Tải bản đầy đủ (.doc) (68 trang)

Luận văn: Một số giải pháp hoàn thiện chính sách phát triển công nghiệp Việt Nam pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (596.92 KB, 68 trang )

TRƯỜNG ………………….
KHOA……………………….

Báo cáo tốt nghiệp
Đề tài:


“Một số giải pháp hoàn thiện chính sách phát triển
công nghiệp Việt Nam giai đoạn 2001− 2020”
MỤC LỤC
L I M UỜ ỞĐẦ 3
CH NG IƯƠ 6
C S LÝ LU N C A CH NH SÁCH PHÁT TRI N CÔNG NGHI PƠ Ở Ậ Ủ Í Ể Ệ 6
I.B I C NH RA I C A CH NH SÁCH CÔNG NGHI PỐ Ả ĐỜ Ủ Í Ệ 6
II. T NG QUAN V CH NH SÁCH PHÁT TRI N CÔNG NGHI PỔ Ề Í Ể Ệ 7
1.Khái ni m v chính sách phát tri n công nghi pệ ề ể ệ 7
2. N i dung v m c tiêu c a chính sách phát tri n công nghi p .ộ à ụ ủ ể ệ 9
3. Tr ng tâm c a chính sách phát tri n công nghi p.ọ ủ ể ệ 10
4. Tính t t y u c a chính sách công nghi p.ấ ế ủ ệ 11
5. Phân lo i chính sách công nghi p .ạ ệ 14
6. Khái quát v chính sách công nghi p c a Vi t Nam.ề ệ ủ ệ 17
III. CH NH SÁCH CÔNG NGHI P C A M T S QU C GIA ÔNG Á VÀ BÀI Í Ệ Ủ Ộ Ố Ố Đ
H C KINH NGHIÊM CHO VI T NAM. (NH T B N, HÀN QU C, ÀI Ọ Ệ Ậ Ả Ố Đ
LOAN) 19
1. T p trung v o xây d ng c s kinh t trong n c.ậ à ự ơ ở ế ướ 20
2. Công nghi p hoá h ng n i, thay th nh p kh u c chuy n h ng ệ ướ ộ ế ậ ẩ đượ ể ướ
th nh công nghi p hoá h ng ngo i, khuy n khích xu t kh u v o th i à ệ ướ ạ ế ấ ẩ à ờ
i m thích h pđể ợ 23
CH NG IIƯƠ 29
TH C TR NG CH NH SÁCH PHÁT TRI N CÔNG NGHI P VI T NAMỰ Ạ Í Ể Ệ Ệ 29
I.CH NH SÁCH PHÁT TRI N CÔNG NGHI P VI T NAM TH I K (1954-Í Ể Ệ Ệ Ờ Ỳ


1989) 29
1. Khái quát chính sách phát tri n công nghi p th i k (1954-1989)ể ệ ờ ỳ 29
2.Nh n xét chung v chính sách phát tri n công nghi p th i k (1954-ậ ề ể ệ ờ ỳ
1989) 32
II. TH C TR NG CÔNG NGHI P VÀ CH NH SÁCH CÔNG NGHI P VI T Ự Ạ Ệ Í Ệ Ệ
NAM GIAI O N (1990-2000)Đ Ạ 33
1. Th c tr ng công nghi p giai o n (1990-2000)ự ạ ệ đ ạ 33
2. Nh ng t n t i trong s phát tri n công nghi p v chính sách công ữ ồ ạ ự ể ệ à
nghi p giai o n (1990-2000).ệ đ ạ 45
3. Các gi i pháp c a Chính ph ã th c hi n phát tri n công nghi p .ả ủ ủđ ự ệ để ể ệ
51
CH NG IIIƯƠ 53
GI I PHÁP CHO CH NH SÁCH PHÁT TRI N CÔNG NGHI P GIAI O N Ả Í Ể Ệ Đ Ạ
(2001-2020) 53
I. NH H NG CHUNG.ĐỊ ƯỚ 53
1. Xu h ng y m nh phát tri n công nghi p Vi t Nam trong nh ng ướ đẩ ạ ể ệ ệ ữ
n m t i.ă ớ 53
2. Mô hình chính sách công nghi p Vi t Nam n 2020.ệ ệ đế 54
3. nh h ng c c u công nghi p.Đị ướ ơ ấ ệ 56
4. nh h ng v b c i phát tri n s n ph m, th tr ng v nâng cao s cĐị ướ ề ướ đ ể ả ẩ ị ườ à ứ
c nh tranh c a s n ph m công nghi p.ạ ủ ả ẩ ệ 58
II. M T S GI I PHÁP C THỘ Ố Ả Ụ Ể 59
1. T p trung cao nâng cao ch t l ng ngu n nhân l c.ậ độđẻ ấ ượ ồ ự 59
2. V chính sách công ngh .ề ệ 61
3. Chính sách v v n.ề ố 62
4. Chính sách thu quan.ế 64
5. Chính sách h tr nh ng ng nh công nghi p m i nh n.ỗ ợ ữ à ệ ũ ọ 65
III. KI N NGH V XÂY D NG CH NH SÁCH PHÁT TRI N CÔNG NGHI PẾ Ị Ề Ự Í Ể Ệ
VI T NAM.Ở Ệ 66
K T LU N.Ế Ậ 67

LỜI MỞ ĐẦU
Trong quá trình phát triển kinh tế , nhiều nước trên thế giới đã có được
những thành công to lớn nhờ có các chính sách phát triển kinh tế − xã hội
đúng đắn mà một trong những yếu tố cơ bản là có được chính sách phát triển
công nghiệp phù hợp. Tiêu biểu cho sự thành công này phải kể đến các nước
NIC. Mặc dù với xuất phát điểm không cao nhưng nhờ có chính sách phát
triển công nghiệp đúng đắn, các nước này đã nhanh chóng trở thành những
con rồng châu á và đang cạnh tranh với những nước có nền kinh tế phát triển
khác.
Dự thảo báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá
VIII trình Đại hội đại biểu toanf quốc lần thứ IX có nêu: “ Mục tiêu tổng quát
của chiến lược phát triển kinh tế − xã hội 10 năm 2001− 2010 là : Đẩy mạnh
CNH− HĐH đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển , tập trung sức
xây dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng quan trọng và công
nghệ cao sản xuất tư liệu sản xuất cần thiết để trang bị và trang bị lại kỹ thuật;
công nghệ chế biến tiên tiến cho các ngành kinh tế nông nghiệp, công nghiệp ,
dịch vụ và đáp ứng nhu cầu quốc phàng, tạo nền tảng đến 2020 nước ta trở
thành một nước công nghiệp “.
Để thực hiện mục tiêu đó, Việt Nam cần thiết phải xây dựng vf thực
hiện được một chính sách phát triển kinh tế nói chung và một chính sách phát
triển công nghiệp hữu hiệu nói riêng. Song đối với Việt Nam quan niệm về
chính sách công nghiệp còn chưa áo sự nhất uán. vì vậyn việc nghiên cứu
chính sách công nghiệp Việt Nam là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn
quan trọng cho việc thực hiện dường lối đẩy mạnh CNH−HĐH đất nước, đưa
Việt Nam cơ bản trở thành một cước công nghiệp vào năm 2020.
Đó cũng là lý do khiến em chọn đề tài: “Một số giải pháp hoàn thiện
chính sách phát triển công nghiệp Việt Nam giai đoạn 2001− 2020”, với
mong muốn gopó một phần công sức nhỏ bé của mình vào công cuộc xây
dựng đất nước .
Với sự giúp đỡ tận tình của Giáo viên hướng dẫn: Nguyễn Tiến Dũng

và Cán bộ hướng dẫn: Lê Thuỷ Chung , Em xin mạnh rạn đưa ra cơ cấu đề tài
như sau :
Chương I. Cơ sở lý lluận của chính sách phát triển công nghiệp .
Chương II . Thực trạng chính sách phát triển công nghiệp Việt Nam .
Chương III. Một số giải pháp cho chính sách phát triển công nghiệp
Việt Nam giai đoạn 2001−2020.
Do có hạn chế vìi thời gian và trình độ, đề tài chắc chắn sẽ còn nhiều
thiếu sót, Em rất mong có được sự phê bình, sửa chữa của thày cô để chuyên
đề thực tập được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn !

CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP
I.BỐI CẢNH RA ĐỜI CỦA CHÍNH SÁCH CÔNG NGHIỆP
Hai thập kỷ sau Chiến tranh thế giới thứ II, có thể coi là thời kỳ tăng
trưởng kinh tế nhanh nhất của chủ nghĩa tư bản . Tất cả các nước công nghiệp
chính trong giai đoạn này đều trải qua mọt giai đoạn tăng trưởng nhanh với
lạm phát và thất nghiệp thấp. Đây cũng là lý do đưa học thuyết của J. Keynes-
Nhà kinh tế học người Mỹ (1883-1946) trở thành một tư tưởng kinh tế phổ
biến rộng rãi ở các trung tâm quyền lực của thế giới tư bản .
Thế nhưng, với các cú sốc dầu lửa thập kỷ 70s đã mở đầu cho sự sụp đổ
của một giai đoạn tăng trưởng đầy ấn tượng trước đây.Đã có rất nhiều những
thay đổi mang tính chất cơ cấu trong nền kinh tế thế giới. Sự dịch chuyển lao
động từ khu vực nông nghiệp truyền thống sang các ngành công nghiệp và
dịch vụ tạo ra một thị trường lao động vói giá nhân công tăng và sự lớn mạnh
của các tổ chức nghiệp đoàn.
Bên cạnh các nước công nghiệp phát triển phương Tây, Nhật Bản xuất
hiện với tư ccách là một trung tâm kinh tế lớn của thế giới. Các nước mới
công nghiệp hoá ở Đông á và Đông nam á ciếm vị trí hàng đầu trên một số thị
trường thế giới như : dệt may, điện tử dân dụng, đóng tàu và sắt thép. Những

thay đổi này đã làm phong phú hơn cho bức tranh công nghiệp thế giới. Tăng
trưởng nhanh chóng trong giai đoạn 1970 đã che dấu một thực tế là các nền
kinh tế tư bản có nhiều điểm khác nhau về hệ thống chính sách kinh tế .
Trước những thay đổi ở tren, đi kèm với sự chấm dứt của thời kỳ tăng
trưởng nhanh với lạm phát và thất nghiệp thấp, các nước công nghiệp phát
triển đã buộc phải điều chỉnh tư tưởng kinh tế chủ đạo, xuất hiện rất nhiều các
cố gắng tìm kiếm những phương thức can thiệp của Chính phủ .
Một trong những cố gắng đó được thể hiện qua thuật ngữ “Chính sách
công nghiệp ”.
Mặc dù chính sách công nghiệp có ý nghĩa quan trọng đối với một số
nước công nghiệp phát triển như Nhật Bản, Pháp và các nước NIC Châu á
như: Hàn Quốc, Đài Loan, Singapo thời kỳ sau Chiến tranh thế giới II, song
cho đến cuối những năm 1970 khái niệm ít được nhắc đến trên phương diện lý
thuyết. Những người ủng hộ chính sách công nghiệp chủ yếu tập trung vào
xem xét chính sách công nghiệp trên khía cạnh các vấn đề chính sách thực thế
mà không nghiên cứu nhiều về nền tảng lý thuyết của chính sách công
nghiệp . Thưc tế này dẫn đến tình trạng ngay cả những người ủng hộ rất mạnh
mẽ chính sách công nghiệp cũng không thể mô tả thực tế chính sách công
nghiệp vận hành như thế nào.
II. TỔNG QUAN VỀ CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP
1.Khái niệm về chính sách phát triển công nghiệp
1.1. Các quan điểm .
Chính sách công nghiệp là một khái niệm gây nhiều tranh cãi. Chỉ xét
riêng ở Nhật Bản đã có những quan điểm bất đồng về chính sách công nghiệp.
a. Quan điểm của Trezise(1983).
Ông là một trong những người phản đối công nghiệp công nghiệp và
cho rằng trợ cấp của Chính phủ và các khoản vay ưu đãi cho khu vực doanh
nghiệp Nhật Bản là nhỏ hơn tương đối so vơí một quyết định thành công của
Nhật Bản.
b. Quan điểm của Reich(1982).

Là một trong những học giả ủng hộ rất mạnh mẽ quan điểm về chính
sách công nghiệp ở Mỹ .Theo quan điểm của ông, chính sách công nghiệp bao
gồm những nội dung sau:
+ Các chính sách đối với những khu vực công nghiệp được ưu tiên .
+ Chính sách phát triển nguồn nhân lực
+ Chính sách phát triển cơ sở hạ tầng
+ Chính sách phát triển vùng
c. Quan điểm của Pinder(1982)
Nội dung của chính sách công nghiệp gồm:
+ Các chính sách trợ giúp phát triển công nghiệp
+ Các ưu đãi về tài chính cho đầu tư
+ Chương trình đầu tư công cộng
+ Dự trữ của khu vực công cộng
+ Trợ cấp tài chính cho R & D
+ Chống độc quyền
+ Lập luận ngàn công nghiệp non trẻ
+ Các biện pháp khuyến khích ưu đãi các doanh nghiệp quy mô vừa và
nhỏ
+ Chính sách phát triển vùng
+ Các biện pháp bảo hộ mậu dịch
1.2. Khái niệm chính sách phát triển công nghiệp
Trên phương diện lý thuyết, chính sách công nghiệp được xem xét dưới
nhiều góc độ khác nhau. Một chính sách công nghiệp có thể có phạm vi tổng
quát hay mục tiêu cụ thể, nhấn mạnh vào sử dụng các công cụ theo chiều dọc
hay chiều ngang, và có thể có tác dụng tiêu cực hoặc tích cực đối với tăng
trưởng kinh tế .
Một chính sách công nghiệp có phạm vi rộng nhằm vào khuyến khích
tất cả các ngành công nghiệp , trong khi đó một chính sách công nghiệp có
phạm vi hẹp thì chỉ tập trung vào một hay một số khu vực công nghiệp được
lựa chọn theo những tiêu thức nhất định .

Như vậy, chính sách phát triển công nghiệp được hiểu là sự can thiệp
trực tiếp hay gián tiếp của Chính phủ hướng vào những ngành nhất định để
đạt được những ngành nhất định để đạt được mục tiêu cụ thể (Mục tiêu này
có thể là tăng trưởng, xây dựng năng lực cạnh tranh, tạo công ăn việc làm).
Chính sách công nghiệp thường được thể hiện dưới dạng tổ chức ngành, chọn
ngành ưu tiên, chính sách tài chính và tín dụng (thuế, tợ cấp, đầu tư trực tiếp
của Nhà nước, tín dụng ưu đãi) đối với ngành, chính sách phát triển nguồn
nhân lưc của ngành, chính sách tăng tỷ lệ nội địa hoá các sản phẩm của
ngành, chính sách đầu tư nước ngoài vào các ngành, chính sách kinh tế đối
với các ngành , chính sách đối với các khu vực chế xuất và khu công nghiệp
tập trung.
2. Nội dung và mục tiêu của chính sách phát triển công nghiệp .
2.1 Nội dung
Một là, chính sách phát triển công nghiệp bao gồm toàn bộ những hoạt
động hoạch định của một nước ngằm phát triển công nghiệp, liên quan tới
những hoạt động hoạch dịnh này là những vấn đề điều chỉnh cơ cấu sản xuất
và đầu tư , hiện đại hoá và cải tổ cơ cấu công nghiệp, chính sách thị trường và
xuất nhập khẩu , chính sách khuyến khích R & D , chính sách đối với sản xuất
quy mô nhỏ và các chính sách có liên quan đến phát triển nguồn lực và năng
lượng.
Hai là, trong chính sách công nghiệp cần định rõ các ngành công
nghiệp cụ thể sẽ được khuyến khích và dành cho nhừng lĩnh vực này những
ưu tiên khác nhau trong một thời gian nhất định nhằm sử dụng có hiệu quả
các nguồn lực của đất nước vào việc đẩy nhanh tốc độ phát triển và tăng
trưởng kinh tế .
Ba là, xây dựng đồng bộ hệ thống các phương tiện khuyến khích phát
triển các ngành công nghiệp đã dược lựa chọn . Liên quan đến các phương
tiện này là khuyến khích về tài chính, xây dựng hệ thống kiểm soát thích hợp
hỗ trợ hoạt động R & D, đặc biệt quan tâm tới các mục tiêu và kế hoạch dài
hạn ,

2.2. Mục tiêu.
Vấn đề có ý nghĩa quan trọng là xác định mục tiêu của chính sách phát
triển công nghiệp. Phần lớn ở các nước khi xây dựng chính sách phát triển
công nghiệp thường đưa ra nhiều mục tiêu. Tuy nhiên, có thể nêu lên 2 mục
tiêu chính là : phát triển công nghiệp cân đối và công bằng.
- Phát triển công nghiệp cân đối đòi hỏi phải đảm bảo được sự cân đối
giữa ngành công nghiệp, giữa các địa phương và vùng lãnh thổ. Hầu hết các
nước trong quá trình phát triển công nghiệp đều không tập trung đầu tư quá
mức vào một ngành công nghiệp nào và tìm cách để duy trì được các thị
trường có khả năng cạnh tranh lớn.
Ngoài ra, mục tiêu phát triển cân đối còn được thể hiện ở chỗ : Bên
cạnh các trung tâm công nghiệp của các thành phố lớn, nhiều nước ddax
khuyến khích phát triển các vùng nông thôn và coi việc định vị lại công
nghiệp như là phương tiện quan trọng cho mục tiêu này.
Để thiết lầp được một cơ cấu công nghiệp cân đối, các cước chú ý vào
hai vấn đề là thúc đẩy sự phát triển của công nghiệp quy mô nhỏ và lựa chọn,
phát triển một số ngành công nghiệp mũi mhọn.
- Mục tiêu công bằng là một trong hai mục tiêu chính của chính sách
công nghiệp. Nó bao gồm các mặt như công bằng xã hội và công bằng giữa
các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Việc thực hiện mục tiêu này có ý ngiã
đảm bảo cho sự phát triển bền vững của công nghiệp nói riêng và của cả nền
kinh tế nói chung.
Ngoài hai mục tiêu trên còn có những mục tiêu khác như: đảm bảo
“chất lượng cuộc sống” thông qua việc thiết lập các quy tắc xã hội để kiểm
soát ô nhiễm và chất thải, ban hạnh luật về lương thực, thực phẩm, hoặc cũng
có nước đặt mục tiêu của chính sách phát triển công nghiệp là nhằm tăng thu
nhập về ngoại hối nhằm cải thiện cán cân thanh toán. Trong những năm gần
đây, gới xu thế gia tăng về hội mhaapj kinh tế, các nước còn coi mục tiêu tăng
cường hợp tác kinh tế với thế giới và khu vực là mục tiêu của chính sách phát
triển công nghiệp…

3. Trọng tâm của chính sách phát triển công nghiệp.
Chính sách công nghiệp đặt trọng tâm vào phát triển khu vực chế tạo
của nền kinh tế. Những người ủng hộ chính sách công nghiệp cho rằng hiện
tượng phi công nghiệp hoá ở Anh và Mỹ trong khoảng 3 thập kỷ qua xuất
phát từ việc coi nhẹ vai trò của khu vực chế tạo, lam giảm đóng góp của khu
vực này vào GDP và tạo công ăn việc làm cho người lao động.
Theo Cohen và Zysman (1987): với tầm quan trọng của khu vực chế
tạo thì đây là một sự sai lầm về định hướng chính sách. Thêm vào đó, các
biện pháp điều chỉnh kinh tế vĩ mô có thể lầ chưa đủ để có thể thúc đẩy sự
phát triển của khu vực chế tạo vì đối với tăng trưởng năng suất của khu vực
này, sự phân bổ vốn còn có ý nghĩa quan trọng hơn là tổng giá trị vốn đầu tư.
Chính vì vậy, Chính phủ cần can thiệp trực tiếp để thúc đẩy phát triển công
nghiệp.
Tuy nhiên, đó cũng là trong tâm gây nhiều tranh cãi. Những người phản
đối quan điển chính sách công nghiệp cho rằng tăng trưởng kinh tế trong thời
kỳ hậu công nghiệp ở các nước tư bản phát triển đặt trọng tâm vào khu vực
dịch vụ, dịch vụ trở thành trung tâm của các hoạt động kinh tế. Vì vậy, các
biện pháp can thiệp của Chính phủ theo hướng ưu tiên khu vực công nghiệp
mà không tập trung cho phát triển khu vực dịch vụ không nhưngx là không
cần thiết mà còn có ảnh hưởng tiêu cực đối với nền kinh tế. Chính sách công
nghiệp sẽ cản trở cơ chế chọn lọc tự nhiên của thị trường và ngăn cản việc tái
phân bổ các nguồn lực khan hiếm của nền kinh tế cho khu vực dịch vụ, vì vậy
ảnh hưởng tiêu cực đến triển vọng tăng trưởng lâu dài của nên kinh tế (quan
điểm của Burtơn-1983).
Song sự thay đổi về cơ cấu theo hướng phát triển dịch vụ không phải
chỉ đơn thuần là vì con người mong muốn tiêu dùng nhiều dịch vụ khi đới
sống được cải thiện. Lý do chủ yếu nhất của sự dịch chuyển về cơ cấu này là
do chi phí lạm phát tương đối của khu vực dịch vụ tăng trưởng chậm trong
năng suất của khu vực này, chứ không phải là do sự dịch chuyển thật sự của
nhu cẩu thị trường về phía khu vực dịch vụ khi thu nhập gia tăng.

Bên cạnh đó, xu hướng phi công nghiệp hoá quan sát được ở một số
nước công nghiệp phát triển là một kết quả tất yếu trong dài hạn của sự chênh
lệch năng suất lao động giữa hai khu vực này chứ không nhất thiết là do khu
vực công nghiệp suy giảm sức cạnh tranh. Ngay cả các nền kinh tế hướng
mạnh vào xuất khẩu các sản phẩm công nghiệp như Nhật Bản, Đức cũng chịu
những ảnh hưởng nhất định của phi công nghiệp hoá. Nói cách khác, phi công
nghiệp hoá và sự suy giảm của khu vực công nghiệp là hai khái niệm khác
nhau, mặc dù sự giảm sút của khu vực công nghiệp có thể ảnh hưởng đến
mức độ phi công nghiệp hoá. Vì vậy, không thể kết luận rằng khu vực công
nghiệp của một nền kinh tế nào đó đang xuống dốc nếu chỉ căn cứ vào những
biểu hiện của phi công nghiệp hoá mà nó đang phải trải qua theo định nghĩa ở
trên.
4. Tính tất yếu của chính sách công nghiệp.
Chính sách bao hàm ý nghĩa có sự can thiệp của Chính phủ dưới bất cứ
hình thức nào. Cần phải có chính sách là vì thị trường có những khiếm khuyết
nhất định:
4.1.Do những thất bại của thị trường và vai trò can thiệp của Chính phủ .
Lý thuyết phổ biến nhất lý giải cho sự can thiệp của Chính phủ vào nền
kinh tế là lý thuyết về sự thất bại của thị trường. Tư tưởng trong tâm của
trường phái này tập trung vào thất bại của cơ chế thị trường trong việc cân
bằng giữa chi phí và lợi ích giữa cá nhân và xã hội, đồng thời cho rằng Chính
phủ có thể can thiệp để khắc phục khuyết tật của thị trường.
Hàng hoá công cộng là một thất bại hay được nhắc đến nhất của cơ chế
thị trường. Vì tính không ngoại trừ của hàng hoá công cộng, các cá nhân luôn
có đông lực thực hiện hành vi của những người ăn theo, ảnh hưởng của vấn
đề những người ăn theo là các hàng hoá công cộng sẽ được cung cấp ít hơn
mức xã hội mong muốn. Vì vậy Chính phủ cần can thiệp thông qua trực tiếp
cung cấp hàng hoá công cộng.
Tiếp nữa, sự tồn tại của tính kinh tế nhờ quy mô có thể là một yếu tố
dẫn đến những cơ cấu thị trường cạnh tranh không hoàn hảo. Trong một cơ

cấu thị trường như vậy, mức giá cung cấp sẽ cao hơn mức giá cạnh tranh hoàn
hảo dẫn đến tổn thất thặng dư tiêu dùng. Phần tổn thất này được chuyển một
phần vào thặng dư sản xuất dưới dạng lợi nhuận độc quyền, phần còn lại là lợi
ích mất không của xã hội. Mặc dù lý thuyết “Điều tốt thứ nhì”và quan điểm
cho rằng can thiệp của Chính phủ có thể là nguyên nhân của thị trường cạnh
tranh không hoàn hảo, sự tồn tại của cơ cấu thị trường này vẫn là một lý do
quan trọng biện minh cho vai trò của Chính phủ trong nền kinh tế thị
trường.
4.2. Xuất phát từ lý thuyết về sự thất bại của Chính phủ.
Trong thực tế, cũng như khả năng thị trường tự do có những khuyết tật,
sự can thiệp của Chính phủ vào nền kinh tế cũng có thể không thành công vì
bản thân Chính phủ cũng có những thát baị của nó.
Có hai yếu tố chính cản trở Chính phủ có thể đạt được mục tiêu can
thiệp vào nền kinh tế.
Thứ nhất, chi phí cần thiết để Chính phủ có thể thu thập đủ và xử lý tốt các
thông tin về thất bại thị trường trong nhiều trường hợp có thể còn lớn hơn cả
lợi ích mà các biện pháp khắc phục khuyết tật thị trường mang lại.
Thứ hai, vì có sự xuất hiện của việc thu thập , xử lý thông tin, sự can thiệp
của Chính phủ có thể lại dẫn đến những chi phí nhất định đối với xã hội, và
chi phí này cũng có thể lớn hơn lợi ích mà nó mang lại.
4.3. Lý thuyết thể chế mới về sự can thiệp của Chính phủ vào nền kinh tế.
Như đã phân tích trong phần trên, can thiệp của Chính phủ để khắc
phục những khuyết tật củâ thị trường sẽ dẫn đến những chi phí nhất định mà
những chi phí này có thể lớn hơn cả lợi ích thu được từ sự can thiệp của
Chính phủ. Tuy nhiên, điều đó không đủ để có thể kết luận rằng Chính phủ
không thể can thiệp có hiệu quả vào nền kinh tế.
Lý thuyết thể chế mới cho rằng chi phí về thông tin có thể giảm thong
qua những thay đổi thichs hợp trong hệ thống tổ chức của bộ náy hành chính
và trong quan niệm về giá trị của các cá nhân là thành viên của bộ váy chính
quyền và xã hội. Những chi phí thu thập và xử lý thông tin sẽ có thể được loại

bỏ thông qua việc cho phép cạnh tranh giữa các Đảng phái và sử dụng các
công cụ can thiệp thích hợp.
Ngoài ra, lý thuyết này còn cho rằng thị trường không phải là một cơ
chế điều phối duy nhất đối với sự can thiệp của Chính phủ vào nền kinh tế.
Thị trường,Chính phủ, các hãng, và các thể chế kinh tế khác đều có vai trò
trong một cơ chế phối hợp để dưa ra các quyết định chính sách. Những người
ủng hộ quan điểm này cho rằng Chính phủ có thể giải quyết vấn đề phối hợp
giữa các tác nhân ở trên với chi phí thấp hơn mức chi phí phối hợp của thị
trường, thông qua việc xác lập một hệ thống quyền sở hữu phù hợp, đảm bảo
ổn định kinh tế vĩ mô, tái cấu trúc xã hội theo các nhóm, tầng lớp lớn, điều
phối và định hướng đầu tư, xây dựng tự hào và bản sắc dân tộc.
4.4. Quan điểm kinh tế chính trị.
Lý thuyết thất bại thị trường biện minh cho sự can thiệp của Chính phủ
dựa trên giả định cho rằng mục tiêu của Chính phủ là phải can thiệp vào thị
trường, phục vụ lợi ích của xã hội.
Quan điểm kinh tế chính trị, ở một thái cực là các nhà kinh tế Marxist,
ở thái cực khác là trường phái Chicago xuất phát từ những quan điểm khác.
Chính phủ có thể có một mức độ độc lập nhất định đối với đai chúng,
nhất là khi không có giai cấp nào có đủ khả năng ảnh hưởng mạnh đến các
quyết định chính sách. Trong tình huống này Chính phủ có thể hành động
theo mục tiêu tối đa hoá nguồn thu vào ngân sách.
Theo Findlay (1990), Chính phủ có thể được coi như là một lực lượng
độc lập đưa ra các quyết định không nhất thiết phải xuất phát từ lợi ích của xã
hội.
Quan điểm về nhóm lợi ích coi Chính phủ như là chiếc hộp đen mà các
nhóm lợi ích trong xã hội có thể đối kháng, hay liên minh với nhau để đưa ra
các quyết định về chính sách. Khi một khu vực công nghiệp nào đó có tầm
quan trọng đối với nền kinh tế, sức ép của nhóm lợi ích này có thể dẫn đến
các quyết định về chính sách thuận lợi đối với nhóm lợi ích đó mà có thể gây
phương hại đến những nhóm lợi ích khác trong xã hội.

Một số nhà kinh tế Marxist cho rằng sự tồn tại của một Nhà nước phu
thuộc chặt chẽ vào phương thức tái sản xuất của xã hội, và vì vậy, Chính phủ
phải hành động vì lợi ích của giai cấp đóng vai trò chủ đạo về kinh tế trong
cấu trúc xã hội.
Nói tóm lại, khác với lý thuyết về thất bại của thị trường, quan điểm kinh tế
chính trị cho rằngcp có thể có sự can thiệp vào nền kinh tế nhưng có thể đươc
biện minh bởi những nguyên nhân xuất phát từ đặc điểm, mức độ độc lậpcủa
từng hệ thống chính quyền.
Từ những lý do nói trên dẫn đến nền kinh tế nói chung và lĩnh vực công
nghiệp nói riêng cần phải có một chính sách để phát triển đó là Chính sách
phát triển công nghiệp.
5. Phân loại chính sách công nghiệp .
Bản thân nền công nghiệp, đối tượng của chính sách, là thực thể luôn
luôn động. Hơn nữa, chính sách công nghiệp là cái luôn biến đổi từng giờ,
từng phút với sự biến động của thời đại của xã hội và có rất nhiều loại đối
tượng. Không có lý luận chung cho chính sách công nghiệp. Do vậy, phải
phân loại chính sách công nghiệp theo mục đích, chủng loại, và tính chất.
5.1. Phân loại theo vai trò của Nhà nước trong sự phân công giữa Nhà
nước và các doanh nghiệp.
Theo cách phân loại này, chức năng của chính sách công nghiệp hướng
vào 3 mục đích chính:
- Hỗ trợ phát triển ngành: chính sách tạo khả năng đối kháng với doanh
nghiệp tư nhân (chỉ đạo hay quy chế cho pjhép công nghiệp hợp tác, bổ sung
hoặc hỗ trợ đối với doanh nghiệp tư nhân). Các chính sách này khác nhau ở
chỗ là dựa vào pháp luật (quyề lực hay chỉ đạo hướng dẫn, …).
- Khống chế các giao dịch bất chính: Bao gồm chính sách có mục đích
duy trì trật tự (chỉ đạo, ngăn cấm, cho phép) hay các chính sách có tính phán
quyết hình thức (đăng ký, thông báo,…).
- Dự thảo luật: gồm chính sách tạo lập môi trường mới hay chính sách
xuất phát từ thái độ thụ động tạo ra trật tự để đối phó với môi trường mới.

5.2. Phân loại theo đối tượng mục đích của chính sách.
- Các vấn đề cơ cấu công nghiệp : gồm chính sách có đối tượng là toàn
bộ cơ cấu công nghiệp với chính sách có đối tượng là từng ngành (hay từng
doanh nghiệp ).
Chính sách điều chỉnh ngược với các ngành suy thoái hay chính sách
chấn hưng cho các ngành mới (tỷ trọng công nghệ cao trong cơ cấu công
nghiệp ).
- Vấn đề thị trường .
+ Phân biệt chính sách bổ sung khắc phục các thất vại của thị trường
với chính sách bổ ưung hoàn thiện hạn chế của thị trường.
+ Phân biệt chính sách điều chỉnh trật tự thị trường bị lệch lạc (tổ chức
ngành sản xuất ) với chính sách điều chỉnh yếu tố bên ngoài bị lệch lạc(môi
trường tự nhiên, quyền lợi người tiêu dùng).
+ Phân biệt chính sách ngay trong bản thân trật tự sẵn có với chính sách
để tiến hành trật tự mới.
- Vấn đề phát triển công nghiệp có tính chiến lược .
Cần phân biệt rõ chính sách phát triển ngành có tính chiến lược (ngành
xuất khẩu, điện tử …) với chính sách phát triển các ngành sản xuất cơ sở hạ
tầng (sản xuất nguyên vật liệu chủ yếu, linh kiện, phụ kiện, …).
5.3. Phân biệt theo thủ pháp chính sách ( theo cách thức để thực hiện mục
tiêu )
- Vấn đề hoàn thiện cơ sở hạ tầng.
+ Phân biệt chính sách hoàn thiện cơ sở hạ tầng phần cứng và chính
sách hoàn thiện cơ sở hạ tầng phần mềm (môi trưowngf công nghiệp ).
+ Phân biệt chính sách phát triển cơ sở hạ tầng (như tài chính, tiền tệ,
thuế…) với chính sách phát triển kỹ thuật cho phần cơ sở hạ tầng (như nghiên
cứu , quy cách hoá, chế độ quyền sở hữu công nghiệp ) và cả chính sách cơ
cấu công nghiệp cơ sở hạ tầng ( như cơ cấu sản xuất phụ tùng của các doanh
nghiệp trong ngành cơ khí).
- Về kế hoạch triển vọng.

+ Phân biệt kế hoạch mang tính chất giáo dục, nhận thức, hay mục tiêu
chính sách, hay kế hoạch điều chỉnh định hướng.
+ Phân biệt kế hoạch được xây dựng bằng ý trí của Chính phủ hoặc
được xây dựng trên cơ sở của sự thoả thuận với người có lieen quan.
- Về phương pháp luận.
+ Phân biệt chính sách bất biến, chính sách tạm thời hay chính sách
khẩn cấp.
+ Phân biệt chính sách có tính uy quyền (chỉ huy, cơ chế,…) với các
chính sách hỗ trợ (tài trợ, cho vay vốn , chế độ thuế…) hoặc chính sách có
tính hoàn thiện môi trường (như cung cấp thông tin, đưa ra quy cách, phát
triển kỹ thuật,…) hay chính sách mang tính hướng đạo.
Tốm lại, có thể tổng kết chính sách phát triển công nghiệp như sau:
Chính sách nhằm ảnh hưởng tới cơ cấu của một nước. Tức là một chính
sách can thiệp vào hoạt động giao dịch với nước ngoài như : ngoại thương,
đầu tư trực tiếp, chính sách hỗ trợ phát triển và bảo hộ (trợ cấp thuế) chính
sách điều tiết và sử dụng nguồn lực.
Các chính sách sửa chữa các thất bại của thị trường do tính không hoàn
thiện của hoạt động kỹ thuật và thông tin. Tức là một chính sách khắc phục
các dạng thất bại của thị trường bằng cách cung cấp thông tin chính xác, sử
dụng các công cụ chính qua trợ cấp, thuế và chỉ đạo việc phân phối nguồn lực
theo hướng mông muốn.
Chính sách can thiệp về mặt hành chính vào tổ chức sản xuất theo từng
ngành nhằm nâng cao phúc lợi kinh tế. Cụ thẻ là chính sách nhằm trực tiếp
can thiệp vào cơ cấu cạnh tranh và phân bổ nguồn lực trong các nhành sản
xuất thông qua hình thức liên minh giảm giá, liên minh đầu tư thiết bị,…
Chính sách được hoạch định theo yêu cầu chính trị là củ yếu chứ không
phải mang tính kinh tế. Tức là chính sách bao gồm quy chế tự chủ xuất khẩu
hay hiệp định đa phương nhằm xử lý mâu thuẫn ngoại thương.
6. Khái quát về chính sách công nghiệp của Việt Nam.
Như đã phân téch trong các phần ở trên, chính sách công nghiệp là một

khái niệm rộng, phức tạp và vòn tương đối mới mẻ đối với các nhà nghiên
cứu trên thế giới, nhất là trên phương diện lý thuyết.
Trong bối cảnh như vậy :
a. Có nên tồn tại hay không một chính sách công nghiệp của Việt Nam.
b. Nếu là có tồn tại thì chính sách công nghiệp Việt Nam có thể được mô tả
như thế nào?
c. Ảnh hưởng của nó đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam (nhất là trong những
năm đổi mới) như thế nào.
Trong phần này, em sẽ đi sâu tìm hiểu câu hỏi (b) trên phưong diện lý
thuyết, các vấn đề còn lại là nội dung nghiên cứu của Chương II và III- Phần
thực trạng và các giải pháp.
Thuật ngữ “chính sách công nghiệp” cho đến nay vẫn rất ít xuất hiện
trên các pgương tiên thông tin đại chúng của Việt Nam, cũng như trong các
công trình nghiên cứu của các tác giả nước. Trong khi đó, một thuật ngữ khác
hay được sử dụng có liên quan đến nội dung chính sách công nghiệp là thuật
ngữ “công nghiệp hoá, hiện đại hoá ”.
Xét về bản chất, thuật ngữ “công nghiệp hoá, hiện đại hoá “ ở Việt
Nam bao hàm hệ thống các mục tiêu, các định hướng và hệ thống các chính
sách nhằm chuyển Việt Nam từ một nước nông nghiệp thành một nước công
nghiệp. Trong hệ thống các mục tiêu và định hướng của công nghiệp hoá,
hiện đại hoá ở Việt Nam, vấn đề phát triển các ngành, các khu vực, các loại
hình quy mô và các thành phần kinh tế chiếm vị trí quan trọng, ở đây, những
vấn đề chung được đề cập thường là:
- Cơ cấu ngành kinh tế : công nghiệp – nông nghiệp- dịch vụ , ở đây,
các cơ cấu được chú ý trong thiết kế chính sách là : cơ cấu công nghiệp khai
thác- công nghiệp chế biến- công nghiệp điện nước; cơ cấu trồng trọt và chăn
nuôi, cơ cấu các loại hình dịch vụ .
- Cơ cấu gữa đo thị và nông thôn
- Cơ cấu giữa quy mô doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp vừa và doanh
nghiệp nhỏ.

-Cơ cấu giữa doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp ngoài quốc doanh
và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Trên cơ sở các mục tiêu và định hướng phát triển công nghiệp như vậy,
phải thiết lập hệ thống các chính sách được sử dụng để hỗ trợ cho phát triển
công nghiệp, trong đó phải kể đến một số chính sách chính như : chính sách
vốn, chính sách nguồn nhân lực, chính sách phát triển khoa học và chính sách
thuế quan.
Như vậy, chính sách công nghiệp của Việt Nam có thể được hiể là tập
hợp của các định hướng, chính sách, công cụ điều chỉnh đối với một số ngành
công nghiệp để đạt được mục tiêu đưa Việt Nam từ một nước nông nghiệp
sang một nước công nghiệp vào năm 2020. Nhiệm vụ của chính sách công
nghiệp có thể thay đổi qua mỗi thưòi kỳ nhưng đều có mục tiêu chung là điều
chỉnh các hoạt động cuả các khu vực công nghiệp theo chiều hướng có lợi cho
sự phát triển kinh tế- xã hội của đất nước.
Nhiệm vụ này được thể hiện trên hai mặt sau :
Một là, tạo điều kiện thuân lợi cho các doanh nghiệp trong nước mở rông thị
trường ra nước ngoài, tham gia mạnh mẽ vào phân công lao động quốc tế và
mậu dịch quốc tế, khai thác triệt để lợi thế tuyệt đối và lợi thế so sánh của nền
kinh tế trong nước.
Hai là, bảo vệ thị trường nội địa, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong
nước đứng vững và vươn lên trong hoạt động kinh doanh quốc tế, đáp ứng
cho yêu cầu tăng cường lợi ích quốc gia.
Thêm vào đó, cũng cần phải nhấn mạnh rằng cách hiểu ở các phần trên
về chính sách công nghiệp là quan điểm áp dụng cho các nền kinh tế thị
trường. Rất nhiều mô tả về chính sách công nghiệp đươc khái quát từ thực tế
vận hành chính sách công nghiệp ở những nước như Nhật Bản, Hàn Quốc,
Đài Loan, là những nước có hệ thống chính trị khác với Việt Nam và hiện
đang ở trình độ phát triển cao hơn Việt Nam.
Nhận định về chính sách công nghiệp Việt Nam cần phải được xẽmét
trong bối cảnh Việt Nam là một nền kinh tế đang chuyển đổi sang một nền

kinh tế thị trường , Chính phủ đang phải đối mặt với vấn đề cải cách khu vực
doanh nghiệp Nhà nước, là một trong những trọng tâm của công cuộc cải cách
kinh tế ở Việt Nam từ năm 1986 đến nay. Khu vực doanh nghiệp Nhà nước
Việt Nam chủ yếu tập trung trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp. Cải cách
khu vực doanh nghiệp Nhà nước Việt Nam được thực hiện thông qua nhiều
phương thức, bán doanh nghiệp, cổ phần hoá, cho thuê, khoán kinh doanh,
sáp nhập, giải thể,… Vì vậy,mô tả chính sách công nghiệp của Việt Nam bên
cạnh những đặc diểm chung của một chính sách công nghiệp theo lý thuyết
cần phải đề cập đến những công cụ chính sách sắp xếp lại khu vực doanh
nghiệp Nhà nước.
Ngoài ra, sự tham gia của Việt Nam vào AFTA, APEC, và quá trình
đàm phán về khả năng gia nhập WTO với tư cách thành viên chính thức là
những minh chứng mạnh mẽ đối với xu hướng tự do hoá thương mại ở Việt
Nam. Xét về môi trường chính sách tự do hoá thương mại vừa khuyến khích
xuất khẩu nhưng cũng không tạo ra các rào cản đối với nhập khẩu. Bối cảnh
đó không cho phép Việt Nam có thể sử dụng các rào cản bảo hộ thuế quan và
phi thuế quan để trọ giúp cho phát triển công nghiệp trong dài hạn.
III. CHÍNH SÁCH CÔNG NGHIỆP CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA ĐÔNG Á VÀ BÀI
HỌC KINH NGHIÊM CHO VIỆT NAM. (NHẬT BẢN, HÀN QUỐC, ĐÀI
LOAN).
Kinh nghiệm phát triển của các nước Đông á cho thấy chính sách công
nghiệp là một công cụ hữu hiệu để các nước Đông á xây dựng kinh tế sau sự
tàn phá của chiến tranh và phát triển trở thành các nền kinh tế công nghiệp
hoá mới như : Hàn Quốc, Đài Loan, hay nền kinh tế công nghiệp phát triển
như Nhật Bản.
Chính sách công nghiệp của các nước này có hai đặc điểm chính :
1. Tập trung vào xây dựng cơ sở kinh tế trong nước.
Với xuất phát điểm là các nền kinh tế bị tàn phá và kiệt quệ sau chiến
tranh, vấn đề đặt ra đầu tiên trong chiến lược công nghiệp hoá ở Nhật Bản,
Hàn Quốc, Đài Loan là tái thiết nền kinh tế.

Đài Loan, bắt tay vào công cuộc xây dựng lại nền kinh tế sau 1949 với việc
quốc hữu hoá các cơ sở kinh tế từ tay người Nhật thành các doanh nghiệp Nhà
nước trong các lĩnh vực như: tinh chế đường, diện lực, lọc dầu. Các công ty
thuộc lĩnh vực xi măng, giấy và những công ty nhỏ hơn được tư nhân hoá,
nhờ đó giúp chuyển vốn của các địa chủ từ sản xuất nông nghiệp vào khu vực
công nghiệp. Đồng thời Chính phủ ủng hộ sự phát triển của các khu vực thay
thế nhập khẩu bằng các hàng rào thuế quan và phi thuế quan, chú ý phát triển
các công ty tư nhân thông qua việc nhập khẩu máy móc thiết bị bằng nguồn
viện trợ của Mỹ.
Nhật Bản, nền kinh tế sau chiến tranh đang trong tình trạng đổ nát và tụt hậu
khá xa về công nghệ so với các quốc gia công nghiệp hoá. những năm đầu
sau chiến tranh, chiến lược của Mỹ đối với Nhật Bản là kiềm chế tăng trưởng
kinh tế. Tăng trưởng nhanh của Liên Xô cũ và sự mở rộng nhanh chóng của
thế giới cộng sản buộc Mỹ thay đôỉ chiến lược đối ngoại đối với Nhật Bản.
Kế hoạch Marshall do Mỹ đưa ra nhằm mục tiêu hỗ trợ quá trình tái thiết
Nhật Bản và Châu Âu sau chiến tranh. Các nỗ lực phát triển kinh tế của Chính
phủ Nhật Bản trong thời kỳ đầu là tập trung vào xây dựng cơ sở hạ tầng,
khuyến khích phát triển các ngành công nghiệp như điên, than, sắt théo, và
đong tàu. Cũng trong giai đoạn này, mộtkhuôn khổ cơ bản của chính sách ccn
đã được xác lập với các lĩnh vực ưu tiên khuyến khích về thuế, tài chính và
đầu tư nước ngoài. Ngoài ra, Chính phủ Nhật Bản còn quản lý chặt chẽ, phân
bổ các chỉ tiêu nhập khẩu máy móc và nguyên vật liệu, kiểm soát về giá cả áp
dụng cho các khu vực ưu tiên.
Sự kết thúc tạm thời của căng thẳng Nam – Bắc có ảnh hưởng đến nền
kinh tế Hàn Quốc trên ba phương diên : cải cách ruộng đất, chủ nghĩa dân tộc,
và viện trợ của Hoa Kỳ. Chế độ địa chủ bắt đẩu bãi bỏ từ 1953. Nông dân
được chia đất và trở thành những người sở hữu đất đai. Tầng lớp địa chủ bị
bắt buộc phải chuyển sang các khu vực thương mại và công nghiệp. thêm vào
đó, sự tồn tại của cơ chế quản lý sở hữu ruộng đất chặt chẽ cho phép chính
quyền có thể thực thi những chính sách nhất định để áp đặt các định hương

phát triển đối với khu vực nông nghiệp. Bằng việc không chú ý đầu tư phát
triển nông thôn trong khi tạo ra các điều kiện thuận lợi cho khu vực công
nghiệp, chính quyền Hàn Quốc trong khoảng thời gian từ 1949-1962 đã có
khởng 5 triệu người dân từ khu vực nông thôn di dân đến các vùng thành thị
làm việc trong khu vực công nghiệp.
Nằm trong tổng thể chiến lược củng cố sức mạnh của quốc gia để đối
phó với các thế lực cộng sanr, phát triển công nghiệp được coi là một nội
dung ưu tiên hàng đầu. Trong thời gian 1953-1958, các tập đoàn kinh tế tư
nhân có quy mô lớn (gọi là Cheabols) được thành lập với sự hậu thuẫn của
chính quyền TW .
Trong những năm 50s, công nghiệp Hàn Quốc chứng kiến sự tăng
trưởng mạnh mẽ trên cả hai lĩnh vực công nghiệp nặng(hoá chât, luyện
kim…) và công nghiệp nhẹ (như dệt may, chế biến lương thực thực phẩm).
Để đảm bảo sự tập trung ủng hộ về thể chế, chính quyền cũng sử dụng
những biện pháp bạo lực và các chính sách quản lý xã hội chặt chẽ để ngăn
ngừa và dẹp bỏ mội sự chống đối từ các phe phái đối lập. Sự phát triển của
các Cheabols trong khu vực công nghiệp nặng và hoá chất là sự thể hiện rõ
nét của một chiến lược phát triển công nghiệp hướng nội, nhằm vào mục tiêu
độc lập kinh tế.
Để khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển các ngành
công nghiệp thay thế nhập khẩu, Chính phủ Hàn Quốc duy trì chế độ tỷ giá
hối đoái kép, đưa ra mức tỷ giá cố định quy định riêng cho xuất khẩu và nhập
khẩu. Đồng thời giảm thuế cho máy móc , thiết bị nhập khẩu.
Bảng 1 - Tóm tắt các chính sách khuyến khích công nghiệp ở Nhật Bản, Hàn
Quốc và Đài Loan.
Nhật Bản Hàn Quốc Đài Loan
Hợp lý hoá công nghiệp
(nửa đầu thập kỷ 50)
Ưu tiên đầu tư nhập khẩu
thiết bị, đầu tư vào máy

móc/ các khoản cho vay
Sau nội chiến Triều Tiên
(Những năm 50)
Phát triển và khuyến khích
các ngành công nghiệp
thay thế nhập khẩu/ hệ
Công nghiệp hoá thay
thế nhập khẩu
(nửa đầu thập kỷ 50)
Điều chỉnh các ngành
công nghiệp công
của ngân hàng phát triển
Nhật Bản / Miễn giảm
thuế.
thống trợ cấp bằng hạn
ngạch/ tỷ giá hối đoái kép/
miễn giảm thuế cho máy
móc, nguyên liệu nhập
khẩu
cộng chủ chốt (đường,
xi măng, phân hoá
học…)/ khuyến khích
công nghiệp dệt bằng
hạn chế số lượng
Khuyến khích phát triển
công nghiệp
(nửa sau thập kỷ 50)
Bảo hộ bằng thuế quan
với các sản phẩm sợi
tổng hợp, dệt may, hoá

dầu, máy móc, điện tử
dân dụng/ chính sách tài
chính và thuế khoá có
chọn lọc/ khuyến khích
áp dụng công nghệ mới
Thời kỳ quá độ sang
CNH hướng về xuất
khẩu (nửa sau 1950s)
Hình thành những
ngành công nghiệp
chủ đạo/ phát triển
công nghiệp dệt và chế
biến nông sản.
Tăng trưởng cao
(những năm 60)
Phát triển một nên kinh
tế mở/ hợp tác giữa Nhà
nước và tư nhân/ điều
chỉnh cơ cấu đầu tư/ phối
hợp các lĩnh vực sản
xuất/ thực hiện chương
trình phát triển kinh tế
ngành(các giải pháp cho
công nghiệp máy móc và
khu vực điện tử)
Chuyển sang công nghiệp
hướng xuất khẩu
(những năm 60)
Ưu tiên tăng trưởng kinh
tế/ thu hút vốn đầu tư

nước ngoài/ khuyến khích
công nghiệp sản xuất hàng
xuất khẩu/ miễn thuế/
khuyến khích phát triển
các ngành công nghiệp
chủ đạo thông qua can
thiệp của Chính phủ và
đầu tư cho nghiên cứu ứng
dụng.
Công nghiệp hoá
hướng xuất khẩu
(những năm 60)
Tăng cường sử dụng
vốn nước ngoài (các
khoản vay và đầu tư
trực tiếp)/ tập trung
vào khu vực kinh tế tư
nhân/ lập các KCX/
miễn giảm thuế/
khuyến khích các công
ty thương mại .
Tăng trưởng ổn định
(từ những năm 70)
Lập các kế hoạch tầm
CNH các ngành công
nghiệp nặng, hoá chất
hướng xuất khẩu
CNH hướng xuất khẩu
(những năm 70)
Lập kế hoạch phát

xa/ sử dụng cơ chế thị
trường / phát triển các
ngành sử dụng nhiều yếu
tố tri thức, công nghệ cao
(những năm 70)
Kế hoạch chiến lược phát
triển công nghiệp nặng,
hoá chất/ tài trợ có kiểm
soát cho các hoạt động
kinh doanh/ cho vay lãi
suất đối với các ngành
công nghiệp nặng, hoá
chất và sản xuất hàng xuất
khẩu/ khuyến khích mở
rộng trang thiết bị trong
các xí nghiệp tư nhân.
triển chính thức cho
các công ty Nhà nước
về sắt thép, hoá dầu,
và đóng tàu/ hình
thành quỹ vốn đầu tư
xã hội.
Tự do hoá phối hợp các
ngành công nghiệp nặng,
hoá chất.
(những năm 80)
Tự do hoá kinh tế/ tư nhân
hoá một số khu vực công
cộng/ tự do hoá quản lý
cốn đầu tư nước ngoài/ tự

do hoá tài chính/ tiếp tục
khuyến khích phát triển
doanh nghiệp quy mô vừa
và nhỏ.
Khuyến khích phát
triển các ngành công
nghiệp kỹ thuật cao.
(những năm 80)
Xác định các ngành
công nghiệp chiến
lược/ miễn thuế đối
với các ngành điện tử
và máy móc/ lãi suất
cho vay thấp/ khuyến
khích công nghiệp ô
tô.
2. Công nghiệp hoá hướng nội, thay thế nhập khẩu được chuyển hướng
thành công nghiệp hoá hướng ngoại, khuyến khích xuất khẩu vào thời
điểm thích hợp
Đây là điểm phân biệt quyết định sự thành công của các nước NIE so
với các nền kinh tế Latin America. Chiến lược công nghiệp hoá thay thế nhập
khẩu đã xuất hiện đầu tiên ở các nước Mỹ Latin. Nhưng do duy trì quá lâu
chính sách này nên đã biểu hiện những nhược điểm rõ rệt.
Kinh nghiệm của Brazil thực hiện công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu
cho thấy việc duy trì ưu tiên theo hướng thay thế nhập khẩu trong một khoảng
thời gian dài có thể là một nguyên nhân cơ bản nhất dẫn đến sự thất bại của
chiêns lược công nghiệp hoá hướng nội.
- Khác với Brazil, ấn Độ, NIEs và Nhật Bản đều đã thực hiện các bươc
chuyển hướng ngoạn mục từ ưu tiên tái thiết kinh tế trong nước thông qua
thay thế nhập khẩu bằng việc chuyển ưu tiên phát triển sang các khu vực

khuyến khích xuất khẩu vào nửa cuối thập kỷ 50(đối với Nhật Bản và Đài
Loan ) và những năm đầu của thập kỷ 60 (đối với Hàn Quốc).
Bảng 2- Khuyến khích công nghiệp xuất khẩu và các chính sách kuyến khích
xuất khẩu ở Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan .
Nhật Bản Hàn Quốc Đài Loan
Hợp lý hoá công nghiệp
(nửa đầu thập kỷ 50)
Tài trợ ưu đãi, trợ cấp ưu
tiên cho xuất khẩu/ cho
vay với lãi suất thấp của
Ngân hàng phát triển
Nhật Bản/ thành lập
Ngân hàng xuất khẩu
Nhật Bản (1950)/ khuyến
khích về thuế, khấu trừ
thu nhập cho xuất khẩu/
phát triển bảo hiểm xuất
khẩu/ thành lập JETRO.
Sau nội chiến Triều Tiên
(những năm 1950)
Khuyến khích xuất khẩu
cũng là 1 phần của CNH
thay thế nhập khẩu ở Hàn
Quốc/ thành lập quỹ
khuyến khích xuất khẩu/
trợ cấp tín dụng cho xuất
khẩu, trợ cấp khác cho
xuất khẩu.
CNH thay thế nhập khẩu
(nửa đầu thập kỷ 50)

Thành lập các ngành
công nghiệp công cộng
chủ đạo/ lán sóng viện trợ
của Mỹ/ hạn ngạch nhập
khẩu để bảo hộ/ chế độ tỷ
giá kép/ áp dụng hệ thống
hai giá để khuyến khích
xuất khẩu.
Khuyến khích phát triển
công nghiệp
(cửa sau những năm 50)
Xuất khẩu tàu biển/ cho
vay lãi suất thấp của
NHPT Nhật Bản/ khấu
trừ đặc biệt cho các
khoản thu nhập liên quan
đến giao dịch ở nước
ngoài.
Chuyển sang CNH
hướng xuất khẩu.
(nửa sau những năm 50)
Bắt đẩu xuất khẩu gạo,
đường và nông sản chế
biến của khu vực công
cộng/ cải cách hệ thống
tỷ giá theo hướng khuyến
khích xuất khẩu.
Tăng trưởng cao
(những năm 60)
Tự do hoá kinh tế, tăng

Chuyển sang CNH
hướng xuất khẩu
(những năm 60)
CNH hướng xuất khẩu
hoàn toàn
(những năm 60)
sức cạnh tranh/ xuất khẩu
thiết bị máy móc/ tiếp tục
cho vay lãi suất thấp của
NHPT Nhật Bản/ khấu
trừ đặc biệt đối với xuất
khẩu/ phát triển thị
trường nước ngoài/ mở
rộng quy mô và hiệu quả
hoạt động JETRO
Khuyến khích các xí
nghiệp tư nhân trong các
ngành CNXK/ các khoản
trợ cấp trực tiếp/ cho vay
lãi suất thấp/ miễn giảm
thuế, khấu hao theo gia
tốc/ khuyến khích phát
triển xuất khẩu sản phẩm
công nghiệp nhẹ/ thành
lập KOTRA.
Các khoản cho vay đặc
biệt/ cho vay xuất khẩu/
phát triển KCX/ khuyến
khích các công ty thương
mại/ miễn giảm thuế/ ban

hành luật đầu tư/ tăng
cường sử dụng vốn nước
ngoài.
Tăng trưởng nhanh của
Công nghiệp xuất khẩu
(những năm 70)
Mở rộng các khoản cho
vay lãi suất thấp/ phát
triển các EPZ/ phá giá
nội tệ/ thành lập ngân
hàng XNK/ áp dụng thuế
VAT.
Sự tiến bộ của các ngành
công nghiệp xuất khẩu
(những năm 70)
Củng cố các xí nghiệp
Nhà nước/ phát triển
BHXK/ hệ thống cho vay
trung và dài hạn của NH
XNK/ hiệp hội phát triển
ngoại thương.
Đối phó với xung đột
thương mại
(những năm 80)
Hạn chế xuất khẩu tự
nguyện/ các công ty phát
triển đầu tư kinh doanh
tại Mỹ(xuất khẩu tại
chỗ)/ khuyến khích thị
trường tự do.

Nhật Bản
Bắt đầu từ nửa cuối của thập kỷ 50, Nhật Bản đã thực hiện hàng loạt
những cải tiến về công nghệ và đề ra một chính sách công nghiệp đa dạng
nhằm mở rộng cơ sở công nghiệp trong nước, khuyến khích phát triển các
ngành công nghiệp mới, cơ cấu lại các khu vực đang giảm sút.
Mục tiêu của chính sách công nghiệp trong thời kỳ này gồm hai phần:
thay thế nhập khẩu và khuyến khích xuất khẩu. Các ngành như sợi tổng hợp,
hoá dầu, máy móc, phụ tùng, điện tử được xác định là các khu vực ưu tiên và

×