Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Hệ thống làm mát trên xe gắn máy ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (312.77 KB, 6 trang )

Hệ thống làm mát trên xe gắn máy


Làm mát động cơ là rút bớt một phần nhiệt lượng do khí cháy truyền lại cho pít -
tông, xylanh, quylát. Nếu không được làm mát xylanh nóng quá làm cho khối hoà
khí rút vào bị nở giản ra trọng lượng hoà khí bị giảm theo.


Hơn thế nữa nếu động cơ nóng quá sẽ gây ra hiện tượng cháy tự động. Khi động
cơ hoạt động, lớp dầu nhớt làm trơn giữa các bộ phận cọ sát sẽ bị cháy hoặc biến
chất làm các chi tiết máy giãn nở ra bó kẹt không di chuyển được. Do đó để bảo
đảm cho các chi tiết máy làm việc bình thường tăng sức bền và tuổi thọ, tất cả các
loại hoạt động đều phải trang bị hệ thống làm mát. Tùy theo nhà chế tạo, công suất
và công dụng động cơ, hệ thống làm mát có thể chia ra làm hai loại là làm mát
bằng gió và làm mát bằng nước.
1. Làm mát bằng gió:
Được áp dụng hầu hết cho các động cơ xe gắn máy. Với phương pháp này sức
nóng ở xylanh, quylát sẽ toả ra môi trường không khí xung quanh. Do đó muốn
làm mát có hiệu quả tốt phải thực hiện các biện pháp sau :
─Gia tăng tiết diện làm mát của động cơ bằng đúc liền xylanh với quylát những
cánh tỏa nhiệt.
─Dùng kim lọai có hệ số truyền nhiệt lớn như nhôm hay hợp kim nhôm.
─Khối lượng không khí lưu thông qua diện tích làm mát phải lớn. Vì vậy các
động cơ được để trống, lợi dụng tốc độ của xe chạy trên đường để lấy tốc độ gió
làm mát các cánh tản nhiệt. Đối với một số xe động cơ bọc kính như: Vespa,
Spacy, Attila. . . có trang bị thêm một quạt gió thường gọi là ly tâm, được gắn vào
hoặc đúc liền với bánh trớn (Volant) để tăng lưu lượng gió thông qua các cánh tản
nhiệt.
─Nhiệt độ môi trường không khí xung quanh thấp hơn nhiệt độ làm mát.

2. Làm mát bằng nước:


Được áp dụng hầu hết trên ôtô và một số lọai xe gắn máy có công suất lớn, tốc độ
nhanh như xe đua, môtô, các xe tay ga hiện nay như xe Honda Click, Dylan. . .
a. Cấu tạo:
Một hệ thống làm mát bằng nước gồm có:
Két nước: Là bộ phận chứa đựng nước làm mát và làm nguội nước đã bị nóng sau
khi đi vào động cơ. Két nước thường có 2 thùng nước: Thùng nước trên và thùng
nước dưới thông nhau bởi những ống nhỏ tiết diện dẹt hình tổ ông. Một số xe đời
mới còn có thêm thùng nước dự trữ tự động châm nước vào thùng nước chính khi
thùng nước chính thiếu nước. Trong thùng nước “rin” có chất chống đông, chống
sôi. Ở nhiệt độ bình thường hỗn hợp này thường có màu xanh.

Bọng nước: Được đúc xung quanh xylanh, đầu quylát, là nơi nước lưu thông từ
két nước đến đầu quylát và ngược lại. Tại đây sẽ xảy ra quá trình trao đổi nhiệt.
Ống dẫn: Dẫn nước từ động cơ ra thùng nước trên, từ thùng nước dưới vào động
cơ có khả năng chịu được nhiệt độ cao, có thể dùng ống đồng hoặc nhôm.
Bơm: Có công dụng hút nước đã làm mát từ thùng nước dưới đưa vào động cơ
làm cho nước lưu thông tuần hoàn đến các đường ống và các bộ phận làm mát.
Bơm nước được điều khiển bởi buli quạt nước hay bánh răng từ cốt máy hoặc điều
khiển tự động bằng điện thông qua rơle nhiệt.
Quạt: Được lắp sau thùng nước có nhiệm vụ rút không khí từ trước ngang qua
ruột két nước để làm nguội nước nhanh chóng, đồng thời thổi gió vào động cơ.
Quạt gió được ráp trên một buli bơm nước và quay nhờ cốt máy hay được điều
khiển tự động bằng điện thông qua rơle nhiệt.
Bộ điều nhiệt: Được lắp giữa đường nước từ nắp quylát ra thùng nước, có nhiệm
vụ không cho nước lưu hành ra thùng nước nếu nước chưa đạt đến nhiệt độ trung
bình lối 700 - 900 C.
Đồng hồ báo nhiệt độ nước: Để giúp cho người điều khiển theo dõi nhiệt độ
động cơ lúc máy hoạt động. Sự kiểm soát này được thực hiện bằng một viễn nhiệt
kế.





Một viễn nhiệt kế thường có 2 phần:
+ Phần A gắn vào động cơ.
+ Phần B là một đồng hồ có kim chỉ lắp trước mặt người điều khiển.
Lúc máy nguội miếng kim loại kép gắn ở phần A chưa giãn nở làm công tắc mở,
luồng điện không lưu thông kim loại kéo ở đồng hồ kéo cây kim về phía C (cool).
Khi động cơ nóng, công tắc ở phần A đóng lại, luồng điện chạy qua điện trở R
trong đồng hồ làm miếng kim loại kép trong đồng hồ nóng giãn ra đẩy cây kim về
phía H (hot) Xe đời mới ngày nay dùng đèn báo thay cho đồng hồ báo nhiệt độ
nước (Vd: Xe Dylan): Khi mở công tắc máy thì đèn sáng sau 3 giây đèn tắt. Khi
động cơ chạy nếu đèn sáng thì nước nóng.
b. Nguyên lý làm việc:
Khi động cơ làm việc, bơm nước quay hút nước từ két nước đưa vào các bọng
nước ở xylanh, nắp quylát. Tại đây nhiệt lượng cuả khí cháy truyền cho xylanh
quylát được truyền cho nước làm mát, nước làm mát sẽ nóng lên qua ống dẫn
nước trở về két nước. Nếu nhiệt độ nước thấp hơn 70oC thì bộ điều nhiệt chưa mở
nước vẫn lưu hành xung quanh quylát. Nếu nhiệt độ nước lớn hơn 70oC thì bộ
điều nhiệt mở ra nước sẽ đi tuần hoàn trong hệ thống két nước. Ở két nước có
nhiều lá tản nhiệt, nước này sẽ được
làm nguội bằng gió (sức gió khi xe chạy hoặc quạt gió gắn ở động cơ). Sau đó
nước lại được hút vào làm nguội xylanh, quylát. Quá trình làm mát cứ như thế tiếp
tục.


×