Tải bản đầy đủ (.doc) (220 trang)

Luận văn: Phương hướng và giải pháp góp phần nâng cao chất lượng và công tác quản lý chất lượng ở Công ty bánh kẹo Hải Hà pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1009.59 KB, 220 trang )

TRƯỜNG ………………….
KHOA……………………….

Báo cáo tốt nghiệp
Đề tài:


Phương hướng và giải pháp góp phần nâng cao chất lượng
và công tác quản lý chất lượng ở Công ty bánh kẹo Hải Hà
MỤC LỤC
Lời mở đầu
CHƯƠNG I- CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CHẤT LƯỢNG VÀ
QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG Ở DN.
I - KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM.
1. Chất lượng là gì 1
2. Các quan niệm khác nhau về CLSP 2
3. Sự hình thành của CLSP 3
4. Những đặc điểm cơ bản của CLSP 7
5. Sự phân loại CLSP - Ý nghĩa và mục đích 8
6. Các nhân tố ảnh hưởng tới CLSP 11
7. Các chỉ tiêu phản ánh CLSP 15
8. Vấn đề cơ bản của đảm bảo và cải tiến nâng cao CLSP 17
9. Lợi ích của việc nâng cao CLSP 18
II- VẤN ĐỀ QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM Ở DOANH
NGHIỆP.
1. Quản lý chất lượng là gì? Vì sao phải tiến hành
QLCLSP? 19
2. Đặc điểm của công tác QLCLSP 22
3. Những yêu cầu chủ yế trong QLCLSP ở DN 26
4. Các chức năng của công tác QLCLSP 27
5. Những phương pháp được sử dụng trong QLCLSP 29


6. Hiệu quả của công tác QLCLSP trong DN 31
7. Những nội dung then chốt của TQMvà đưa TQM vào
doanh nghiệp 32
7.1 Khái niệm TQM và vai trò của nó trong HTQLCL ở
doanh nghiệp 32
7.2 Những đặc điểm và yêu cầu của QLCL đồng bộ 34
7.3 Đưa TQM vào doanh nghiệp và ưu thế của công tác QLCL
tổng hợp 37
ƯƠNG II-PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG VÀ CÔNG
TÁC QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM CỦA CÔNG TY
BÁNH KẸO HẢI HÀ.
I- CÔNG TY BÁNH KẸO HẢI HÀ 42 NĂM XÂY DỰNG VÀ TRƯỞNG THÀNH.
1. Sự ra đời của Công ty Bánh kẹo Hải Hà 43
2. Những giai đoạn phát triển của Công ty Bánh kẹo Hải Hà 43
3. Tổ chức bộ máy và cơ chế hoạt động của Công ty Bánh kẹo
Hải Hà 47
4. Những đặc điểm kinh tế kỹ thuật có ảnh hưởng tới CLSP của
Công ty Bánh kẹo Hải Hà 50
4.1. Đặc điểm về hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty 50
4.2. Đặc điểm của tình hình tài chính Công ty 62
4.3. Đặc điểm về đội ngũ lao động của Công ty 65
4.4. Đặc điểm máy móc trang thiết bị và quy trình công nghệ
của Công ty 70
4.5. Đặc điểm về NVL& công tác quản lý NVL ở Công ty 77
II-THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG VÀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG
CỦA CÔNG TY BÁNH KẸO HẢI HÀ.
1. Khái quát về tình hình CLSP của Công ty 79
1.1. Các chỉ tiêu dùng để đánh giá CL bánh 79
1.2. Các chỉ tiêu dùng để đánh giá CL kẹo 80
1.3. Thực trạng CL bánh của Công ty 82

1.4. Thực trạng chất lượng kẹo của Công ty 84
2. Thực trạng công tác QLCLSP của Công ty bánh kẹo Hải Hà 87
2.1. Thực trạng hoạt động QLCLSP ở Công ty bánh kẹo Hải Hà 87
2.2. Đánh giá về chất lượng và công tác QLCLSP của Công ty 94
3. Những thuận lợi và khó khăn của Công ty trong quá trình SXKD
nói chung và nâng cao CLSP nói riêng 95
4. Những thành quả đạt được của công tác QLCL của Công ty 96
5. Những tồn tại và nguyên nhân ảnh hưởng tới việc nâng cao
chất lượng sản phẩm của Công ty 97
5.1. Những tồn tại cần được khắc phục 97
5.2. Những nguyên nhân chủ quan ảnh hưởng tới chất lượng bánh
kẹo 98
5.3. Những nguyên nhân khách quan ảnh hưởng tới chất lượng
sản phẩm 99
CHƯƠNG III- PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM DUY
TRÌ VÀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM CỦA CÔNG TY
BÁNH KẸO HẢI HÀ.
I- NHỮNG QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA CÔNG TY VỀ CHẤT LƯỢNG VÀ
QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM
II- NHỮNG PHƯƠNG HƯỚNG CƠ BẢN VÀ CÁC GIẢI PHÁP CHIẾN
LƯỢC NHẰM DUY TRÌ VÀ NÂNG CAO CLSP Ở CÔNG TY BÁNH KẸO
HẢI HÀ.
1. Phương hướng chung của ngành và Công ty trong giai đoạn
từ nay tới năm 2005 102
2. Các giải pháp cơ bản nhằm duy trì và nâng cao CLSP của
Công ty bánh kẹo Hải Hà 103
2.1. BIỆN PHÁP VỀ TỔ CHỨC QUẢN LÝ 104
-Phải xem xét doanh nghiệp theo quan điểm hệ thống và đưa
quả lý 104
-Chất lượng đồng bộ sản phẩm hàng hóa và doanh nghiệp 108

-Đưa các loại quy định liên quan tới CLSP và Công ty 113
2.2. BIỆN PHÁP DUY TRÌ, ĐÀO TẠO VÀ PHÁT TRIỂN NGUỒN
NHÂN LỰC 115
- Giáo dục tư tưởng cho người lao động 115
- Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực trong Công ty 116
- Tăng cường các biện pháp trọng dụng nhân tài 120
2.3. TĂNG CƯỜNG KHAI THÁC SỬ DỤNG CÔNG NGHỆ HIỆN
CÓ VÀ ĐẦU TƯ NC&TK KHOA HỌC CÔNG NGHỆ MỚI 121
- Thay đổi nhận thức về vai trò và sự tác động qua lại giữa hiệu
quả sản xuất kinh doanh và đầu tư cho KHCN 121
- Nâng cao năng lực con người trong lĩnh vực sử dụng,
NC&TK công nghệ 122
- Các chiến lược tăng năng lực công nghệ của Công ty 123
- Đầu tư cho công cuộc đổi mới máy móc thiết bị, công nghệ
một cách có trọng điểm 124
2.4. TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG CÓ
HIỆU QUẢ NGUYÊN VẬT LIỆU 126
- Tổ chức tốt công tác thu mua, cung ứng NVL 126
- Thực hành tiết kiệm NVL trong quá trính sử dụng 129
- Tăng cường sử dụng NVL trong nước thay ngoại nhập 130
2.5. XÂY DỰNG HỆ THỐNG QLCL THEO TIÊU CHUẨN
ISO-9002 130
2.5.1 Thực hiện tiếp cận hệ thống tiêu chuẩn về QLCL theo
ISO-9000 130
2.5.2Áp dụng bộ tiêu chuẩn ISO cần tuân theo những nguyên
lý cơ bản 132
2.5.3 Các điều kiện mà Công ty cần đáp ứng để đưa ISO-9000
vào QLCL 133
- Yêu cầu về nguồn lực 134
- Yêu cầu về trang thiết bị, máy móc công nghệ; kiểm soát

quá trình và hoàn thiện hệ thống thông tin 134
- Hoạch định quá trình xây dựng và áp dụng ISO-9000 vào
Công ty 135
+Lựa chọn mô hình QLCL ISO-9002 135
+Các giai đoạn triển khai áp dụng ISO 9002 135
2.6. ĐỔI MỚI NHẬN THỨC VỀ CHẤT LƯỢNG VÀ QLCL 136
- Điều tra ý thức về vấn đề chất lượng và QLCL của CNV
và có biện pháp khắc phục 137
- Cần phải hiểu chất lượng là trên hết 138
- Chất lượng được khởi nguồn từ người tiêu dùng và cũng
quay trở lại nó 138
KHUYẾN NGHỊ VỚI CÁC CƠ QUAN VÀ NHÀ NƯỚC
- Về quản lý chất lượng sản phẩm 140
- Các cơ chế, chính sách khác 140
LỜI MỞ ĐẦU
Không còn nghi ngờ gì nữa, hiện nay cạnh tranh bằng chất lượng sản
phẩm đã thắng thế so với cạnh tranh bằng giá cả trước đây. Và cũng chẳng
còn lý do gì để chất lượng sản phẩm không trở thành một vũ khí hay con bài
quyết định sự phát triển và thành công của các doanh nghiệp trên thương
trường.
Đất nước ta đã chia tay với cơ chế tập trung quan liêu bao cấp để chuyển
mình đón nhận cơ chế thị trường theo định hướng XHCN có sự quản lý vĩ
mô của Nhà nước. Chính từ các thời khắc ấy, nền kinh tế nước ta đã trở
thành một cơ thể sống mới. Luồng sinh khí đó đã tiếp lực cho mọi doanh
nghiệp khí thế của quá trình thi đua sản xuất rầm rộ khắp trên phạm vi cả
nước. Bước ngoặt vĩ đại đó cũng đã đánh dấu một chặng đường đầy phong
ba mà các hãng phải đối mặt. Đó là mặt trận cạnh tranh cam go, khốc nghiệt
đã làm cho không ít doanh nghiệp lâm vào cảnh lao đao thậm chí sập tiệm.
Chúng ta đều biết rằng cạnh tranh có nghĩa là đào thải, vậy cái gì đã giúp
cho các doanh nghiệp không những tồn tại lại sau những cơn lốc của cạnh

tranh mà còn phát triển không ngừng khẳng định vị thế của mình trong nền
kinh tế. Phải chăng, sản phẩm của họ có phép màu nhiệm? Vâng, đó chính là
sản phẩm của họ có chất lượng.
Và rồi việc gì đến cũng sẽ đến, chúng ta đang sống trong thời kỳ của sự
mở cửa hội nhập nền kinh tế thế giới. Trong bối cảnh khu vực hoá, quốc tế
hoá nền kinh tế toàn cầu, lại một lần nữa các doanh nghiệp chúng ta có thêm
vận hội và thời cơ mới trong việc mở rộng sản xuất kinh doanh, mở rộng thị
trường, chuyển giao công nghệ hiện đại cũng như phương pháp tổ chức quản
lý tiền tiến. Nhờ đó năng suất, chất lượng sản phẩm không ngừng được nâng
cao. Song mọi tấm huân chương đều tồn tại mặt trái. Hội nhập là vận hội
đấy, thời cơ đấy nhưng thách thức, nguy cơ cũng đang đón chờ, rình rập sẵn
sàng nhấn chìm các doanh nghiệp trong nước. Hàng hoá có chất lượng cao
đang tràn ngập trên thị trường với giá rẻ, mẫu mã lịch sự, sang trọng chất
lượng xem như hoàn hảo đã và sẽ lấn lướt các sản phẩm trong nước. Để
doanh nghiệp ta không bị thua ngay trên sân nhà thì sản phẩm của ta phải
đạt chất lượng tức phải có sự quản lý chất lượng một cách hết sức nghiêm
túc.
Tiếp đó là sự tiến bộ không ngừng của KH-KT, hàng ngày có cả trăm
phát minh, sáng chế mới ra đời và đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp,
tạo ra những sản phẩm có hàm lượng KH-KT cao. Với các nhân tố đó tất sẽ
dẫn tới cuộc chạy đua chất lượng và vì thế chất lượng sản phẩm sản xuất ra
sẽ hoàn thiện lên. Những doanh ghiệp yếu kém về năng lực sản xuất, vốn ít,
tổ chức quản lý kém làm sao có thể tạo ra những sản phẩm có chất lượng
cao để lưu thông trên thị trường. Đồng nghĩa với các sản phẩm có chất
lượng thấp là con đẻ của những máy móc thiết bị, công nghệ lạc hậu sẽ diệt
vong, doanh nghiệp sẽ phải đóng cửa sản xuất.
Thêm vào đó, mức sống của con người ngày một cao nhu cầu ngày một
đa dạng và phong phú. Họ luôn có xu hướng tiêu dùng những sản phẩm có
giá trị sử dụng, giá trị thẩm mỹ cao chứ không phải sản phẩm có giá rẻ, chất
lượng thấp. Lại một lần nữa khẳng định sự cần thiết phải nâng cao chất

lượng sản phẩm cho các doanh nghiệp.
Nhận thức sâu sắc về vấn đề trên, các doanh nghiệp đã tìm cho mình
những bước đi thận trọng với hàng loạt các chiến lược, chính sách và giải
pháp nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm của mình để tăng năng lực cạnh
tranh, tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh của mình. Hoà chung dòng chảy
đó, Công ty bánh kẹo Hải Hà cũng không phải là một ngoại lệ. Ban lãnh đạo
Công ty đã đưa ra các chính sách chất lượng hợp lý luôn coi chất lượng sản
phẩm là trên hết, chất lượng sản phẩm có ý nghĩa sống còn đối với doanh
nghiệp.
Chúng ta đều thấy vấn đề nhạy cảm này đã được nhiều công trình khoa
học nghiên cứu khai thác với nhiều giác độ khác nhau từ xa xưa, song không
vì thế mà nó trở nên nguội lạnh mà ngược lại nó luôn mang tính thời sự
nóng bỏng. Có lẽ không ai trong xã hội lại bàng quan trước "điểm nóng"
-Chất lượng.
Là một sinh viên ngành quản trị kinh doanh nhận thức được tầm quan
trọng của vấn đề trên, với kiến thức đã được đào tạo trong nhà trường cùng
với sự tích luỹ kinh nghiệm của bản thân và đặc biệt qua đợt tập học tập
thực tiễn tại Công ty bánh kẹo Hải Hà em đã mạnh dạn chọn đề tài:
"Phương hướng và giải pháp góp phần nâng cao chất lượng và công
tác quản lý chất lượng ở Công ty bánh kẹo Hải Hà".
Nội dung của đề tài được trình bày qua 3 chương:
Chương I- Cơ sở lý luận của chất lượng và quản lý chất lượng sản phẩm
của doanh nghiệp.
Chương II-Thực trạng chất lượng và công tác quản lý chất lượng sản
phẩm ở Công ty bánh kẹo Hải Hà.
Chương III- Phương hướng và giải pháp duy trì và nâng cao chất lượng
sản phẩm của Công ty bánh kẹo Hải Hà.
Để đảm bảo tính khoa học và lô-gic hợp lý của vấn đề, đề tài được xây
dựng trên cơ sở các phương pháp nghiên cứu sau:
-Phương pháp duy vật biện chứng

-Phương pháp duy vật lịch sử
-Phương pháp phân tích, so sánh và quan điểm hệ thống
-phương pháp quy nạp, diễn giải
Đây là lần đầu tiên vận dụng những kiến thức lý luận vào thực tiễn nên
không tránh khỏi những sai sót nhất định. Kính mong được sự tham gia góp
ý, chỉ bảo tận tình của thầy giáo hướng dẫn để em có cơ hội nhận thức vấn
đề được đầy đủ hơn.
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CHẤT LƯỢNG VÀ QUẢN LÝ
CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM Ở DOANH NGHIỆP
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM.
Không nằm ngoài các vấn đề khoa học, kinh tế kỹ thuật khác, chất lượng
và chất lượng sản phẩm đã được nhiều các học giả cũng như các trường phái
khác nhau nghiên cứu. Trên mỗi giác độ để nhìn nhận thì chất lượng và chất
lượng sản phẩm lại có những tính chất, đặc thù riêng biệt vì nó chịu sự phụ
thuộc vào nhận thức, quan điểm của mỗi nhà nghiên cứu. Chính vì lý do đó
ta có thể coi chất lượng mang tính tương đối, nó nằm trong sự chi phối của
rất nhiều yếu tố như: kinh tế – xã hội, kỹ thuật, tự nhiên, môi trường hay cả
những thói quen của từng người.
Song dù có xem xét vấn đề này ở góc độ nào đi nữa, chúng ta cũng đều
nhất trí với nhau một điều là nhờ có sự tiến bộ nhanh chóng của các ngành
khoa học tự nhiên, xã hội mà ngày càng được hoàn thiện hơn, chính xác,
khoa học hơn. Và tất nhiên chúng ta phải có một quan niệm đúng đắn, chính
xác về chất lượng và chất lượng sản phẩm thì mới có thể đảm bảo cho hoạt
động thực tiễn về quản lý chất lượng một cách có hiệu quả. Nếu như cái
nhìn bị sai lầm, mơ hồ sẽ không biết quản lý cái gì và quản lý như thế nào.
Để hiểu rõ vấn đề này chúng ta hãy tiếp nhận một số khái niệm khác nhau
về chất lượng và chất lượng sản phẩm.
1. Chất lượng là gì ?
Theo Emanuel Cantơ( nhà triết học Đức) cho rằng: “ chất lượng là hình

thức quan toà của sự việc”.
Điều đó cho thấy mội sự việc hay kết quả của những sự việc hữu hình hay
vô hình thì cũng phải chiụ một sự chi phối chung mang tính tất yếu khách
quan là chất lượng. Mọi kết quả của các quá trình không mang trong mình
đặc tính chất lượng thì quá trình đó không có lý do để tồn tại.
Nhìn chung theo quan điểm triết học chất lượng là một phần tồn tại bên
trong của các sự vật hiện tượng.
Còn trong từ điển Tiếng Việt ( 1994) thì chất lượng là cái tạo nên phẩm
chất giá trị của một con người, một sự vật, một sự việc.
Điều này cho thấy chất lượng mang một ý nghĩa rất rộng và bao trùm lên
mọi hình thái tồn tại của thế giới vật chất, kể cả hữu hình và vô hình. Xem
xét vần đề này vi mô hơn trong sản phẩm hàng hóa, chúng ta cũng khó có
thể đưa ra một khái niệm tuyệt đối chính xác. Vì như đã nói ở trên, chất
lượng hay chất lượng sản phẩm luôn thay đổi theo các yếu tố tác động và vì
thế nó cũng có nhiều quan điểm khác nhau nhìn nhận, nghiên cứu.
2. Các quan niệm khác nhau về chất lượng sản phẩm.
Trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh và đời sống xã hội không ai phủ nhận
tầm quan trọng của chất lượng sản phẩm. Nó là một yếu tố góp phần đảm
bảo sự thành công của một doanh nghiệp nói riêng và cả một nền kinh tế nói
chung. Ngay từ đầu thế kỷ 19 đã có những công trình vĩ đại của các nhà
kinh điển trong đó có Karl Marx(1818- 1883). Ông cho rằng: “ người tiêu
dùng mua hàng không phải hàng có giá trị mà hàng có giá trị sử dụngvà thỏa
mãn những mục đích xác định”. Nghĩa là chất lượng sản phẩm không phải là
một cái gì đó trừu tượng, vô định mà ngược lại nó có tính xác định, cụ thể
mà chúng ta có thể nhờ vào đó để đáng giá sản phẩm này là có chất lượng
cao, sản phẩm kia là hàng kém chất lượng- đó chính là các mục tiêu(sẽ được
nghiên cứu trong phần sau). Vậy chất lượng là thước đo mức độ hữu ích của
giá trị sử dụng biểu thị toàn bộ giá trị sử dụng của sản phẩm hàng hoá.
Chúng ta chỉ đưa ra một số khái niệm mang tính đại diện và được sự đánh
giá cao của giới chuyên môn.

1. Theo quan điểm của hệ thống XHCN trước đây mà Liên Xô làm đại
diện thì “ Chất lượng sản phẩm là tất cả các tính chất sản phẩm bảo đảm khả
năng thoả mãn nhu cầu nhất định trong những điều kiện nhất định”. Theo
đó, chất lượng được coi là một chỉ tiêu tĩnh không gắn các chỉ tiêu của chất
lượng sản phẩm với sự thay đổi nhu cầu, hiệu quả sản xuất kinh doanh, điều
kiện sản xuất của mỗi nước và của từng doanh nghiệp.
2. Theo khuynh hướng quản lý sản xuất “ Chất lượng của một sản
phẩm nào đó là mức độ mà sản phẩm ấy thể hiện được những yêu cầu,
những chỉ tiêu thiết kế hay những quy định riêng cho sản phẩm ấy”. Quan
niệm này lại quá nhấn mạnh tới những chỉ tiêu thiết kế của sản phẩm, hay
quy trình sản xuất mà không đề cập đến khả năng thoả mãn nhu cầu của
người tiêu dùng.
3. Theo khuynh hướng thoả mãn nhu cầu (Quan điểm của tổ chức
kiểm tra chất lượng châu Âu – European Organization For Quality Control):
“ Chất lượng của sản phẩm là năng lực của một sản phẩm hoặc của một dịch
vụ thoả mãn những nhu cầu của người sử dụng”.
4. Theo tiêu chuẩn AFNOR 50-109 : “ Chất lượng sản phẩm là năng
lực của một sản phẩm hoặc một dịch vụ thoả mãn những nhu cầu của người
sử dụng”.
5. Theo J.Jvan(Mỹ) “ Chất lượng sản phẩm là sự thoả mãn nhu cầu thị
trường với chi phí thấp nhất”.
Hai quan niện này phản ánh chất lượng sản phẩm hàng hoá phải vừa
phù hợp với người tiêu dùng lại gắn với mục tiêu của các nhà sản xuất tức cả
hai bên đều tăng lợi ích của mình khi sản xuất hay tiêu dùng những sản
phẩm có chất lượng cao.
6. Theo Oxford Pocket Dictionary “ Chất lượng là mức độ hoàn thiện,
là đặc trưng so sánh hay đặc trưng tuyệt đối, đấu hiệu đặc thù, các dữ kiện
thông số cơ bản”.
7. Theo Johns. Oakland: chất lượng chỉ là sự đáp ứng yêu cầu. Điều này
cũng đã được nhiều tác giả đề cập như: Juran, BS4778, 1987/ISO 8402/ từ

vựng chất lượng ; Feigenbaum; Gost Như vậy, chất lượng sản phẩm có
nhiều ngụ ý rộng lớn, đó là số lượng của sản phẩm hàng hoá và dịch vụ, việc
giao hàng độ tin cậy, lợi ích chi phí, Ta có thể lưu ý ở đây là khách hàng có
thể là người tiêu dùng cuối cùng mà cũng có thể trong nội bộ công ty như
các phòng ban, công đoạn vừa là khách hàng của người này lại vừa là người
cung ứng cho người khác.
8. Theo quan niệm CN, KT-XH( kiểm tra chất lượng hàng hoá HN
1979): “ Chất lượng sản phẩm là tổng hợp những tính chất đặc trưng của sản
phẩm, thể hiện mức độ thoả mãn những nhu cầu đã định trước cho nó trong
điều kiện xác định về kinh tế, kỹ thuật và xã hội”.
9. Theo TSO 8402- 86: “ Chất lượng sản phẩm là tổng thể những đặc
điểm, những đặc trưng của sản phẩm thể hiện được sự thoả mãn nhu cầu
trong những điều kiện tiêu dùng xác định, phù hợp với công dụng, tên gọi
của sản phẩm”.
10. Theo TCVN 5814- 94: “ Chất lượng là tập hợp các đặc tính của một
thực thể, đối tượng, tạo cho thực thể (đối tượng) đó khả năng thoả mãn
những nhu cầu đã nêu ra hoặc tiềm ẩn”.
Với các khái niệm này, ta thấy chất lượng sản phẩm là một chỉ tiêu
“động” tức là khi có sự thay đổi trình độ kỹ thuật , tay nghề của người lao
động được nâng cao, nhu cầu của thị trường biến động thì chất lượng sản
phẩm sẽ thay đổi theo hướng ngày càng tốt hơn.
Tóm lại, ta có thể đưa ra một khái niệm tương đối khái quát như sau:
“ Chất lượng sản phẩm hàng hoá là tổng hợp các đặc tính của sản phẩm
tạo nên giá tri sử dụng, thể hiện khả năng mức độ thoả mãn nhu cầu tiêu
dùng với hiệu quả cao, trong những điều kiện sản xuất, kinh tế xã hội nhất
định”.
Như vậy, chất lượng sản phẩm không những chỉ là tập hợp các thuộc
tính mà còn là mức độ các thuộc tính ấy thoả mãn nhu cầu tiêu dùng trong
những điều kiện cụ thể. Hay chất lượng sản phẩm vừa có tính chủ quan vừa
có tính khách quan. Quan niệm này thể hiện sự KH và toàn diện về chất

lượng, cũng như mối liên hệ hữu cơ giữa “ sản phẩm – xã hội – con người”.
3. Sự hình thành của chất lượng sản phẩm.
Trong sản xuất kinh doanh, mục đích lớn nhất đó là phải sản xuất ra những
hàng hoá đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng. Mà điều cốt lõi là
khách hàng luôn muốn tìm cho mình một sản phẩm có chất lượng cao giá cả
hợp lý đây là một điều không dễ dàng gì đối với các nhà cung ứng. Để tạo ra
một sản phẩm có chất lượng không chỉ đơn thuần quan tâm đến một vài
công đoạn của việc sản xuất ra sản phẩm mà bất cứ một sản phẩm nào cũng
được hoàn thành theo một trình tự nhất định với nhiều nghiệp vụ khác nhau
mà nếu một sự yếu kém bất kỳ nào trong trình tự ấy sẽ trực tiếp làm ảnh
hưởng đến chất lượng sản phẩm. Điều này đã được các học giả phân tích
một cách chi tiết các công đoạn phải được quản lý, thực hiện theo một chu
trình khép kín, vì sản xuất bắt nguồn từ nhu cầu thị trường và cũng quay trở
về thị trường để kiểm chứng và tất nhiên chất lượng sản phẩm cũng được
hình thành trong chu trình đó. Ta có thể minh hoạ các giai đoạn trong 3 phân
hệ: Nghiên cứu, thiết kế, sản xuất- tiêu dùng.
Sơ đồ 1: VTCL ISO 9004- 87, TCVN 5204-90.
Nghiên cứu thị trường
1
1
1
0
9
8
7
6
5
4
3
2

1
Nghiên cứu, thiết kế,
triển khai
Cung cấp vật tư
Kế hoạch hoá các quá
trình
Sản xuất
Thử nghiệm, kiểm tra.
Bao gói dự trữ
Phân phối, bán
Lắp ráp đưa v o sà ử
dụng
Hỗ trợ kỹ thuật, bảo
dưỡng, bảo h nhà
Các dịch vụ khác sau
bán

Sơ đồ 2: Chu trình hình thành chất lượng 3 phân hệ.
3.1 Phân hệ trước sản xuất :(Nghiên cứu thiết kế).
Sản xuất sản phẩm cho người tiêu dùng là mục tiêu của công tác quản lý
chất lượng. Đây là một nghiệp vụ quan trọng của phòng marketing trong tổ
chức. Nhờ đó mà người sản xuất xác định và làm rõ nhu cầu của người tiêu
dùng. Như ta đã biết nguyên lý cơ bản của marketing là bán cái người ta cần
chứ không phải cái mà mình có. Quả sẽ là sai lầm nếu như chúng ta cứ sản
xuất ra những sản phẩm chất lượng kém, hoặc không như người tiêu dùng
kỳ vọng. Nếu chúng ta xác định được một cách khá chính xác về yêu cầu về
số lượng, về chất lượng của người tiêu dùng cũng như các mục tiêu kinh
doanh mà doanh nghiệp đặt ra thì các công việc về sau mới có điều kiện
hoàn thành nhiệm vụ của mình. Vì vậy phòng Marketing phải sâu sát với thị
trường để phát hiện kịp thời sự thay đổi của nhu cầu và thiết lập mối quan

hệ gắn kết với phòng thiết kế sản phẩm.
Thiết kế sản phẩm là một quá trình từ xây dựng, quy định chất lượng sản
phẩm, xác định nguồn nguyên vật liệu cho tới thị trường tiêu thụ.
8
1
Nghiên cứu
Thiết kế
Triển khai
Sản xuất
Kiểm tra
bao gói
Bán h ng à
dịch vụ
Trưng cầu
ý kiến
V/c, dự
trữ
bảo quản
2
3
4
5
6
7
Sau khi chúng ta thực hiện song nhiệm vụ nghiên cứu thì phòng thiết kế
sẽ vạch ra những thông tin chi tiết hơn về sản phẩm đó tạo nên một mẫu sản
phẩm tương thích với số liệu điều tra nhu cầu, về phát triển sản xuất.
Chất lượng thiết kế giữ một vai trò đặc biệt quan trọng, tương lai của một
tổ chức được nhìn nhận qua lăng kính thiết kế, triển khai sản phẩm mới.
Công tác này mang tính chiến lược trong cạnh tranh. Đây là công việc

thường xuyên vì mọi sản phẩm đều có chu kỳ sống trong một khoảng nhất
định.
3.2. Phân hệ trong sản xuất.
Thứ nhất, nghiên cứu triển khai : Đây là là quá trình đầu tư chi phí nhiều
nhất để tạo ra sản phẩm. Ở đây chúng ta phải thực hiện một số nhiệm vụ
như: thiết kế dây chuyền công nghệ, sản xuất thử, đầu tư xâydựng cơ bản.
dự tính chi phí, giá thành sản phẩm và giá bán của sản phẩm Chúng ta cũng
cần lưu ý đến sự linh hoạt của dây chuyền sản xuất. Trong một dây chuyền
đó ta có thể chế tạo ra được nhiều sản phẩm khác nhau hoặc tương tự nhau.
Qua công tác này sẽ cho ta một cái nhìn cơ bản toàn diện về quá trình sản
xuất sản phẩm mới và cũng từ đó suất hiện nhiều sai lệch cần được điều
chỉnh kịp thời để tiến hành sản xuất hàng loạt.
Thứ hai, chế tạo sản phẩm : Quá trình này có nhiều nhân tố ảnh hưởng tới
chất lượng như bản thân máy móc thiết bị, người vận hành, điều kiện tự
nhiên nếu có sự sai hỏng trong giai đoạn này thì chi phí là hết sức lớn.
Như vậy phải có sự giám sát, quản lý, điều chỉnh kịp thời.
Thứ ba, kiểm tra chất lượng sản phẩm : Tìm biện pháp đẩm bảo chất
lượng quy định, bao gói, chuẩn bị xuất xưởng. Mặc dù đây là công đoạn
cuối cùng của phân hệ sản xuất song nó cũng khá quan trọng vì qua đó phát
hiện những sản phẩm sai hỏng để khắc phục trước khi nó đến tay người tiêu
dùng. Xu thế chung là phải thay thế kiểu kiểm tra sản phẩm cuối cùng bằng
ciến lược phòng ngừa và phải sử dụng thanh tra để xem xét lại hệ thống
chuyển đổi chứ không phải sản phẩm vì phát hiện sản phẩm tồi là rất tốn
kém, lãng phí và kém hiệu quả.
3.3. Phân hệ sau sản xuất (tiêu dùng ).
Nếu như trước đây người sản xuất chỉ tập chung nỗ lực của mình vào giai
đoạn(phân hệ ) trước sản xuất và khi sản xuất. Thì nay, phân hệ sau sản xuất
được doanh nghiệp rất quan tâm vì người ta không thể phủ nhân tầm quan
trọng lớn lao của nó, các quá trình cơ bản của phân hệ này bao gồm:
Vận chuyển sản phẩm sang mạng lưới lưu thông, tổ chức dự trữ bảo quản.

Các kho hàng tiếp nhận sản phẩm đồng thời qua đó có sự kiểm tra trách
nhiệm cả người giao hàng về số lượng và chất lượng. Do đó bộ phận này
ngoài chức năng dự trữ còn là một phòng tuyến ngăn ngừa hàng kém chất
lượng lọt vào mạng lưới phân phối.
Bán hàng, dịch vụ kĩ thuật, bảo quản, hướng dẫn sử dụng. Sẽ chưa có cơ
sở để chắc chắn rằng người tiêu dùng sẽ khai thác triệt để tính năng công
dụng mà sản phẩm mang laị nếu như thiếu công tác này. Quá trình di chuyển
hàng hoá từ nhà sản xuất, qua các kênh phân phối rồi tới người tiêu dùng
chịu tác động nhiều của các nhân tố khách quan đặc bịêt những mặt hàng
lương thực, thực phẩm, hàng dễ hỏng, dể vỡ Ngày nay với sự chi phối của
cơ chế thị trường, các doanh nghiệp luôn luôn tăng cường công tác dịch vụ
sau bán hàng(After Sale) và nó đã thực sự trở thành một vũ khí cạnh tranh
có hiệu quả. Chính nhờ nó mà sản phẩm phát huy hết được giá trị sử dụng,
người tiêu dùng dễ dàng khai thác sản phẩm một cách tối ưu, nâng cao uy
tín của doanh nghiệp trên thị trường.
Và cuối cùng là quá trình trưng cầu ý kiến khách hàng về chất lượng, số
lượngcủa sản phẩm, lâp dự án cho bứơc sau
Các quá trình đó cứ lặp lại thành những chu trình khác nhau.Trong suốt
quá, trình chất lượng sản phẩm sẽ không ngừng được cải tiếnvà nâng cao
Do đó, quản lý chất lượng đi từ thị trường và trở về thị trường, lần lặp lại
sau phủ định lần trước nhưng ở mức hoàn hảo hơn.
4. Những đặc điểm cơ bản của chất lượng sản phẩm.
Nhìn chung, mỗi sản phẩm khác nhau đều có đặc điểm riêng quy định cho
chất lượng sản phẩm. Song qua các khái niệm về chất lượng sản phẩm
chúng ta có thể đưa ra một số đặc điểm sau:
4.1. Chất lượng được đo bằng mức độ thoả mãn của người tiêu dùng.
Cho dù các nhà sản xuất có quảng bá sản phẩm của mình có chất lượng
cao đến đâu đi nữa mà nó không được sử ủng hộ, chấp nhận của người tiêu
dùng thì điều đó không mang lại ý nghĩa gì. Đây là một đặc điểm cốt lõi cho
cấp lãnh đạo hoạch định chính sách, mục tiêu, chiến lược chất lượng sản

phẩm của mình. Theo đó, phải đứng trên quan điểm tiêu dùng, đặt vị trí của
mình vào vị trí người tiêu dùng, lấy sự thoả mãn nhu cầu của khách hàng
làm thước đo chất lượng thì mới đem lại mức chất lượng sản phẩm hơp lý
nhất.
4.2. Chất lượng sản phẩm là một khái niệm mang tính tương đối.
Một sản phẩm được coi là có chất lượng tốt trong thời đoạn này, song nó
có thể đánh giá là tồi vào thời đoạn khác vì nó chịu ảnh hưởng của yếu tố tự
nhiên, nhu cầu thay đổi, sự tiến bộ mới của khoa học làm cho nó trở nên lỗi
thời khi một sản phẩm với tính năng công dụng cao hơn rất nhiều ra đời.
Tương tự như vậy đối với từng khu vực thị trường người tiêu dùng. Xu
hướng chung là chất lượng ngày càng được các hãng cải tiến nâng cao hơn
phù hợp thị hiếu của người tiêu dùng ngày càng khó tính.
4.3. Chất lượng sản phẩm có thể được lượng hoá.
Chất lượng sản phẩm phải được xác định rõ ràng bằng các chỉ tiêu, thông
số, kỹ thuật theo quy định của các cơ quan chức năng, doanh nghiệp và đặc
biệt quan trọng là người tiêu dùng.
Chất lượng có thể được lượng hoá và thể hiện bằng công thức:
Q=P/B<1
Trong đó:
P: là hiệu năng hoặc kết quả
B: là sự mong đợi hay nhu cầu của người tiêu dùng.
Ta thấy thường thì tỷ số P/B <1. Nếu Q=1 thì coi như nhu cầu của người
tiêu dùng được hoàn toàn thoả mãn.
Chất lượng sản phẩm phải có độ an toàn và tin cậy đối với người tiêu
dùng trong quá trình sử dụng sản phẩm hay dịch vụ đó.
4.4. Chất lượng là vấn đề luôn được đặt ra ứng với mọi trình độ
sản xuất.
Khi khoa học kĩ thuật thay đổi sẽ làm ảnh hưởng trực tiếp tới quá trình
sản xuất và dẫn đến chất lượng sản phẩm cũng theo đó mà tăng lên. Do đó,
ứng với trình độ sản xuất nào sẽ có một mức độ chất lượng nhất định.

Đây là đặc điểm phải được các doanh nghiệp quan tâm để không ngừng
nắm bắt những tiến bộ của khoa học công nghệ đưa vào thực tế sản xuất. Có
như vậy sản phẩm mới có năng lực cạnh tranh trên thị trường.
Từ các đặc điểm trên ta thấy sự cần thiết phải đánh giá đúng mức chất
lượng sản phẩm, so sánh với nhu cầu của người tiêu dùng để sản phẩm luôn
mang lại tối đa lợi ích cho người tiêu dùng và lợi nhuận thu được là lớn
nhất. Đồng thời phải xem xét đến sự thay đổi của môi trường ngành kinh tế -
kỹ thuật để có mức chất lượng hợp lý.
5. Sự phân loại chất lượng sản phẩm - ý nghĩa và mục đích.
5.1. Chất lượng thiết kế.
Chất lượng thiết kế của sản phẩm là giá trị các chỉ tiêu đặc trưng của sản
phẩm được phác thảo qua văn bản, trên cơ sở nghiên cứu nhu cầu thị trường,
các đặc điểm của sản xuất tiêu dùng, đồng thời có so sánh với chỉ tiêu chất
lượng các mặt hàng tương tự cùng loại của nhiều hãng nhiều công ty.
Chất lượng thiết kế được thể hiện ở chỗ sản phẩm hoặc dịch vụ đó được
thiết kế tốt như thế nào để đạt được mục tiêu. Các sản phẩm có tính năng tác
dụng, hình mẫu khác nhau như thế nào đều phụ thuộc vào quá trình thiết kế
ra chúng.
5.2. Chất lượng thực tế.
Chất lượng thực tế của sản phẩm là giá trị các chỉ tiêu chất lượng sản
phẩm thực tế đạt được do các yếu tố chi phối như: nguyên vật liệu, máy
móc, phương pháp quản lý Do vậy nó phản ánh khá chính xác khả năng
sản xuất sản phẩm của doanh nghiệp.
Chất lượng này sẽ được đánh giá qua quá trình khai thác sử dụng sản
phẩm. Khi qua thực nghiệm ta sẽ đánh giá được mức độ tuân thủ thiết kế và
có thể rút ra những điểm yếu,điểm mạnh, nắm bắt được sự phù hợp giữa
thiết kế và chế tạo, khi xảy ra trường hợp không ăn khớp giữa hai khâu này
ta phải tìm nguyên nhân ở cả hai vì có khi chất lượng thiết kế quá cao (hay
thấp) trong khi khả năng sản xuất lại rất thấp (hay cao).
5.3. Chất lượng chuẩn.

Chất lượng chuẩn là giá trị các chỉ tiêu đặc trưng được cấp có thẩm quyền
phê chuẩn. Chất lượng thiết kế phải dựa trên cơ sở của chất lượng chuẩn đã
được doanh nghiệp, Nhà nước quy định để có các chỉ tiêu về chất lượng của
sản phẩm hàng hoá hợp lý.
Sự phù hợp giữa chất lượng chuẩn và chất lượng thiết kế là một lợi thế
của sản phẩm do đó để có chất lượng chuẩn ta phải xem xét yêu cầu của các
văn bản quy định của NHÀ NƯỚC, doanh nghiệp, các hợp đồng kinh tế
giữa các bên liên quan.
5.4. Chất lượng cho phép.
Chất lượng cho phép là mức độ cho phép về độ lệch các chỉ tiêu chất
lượng của sản phẩm giữa chất lượng thực tế với chất lượng chuẩn. Tỷ lệ sai
số giữa chúng càng nhỏ thì chất lượng sản phẩm càng được đánh giá cao.
Để xác định chính xác chất lượng cho phép nhà sản xuất phải căn cứ vào
năng lực sản xuất thực tế, phương pháp tổ chức quản lý của doanh nghiệp và
các yếu tố vĩ mô khác.
5.5. Chất lượng tối ưu.
Chất lượng tối ưu là giá trị các chỉ tiêu chất lượng sản phẩm đạt được
mức độ hợp lý nhất trong điều kiện kinh tế xã hội nhất định, hay nói cách
khác sản phẩm hàng hoá đạt mức chất lượng tối ưu là các chỉ tiêu chất lượng
sản phẩm thoả mãn nhu cầu người tiêu dùng, có khả năng mang lại hiệu quả
kinh doanh cao.
Các hãng luôn tìm cách đưa chất lượng của mình về mức tối ưu, song
không phải dễ dàng gì vì tại đó họ phải đối mặt với những thách thức trong
và ngoài doanh nghiệp.
Để hiểu rõ hơn về vấn đề này ta hãy xem xét mối tương quan giữa giá cả
của chất lượng sản phẩm và giá trị chất lượng (giá thành) của sản phẩm qua
sơ đồ sau:
Sơ đồ 3: Quan hệ giữa giá trị chất lượng và giá cả.
Trong đó:
G

gc
: Giá cả sản phẩm.
G
gt
: Giá trị sản phẩm.
M
cl
: Mức chất lượng sản phẩm.
Ta dễ dàng nhận thấy: Khi chất lượng sản phẩm còn thấp, thậm chí bằng
0, thì giá trị chất lượng cũng không thể bằng 0 được thậm chí chi phí lại ở
Lợi nhuận
B
A
0
M
1
c
l
M
2
c
l
M
*
c
l
M
3
c
l

G
gc0
G
gc
G
gt
mức cao. Do đó muốn nâng cao chất lượng thì phải tăng cường đầu tư
nghiên cứu, thiết kế, triển khai và do vậy đường cong có xu hướng đi lên.
Nếu như cùng điều kiện sản xuất thì mức chất lượng là có giới hạn nhất định
dù rằng chi phí sản xuất có tăng. Các hãng cần phải quan tâm tới yếu tố nhu
cầu có khả năng thanh toán, tập quán tiêu dùng của dân cư vì nếu cứ tăng
chất lượng sản phẩm lên mãi sẽ phải đặt giá cao và như vậy với mức thu
nhập hạn chế thì cầu về hàng hoá này có thể bằng 0, tăng chi phí là vô nghĩa
và dẫn đến thua lỗ trong kinh doanh. Tại các điểm trước M
1
cl
và sau M
3
cl
thì
cả nhà sản xuất và người tiêu dùng đều không muốn cung cấp hay tiêu dùng
những sản phẩm đó. Và ta thấy giá cả tăng chậm dần và có thể trở nên bão
hoà sau M
*
cl
(mức chất lượng tối ưu ).
Mức chất lượng tối ưu thể hiện lợi thế so sánh của doanh nghiệp, mỗi lần
tìm lại lợi thế đó tức là lúc cần phải cải tiến chất lượng sản phẩm và tìm lại
chất lượng tối ưu.
Để xác định M

*
cl
của sản phẩm ta phải dựa trên cơ sở sau:
1. Nghiên cứu sản phẩm cạnh tranh tìm mặt mạnh, mặt yếu.
2. Nghiên cứu sản phẩm của doanh nghiệp tìm mặt mạnh, mặt yếu.
3. Nghiên cứu xu hướng phát triển sản phẩm, nhu cầu
Trong hình vẽ trên G
gc
là chi phí của người tiêu dùng gồm: Tiền mua
sắm+ chi phí sử dụng, thanh lý hàng năm. Tại mức chất lượng tối ưu thì chi
phí của họ là nhỏ nhất. Các hàng nhà sản xuất luôn tìm cách giảm hai loại
chi phí trên để tăng năng lực cạnh tranh của hàng hoá. Bên cạnh đó các nhà
sản xuất luôn quảng bá sản phẩm của mình, coi khách hàng là thượng đế tất
cả đều không nằm ngoài mục đích tạo ra lợi nhuận tối đa cho doanh nghiệp.
Như vậy khi chọn M
*
cl

công ty cần xác định nhu cầu về số lượng. Nếu nhu
cầu cao về số lượng thì giá trị các chỉ tiêu chất lượng thường có khuynh
hướng giảm tạm thời và lợi thế theo quy mô trong sản xuất. Để có mức chất
lượng hợp lý nhất, các doanh nghiệp phải có kế hoạch, dự báo chính xác
biến đổi của nhu cầu. Đây là một nhiệm vụ của quản lý chất lượng sản
phẩm.
Cũng trên sơ đồ 3, đường G
gt
thể hiện chi phí sản xuất để tạo ra mức chất
lượng cần thiết gồm 3 yếu tố cơ bản cấu thành, đó là:
1. Chi phí cho phần sản xuất sản phẩm như nguyên, nhiên vật liệu, khấu
hao máy móc nhà xưởng, lao động được tính trực tiếp vào giá thành sản

phẩm.
2. Chi phí cho kiểm tra, đánh giá, ngăn ngừa hư hỏng sản phẩm và loại trừ
những nguyên nhân có thể làm giảm mức chất lượng.
Các chi phí cho kiểm tra, đánh giá chất lượng gồm: Chi phí chuẩn bị cơ
sở kiểm tra. Giá trị các thiết bị đo lường và kiểm tra, giá trị nguyên vật liệu
và thiết bị thử nghiệm
Chi phí ngăn ngừa và loại trừ những nguyên nhân gồm có: Chi phí cho tổ
chức kế hoạch hoá chất lượng sản phẩm thiết kế và chuẩn bị thiết bị kiểm
tra; chi phí đào tạo cán bộ; chi phí kiểm tra sơ bộ và phân loại người cung
cấp nguyên vật liệu, chi tiết
3. Chi phí cho những tổn thất do sản phẩm hỏng, phế phẩm như sửa chữa
lại chế tạo lại hay cả những chi phí khắc phục hậu quả cho người tiêu dùng
do sản phẩm kém chất lượng gây ra.
Chi phí tổn thất này nhiều khi là rất lớn cả về vật chất và phi vật chất đối
với doanh nghiệp, như giảm uy tín của doanh nghiệp, bất đồng nội bộ doanh
nghiệp , nguyên vật liệu, lao động, thời gian hoạt động máy móc
Ta có thể thấy hai khoản chi phí 2 và 3 nằm trong khoảng 30-:- 40% và
60-:- 70% (*).
Thực tiễn cho chúng ta cái nhìn khá chính xác về việc kiểm tra sản phẩm
không mang lại kết quả khả quan, mà ngược lại con đường hiệu quả nhất lại
là tăng chi phí phòng ngừa hư hỏng. Từ đó giảm chi phí cho kiểm tra và
giảm tổn thất phế phẩm và các dịch vụ khác.
6. Các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm.
Ta có thể khẳng định: Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng tới chất lượng sản
phẩm bao gồm cả các yếu tố vi mô và các yếu tố vĩ mô. Sẽ không thể có
quản lý chất lượng sản phẩm tốt, có các biện pháp để nâng cao chất lượng
sản phẩm nếu như chúng ta không biết chất lượng sản phẩm tốt hay xấu là
do đâu. Ta hãy lần lượt xem xét các nhân tố đó.
6.1. Một số yếu tố ở tầm vĩ mô.
Các yếu tố này có tác động rất lớn tới chất lượng sản phẩm của doanh

nghiệp, khi nó mang tính tích cực sẽ làm cho doanh nghiệp có vị thế hơn
trên thương trường, sản phẩm của họ có sức cạnh tranh cao và ngược lại.
6.1.1. Nhu cầu của nền kinh tế.
Chất lượng sản phẩm chịu sự chi phối của các điều kiện kinh tế như yêu
cầu về chất lượng của thị trường, khả năng đáp ứng của nhà sản xuất, chính
sách kinh tế của Nhà nước, trình độ phát triển sản xuất. Như ta đã biết, sự
phát triển kinh tế của một quốc gia nằm trên đường giới hạn khả năng sản
xuất(PPF) do nguồn lực là có hạn, trong khi nhu cầu của con người luôn đa
dạng và phong phú cả về sồ lượng và chất lượng sản phẩm.Các doanh
nghiệp luôn phải đối đầu với sự hạn chế về vốn, lạc hậu về công nghệ, máy
móc, yếu kém của trình độ công nhân viên so với tình hình mới.
6.1.2. Sự phát triển của Khoa học - Kỹ thuật.
Con người đã và đang chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ
thuật hiện đại với quy mô sâu rộng trên toàn thế giới. Điều này đã luôn làm
lực lượng sản xuất phát triển theo hướng hiện đại hơn. Nó tác động mạnh
mẽ vào mọi ngành, mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội và đặc biệt
trong công nghiệp. Sự tiến bộ khoa học kỹ thuật đã tác động đến quá trình
sản xuất ra sản phẩm có chất lượng cao hơn, khi một công nghệ mới gia đời
sẽ kéo theo một loạt các sản phẩm mới ra đời với ưu thế hơn hẳn các sản
phẩm cũ cùng loại về chất lượng.
Sự tiến bộ này còn ảnh hưởng trực tiếp tới các yếu tố đầu vào như:
nguyên, nhiên vật liệu mới. Do vậy các doanh nghiệp không những chỉ quan

×