Phần thứ nhất: ĐẶT VẤN ĐỀ
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Hưởng ứng công cuộc đổi mới trong giáo dục ở nước ta hiện nay mà
trọng tâm của đổi mới chương trình và sách giáo khoa giáo dục phổ thông là
tập trung đổi mới phương pháp dạy học, thực hiện dạy học dựa vào hoạt động
tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh với sự tổ chức và hướng dẫn thích
hợp của giáo viên, nhằm phát triển tư duy độc lập, góp phần hình thành
phương pháp và nhu cầu, khả năng tự học, tự bồi dưỡng hứng thú học tập, tạo
niềm tin và vui thích trong học tập cho học sinh.
Trong những năm học gần đây tôi đã mạnh dạn sử dụng công nghệ
thông tin để hỗ trợ cho tiết học và cũng đạt hiệu quả cao. Các em học sinh
thích thú, hăng say và kết quả học tập của các em đối với bộ môn Lịch Sử
cũng có sự thay đổi lớn, có nhiều em đã lựa chọn chuyên ngành lịch sử để thi
vào các trường Đại học, Cao đẳng. Đó là niềm hạnh phúc của bản thân tôi vì
đã tạo cho các em sự hứng thú trong học tập. Không dừng lại ở đó, tôi luôn
tìm hiểu và nghiên cứu những phương pháp dạy học mới theo xu thế phát triển
chung của ngành giáo dục nước nhà và các nước trên Thế giới. Để các em học
sinh đạt được một kết quả cao nhất và đặc biệt tạo cho các em sự đam mê
trong học bộ môn lịch sử mà bấy lâu nay mọi người thường gọi là khô khan.
Từ đó tôi mới tìm hiểu và áp dụng theo phương pháp “Sử dụng sơ đồ tư
duy nhằm phát huy tính tích cực trong dạy học lịch sử” và bài trả lời cho câu
hỏi làm thế nào để đổi mới phương pháp dạy học “không đọc – chép ; không
nhìn – chép” theo chỉ thị của Bộ Giáo dục và Đào tạo mà tôi trăn trở băn
khoăn bấy lâu nay đã có cách để giải quyết.
1
Để làm được điều đó thì vấn đề đầu tiên mà người giáo viên cần nhận
thức rõ ràng là quy luật nhận thức của người học. Người học là chủ thể hoạt
động chiếm lĩnh tri thức, kỹ năng, kỹ xảo và thái độ chứ không phải là “cái
bình chứa kiến thức” một cách thụ động.
Trong thực tế hiện nay, còn nhiều học sinh học tập một cách thụ động,
chưa có khả năng tự học, chỉ dựa vào những kiến thức do giáo viên truyền đạt,
rồi học thuộc lòng nên khi quên một chữ đầu là quên tất cả. Học sinh chỉ học
bài nào biết bài đấy, cô lập nội dung của các môn, phân môn mà chưa có sự
liên hệ kiến thức với nhau vì vậy mà chưa phát triển được tư duy logic và tư
duy hệ thống. Sử dụng sơ đồ tư duy vào học tập giúp các em giải quyết được
các vấn đề trên và nâng cao hiệu quả học tập.
2. MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ CỦA GIẢI PHÁP KHOA HỌC
Mục đích của tôi khi đưa ra giải pháp khoa học này nhằm góp phần nâng
cao chất lượng giảng dạy – học tập bộ môn Lịch sử ở trường THPT, hướng
dẫn học sinh có thể hệ thống hóa kiến thức bài học bằng sơ đồ, qua đó các em
sẽ nhìn được tổng thể nội dung kiến thức bộ môn một cách ngắn gọn nhưng
đầy đủ, rút ngắn được thời gian ôn tập củng cố, giúp học sinh hiểu bài, nắm
được kiến thức cơ bản và nhớ lâu.
2
Phần thứ hai: NỘI DUNG
Chương 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN
Theo Nghị quyết TW khóa VIII khẳng định, đổi mới phương pháp giáo
dục, đào tạo khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện, thành lập nếp tư
duy sáng tạo của người học, từng bước áp dụng phương pháp tiên tiến và
phương pháp hiện đại vào quá trình dạy học, và thông qua việc đưa sơ đồ tư
duy vào dạy học ở trường THPT, người giáo viên phải có kĩ năng vận dụng tốt
thì chất lượng tiết dạy mới có hiệu quả cao.
Và ta cũng thường nghe nói “Dạy học là một nghệ thuật”, đã nói là
“nghệ thuật” thì bằng mọi cách người giáo viên phải có kĩ năng vận dụng các
phương pháp để truyền đạt kiến thức cho học sinh, tùy theo nội dung của từng
tiết học mà giáo viên viên lựa chọn phương pháp phù hợp với đặc trưng của
bộ môn và từng đối tượng học sinh. Không những thế giáo viên còn rèn luyện
cho học sinh kĩ năng quan sát, nghiên cứu, phân tích, so sánh, tổng hợp…
Để đánh giá một tiết dạy có hiệu quả hay không đều do kĩ năng vận
dụng tốt các phương pháp giúp học sinh hiểu bài, nắm bài, chính vì vậy mà kĩ
năng sử dụng sơ đồ tư duy vào dạy học Lịch sử có ý nghĩa rất lớn.
Theo bản thân tôi nhận thức: mục tiêu đào tạo là cái đích mà giáo dục
phải đạt đến, xuất phát từ mục tiêu đào tạo mà định ra chương trình, nội dung
giáo dục và điều quan trọng là định ra phương pháp giáo dục_ Một phương
pháp giáo dục tốt cần có một sản phẩm giáo dục tương ứng. Nhiệm vụ của
3
mỗi thầy giáo, cô giáo hôm nay là phải làm thế nào để giúp cho học sinh nắm
được kiến thức cơ bản của bộ môn trên cơ sở hoạt động học tập của chính các
em dưới sự hướng dẫn của thầy để từ đó giáo dục cho các em tính độc lập suy
nghĩ, tính sáng tạo, có đủ bản lĩnh để đi vào các lĩnh vực của cuộc sống.
Chúng ta đã được nghe nhiều về dạy học tích cực: Vậy dạy học tích cực
là gì?. Theo tôi dạy học chỉ trở thành tích cực khi người học có nhu cầu muốn
hiểu biết về một vấn đề gì đó và khi người học sử dụng mọi biện pháp để hiểu
về vấn đề đó, vận dụng kiến thức đó vào cuộc sống của mình có kết quả. Điều
quan trọng là ở chỗ làm thế nào để học sinh có nhu cầu hiểu biết, muốn hiểu
biết và làm thế nào để biết thì đó là công việc của mỗi một giáo viên. Vì vậy
mới có câu: “Không thầy đố mày làm nên”, Người thầy phải bằng mọi cách để
cho học sinh được hoạt động nhiều hơn, được đưa ra chính kiến của mình
trong quá trình học tập.
Với phạm vi bài viết này tôi xin trao đổi với các đồng nghiệp cách trang
bị sơ đồ tư duy nhằm phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học Lịch
sử 10 ban cơ bản.
4
Chương 2
THỰC TRẠNG
2.1. THUẬN LỢI, KHÓ KHĂN
2.1.1. Thuận lợi.
- Đây là phương pháp học tập mới thoải mái, vui vẻ và sáng tạo, thú vị
- Đây là xu thế chung của giáo dục Việt Nam nên đựơc sự ủng hộ từ các
cấp, xã hội, phụ huynh, học sinh…
- Chương trình môn lịch sử 10 có nhiều nội dung phù hợp với phương
pháp dạy bài mới, củng cố bài bằng sơ đồ tư duy phát huy hiệu quả cao khi
giáo viên tổ chức cho học sinh làm việc…
- Về cơ sở vật chất đã có một số đổi mới tạo điều kiện cho hoạt động
học tập: phòng CNTT, đèn chiếu, bảng phụ…
- Xã hội hiện nay tạo điều kiện cho con người (giáo viên và học sinh) có
điều kiện tiếp cận nhiều nguồn thông tin từ nhiều phương tiện khác nhau.
5
- Phương pháp sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy bài mới, củng cố bài phù
hợp tâm sinh lý lứa tuổi học sinh, khắc phục được sự nhàm chán của phương
pháp dạy học truyền thống. Vì vậy, sử dụng sơ đồ tư duy sẽ gây hứng thú cho
người học, kích thích học sinh tư duy tích cực.
2.1.2 Khó khăn:
- Đây là phương pháp dạy học mới nên giáo viên và học sinh không
tránh khỏi lúng túng trong một số kĩ năng như sưu tầm, xử lý thông tin, vẽ, ý
tưởng…
- Đòi hỏi giáo viên phải có nhiều kĩ năng khác ngoài kĩ năng sư phạm.
- Giáo viên khó khăn trong việc đánh giá cụ thể hiệu quả làm việc của
từng học sinh.
- Năng lực học sinh không đồng đều nên đôi khi việc vẽ sơ đồ tư duy
trong học tập là sự máy móc không hiệu quả, dặc biệt đối với học sinh 7 xã
vùng cao thuộc vùng tuyển của trường THPT Mường Chiềng chưa được tiếp
cận với những phương pháp học tập mới.
- Mặt khác, hạn chế của học sinh là chưa biết cách học, cách ghi kiến
thức vào bộ não mà chỉ học thuộc lòng, học vẹt, thuộc một cách máy móc,
thuộc nhưng không nhớ được kiến thức trọng tâm, không nắm được “sự kiện
nổi bật” trong bài học, trong tài liệu tham khảo, hoặc không biết liên tưởng,
liên kết các kiến thức có liên quan với nhau.
- Với đặc thù môn học, lịch sử có nhiều nội dung kiến thức nên học
sinh không nhớ nổi toàn bộ kiến thức, phần lớn các em chỉ học thuộc lòng hay
nhớ máy móc
6
Chính vì vậy để học sinh nắm vững nội dung bài học, giáo viên phải có
kĩ năng vận dụng tốt bản đồ tư duy vào dạy học lịch sử, góp phần nâng cao
chất lượng bộ môn.
2.2. THÀNH CÔNG, HẠN CHẾ
Qua một thời gian thử nghiệm sử dụng bản đồ tư duy trong dạy học bản
thân tôi thấy có nhiều tác dụng sau:
- Chất lượng trung bình bộ môn được nâng cao, trong đó tỉ lệ học sinh
giỏi, khá tăng cao, tỉ lệ học sinh yếu giảm nhiều.
- Phát huy được tính tích cực của HS trong quá trình hoạt động trên lớp
cũng như việc nghiên cứu bài mới và học bài cũ ở nhà.
- Việc nắm kiến thức của HS vững chắc hơn, có hệ thống hơn và xóa
được lổ hổng kiến thức bộ môn.
- Qua sơ đồ tư duy học sinh đã xác định được trọng tâm vấn đề dễ dàng
hơn, ghi nhớ kiến thức được lâu hơn và tiết kiệm được nhiều thời gian ôn tập.
- Sơ đồ tư duy phù hợp đặc điểm tâm sinh lý của học sinh THPT, thông
qua việc bố trí trên bản đồ giúp cho HS rèn luyện thêm về kiến thức mỹ thuật
và bộ môn toán.
- Sơ đồ tư duy có tính mở nên kích thích được tất cả mọi đối tượng HS,
phát huy cao tính độc lập, và có thể chấp nhận kiến thức của các em theo các
cung bậc khác nhau.
* Một số học sinh còn lười biếng, chưa thật sự tập trung và đầu tư cho
sơ đồ tư duy của mình, chỉ vẽ lại theo một sơ đồ phân nhánh, chưa xác định
được vấn đề trọng tâm và những vấn đề liên quan còn trình bày dài dòng, chưa
7
thực sự có ý tưởng để xây dựng một sơ đồ tư duy để củng cố và hệ thống lại
kiến thức mà vẫn muốn dùng phương pháp học thuộc lòng.
2.3. MẶT MẠNH, MẶT YẾU
- Đây là xu thế chung của giáo dục Việt Nam nên đựơc sự ủng hộ từ các
cấp, xã hội, phụ huynh, học sinh…
- Về cơ sở vật chất đã có một số đổi mới tạo điều kiện cho hoạt động
học tập: phòng CNTT, đèn chiếu, bảng phụ…
- Đây là phương pháp dạy học mới nên giáo viên và học sinh không
tránh khỏi lúng túng trong một số kĩ năng như sưu tầm, xử lý thông tin, vẽ, ý
tưởng…
2.4. CÁC NGUYÊN NHÂN, CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG
* Nguyên nhân khách quan:
- Nhiều học sinh có năng lực học học tập tốt, chịu khó, chú ý tiếp thu
bài, biết cách hệ thống kiến thức từ bản đồ tư duy để nắm bài nhanh chóng và
có hiệu quả.
- Một số học sinh học yếu, chưa quen với cách học mới nên còn lúng
túng khi viết hoặc triển khai nội dung từ bản đồ tư duy.
* Nguyên nhân chủ quan:
Giáo viên nhiệt tình trong giảng dạy, vận dụng tốt các phương pháp đặc
trưng của bộ môn sao cho phù hợp với từng bài. Tuy nhiên do mới đưa vào,
nhiều giáo viên còn bỡ ngỡ, nên cần phải đầu tư nhiều thời gian để xây dựng
bản đồ tư duy sao cho dễ nhớ, dễ nhìn nhưng đầy đủ nội dung.
8
2.5. PHÂN TÍCH, ĐÁNH GIÁ CÁC VẤN ĐỀ VỀ THỰC TRẠNG MÀ
GIẢI PHÁP KHOA HỌC ĐẶT RA
Năm học 2011-2012 là năm đầu tiên ngành Giáo dục và Đào tạo triển
khai giảng dạy theo sơ đồ tư duy ở bậc học THPT. Qua thực tế cho thấy việc
giảng dạy này đã tạo hứng thú cho học sinh. Mỗi học sinh có thể tự lập sơ đồ
tư duy cho mình dưới sự hướng dẫn của giáo viên để bài học trở nên dễ thuộc,
dễ hiểu, dễ nhớ hơn. Cùng một nội dung nhưng các em có thể thêm nhánh,
thêm chú thích dưới dạng hình vẽ nhiều màu sắc tùy vào cách hiểu, cách lĩnh
hội kiến thức trong bài học của mình.
Ngay từ đầu năm học, sau khi đăng kí đề tài SKKN tôi đã tìm hiểu, áp
dung dạy học lịch sử bằng sơ đồ tư duy, từ đó tôi tự lập kế hoạch giảng dạy cho
từng tiết học. Nếu không sử dụng phần mềm, giáo viên có thể linh động sử
dụng hình vẽ tay với những màu sắc, hình ảnh, từ ngữ diễn đạt khác nhau nhằm
giúp học sinh có thể nắm bắt và nhớ được phần cốt lõi của bài giảng ngay tại
lớp học.
Sơ đồ tư duy đặc biệt chú trọng về màu sắc, hình ảnh với từ ngữ ngắn
gọn thể hiện qua mạng liên tưởng (các nhánh trong bài giảng). Từ phần nội
dung chính, giáo viên vẽ ra từng nhánh nhỏ theo từng tiểu mục chính của bài
giảng và chú thích, giảng giải theo một ngôn ngữ dễ hiểu và gần gũi với học
sinh.
Như vậy, thay vì phải học thuộc lòng các khái niệm, định nghĩa hay cả
bài giảng đọc chép như lúc trước, giờ đây học sinh có thể hiểu và nắm được
khái niệm qua hình vẽ. Chính sự liên tưởng theo hướng dẫn của giáo viên
cũng giúp các em nhớ được phần trọng tâm của bài giảng.
9
Cách học này còn phát triển được năng lực riêng của từng học sinh
không chỉ về trí tuệ, vẽ, viết gì trên sơ đồ tư duy, hệ thống hóa kiến thức chọn
lọc những phần nào trong bài để ghi, thể hiện dưới hình thức kết hợp hình vẽ,
chữ viết, màu sắc, vận dụng kiến thức được học qua sách vở vào cuộc sống.
Để giảng dạy theo sơ đồ tư duy, giáo viên có thể chủ động vẽ hình trên
bảng rồi cho học sinh tiếp tục lên phân nhánh sơ đồ hay để học sinh chia thành
từng nhóm nhỏ rồi tự vẽ sơ đồ theo cách hiểu của mình sau đó giáo viên định
hướng lại từng nội dung cho học sinh.
Sơ đồ tư duy thực chất là một sơ đồ mở không theo một khuôn mẫu hay
tỷ lệ nhất định mà là cách hệ thống kiến thức tạo ra một tiết học sinh động, đầy
màu sắc và thực sự hiệu quả. Giảng dạy theo sơ đồ tư duy phát huy tính tích
cực nhiều nhất trong các giờ ôn tập. Khi học sinh trở thành chủ thể, thành
nhân vật trung tâm trong mỗi tiết học, các em sẽ trở nên hào hứng và hăng
say hơn trong học tập.
Chương 3
GIẢI PHÁP, BIỆN PHÁP THỰC HIỆN
3.1. MỤC TIÊU CỦA GIẢI PHÁP, BIỆN PHÁP
10
Trước thực trạng trên, để góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy, tôi
xin trao đổi một số kĩ năng sử dụng bản đồ tư duy trong dạy học Lịch sử 10
- Giúp học sinh biết:
+ Sơ đồ tư duy là gì?.
+ Cách sử dụng và ghi chép trên sơ đồ tư duy.
+ Cách lập sơ đồ tư duy.
- Giáo viên cần:
+ Chuẩn bị kĩ nội dung kiến thức tiết học thông qua bài soạn.
+ Lựa chọn đồ dùng dạy học phù hợp với nội dung từng bài.
+ Chuẩn bị hệ thống câu hỏi sao cho phát huy được tính tích cực của học
sinh.
+ Lựa chọn nội dung để giao cho nhóm hay cá nhân.
+ Xây dựng bản đồ tư duy, tùy theo nội dung của từng bài mà lựa chọn
cho phù hợp (sử dụng bản đồ tư duy để khai thác kiến thức mới hay để củng
cố bài).
3.2. NỘI DUNG VÀ CÁCH THỨC THỰC HIỆN GIẢI PHÁP, BIỆN
PHÁP
* Giới thiệu người phát minh ra sơ đồ tư duy
11
- Tony Buzan sinh năm 1942 tại London (Anh), cha đẻ của phương pháp
tư duy Mind map (Sơ đồ tư duy, Giản đồ ý). Tác giả của 92 đầu sách, được
dịch ra trên 30 thứ tiếng, xuất bản trên 125 quốc gia. Ông đi nhiều nước trên
thế giới để phổ biến phương pháp của mình (ông đã đến Việt Nam vào tháng 4
năm 2007)
Ở Việt Nam, đã có 2 quyển sách dịch từ công trình của ông đã được xuất
bản là Sơ đồ tư duy và Sử dụng trí não của bạn.
12
HÌNH ẢNH GIÁO SƯ TONY BUZAN GIỚI THIỆU VỀ SƠ ĐỒ TƯ
DUY
+ Sơ đồ tư duy là gì?
*Sơ đồ tư duy hay còn gọi là Lược đồ tư duy, Bản đồ tư duy (Mind Map)
- Sơ đồ tư duy là hình thức ghi chép nhằm tìm tòi đào sâu, mở rộng một ý
tưởng, tóm tắt những ý chính của một nội dung, hệ thống hóa một chủ đề…
bằng cách kết hợp việc sử dụng hình ảnh, đường nét, màu sắc, chữ viết…Đặc
biệt đây là một sơ đồ mở, việc thiết kế sơ đồ là theo mạch tư duy của mỗi
người.
- Việc ghi chép thông thường theo từng hàng chữ khiến chúng ta khó hình
dung tổng thể vấn đề, dẫn đến hiện tượng đọc sót ý, nhầm ý. Còn sơ đồ tư duy
tập trung rèn luyện cách xác định chủ đề rõ ràng, sau đó phát triển ý chính, ý
phụ một cách logic.
Sơ đồ tư duy có ưu điểm:
Dễ nhìn, dễ viết:
• Kích thích hứng thú học tập và khả năng sáng tạo của học sinh
• Phát huy tối đa tiềm năng ghi nhớ của bộ não.
• Rèn luyện cách xác định chủ đề và phát triển ý chính, ý phụ một cách
logic.
- Sơ đồ tư duy sẽ giúp:
1. Sáng tạo hơn
2. Tiết kiệm thời gian
13
3. Ghi nhớ tốt hơn
4. Nhìn thấy bức tranh tổng thể
5. Phát triển nhận thức, tư duy
* Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học:
• Cho học sinh làm quen với sơ đồ tư duy bằng cách giới thiệu cho học
sinh một số “sơ đồ tư duy” cùng với dẫn dắt của giáo viên để các em
định hướng nhanh hơn.
• Hướng cho học sinh có thói quen khi tư duy lôgic theo hình thức sơ đồ
hoá trên sơ đồ tư duy.
• Từ một vấn đề hay chủ đề chính đưa ra các ý lớn thứ nhất, ý lớn thứ hai,
thứ ba mỗi ý lớn lại có các ý nhỏ liên quan với nó, mỗi ý nhỏ lại có
các ý nhỏ hơn các nhánh này như “bố mẹ” rồi “con, cháu, chắt, chút,
chít” các đường nhánh có thể là đường thẳng hay đường cong.
• Cho học sinh thực hành vẽ sơ đồ tư duy trên giấy: Chọn từ khóa- tên
chủ đề hoặc hình vẽ của chủ đề chính cho vào vị trí trung tâm.
• Vẽ sơ đồ tư duy theo nhóm hoặc từng cá nhân
- Đối với giáo viên, để thiết kế một sơ đồ tư duy đối với một bài học,
chúng ta có thể thiết kế bằng bảng vẽ trên giấy, hoặc hệ thống kiến thức bằng
sơ đồ trên bảng, hoặc có thể dùng phần mềm Mindmap. Đối với phần mềm
này giáo viên có thể thực hiện thành một giáo án hay một bài giảng điện tử với
kiến thức được xây dựng thành một sơ đồ, qua đó còn có thể kết hợp để trình
chiếu những nội dung cần lưu ý hay những đoạn phim có liên quan được liên
14
kết với sơ đồ. Qua đó có thể giúp học sinh hệ thống được kiến thức vừa học,
khắc sâu được kiến thức trọng tâm.
- Đối với học sinh, trước hết giáo viên phải giới thiệu một số sơ đồ tư duy
cho các em làm quen, sau đó hướng các em từ từ xây dựng các sơ đồ riêng cho
mình. Bước đầu, chỉ yêu cầu học sinh xác định được vấn đề trọng tâm, sau đó
hệ thống các kiến thức liên quan thành sơ đồ phân nhánh, rồi từ đó học sinh sẽ
thiết kế thành nhưng sơ đồ theo tư duy của mỗi cá nhân. Có thể áp dụng dùng
sơ đồ trước hay sau khi học một bài học, với bài học mới, có thể cho học sinh
xây dựng theo một nhóm, rồi dựa vào sơ đồ học sinh sẽ thảo luận, sau đó
nhóm sẽ trình bày kiến thức theo hình thức thuyết trình dựa trên sơ đồ đã xây
dựng, sau bài học thì có thể yêu cầu học sinh tự hệ thống lại kiến thức bằng sơ
đồ theo cách riêng của mình. Việc phối hợp linh động nhiều phương pháp
trong quá trình giảng dạy, kết hợp với việc thiết lập sơ đồ tư duy để hệ thống
kiến thức đã giúp cho học sinh nắm được bài nhanh hơn và nhớ lâu hơn.
* Cách ghi chép trên sơ đồ tư duy:
• Nghĩ trước khi viết.
• Viết ngắn gọn
• Viết có tổ chức
• Viết lại theo ý của mình, nên chừa khoảng trống để có thể bổ
sung ý (nếu sau này cần)
- Điều cần tránh khi ghi chép trên sơ đồ tư duy:
• Ghi lại nguyên cả đoạn văn dài dòng.
• Ghi chép quá nhiều ý vụn vặt không cần thiết.
15
• Dành quá nhiều thời gian để ghi chép.
Cách ghi chép sơ đồ tư duy
* Hướng dẫn học sinh lập sơ đồ tư duy:
Để thiết kế một SĐTD dù vẽ thủ công trên bảng, trên giấy , hay trên phần
mềm Mind Map, chúng ta đều thực hiện theo thứ tự các bước sau đây:
- Bước 1: Bắt đầu từ trung tâm với hình ảnh của chủ đề, hay có thể
với một từ khóa được viết in hoa, viết đậm. Một hình ảnh có thể diễn đạt
được cả ngàn từ và giúp ta sử dụng trí tưởng tượng của mình. Một hình ảnh ở
trung tâm sẽ giúp ta tập trung được vào chủ đề và làm cho ta hưng phấn hơn.
- Bước 2: Luôn sử dụng màu sắc. Bởi vì màu sắc cũng có tác dụng kích
thích não như hình ảnh.
16
- Bước 3: Nối các nhánh chính (cấp một) đến hình ảnh trung tâm, nối các
nhánh cấp hai đến các nhánh cấp một,…. bằng các đường kẻ, đường cong với
màu sắc khác nhau.
- Bước 4: Mỗi từ/ảnh/ý nên đứng độc lập và được nằm trên một đường kẻ
hay đường cong.
- Bước 5: Tạo ra một kiểu bản đồ riêng cho mình (Kiểu đường kẻ, màu
sắc,…)
- Bước 6: Bố trí thông tin đều quanh hình ảnh trung tâm.
Minh hoạ cách vẽ sơ đồ tư duy
*Lưu ý:
Nên chọn hướng giấy ngang để khổ giấy rộng, thuận lợi cho việc vẽ các
nhánh con.
17
Nên dùng các nét vẽ cong, mềm mại thay vì vẽ các đường thẳng để thu
hút sự chú ý của mắt, như vậy SĐTD sẽ lôi cuốn, hấp dẫn hơn.
Các nhánh càng ở gần trung tâm thì càng được tô đậm hơn, dày hơn.
Chú ý dùng màu sắc, đường nét hợp lý để vừa làm rõ các ý trong sơ đồ
đồng thời tạo sự cân đối, hài hòa cho sơ đồ.
Không ghi quá dài dòng, hoặc ghi những ý rời rạc, không cần thiết, nên
dùng các từ, cụm từ một cách ngắn gọn.
Không dùng quá nhiều hình ảnh, nên chọn lọc những hình ảnh thật cần
thiết góp phần làm rõ các ý, chủ đề.
Có thể đánh số thứ tự ở các ý chính cùng cấp.
Không đầu tư quá nhiều thời gian vào việc “làm đẹp” sơ đồ bằng vẽ, viết,
tô màu
Không vẽ quá chi tiết, cũng không vẽ quá sơ sài.
Người lập sơ đồ được phép vẽ và trang trí theo cách riêng của mình.
• Quy trình tổ chức hoạt động vẽ SĐTD trên lớp:
Hoạt động 1: Cho học sinh lập SĐTD theo nhóm hay cá nhân thông
qua gợi ý của giáo viên.
Hoạt động 2: Học sinh hoặc đại diện của các nhóm học sinh lên báo
cáo, thuyết minh về SĐTD mà nhóm mình đã thiết lập.
Hoạt động 3: Học sinh thảo luận, bổ sung, chỉnh sửa để hoàn thiện
SĐTD về kiến thức của bài học đó.Giáo viên sẽ là người cố vấn, là trọng tài
giúp học sinh hoàn chỉnh SĐTD từ đó dẫn dắt đến kiến thức của bài học.
18
Hoạt động 4: Củng cố kiến thức bằng một SĐTD mà giáo viên đã chuẩn
bị sẵn hoặc một SĐTD mà cả lớp đã tham gia chỉnh sửa hoàn chỉnh, cho học
sinh lên trình bày, thuyết minh về kiến thức đó
Sơ đồ tư duy trong dạy học bài mới
Giáo viên giới thiệu bài mới và vẽ chủ đề chính của bài học lên bảng
bằng một hình vẽ bất kì trên bảng của lớp mà không ghi bài theo kiểu cũ và
giáo viên cho học sinh ngồi theo nhóm thảo luận sơ đồ tư duy của mỗi học
sinh đã chuẩn bị trước ở nhà để đối chiếu với sơ đồ tư duy của các bạn trong
nhóm.
Giáo viên đặt câu hỏi chủ đề nội dung chính hôm nay có mấy nhánh
lớn cấp số 1 và gọi học sinh lên bảng vẽ nối tiếp chủ đề chia thành các nhánh
lớn trên bảng có ghi chú thích tên từng nhánh lớn.
Sau khi học sinh vẽ xong các nhánh lớn cấp số 1, giáo viên đặt câu hỏi
tiếp ở nhánh thứ nhất có mấy nhánh nhỏ cấp số 2 tương tự học sinh đã hoàn
thành nội dung sơ đồ tư duy của bài học mới ngay tại lớp. Học sinh tự chỉnh
sửa điều chỉnh bổ sung những phần còn thiếu vào sơ đồ tư duy của từng cá
nhân.
Để minh họa cho sơ đồ tư duy giáo viên sẽ cho học sinh xem những
hình ảnh , đoạn phim ngắn minh họa cho rõ ý hơn của từng nhánh cấp độ 1,
cấp độ 2 Khi cho học sinh xem hình ảnh và phim minh họa giáo viên phải
giáo dục tư tưởng tình cảm học sinh khi có liên quan đến phần tích hợp tư
tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.
Củng cố : Giáo viên gọi học sinh lên bảng trình bày nội dung sơ đồ tư
duy mà các em đã thực hiện. Giáo viên nhận xét đánh giá cho điểm và dặn dò
học sinh chuẩn bị bài học lần sau.
19
*Hướng dẫn học sinh:
Để định hướng cho HS chuẩn bị bài: Yêu cầu HS phải đọc bài và nghiên
cứu nắm được các mục trong bài để thể hiện những đơn vị kiến thức của bài
học .
3.3. ĐIỀU KIỆN THỰC HIỆN GIẢI PHÁP
- Giáo viên, học sinh có thể sử dụng sơ đồ tư duy để hệ thống hoá một vấn
đề, một chủ đề, ôn tập kiến thức…
- Học sinh hoạt động nhóm thông qua sơ đồ tư duy trên lớp học, hoặc hoạt
động cá thể, ôn luyện tập ở nhà…
- HS chuẩn bị phương tiện để thiết kế sơ đồ gồm: cần giấy A
0
hoặc bìa, bảng
phụ, phấn màu, bút chì màu, tẩy…. Điều quan trọng là giáo viên hướng dẫn
cho học sinh các nhánh chính, hình tượng hóa các nội dung bài học thành các
nhánh của sơ đồ tư duy để giúp các em có cách sắp xếp kiến thức một cách
khoa học, lôgic.
- Giáo viên cần phải xác định được mục tiêu của bài, nêu được nội dung
chính của bài đảm bảo theo chuẩn kiến thức kĩ năng, qua đó hướng học sinh
lưu ý trọng tâm, định hướng được nội dung bài học cần nắm để có thể tự hệ
thống lại bằng sơ đồ.
3.4. MỐI QUAN HỆ GIỮA CÁC GIẢI PHÁP, BIỆN PHÁP.
Giáo viên vẫn thường sử dụng sơ đồ để hệ thống kiến thức cho học
sinh nhưng học sinh vẫn là người tiếp thu một cách thụ động. Với việc giảng
dạy bằng sơ đồ tư duy, nhất là cho học sinh tự phát huy khả năng sáng tạo của
mình bằng cách tự vẽ, tự phân bố và thể hiện nội dung bài học qua sơ đồ sau đó
yêu cầu các bạn khác bổ sung những phần còn thiếu. Kết thúc bài giảng, thay vì
20
phải ghi chép theo cách truyền thống, học sinh có thể tự “vẽ” bài học theo cách
hiểu của mình với nhiều màu sắc và hình ảnh khác nhau, đến tiết học sau, chỉ cần
nhìn vào sơ đồ, các em có thể nhớ được những phần trọng tâm của bài học.
Giảng dạy theo sơ đồ tư duy mang tính khả thi cao vì có thể vận dụng được với
bất kỳ điều kiện cơ sở vật chất nào của các nhà trường, có thiết kế trên giấy, bìa,
bảng bằng cách sử dụng bút chì màu, phấn màu hoặc cũng có thể thiết kế trên
phần mềm sơ đồ tư duy đã được triển khai đến từng trường.Việc vận dụng sơ đồ
tư duy trong dạy học sẽ dần hình thành cho học sinh tư duy mạch lạc, hiểu biết
vấn đề một cách sâu sắc, có cách nhìn vấn đề một cách hệ thống, khoa học.
Vận dụng sơ đồ tư duy trong dạy học, giáo viên giúp học sinh có thói
quen tự tay ghi chép hay tổng kết một vấn đề, một chủ đề đã đọc – đã học,
theo cách hiểu của học sinh với dạng sơ đồ tư duy.
Sau khi cho học sinh làm quen với một số sơ đồ tư duy có sẵn, giáo viên
đưa ra một chủ đề chính, đặt chủ đề này ở vị trí trung tâm bảng (hoặc vào
trang vở, tờ giấy/ bìa) rồi đặt câu hỏi gợi ý để học sinh vẽ tiếp các nhánh cấp
1, cấp 2, cấp 3 Mỗi bài học được tự vẽ kiến thức trọng tâm trên một trang
giấy, giúp học sinh dễ ôn tập, dễ xem lại kiến thức khi cần.
Đối với học sinh: Học sinh thường xuyên tự lập sơ đồ tư duy sẽ phát
triển khả năng thẩm mỹ do việc thiết kế nó phải bố cục màu sắc, các đường
nét, các nhánh sao cho đẹp, sắp xếp các ý tưởng khoa học, súc tích… Và đó
chính là để học sinh “Học cách học”: Học sinh được học để tích lũy kiến
thức, nhưng từ trước đến nay học sinh chưa biêt cách học cách để lĩnh hội
những kiến thức bộ môn lịch sử một cách hiệu quả.
3.5. KẾT QUẢ THU ĐƯỢC QUA KHẢO NGHIỆM GIÁ TRỊ KHOA
HỌC CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
21
Xem phim mãi, thảo luận một cách thụ động máy móc, xem bài giảng
điện tử mãi học sinh dần dần cũng không còn cảm hứng say mê học tập mà chỉ
ngồi nghe thầy cô, bạn bè nói xong hết tiết học các em cũng chẳng còn nhớ
bao nhiêu vì bản thân các em cũng ít được tham gia trực tiếp vào quá trình dạy
học.
Sử dụng sơ đồ tư duy trong giờ dạy lịch sử sẽ bắt buộc tất cả 100%
học sinh đều phải động não, sáng tạo và chỉ trong một tờ giấy các em có thể
trình bày nội dung của bài học. Học sinh sẽ tự khám phá và khi tạo được một
tác phẩm đẹp, ý tưởng hoàn chỉnh được giáo viên và các bạn ngợi khen sẽ
phấn khởi rất nhiều.
Các em khác cũng sẽ cố gắng tự hoàn thiện mình và mỗi học sinh có
một tính cách, một ý tưởng rất khác nhau khi trình bày sơ đồ tư duy của mình
nhưng điều quan trọng là các em biết cách tự ghi chép đầy đủ nội dung bài học
để học ở nhà có thể trinh bày trước tập thể lớp và ghi nhớ lâu kiến thức bài
học.
22
Phần thứ ba: KẾT LUẬN – KIẾN NGHỊ
1. KẾT LUẬN:
Sử dụng thành thạo và hiệu quả sơ đồ tư duy trong dạy học sẽ mang
lại nhiều kết quả tốt và đáng khích lệ trong phương thức học tập của học sinh
và phương pháp giảng dạy của giáo viên.
Học sinh sẽ học được phương pháp học tập, tăng tính chủ động, sáng
tạo và phát triển tư duy. Giáo viên sẽ tiết kiệm được thời gian, tăng sự linh
hoạt trong bài giảng, và quan trọng nhất sẽ giúp học sinh nắm được kiến thức
thông qua một “sơ đồ” thể hiện các liên kết chặt chẽ của tri thức.
23
Việc sử dụng các phần mềm mind map sẽ làm cho công việc lập sơ đồ
tư duy dễ dàng và linh hoạt hơn, đồng thời, đây cũng là một bước tiến trong
việc ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học nhằm nâng cao hiệu quả của
công tác dạy học.
Có thể tóm lược sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học lịch sử như sau:
Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học kiến thức mới giúp học sinh học
tập một cách chủ động, tích cực và huy động được tất cả 100% học sinh tham
gia xây dựng bài một cách hào hứng. Với sản phẩm độc đáo “kiến thức + hội
họa” là niềm vui sáng tạo hàng ngày của học sinh và cũng là niềm vui của
chính thầy cô giáo và phụ huynh học sinh khi chứng kiến thành quả lao động
của học sinh của mình. Cách học này còn phát triển được năng lực riêng của
từng học sinh không chỉ về trí tuệ (vẽ, viết gì trên sơ đồ tư duy), hệ thống hóa
kiến thức (huy động những điều đã học trước đó để chọn lọc các ý để ghi), khả
năng hội họa (hình thức trình bày, kết hợp hình vẽ, chữ viết, màu sắc), sự vận
dụng kiến thức được học qua sách vở vào cuộc sống.
Trước đây, các tiết ôn tập chương một số giáo viên cũng đã lập bảng
biểu, vẽ sơ đồ, biểu đồ,… và cả lớp có chung cách trình bày giống như cách
của giáo viên hoặc của tài liệu, chứ không phải do học sinh tự xây dựng theo
cách hiểu của mình, hơn nữa, các bảng biểu đó chưa chú ý đến hình ảnh, màu
sắc và đường nét. Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học lịch sử bước đầu tạo
một không khí sôi nổi, hào hứng của cả thầy và trò trong các hoạt động dạy
học của nhà trường, là một trong những nội dung quan trọng của phong trào
thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” mà Bộ Giáo dục
và Đào tạo đang đẩy mạnh triển khai.
Sơ đồ tư duy một công cụ có tính khả thi cao vì có thể vận dụng được
với bất kì điều kiện cơ sở vật chất nào của các nhà trường hiện nay. Có thể
24
thiết kế sơ đồ tư duy trên giấy, bìa, bảng phụ,… bằng cách sử dụng bút chì
màu, phấn, tẩy,… hoặc cũng có thể thiết kế trên phần mềm sơ đồ tư duy. Với
trường có điều kiện cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin tốt có thể cài vào máy
tính phần mềm Mindmap cho giáo viên và học sinh sử dụng, bằng cách vào
trang web www.download.com.vn gõ vào ô “tìm kiếm” cụm từ Mindmap, ta
có thể tải về bản demo ConceptDraw MINDMAP 5 Professional, phần mềm
này không hạn chế số ngày sử dụng và việc sử dụng nó cũng khá đơn giản.
Bước đầu cho phép kết luận: Việc vận dụng sơ đồ tư duy trong dạy
học lịch sử ở trường THPT sẽ dần dần hình thành cho học sinh tư duy mạch
lạc, hiểu biết vấn đề một cách sâu sắc, có cách nhìn vấn đề một cách hệ thống,
khoa học. Sử dụng sơ đồ tư duy kết hợp với các phương pháp dạy học tích cực
khác như vấn đáp gợi mở, thuyết trình, xem phim minh họa… có tính khả thi
cao góp phần đổi mới phương pháp dạy học, đặc biệt là đối với các lớp ở cấp
THPT .
2. KIẾN NGHỊ
Về phía phụ huynh học sinh: Kiểm tra đôn đốc việc chuẩn bị bài, học
bài của học sinh ở nhà. Tạo điều kiện và khuyến khích học sinh tích cực trong
việc vẽ sơ đồ tư duy trong học tập.
Về phía trường: Hỗ trợ tích cực cho giáo viên trong việc áp dụng
phương pháp mới này vào trong thực tiễn.
Về phía ngành: Hỗ trợ thêm về phương tiện thiết bị nhằm phục vụ tốt
hơn cho công tác dạy học của giáo viên.
25