Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Nghiên cứu tách chiết tinh dầu từ lá quất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.86 MB, 84 trang )

MỤC LỤC
Trang

LỜI CẢM ƠN i
DANG MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ii
DANH MỤC BẢNG ii
DANH MỤC HÌNH ẢNH VÀ ĐỒ THỊ iii
LỜI MỞ ĐẦU 1
Chương I. TỔNG QUAN 2
1.1. Giới thiệu chung về cây Quất 2
1.1.1. Nguồn gốc và phân bố 2
1.1.2. Các vùng ở Việt Nam trồng nhiều Quất 2
1.1.3. Đặc điểm thực vật 2
1.1.4. Công dụng của cây Quất 3
1.2. Tổng quan về tinh dầu 4
1.2.1. Khái niệm về tinh dầu 4
1.2.2. Phân loại các thành phần có trong tinh dầu 4
1.2.3. Tính chất vật lý và hóa học chung của tinh dầu 7
1.2.4. Vai trò của tinh dầu trong đời sống thực vật 7
1.2.5. Sinh tổng hợp tinh dầu trong cơ thể thực vật 10
1.2.6. Ứng dụng của tinh dầu 13
1.3. Các phương pháp sản xuất tinh dầu 13
1.3.1. Phương pháp chưng cất lôi cuốn hơi nước 14
1.3.2. Các phương pháp khác 17
1.3.2.1. Phương pháp chiết 17
1.3.2.2. Phương pháp ướp 18
1.3.2.3. Phương pháp ngâm 18
1.3.2.4. Phương pháp ép 19
1.4. Các dạng sản phẩm trong quá trình tách chiết tinh dầu 19
1.5. Tình hình nghiên cứu về tinh dầu họ Citrus 20
1.5.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới 20


1.5.2. Tình hình nghiên cứu trong nước 21
Chương 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 22
2.1. Đối tượng nghiên cứu 22
2.1.1. Nguyên liệu chính 22
2.1.2. Dụng cụ - thiết bị - hóa chất 22
2.2. Phương pháp nghiên cứu 23
2.2.1. Chuẩn bị nguyên liệu 23
2.2.2. Phương pháp chưng cất 23
2.2.3. Dự kiến quy trình tách chiết tinh dầu từ lá Quất 24
2.2.4. Bố trí thí nghiệm 26
2.2.4.1. Thí nghiệm xác định hàm lượng NaCl bổ sung trong nước ngâm,
chiết 26
2.2.4.2. Thí nghiệm xác định tỉ lệ nước/nguyên liệu 27
2.2.4.3. Thí nghiệm xác định thời gian ngâm muối 28
2.2.4.4. Thí nghiệm xác định thời gian chưng cất 30
2.2.5. Phương pháp xác định hàm lượng ẩm trong nguyên liệu Quất 31
2.2.6. Phương pháp xác định các chỉ số hóa-lý và định danh các cấu tử
thành phần của tinh dầu 31
2.2.7. Phương pháp xác định tỉ lệ khối lượng tinh dầu 32
2.2.8. Phương pháp xử lý số liệu 32
Chương 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 33
3.1. Kết quả xác định hàm lượng NaCl trong nước ngâm, chiết 33
3.2. Kết quả xác định tỉ lệ nước/nguyên liệu (v/w) thích hợp 34
3.3. Kết quả xác định thời gian ngâm nước thích hợp 36
3.4. Kết quả xác định thời gian chưng cất thích hợp 37
3.5. Quy trình hoàn thiện tách chiết tinh dầu từ lá Quất 38
3.6. Kết quả xác định hàm lượng ẩm trong nguyên liệu lá Quất 40
3.7. Kết quả xác định tỉ lệ khối lượng tinh dầu 41
3.8. Kết quả đánh giá tính chất cảm quan và xác định các chỉ số lý- hóa của sản
phẩm 41

3.8.1. Mô tả tính chất cảm quan sản phẩm 41
3.8.2. Kết quả xác định các chỉ số hóa- lý của sản phẩm 42
3.9. Kết quả xác định thành phần hóa học của tinh dầu 43
3.10. Tính toán sơ bộ giá thành sản phẩm trong phòng thí nghiệm 46
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 47
1. Kết luận 47
2. Kiến nghị 47
TÀI LIỆU THAM KHẢO 48
-i-
LỜI CẢM ƠN
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến quý thầy cô trong Khoa Công Nghệ
Thực Phẩm đã hết lòng giảng dạy, truyền đạt cho em những kiến thức cơ bản về lĩnh
vực công nghệ thực phẩm – là hành trang giúp em trở thành kỉ sư làm việc trong lĩnh
vực công nghệ thực phẩm.
Em vô cùng biết ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của quý thầy cô phụ trách Bộ môn
Hóa, phòng thí nghiệm Hóa Cơ bản.
Em xin chân thành cảm ơn TS. Hoàng Thị Huệ An, TS. Vũ Duy Đô đã tận tình
hướng dẫn và tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất cho em trong suốt quá trình thực hiện
đề tài NCKH và thầy Vũ Duy Đô trong quá trình làm đồ án tốt nghiệp.
Qua đây, em cũng gởi lời cảm ơn chân thành tới các anh chị - chuyên viên ở
Trung tâm Phân tích thí nghiệm thực hành, Đường số 2 Nguyễn Văn Thủ, Q.1, TP. Hồ
Chí Minh.
Xin cảm ơn gia đình và bạn bè em đã luôn động viên, giúp đỡ và đóng góp
nhiều ý kiến quý báu, giúp em hoàn thiện tốt hơn đề tài tốt nghiệp này.
Nha Trang, ngày 20 tháng 6 năm 2012
Sinh viên thực hiện
PHAN ANH QUỐC
-ii-
DANG MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT



VIẾT TẮT


TIẾNG ANH

TIẾNG VIỆT
GC Gas chromatography Sắc ký khí
GC-MS Gas chromatography-Spectroscopy

Sắc ký khí ghép khối phổ
Min Minute Phút
v/w Volume/weight Thể tích/khối lượng
w/v Weight/volume Khối lượng/thể tích
IA Acide Index Chỉ số acide
IS Saponification Index Chỉ số xà phòng
IE Esters Index Chỉ số este


DANH MỤC BẢNG

BẢNG TRANG
Bảng 3.1. Kết quả xác định hàm lượng ẩm trong nguyên liệu lá Quất. 40
Bảng 3.2. Tỉ lệ khối lượng tinh dầu tách chiết từ lá Quất. 41
Bảng 3.3. Bảng mô tả tính chất cảm quan của tinh dầu lá Quất. 41
Bảng 3.4. Kết quả xác định các chỉ số hóa lí của tinh dầu lá Quất. 42
Bảng 3.5. Kết quả phân tích GC/MS của tinh dầu lá Quất. 43
Bảng 3.6. Ước tính chi phí nguyên vật liệu để tách tinh dầu từ 10kg lá
Quất.
46



-iii-
DANH MỤC HÌNH ẢNH VÀ ĐỒ THỊ

HÌNH TRANG

Hình 1.1. Hình ảnh cây Quất. 3
Hình 1.2. Hình hoa Quất. 3
Hình 1.3. Cấu trúc phân tử isopren và bộ khung cơ bản của các terpenoid 4
Hình 1.4. Công thức hóa học của một số hợp chất thường có trong tinh dầu.

6
Hình 1.5. Hình ảnh sự tập trung của tinh dầu trong lá. 12
Hình 1.6. Thiết bị chưng cất lôi cuốn hơi nước cổ điển. 14
Hình 2.1. Lá Quất. 22
Hình 2.2. Sơ đồ quy trình dự kiến tách chiết tinh dầu từ lá Quất. 25
Hình 2.3. Sơ đồ bố trí thí nghiệm xác định tỉ lệ nuối bổ sung trong nước
ngâm, chiết.
26
Hình 2.4. Sơ đồ bố trí thí nghiệm xác định tỉ lệ nước bổ sung. 28
Hình 2.5. Sơ đồ bố trí thí nghiệm xác định thời gian ngâm nguyên liệu. 29
Hình 2.6. Sơ đồ bố trí thí nghiệm xác định thời gian chưng cất. 30
Hình 3.5. Quy trình hoàn thiện tách chiết tinh dầu từ lá Quất. 38

ĐỒ THỊ TRANG
Đồ thị 3.1. Ảnh hưởng của tỉ lệ nước/lá Quất đến thể tích và tỉ lệ khối
lượng tinh dầu lá thu được.
33
Đồ thị 3.2. Thể tích và tỉ lệ khối lượng tinh dầu lá thu được khi dùng

muối ở các nồng độ khác nhau.
34
Đồ thị 3.3. Ảnh hưởng của thời gian ngâm nước đến thể tích và tỉ lệ khối
lượng tinh dầu lá thu được.
36
Đồ thị 3.4. Tỉ lệ khối lượng tinh dầu lá thu được trong các thời gian
chưng cất khác nhau.
37
-1-
LỜI MỞ ĐẦU
Tinh dầu thiên nhiên hiện nay là một sản phẩm khá thông dụng trên thị trường.
Nó được ứng dụng tương đối phổ biến trong nhiều lĩnh vực như thực phẩm, dược
phẩm, y học, mỹ phẩm và một số lĩnh vực khác…
Hiện nay, có nhiều phương pháp để chiết rút tinh dầu từ thực vật, trong đó có
phương pháp chưng cất lôi cuốn hơi nước đơn giản, dễ thực hiện và cho hiệu xuất thu
hồi tinh dầu tương đối cao. Tinh dầu Citrus được sử dụng phổ biến do nó có mùi thơm
dễ chịu, có tác dụng trị cảm, giảm stress và thanh nhiệt…Quất thuộc họ Citrus nhưng
chưa có công trình nào được nghiên cứu sâu về nó, đồng thời tận dụng nguồn nguyên
liệu rẻ tiền để sản xuất tinh dầu có giá trị kinh tế cao. Được sự đồng ý của Khoa Công
Nghệ Thực Phẩm, dưới sự hướng dẫn của TS. Vũ Duy Đô, em đã nghiên cứu và thực
hiện đề tài:“Nghiên cứu tách chiết tinh dầu từ lá Quất”.
Mục đích nghiên cứu của đề tài là xây dựng quy trình công nghệ thích hợp cho
việc chiết xuất tinh dầu từ lá Quất bằng phương pháp chưng cất lôi cuốn hơi nước
đồng thời đánh giá chất lượng và khả năng ứng dụng làm hương liệu của nó.
Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể xem là cơ sở khoa học ban đầu của việc
xây dựng quy trình sản xuất tinh dầu từ lá Quất trên quy mô công nghiệp cũng như
cung cấp những dẫn liệu khoa học về thành phần hóa học và tính chất lý-hóa cơ bản
của tinh dầu lá Quất.
Do kiến thức và kinh nghiệm nghiên cứu còn hạn chế cũng như khó khăn về
điều kiện thực nghiệm, nguồn kinh phí eo hẹp nên mặc dù đã rất cố gắng song đề tài

này không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong được sự chỉ bảo của quý thầy cô cũng
như sự góp ý kiến từ các bạn sinh viên để đề tài này được hoàn thiện hơn.
Nha Trang, ngày 20 tháng 6 năm 2012
Sinh viên thực hiện

PHAN ANH QUỐC
-2-
Chương I. TỔNG QUAN

1.1. Giới thiệu chung về cây Quất [19]
Quất ở Miền Nam Việt Nam gọi là tắc, danh pháp hai phần: Citrus japonica
(Japonica) là một giống Kim Quất, và là giống hay được trồng nhất trong các giống
Kim Quất.
1.1.1. Nguồn gốc và phân bố [19]
Cây có nguồn gốc từ Trung Quốc, Nhật Bản và chủ yếu được trồng trong chậu
để làm cảnh trong dịp tết cổ truyền của một số nước Châu Á như: Việt Nam, Trung
Quốc, Nhật Bản…
1.1.2. Các vùng ở Việt Nam trồng nhiều Quất
Việt Nam có khí hậu nhiệt đới gió mùa, nên thích hợp cho cây Quất phát triển.
Cây Quất được trồng với mục đích là làm cây cảnh trong ngày Tết cổ truyền của VIệt
Nam. Nó tượng trưng cho sự no ấm, đầy đủ, thịnh vượng nên được nhiều người mua về
làm cảnh trong những ngày Tết.
Có thể nói cây Quất được trồng phổ biến khắp cả nước Chẳng hạn:
- Các tỉnh ở phía Bắc: Hà Nội, Hưng Yên, Nam Định, Hải Phòng, Quãng
Ninh…
- Các tỉnh miền Nam Trung Bộ: Bình Định, Khánh Hòa, Phú Yên…
- Các tỉnh ở Tây Nam Bộ: TP.Hồ Chí Minh, Long An, Tiền Giang…
1.1.3. Đặc điểm thực vật [18]
- Cây gỗ nhỏ, phân cành nhiều,có thể tạo dáng dễ dàng.
- Lá đơn, hình tròn hay ovan, nhẵn bóng, hình nêm ở gốc, có thu hẹp hay lõm ở

đỉnh nguyên.
- Thân hình tròn, thường không có gai, hoa mọc đơn hay mọc chùm, màu trắng,
nhị hoa nhiều dính nhau ở gốc và ngắn hơn cảnh hoa.
- Quả hình cầu hay hình trứng, có thể lõm ở đáy quả. Quả có màu xanh khi còn
non và màu vàng sáng khi chín. Quả có 3-7 múi có 2-3 hạt, hạt đa phôi hay đơn phôi.
-3-
- Rễ cọc nếu được gieo từ hạt; rễ chùm nếu được chiết hay giâm. Rễ quất
thường ăn nông.
1.1.4. Công dụng của cây Quất [17]
Quất là cây cảnh có dáng đẹp, tán lá xanh thẩm, quả màu vàng da cam sáng rực,
nên được nhiều người ưa chuộng trong ngày Tết.
Không những vậy, sau khi chơi Tết xong các bộ phận của cây Quất còn có tác
dụng chữa bệnh rất hữu ích. Sau đây là các công dụng của cây Quất.
- Hoa Quất: Có tính ôn, vị cay, ngọt, đắng, có tác dụng lưu thông khí huyết.
- Trái Quất: Theo đông y trái quất có vị chua ngọt tính ấm vào hai kinh tỳ và vị
có tác dụng xúc tiến chức năng tiêu hóa chống đầy tức, dùng chữa các chứng ho do
phong hàn, vùng thượng vị đầy tức, đau dạ dày, bụng chướng nổi hòn cục, nôn mửa,
chán ăn, phụ nữ sau khi sinh bị đau bụng, giải độc, giải rượu…
- Hạt Quất: Có vị chua cay tính bình, dung chữa các bệnh về mắt, viêm họng,
tiêu hạch…
- Lá Quất: Có vị đắng tính lạnh, vào các kinh, can tỳ và phế có tác dụng điều
hòa cải thiện chức năng gan, kích thích tiêu hóa, chống nôn, tiêu hạch…
- Rễ Quất: Có vị chua cay tính ấm có tác dụng chữa đau dạ dày nôn ra thức ăn,
nấc nghẹn, mụn nhọt…

Hình 1.1. Cây Quất Hình 1.2. Hoa Quất
-4-
1.2. Tổng quan về tinh dầu [2 ,5, 8, 14, 15]
1.2.1. Khái niệm về tinh dầu
Tinh dầu là những chất thơm hay chất mùi có trong một số bộ phận của cây cỏ

(như hạt, rễ, củ, vỏ cây, hoa, lá, quả, dầu, nhựa cây) hay động vật (túi tinh dầu). Tinh
dầu có trong các nguồn nguyên liệu trên với nồng độ rất khác nhau, có thể thay đổi từ
phần triệu đến phần trăm. Khối lượng phân tử của các hợp chất có trong tinh dầu vào
khoảng 300 amu. Khác với các loại dầu không bay hơi (glycerid, acid béo), tinh dầu
tương đối dễ bay hơi.
Đa số thành phần chính của các loại tinh dầu đều là các hợp chất terpenoid được
cấu tạo từ các đơn vị isopren (C
5
H
8
) nối với nhau theo quy tắc “đầu nối với đuôi”.
Terpenoid đơn giản nhất được cấu tạo từ 2 đơn vị isopren được gọi là monoterpenoid.
Nếu có nhiều hơn 2 đơn vị isopren thì được gọi là sesquiterpenoid (ứng với 3 đơn vị
isopren), diterpenoid (ứng với 4 đơn vị isopren), triterpenoid (ứng với 6 đơn vị
isopren ).


b) Bộ khung terpenoid cơ bản a) Phân tử isopren

Hình 1.3. Cấu trúc phân tử isopren và bộ khung cơ bản của các terpenoid
1.2.2. Phân loại các thành phần có trong tinh dầu
Thành phần tinh dầu được phân loại theo các cách sau:
1.2.2.1. Phân loại theo hàm lượng [5]
Theo cách phân loại này các thành phần trong tinh dầu được chia thành 3 nhóm:
-5-
- Thành phần chính: là thành phần có hàm lượng trên 1%. Thành phần chính
là tiêu chuẩn chủ yếu để đánh giá chất lượng tinh dầu.
- Thành phần phụ: là thành phần có hàm lượng từ 0,1-1%.
- Thành phần vết: là thành phần có hàm lượng không quá 0,1% trong toàn bộ
tinh dầu.

1.2.2.2. Phân loại theo tính chất vật lý [8]
Tinh dầu của mỗi loài thực vật là một hỗn hợp bao gồm hàng trăm hợp chất
thuộc các nhóm hữu cơ khác nhau.
Các hợp chất có trong tinh dầu thường được phân thành hai nhóm chính:
- Nhóm thành phần dễ bay hơi: chiếm tới 90 – 95% tổng lượng tinh dầu.
- Nhóm còn lại: gồm các hợp chất ít bay hơi chỉ chiếm 1 – 10%.
Tỷ lệ các thành phần riêng lẻ có thể thay đổi rất lớn tùy theo giống cây trồng,
điều kiện canh tác, mùa vụ và các bộ phận khác nhau của cây tuy nhiên số lượng của
các thành phần là không thay đổi trong phạm vi loài.
1.2.2.3. Phân loại theo bản chất hóa học [14]
Có nhiều cách phân loại tinh dầu theo bản chất hóa học sau đây là các cách phân
loại.
Các hợp chất trong tinh dầu được chia thành các nhóm:
- Monoterpen mạch hở (ví dụ: myrcen, ocimen).
- Monoterpen mạch vòng (ví dụ: p-cymen, pinen, sabinen).
- Monoterpen mạch hở bị oxy hóa (như farnesol, linalool, neral).
- Monoterpen mạch vòng bị oxy hóa (như terpineol, geraniol).
- Sesquiterpen mạch hở (ví dụ: farnesen).
- Sesquiterpen mạch vòng (ví dụ: copaen, humulen).
- Sesquiterpen mạch hở bị oxy hóa (như nerolidol).
- Sesquiterpen mạch vòng bị oxy hóa (như nootkaton, spathulenol).
- Các hợp chất thơm (ví dụ: indol).
- Các hydrocarbon mạch dài (như tetradecanal, dodecanal).
-6-
Hình 1.4. Công thức hóa học của một số hợp chất thường có trong tinh dầu
-7-
1.2.3. Tính chất vật lý và hóa học chung của tinh dầu [5, 14]
1.2.3.1. Tính chất vật lý
Để xác định tính chất vật lý của tinh dầu, thông thường người ta tiến hành xác
định các chỉ số như tỷ trọng, chiết suất, tỷ lệ hòa tan trong cồn 90

0
ở 25
0
C, nhiệt độ sôi,
năng suất quay cực, màu sắc.
Hầu hết tỷ trọng của các loại tinh dầu thường nhỏ hơn 1, do vậy chúng thường
nhẹ hơn nước. Tuy nhiên, cũng có một vài tinh dầu có khối lượng riêng lớn hơn nước
(như tinh dầu quế, tinh dầu đinh hương…).
Tinh dầu không tan hoặc rất ít tan trong nước nhưng chúng hòa tan tốt trong đa
số các dung môi hữu cơ như eter, cồn
Mặc dù thành phần hóa học của mỗi loại tinh dầu là khác nhau, nhưng nhìn
chung chúng có nhiệt độ sôi khoảng 100
0
C – 200
0
C, dễ bay hơi và có mùi thơm.
Về màu sắc, tinh dầu thường không màu hoặc có màu vàng nhạt. Một số ít tinh
dầu có màu (ví dụ: tinh dầu ngải cứu có màu xanh lơ, tinh dầu quế có màu nâu sẫm) là
do sự có mặt của các hợp chất có màu được lôi kéo theo tinh dầu trong quá trình chiết
xuất (ví dụ: màu xanh do có chlorophyll, màu vàng do có carotenoid,…). Còn mùi và
vị của tinh dầu chủ yếu gây ra do các cấu tử bị oxy hóa.
1.2.3.2. Tính chất hóa học
Các thành phần trong tinh dầu là các hợp chất terpenoid (tức các hydrocarbon
không no) nên chúng dễ bị thủy phân (nhất là ở nhiệt độ cao) và bị phân hủy bởi ánh
sáng thành các hợp chất khác. Vì vậy, người ta thường bảo quản tinh dầu trong những
lọ sẫm màu, có miệng nhỏ và đậy nút kỹ.
1.2.4. Vai trò của tinh dầu trong đời sống thực vật [16]
Vấn đề về vai trò của tinh dầu trong đời sống của cây đã được đề cập tới trong
rất nhiều công trình nghiên cứu. Theo quan niệm được trình bày trong các công trình
khác nhau, vai trò của tinh dầu được quy tụ trong các nội dung sau đây:

Theo Ph. X. Tanaxienco, 1985:
- Bảo vệ cây khỏi các tác động của sâu bệnh.
-8-
- Che phủ các vết thương ở cây gỗ.
- Ngăn chặn các bệnh do nấm.
- Biến đổi sức căng bề mặt của nước trong cây, thúc đẩy sự vận chuyển
nước, tăng hiệu quả của các phản ứng enzym.
Theo Charabot cho rằng tinh dầu đóng vai trò như các chất dự trữ trong cây, nó
có khả năng vận chuyển đến các phần khác nhau của cây, tại đây tinh dầu được sử
dụng như một nguồn năng lượng hay tạo thành các sản phẩm mới có cấu trúc gần với
nó.
Theo quan điểm của Tschirch (1925) trong đời sống của cây, tinh dầu giữ vai trò
quan trọng (tuy nhiên, theo tác giả chưa thể biết rõ đó là vai trò gì) và vì vậy không nên
xếp tinh dầu vào nhóm các chất tiết một cách tuyệt đối. Khác với Charabot, Tschirch
cho rằng đôi khi tinh dầu được “lưu giữ lại” trong các bể chứa tinh dầu và không tham
gia vào các phản ứng tiếp theo.
Theo Coxtrisep X. P. (1937) cho rằng tinh dầu có thể được xếp vào 2 nhóm
chức năng:
- Nhóm các tinh dầu có chức năng sinh lý được cây sử dụng trong quá trình sinh
trưởng.
- Nhóm các tinh dầu không có chức năng sinh lý, không được cây sử dụng,
chúng đơn thuần chỉ là các chất tiết của cơ thể và được tích lũy trong các bể chứa tinh
dầu.
Như vậy, theo quan điểm này, các thành phần của tinh dầu được tích lũy trong
tuyến tiết không có vai trò sinh lý trong hoạt động sống của cây. Trong khi đó theo
quan điểm thông thường, tinh dầu thực vật chính là sản phẩm của quá trình tổng hợp và
tích lũy do các cơ quan tiết đảm nhiệm.
Những năm sau này, khi dùng carbon đánh dấu để nghiên cứu quá trình chuyển
hóa tinh dầu trong cơ thể sống, Mutxtiatse (1985) đã chứng minh rằng, các thành phần
tinh dầu được tích lũy trong tuyến tiết không phải là các chất tiết cố định mà còn tham

-9-
gia tích cực vào quá trình trao đổi chất của cây; do vậy thành phần hóa học của tinh
dầu ở trong cây luôn luôn được đổi mới.
Những năm gần đây, vai trò sinh lý của tinh dầu trong đời sống thực vật được
thống nhất trong hầu hết các tài liệu đã công bố. Tuy nhiên, chức năng cụ thể của từng
hợp chất còn phải được nghiên cứu sâu hơn.
Qua các bằng chứng thực nghiệm, có thể khẳng định chắc chắn rằng, nhiều
thành phần hóa học của tinh dầu, ví dụ một số acid có phân tử lượng thấp, rượu, các
aldehid mạch vòng…là những nguyên liệu khởi đầu để tổng hợp hàng loạt các chất có
hoạt tính sinh học. Trong thành phần của tinh dầu, có thể gặp hàng loạt các chất khởi
nguyên nói trên: các acid hữu cơ thường gặp gồm: acid acetic, acid valerianic, acid
isovalerianic …, và các rượu tương ứng với chúng; ngoài ra còn thường gặp các
aldehid, các ester, một số terpenoid như geraniol, linalool, pharnesol, nerolydol… Đó
là những hợp chất liên quan tới nhiều kiểu cấu trúc hóa học khác nhau và tham gia vào
các hệ thống đồng hóa khác nhau. Trong thành phần tinh dầu còn thường thấy các hợp
chất có nhân thơm như aneton, pheniletilnol, benzaldehid, vanilin, thậm chí cả các hợp
chất có chứa nitơ và lưu huỳnh. Vì vậy không thể lý giải vai trò của tinh dầu một các
chung chung hoặc nhìn nhận vấn đề chỉ trong một vài giả thuyết cụ thể nào đó. Để
đánh giá chính xác vai trò của tinh dầu trong hoạt động sống ở cây, cần phải tiến hành
nghiên cứu từng thành phần riêng lẻ của tinh dầu hoặc các hợp chất có cấu trúc gần
nhau.
Hiện nay, các bằng chứng xác đáng chủ yếu tập trung vào sự tham gia của các
thành phần tinh dầu trong quá trình trao đổi chất, có nghĩa là tinh dầu tham gia vào các
quá trình sinh lý hóa bên trong tế bào. Và nhiều kết quả nghiên cứu gần đây đã chứng
minh rằng, một số dạng terpenoid của tinh dầu như các geraniol, linalool, farnesol …
thường có mặt trong hầu hết các cơ thể sống ở tất cả các mức độ tiến hóa khác nhau, từ
các vi sinh vật, các loài thực vật bậc thấp, thực vật bậc cao, đến cả động vật cũng như
con người. Các terpen được hình thành từ 2,3 hoặc nhiều phân tử isopren (C
5
H

6
) và
isopren lại là một trong những hợp chất cơ sở để tạo thành các carotenoid, các steroid
-10-
và cao su. Các kết quả nghiên cứu tiếp theo đã xác nhận rằng, quá trình sinh tổng hợp
trong mọi cơ thể thực vật đều bắt nguồn từ hợp chất ban đầu là acid acetic qua các sản
phẩm trung gian là acid mevalonic, isopentenil pirophosphat đến geranil và farnesil
phosphat. Bằng thực nghiệm, người ta đã chứng minh được các chuỗi carbon trong các
phân tử geraniol, linalool, farnesol và nerolidol là những sản phẩm trung gian chủ yếu
trong quá trình sinh tổng hợp các terpenoid có hoạt tính sinh học như các phyton,
hocmon steroid, acid mật, các vitamin D, vitamin K, vitamin E, các carotenoid, các
chất kích thích sinh trưởng thuộc nhóm giberilin…Một số hợp chất thường gặp trong
thành phần của tinh dầu như linalool, farnesol, nerolidol…luôn có mặt trong hầu hết
các hoạt động sống của cây.
1.2.5. Sinh tổng hợp tinh dầu trong cơ thể thực vật [16]
Hiện tồn tại hai giả thuyết về quá trình tổng hợp và tích lũy tinh dầu:
- Một số tác giả cho rằng tinh dầu được tổng hợp ở các tế bào không phụ thuộc
cấu trúc tiết và chuyển dần vào tuyến tiết. Theo quan điểm này, cấu trúc tiết được coi
như cơ quan đảm nhận vai trò tích lũy sản phẩm. Cơ sở của giả thuyết trên chủ yếu dựa
trên các kết quả quan sát thấy sự có mặt của một số giọt tinh dầu và một số men tham
gia vào quá trình tổng hợp tinh dầu ở các tế bào nằm ngoài tuyến tiết. Liên quan tới giả
thuyết nói trên, nhiều nhà khoa học đã chứng minh mối liên quan trực tiếp giữa tinh
dầu với các hợp chất hữu cơ khác trong mô thực vật: lignin, glucosid …
- Những năm sau này, với các phương tiện nghiên cứu hiện đại, hầu hết các tác
giả đã thừa nhận rằng, cấu trúc tiết là cơ quan chuyên hóa làm nhiệm vụ tổng hợp và
tích lũy tinh dầu. Theo quan điểm này, các tế bào tiết (nằm trong thành phần cấu trúc
tiết) làm nhiệm vụ tổng hợp tinh dầu, và theo một cơ chế nào đó, tinh dầu được vận
chuyển, tập trung ở cấu trúc chuyên biệt gọi là khoang chứa tinh dầu. Bằng chứng của
giả thuyết này được các tác giả nêu ra bởi sự có mặt đầy đủ tất cả các hệ men tham gia
tổng hợp tinh dầu trong các tế bào của cấu trúc tiết. Cho đến nay hầu như không có nhà

nghiên cứu nào nghi ngờ giả thuyết này, tuy nhiên không ít vấn đề liên quan còn chưa
được sáng tỏ hoàn toàn. Trước hết, khi thừa nhận vai trò sinh học của tinh dầu trong
-11-
đời sống thực vật, đồng thời cũng thừa nhận có sự vận chuyển tinh dầu từ trong cấu
trúc tiết ra các mô xung quanh để tham gia vào các quá trình chuyển hóa, vậy tại sao
không có sự vận chuyển ngược lại?.
Nhiều năm trở lại đây, hầu hết các nhà nghiên cứu theo hướng này đều tập trung
làm sáng tỏ sự định khu của các phản ứng. Vấn đề dễ thừa nhận là sự tổng hợp tinh dầu
là một quá trình bao gồm hàng loạt các phản ứng hóa học. Tùy theo mức độ phức tạp
của cấu trúc, mỗi hợp chất có thể phải trải qua nhiều phản ứng hóa học khác nhau.
Mỗi phản ứng cần một hệ thống men xác định, vì vậy nghiên cứu sự có mặt của
các hệ men cụ thể ở các cơ quan khác nhau có thể là cơ sở để nghiên cứu sự định khu
của các phản ứng. Cho đến nay, vẫn tồn tại hai quan điểm về sự định khu của các phản
ứng tổng hợp:
- Đa số các tác giả khi nghiên cứu quá trình sinh tổng hợp tinh dầu đã cho rằng
mỗi hợp chất được tổng hợp ở một cơ quan nhất định. Điều đó có nghĩa là ở mỗi cơ
quan tử có thể bao gồm một hệ thống men đảm bảo cho một loạt phản ứng xảy ra.
- Một số tác giả khác lại đề xuất giả thuyết “dây chuyền phản ứng”. Theo quan
điểm này, mỗi hợp chất trước khi được đưa vào tích lũy trong khoang chứa cần phải
qua các phản ứng ở nhiều cơ quan tử khác nhau. Giả thuyết này dựa trên sự có mặt rất
hạn chế các hệ men ở các cơ quan khác nhau. Từ những số liệu trên, các nhà nghiên
cứu cho rằng mỗi cơ quan tử chỉ phụ trách một hoặc một số ít các phản ứng hóa học
xác định và quá trình tổng hợp các hợp chất xảy ra theo một dây chuyền liên tục từ cơ
quan tử này sang một cơ quan tử khác.
Mặc dù các vấn đề được đặt ra còn có nhiều bất đồng, song những nghiên cứu
đều khẳng định rằng, tất cả các phản ứng tổng hợp đều xảy ra trên bề mặt của màng các
cơ quan tử và tế bào. Đồng thời cũng thống nhất rằng, hệ thống ống nội bào có nhiệm
vụ thu hồi và vận chuyển các hợp chất tinh dầu tới khoang chứa.
Ở mỗi cơ quan của thực vật, trong các giai đoạn phát triển khác nhau, các quá
trình tổng hợp và biến đổi của tinh dầu xảy ra không như nhau. Điều này giải thích sự

-12-
khác biệt về hàm lượng và thành phần tinh dầu trong các cơ quan của cùng một cây
hoặc ở các giai đoạn sinh trưởng khác nhau trong quá trình phát sinh cá thể.
Quá trình tổng hợp tinh dầu được điều khiển chặt chẽ bởi hệ thống gen, tuy
nhiên hoạt hóa các tổ hợp gen lại có mối liên quan khá chặt chẽ với điều kiện ngoại
cảnh. Vì vậy, quá trình tổng hợp tinh dầu trong cây là kết quả của hiệu ứng “kiểu gen –
môi trường”. Nguyên liệu cho quá trình sinh tổng hợp tinh dầu trong cây từ lâu đã
được thừa nhận là các sản phẩm của quá trình quang hợp và sự tổng hợp tinh dầu cũng
chỉ xảy ra trong điều kiện được chiếu sáng. Song gần đây, người ta cũng đã chứng
minh được rằng quá trình tổng hợp tinh dầu cũng có thể xảy ra cả trong điều kiện
không có ánh sáng và trong trong trường hợp này rõ ràng nguyên liệu cho quá trình
tổng hợp là các sản phẩm trung gian của quá trình hô hấp.
Sự tổng hợp tinh dầu trong cây là một quá trình vô cùng phức tạp và đây cũng là
vấn đề còn nhiều tranh cãi và cần phải nghiên cứu tiếp tục trong thời gian tới.



Hình 1.5. Hình ảnh sự tập trung của tinh dầu trong lá
-13-
1.2.6. Ứng dụng của tinh dầu [5]
1.2.6.1. Trong công nghệ thực phẩm
Tinh dầu giữ vai trò quan trọng trong công nghệ sản xuất các loại bánh kẹo,
thức uống. Mặc dù sử dụng với lượng vô cùng nhỏ và dưới những dạng khác nhau, tinh
dầu đã góp phần tạo hương cho các loại thức ăn, đồ uống, làm cho chúng thêm phần
hấp dẫn. Gần đây, nhờ hoạt tính kháng vi sinh vật và khả năng chống oxi hóa ưu việt
của nó, trong công nhệ thực phẩm cũng đã xuất hiện xu hướng sử dụng tinh dầu như
một chất bảo quản thực phẩm tự nhiên và an toàn thay cho các chất bảo quản tổng hợp.
1.2.6.2. Trong y học
Tinh dầu là loại dược phẩm được sử dụng nhiều nhất trong y học cổ truyền. Mỗi
loại tinh dầu có thành phần hóa học và cấu phần chính khác nhau nên những hoạt tính

trị bệnh cũng khác nhau, có loại tác dụng lên hệ thần kinh trung ương, có loại lại kích
thích dịch tiêu hóa, dịch dạ dày, dịch ruột và dịch mật. Vì vậy, chúng được điều chế
thành thuốc chữa trị các bệnh về đường hô hấp, tuần hoàn, tiêu hóa, chữa đau bụng,
nôn mửa, xoa bóp các chỗ đau, giảm mệt mỏi và kích thích hoạt động của cơ bắp. Ví
dụ: tinh dầu bạc hà có hàm lượng mentol cao có tác dụng kích thích các đầu dây thần
kinh, gây cảm giác lạnh và giảm đau tại chỗ do đó được dùng làm chế phẩm cao xoa,
dầu xoa; tinh dầu hương nhu cung cấp eugenol dùng làm thuốc sát trùng, thuốc giảm
đau, chất dùng trong việc trám răng tạm thời; tinh dầu thuộc họ cam quýt dùng làm
thuốc kích thích tiêu hóa, trị cảm
1.2.6.3. Trong công nghiệp sản xuất mỹ phẩm
Ngày nay, ngành công nghiệp mỹ phẩm phát triển rất mạnh, tinh dầu không
những được sử dụng trực tiếp trong các spa cao cấp mà chúng còn là nguồn nguyên
liệu chủ yếu để sản xuất các sản phẩm như: nước hoa, kem đánh răng, xà phòng thơm,
dầu gội đầu, các loại kem dưỡng da, son môi
1.3. Các phương pháp sản xuất tinh dầu [4, 5, 14]
Hiệu suất và chất lượng tinh dầu cần tách phụ thuộc vào đặc tính lý-hóa của tinh
dầu cần tách, bộ phận mà chất thơm chứa trong nguyên liệu và phương pháp chiết xuất.
-14-
Các phương pháp chiết xuất tinh dầu thông dụng là chưng cất, chiết, ướp ngâm và ép.
1.3.1. Phương pháp chưng cất lôi cuốn hơi nước (Hydrodistillation)
1.3.1.1. Nguyên lí của phương pháp
Đây là phương pháp đầu tiên được dùng để tách tinh dầu ra khỏi nguyên liệu
thực vật. Cơ sở của phương pháp này là nhiệt độ sôi của hỗn hợp sẽ thấp hơn nhiệt độ
sôi của các cấu tử thành phần. Do đó, khi chưng cất hơi nước các cấu tử tinh dầu sẽ
được tách ra ở nhiệt độ thấp hơn nhiệt độ sôi của nước, vì vậy sẽ hạn chế sự biến tính
hóa học (sự oxy hóa, nhiệt phân ) các cấu tử tinh dầu. Trong quá trình chưng cất, hơi
nước sẽ được thẩm thấu vào các mô nguyên liệu, sau đó sẽ hòa tan, khuếch tán và lôi
cuốn theo các hợp chất hữu cơ trong thành phần tinh dầu. Dịch chưng cất sẽ gặp lạnh
tại ống sinh hàn và được ngưng tụ và phân tách thành 2 lớp (lớp tinh dầu bên trên và
lớp nước ở bên dưới) trong hệ thống ngưng tụ. Sự khuếch tán sẽ dễ dàng khi tế bào

chứa tinh dầu trương phồng do nguyên liệu tiếp xúc với hơi nước bão hòa trong một
thời gian nhất định. Trường hợp các mô thực vật có các hợp chất khó bay hơi (như sáp,
nhựa, acid béo dây dài mạch thẳng) thì quá trình chưng cất phải được thực hiện trong
một thời gian dài vì những hợp chất này làm giảm áp suất hơi chung của hệ thống và
làm cho sự khuếch tán trở nên khó khăn.

Hình 1.6. Thiết bị chưng cất lôi cuốn hơi nước cổ điển
-15-
1.3.1.2. Những yếu tố chính ảnh hưởng đến hiệu suất chưng cất tinh dầu
a) Sự khuếch tán
Ngay cả khi nguyên liệu được làm vỡ vụn thì chỉ có một số mô chứa tinh dầu bị
vỡ và cho tinh dầu thoát tự do ra ngoài theo hơi nước lôi cuốn đi. Theo Von
Rechenberg, ở nhiệt độ sôi của nước phần lớn tinh dầu còn lại trong các mô thực vật sẽ
được hòa tan vào trong nước có sẵn trong tế bào thực vật. Dung dịch này sẽ thẩm thấu
dần ra bề mặt nguyên liệu và bị hơi nước cuốn đi. Còn nước sẽ thẩm thấu vào nguyên
liệu theo chiều ngược lại và tinh dầu lại tiếp tục bị hòa tan vào lượng nước này. Quy
trình này lặp đi lặp lại cho đến khi tinh dầu trong các mô thoát ra ngoài hết.
Như vậy, sự hiện diện của nước rất cần thiết, cho nên trong trường hợp chưng
cất sử dụng hơi nước quá nhiệt, chú ý tránh đừng để nguyên liệu bị khô. Tuy nhiên,
nếu lượng nước sử dụng thừa quá thì cũng không có lợi, nhất là trong trường hợp tinh
dầu có chứa những cấu phần tan dễ trong nước.
Ngoài ra, vì nguyên liệu được làm vỡ vụn ra càng nhiều càng tốt, cần làm cho
lớp nguyên liệu có một độ xốp nhất định để hơi nước có thể đi xuyên ngang lớp này
đồng đều và dễ dàng.
Vì các cấu phần trong tinh dầu được chưng cất hơi nước theo nguyên tắc nói
trên cho nên thông thường những hợp chất nào dễ hòa tan trong nước sẽ được lôi cuốn
trước.
Thí dụ, khi chưng cất hơi nước hạt caraway, đối với hạt không nghiền thì carvon
(có nhiệt độ sôi cao nhưng tan nhiều trong nước) sẽ ra trước, còn limonen (có nhiệt độ
sôi thấp, nhưng ít tan trong nước) sẽ ra sau. Nhưng với hạt caraway nghiền nhỏ thì kết

quả chưng cất ngược lại.
b) Sự thủy phân
Những cấu phần este trong tinh dầu dễ bị thủy phân cho ra acide và alcol khi
đun nóng trong một thời gian dài với nước. Do đó, để hạn chế hiện tượng này, sự
chưng cất hơi nước phải được thực hiện trong một thời gian càng ngắn càng tốt.
c) Nhiệt độ
-16-
Nhiệt độ cao sẽ làm phân hủy tinh dầu. Do đó, khi cần thiết phải dùng hơi nước
quá nhiệt (trên 100
0
C) nên thực hiện việc này trong giai đoạn cuối cùng của sự chưng
cất, sau khi các cấu phần dễ bay hơi đã lôi cuốn đi hết. Thực ra, hầu hết các tinh dầu
đều kém bền dưới tác dụng của nhiệt nên vấn đề là làm sao cho thời gian chịu nhiệt độ
cao của tinh dầu càng ngắn càng tốt.
Tóm lại, dù 3 ảnh hưởng trên được xem xét độc lập nhưng thực tế thì chúng có
liên quan với nhau và quy về ảnh hưởng của nhiệt độ. Khi tăng nhiệt độ, sự khuếch tán,
thẩm thấu sẽ tăng, sự hòa tan tinh dầu trong nước sẽ tăng nhưng sự phân hủy cũng tăng
theo.
1.3.1.3. Ưu nhược điểm của phương pháp
a. Ưu điểm
- Phương pháp này đơn giản dễ làm.
- Thiết bị rẻ tiền, gọn và dễ chế tạo.
- Phù hợp với những cơ sở sản xuất nhỏ, vốn đầu tư ít.
- Quy trình kỹ thuật tương đối đơn giản.
- Không đòi hỏi vật liệu phụ như các phương pháp tẩm trích, hấp thụ.
- Thời gian chưng cất tương đối nhanh.
b. Nhược điểm
Phương pháp này có nhược điểm như:
- Hiệu suất thấp.
- Chất lượng tinh dầu không cao do nguyên liệu tiếp xúc trực tiếp với thiết bị

nên dễ bị cháy khét.
- Khó điều chỉnh các thông số kỹ thuật như tốc độ và nhiệt độ chưng cất.
- Không hiệu quả đối với những nguyên liệu có hàm lượng tinh dầu thấp.
- Chất lượng tinh dầu có thể bị ảnh hưởng nếu trong tinh dầu có những cấu
phần dễ bị phân hủy.
- Không lấy được các loại nhựa và sáp có trong nguyên liệu (đó là những
chất định hương thiên nhiên rất có giá trị).
-17-
- Trong nước chưng luôn luôn còn một lượng tinh dầu tương đối lớn.
- Những tinh dầu có nhiệt độ sôi cao thường cho hiệu suất rất kém.
1.3.2. Các phương pháp khác
1.3.2.1. Phương pháp chiết (Extraction)
Cơ sở của phương pháp dựa trên hiện tượng thẩm thấu, khuếch tán và hòa tan
của tinh dầu có trong các mô nguyên liệu khi tiếp xúc với dung môi hữu cơ. Phương
pháp chiết thường dùng để tách các hương liệu dễ bay hơi mà phương pháp chưng cất
tỏ ra kém hiệu quả.
Trong phương pháp này nguyên liệu được ngâm trong dung môi hữu cơ thích
hợp, sau đó cất chân không để thu hồi dung môi, phần còn lại là hỗn hợp tinh dầu và
sáp được gọi là tinh dầu cô kết (gọi là “concrete oil”). Dùng cồn tuyệt đối hòa tan
“concrete oil” rồi để lạnh, khi đó phần sáp sẽ đông đặc và được tách loại, phần dịch
còn lại được đem chưng cất lôi cuốn hơi nước để thu tinh dầu tinh khiết (gọi là
“absolute oil”). Đây cũng chính là hai dạng sản phẩm chính của chất thơm hiện lưu
hành trên thị trường.
a. Yêu cầu của dung môi chiết
Yếu tố quan trọng nhất cho sự thành công của phương pháp này là phẩm chất và
đặc tính của dung môi sử dụng, do đó dung môi chiết cần phải đạt được những yêu cầu
sau:
 Hòa tan hoàn toàn và nhanh chóng các cấu phần có mùi thơm trong nguyên
liệu.
 Hòa tan kém các hợp chất khác như sáp, nhựa dầu có trong nguyên liệu.

 Không có tác dụng hóa học với tinh dầu.
 Không biến chất khi sử dụng lại nhiều lần.
 Hoàn toàn tinh khiết, không có mùi lạ, không độc, không ăn mòn thiết bị,
không tạo thành hỗn hợp nổ với không khí và có độ nhớt kém.
 Nhiệt độ sôi thấp vì khi chưng cất dung dịch ly trích để thu hồi dung môi,
nhiệt độ sôi cao sẽ ảnh hưởng đến chất lượng tinh dầu.
-18-
 Ngoài ra, cần có thêm những yếu tố phụ khác như: giá thành thấp, nguồn
cung cấp dễ tìm, …
Thường thì không có dung môi nào thỏa mãn tất cả những điều kiện kể trên.
Người ta sử dụng cả dung môi không tan trong nước (như dietyl ete, ete dầu hỏa,
hexan, cloroform…) lẫn dung môi tan trong nước (như etanol, axeton…). Trong một số
trường hợp cụ thể, người ta còn dùng một hỗn hợp dung môi.
b. Ưu và nhược điểm của phương pháp
- Ưu điểm: Sản phẩm thu được theo phương pháp này thường có mùi thơm tự
nhiên. Hiệu suất sản phẩm thu được thường cao hơn các phương pháp khác.
- Khuyết điểm: Yêu cầu cao về thiết bị, thất thoát dung môi, quy trình tương đối
phức tạp.
1.3.2.2. Phương pháp ướp (Enfleurage)
Cơ sở của phương pháp dựa trên hiện tượng hấp phụ chất thơm bởi các chất béo
dạng lỏng hay rắn (vaselin, parafin, dầu oliu hoặc mỡ động vật) đã tinh chế. Người ta
dùng các khay sâu 8cm, rộng 60cm, dài 100cm đáy là mặt kính có phủ lớp chất béo để
hấp phụ chất thơm. Các khay có thể xếp chồng lên nhau, trên mặt khay xếp đều nguyên
liệu để trích hương và để yên trong khoảng từ 12-72 giờ tùy từng loại nguyên liệu, sau
đó thay lớp nguyên liệu mới và để hấp phụ từ 10-15 lần cuối cùng thu được chất béo có
mùi thơm. Đem lắc chất béo với etanol cao độ để trích ly tinh dầu, sau đó để lạnh -
10
0
C để loại bỏ hết chất béo bị kéo theo rồi cô đuổi etanol dưới áp suất thấp để thu tinh
dầu. Kỹ thuật này thuờng được dùng để chiết hương thơm của các loài hoa để thu sản

phẩm dưới dạng tinh dầu cô đặc (“essence concentrée”) dùng trong mỹ phẩm.
1.3.2.3. Phương pháp ngâm (Hot Maceration)
Phương pháp này dựa trên hiện tượng hấp thụ chất thơm bởi các loại dầu béo.
Hoa được ngâm trong dầu béo đã tinh chế trong một thiết bị được làm nóng bởi hơi
nước ở 45-60
0
C trong thời gian từ 1-2h. Sau mỗi lần ngâm, vớt hoa ra cho vào máy vẩy
ly tâm để thu hồi dầu và cho tiếp nguyên liệu mới vào. Mỗi mẻ dung môi có thể dùng
-19-
để chiết 10-15 lần. Dầu béo đã bão hòa chất thơm được đem lắc với etanol rồi cô dưới
áp suất thấp để thu được tinh dầu cô đặc tương tự như trong phương pháp ướp.
1.3.2.4. Phương pháp ép (Expression hay Cold Pressing)
Phương pháp này áp dụng cho các loại dược liệu có hàm lượng tinh dầu cao và
tế bào chứa tinh dầu ở phần vỏ thuộc chi Citrus.
Nguyên liệu chiết được trích tinh dầu bằng cách ép ở nhiệt độ thường sử dụng
các loại máy ép trục vít vô tận hoặc cối ép dùng nêm (giống như ép các loại dầu béo).
Phần thu được là một hỗn hợp gồm tinh dầu và dịch cùi có thể dễ dàng tách bằng cách
cho thêm nước muối bão hòa, tinh dầu sẽ nổi lên trên có kéo theo một phần sáp và
nhựa. Dùng etanol 75 - 80
0
để hòa tan tinh dầu, sau đó làm lạnh để loại bỏ sáp. Sau khi
cô dưới áp suất thấp để loại bỏ etanol ta có sản phẩm tinh dầu có lẫn một ít nhựa.
Phương pháp này có thể cho hiệu suất trên 90% so với hàm lượng tinh dầu định lượng
trong phòng thí nghiệm.
Ngoài ra, ngày nay người ta còn sử dụng các phương pháp mới trong việc ly
trích tinh dầu như phương pháp chưng cất hay chiết dưới sự hỗ trợ bởi vi sóng, bởi siêu
âm, kỹ thuật vi chiết pha rắn (SPME: Solid phase micro-extraction), kỹ thuật chiết siêu
tới hạn (SFE: Supercritical fluid extraction), chiết kết hợp với chưng cất (SDE:
Simultaneous distillation extraction),…Tuy nhiên, chi phí đắt và thiết bị phức tạp hơn
nên ít phổ biến hơn trong thực tế.

1.4. Các dạng sản phẩm trong quá trình tách chiết tinh dầu
- Tinh dầu dạng cô kết (Concrete oil): thu được từ phương pháp ngâm chiết
tĩnh, chủ yếu là dùng để sản xuất tinh dầu thô. Đây là sản phẩm chưa loại sáp và chất
béo, có dạng sệt có thể được sử dụng trực tiếp.
- Tinh dầu tinh khiết (Absolute oil): được thu bằng cách chiết kiệt những sản
phẩm cô kết bằng một lượng etanol vừa đủ rồi làm lạnh đột ngột (-5 đến -10
0
C) để tủa
và lọc để loại sáp và chất béo. Phần dịch thu được đem cô quay chân không loại etanol
thu được tinh dầu tinh khiết.

×