợi nguận cho cả các
nhà sản xuất lẫn các hộ gia đình. Nhiều hộ gia đình được sử
dụng nước nóng, kéo theo các lợi ích về sức khỏe và vệ sinh.
Trong chính sách phát triển, việc lắp đặt các hệ thống năng
lượng nước nóng mặt trời được ưu tiêu cho các lĩnh vực tiêu
dùng, chẳng hạn như bệnh viện, trường học, nhà hàng, hồ bơi…

×