Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Báo cáo nghiên cứu khoa học đề tài " Tư tưởng hồ chí minh về phát huy động lực con người trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội " pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (142.89 KB, 7 trang )



131
TẠP CHÍ KHOA HỌC, ðại học Huế, Số 66, 2011

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ PHÁT HUY ðỘNG LỰC CON NGƯỜI
TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
Lê Hồ Sơn
Trường ðại học Sư phạm, ðại học Huế
TÓM TẮT
Phát huy ñộng lực con người có vai trò to lớn trong sự phát triển bền vững của mỗi
quốc gia, là nhân tố quyết ñịnh quan trọng nhất trong các nguồn lực nội sinh. ðể xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội, ngoài việc xác ñịnh rõ ñặc trưng, bản chất, mục tiêu chúng ta
cũng cần phải quan tâm ñến việc phát huy nguồn ñộng lực của chủ nghĩa xã hội. Thực tiễn ñã
chứng minh rằng, thắng lợi của cuộc Cách mạng Giải phóng dân tộc và xây dựng CNXH ở Việt
Nam ñều gắn liền với sự nghiệp, tư tưởng Hồ Chí Minh. Vì vậy, tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh
về phát huy ñộng lực con người chính là cơ sở lý luận và phương pháp luận khoa học ñể ðảng
Cộng sản Việt Nam xác ñịnh chiến lược phát triển trong thời kỳ mới, ñưa sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội ñi ñến thành công.

1. Mở ñầu
Hồ Chí Minh vị anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất, với tấm
gương sáng ngời về ñạo ñức cách mạng. Suốt ñời, Người phấn ñấu không mệt mỏi vì
mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người, xây dựng một
nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, ñộc lập, dân chủ và giàu mạnh góp phần thắng lợi
vào sự nghiệp cách mạng thế giới. Tư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần vô cùng
quý báu của dân tộc và nhân loại tiến bộ trên toàn thế giới.
Một trong những nhân tố quan trọng góp phần tạo nên tầm cao và chiều sâu giá
trị ñịnh hướng của tư tưởng Hồ Chí Minh là quan ñiểm về phát huy ñộng lực con người
trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người không
chỉ biểu hiện ở tình yêu thương con người, thương yêu nhân dân hết sức rộng lớn và sâu


sắc mà còn biểu hiện ở việc chăm lo, bồi dưỡng, sử dụng phát huy sức mạnh của con
người, của nhân dân, mang lại hạnh phúc cho con người nhằm giải phóng con người
khỏi mọi áp bức bất công, xây dựng xã hội mới- xã hội xã hội chủ nghĩa. ðặc biệt Hồ
Chí Minh luôn nhấn mạnh vai trò, nguồn ñộng lực của con người trong cách mạng xã
hội chủ nghĩa. Phát huy ñộng lực con người có vai trò to lớn trong sự phát triển bền
vững của mỗi quốc gia, có vai trò quyết ñịnh quan trọng nhất trong các nguồn lực nội
sinh.
ðể xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, việc cần phải quan tâm xây dựng và


132
phát huy có hiệu quả nguồn lực con người thì những quan ñiểm của Hồ Chí Minh về
con người chính là cơ sở lý luận và phương pháp luận khoa học ñể ðảng Cộng sản Việt
Nam kế thừa, phát triển trong giai ñoạn mới.
2. Nội dung
Hồ Chí Minh không ñưa ra một khái niệm hoàn chỉnh về con người, nhưng trên
cơ sở thế giới quan, phương pháp luận duy vật biện chứng, Người ñã nêu lên một hệ
thống quan ñiểm toàn diện và sâu sắc về con người: vừa là con người xã hội, có tính xã
hội, ý thức xã hội vừa là con người sinh vật; con người là chủ thể của các mối quan hệ
xã hội-lịch sử, là chủ thể sáng tạo và hưởng thụ các giá trị vật chất và tinh thần của xã
hội.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, con người là tổng hòa các quan hệ xã hội với
nhiều cấp ñộ khác nhau, Người viết: "Chữ người, nghĩa hẹp là gia ñình, anh em, họ
hàng, bầu bạn. Nghĩa rộng là ñồng bào cả nước. Rộng nữa là cả loài người"[5,644].
Trong quan hệ xã hội có con người cá nhân và con người cộng ñồng; có con người công
dân và con người cán bộ, ñảng viên. Con người xã hội bao giờ cũng sống trong một
hình thái kinh tế-xã hội nhất ñịnh. Con người sinh ra có những quyền ñược tạo hóa ban
cho và suy rộng ra, các dân tộc cũng có những quyền ñó, như quyền bình ñẳng, quyền
sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc.
Cơ sở khoa học ñể Hồ Chí Minh nghiên cứu, xem xét về con người là một ñộng

lực lớn của chủ nghĩa xã hội chính là sự vận dụng sáng tạo học thuyết Mác-Lênin về
con người vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta.
Trong triết học Mác-Lênin, vấn ñề con người ñược nghiên cứu xem xét trên 3
yếu tố:
Thứ nhất: Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật với mặt xã
hội. Với phương pháp biện chứng duy vật, triết học Mác nhận thức vấn ñề con người
một cách toàn diện, cụ thể, trong toàn bộ tính hiện thực xã hội của nó, mà trước hết là
lao ñộng sản xuất ra của cải vật chất. Thông qua hoạt ñộng sản xuất vật chất; con người
ñã làm thay ñổi, cải biến giới tự nhiên. Thông qua hoạt ñộng lao ñộng sản xuất, con
người sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần, phục vụ ñời sống của mình; hình thành
và phát triển ngôn ngữ và tư duy; xác lập quan hệ xã hội. Bởi vậy, lao ñộng là yếu tố
quyết ñịnh hình thành bản chất xã hội của con người, ñồng thời hình thành nhân cách cá
nhân trong cộng ñồng xã hội.
Là sản phẩm của tự nhiên và xã hội nên quá trình hình thành và phát triển của
con người luôn luôn bị quyết ñịnh bởi ba hệ thống quy luật khác nhau nhưng thống nhất
với nhau. Hệ thống các quy luật tự nhiên; Hệ thống các quy luật tâm lý và hệ thống các
quy luật xã hội. Ba hệ thống quy luật trên cùng tác ñộng, tạo nên thể thống nhất hoàn
chỉnh trong ñời sống con người bao gồm cả mặt sinh học và mặt xã hội.


133
Thứ hai: Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những
quan hệ xã hội. Từ những quan niệm ñã trình bày ở trên, chúng ta thấy rằng, con người
vượt lên thế giới loài vật trên cả ba phương diện khác nhau: quan hệ với tự nhiên, quan
hệ với xã hội và quan hệ với chính bản thân con người. Cả ba mối quan hệ ñó suy ñến
cùng ñều mang tính xã hội, trong ñó, quan hệ xã hội giữa người với người là quan hệ
bản chất, bao trùm tất cả các mối quan hệ khác và mọi hoạt ñộng trong chừng mực liên
quan ñến con người.
ðiều ñó khẳng ñịnh rằng, không có con người trừu tượng, chung chung mà con
người luôn luôn cụ thể, xác ñịnh, trong một ñiều kiện lịch sử nhất ñịnh, một thời ñại

nhất ñịnh. Trong ñiều kiện lịch sử ñó, bằng hoạt ñộng thực tiễn của mình, con người tạo
ra những giá trị vật chất và tinh thần ñể tồn tại và phát triển cả thể lực và tư duy trí tuệ.
Chỉ trong toàn bộ các mối quan hệ xã hội ñó, con người mới bộc lộ toàn bộ bản chất xã
hội của mình.
Thứ ba: Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử. Với tư cách là thực
thể xã hội, con người hoạt ñộng thực tiễn, tác ñộng vào tự nhiên, cải biến giới tự nhiên,
ñồng thời thúc ñẩy sự vận ñộng phát triển của lịch sử xã hội. Trong quá trình cải biến tự
nhiên, con người cũng làm ra lịch sử của mình. Con người là sản phẩm của lịch sử,
ñồng thời là chủ thể sáng tạo ra lịch sử của chính bản thân con người. Hoạt ñộng lao
ñộng sản xuất vừa là ñiều kiện cho sự tồn tại của con người, vừa là phương thức ñể làm
biến ñổi ñời sống và bộ mặt xã hội, thông qua hoạt ñộng vật chất và tinh thần, thúc ñẩy
xã hội phát triển từ thấp ñến cao, phù hợp với mục tiêu và nhu cầu do con người ñặt ra.
Bản chất con người, trong mối quan hệ với ñiều kiện lịch sử xã hội luôn luôn
vận ñộng biến ñổi, không phải là một hệ thống ñóng kín, mà là hệ thống mở, tương ứng
với ñiều kiện tồn tại của con người. Mặc dù là "tổng hoà các quan hệ xã hội", con người
có vai trò tích cực trong tiến trình lịch sử với tư cách là chủ thể sáng tạo. Thông qua ñó,
bản chất con người cũng vận ñộng biến ñổi cho phù hợp. Có thể nói rằng, mỗi sự vận
ñộng và tiến lên của lịch sử sẽ quy ñịnh tương ứng với sự vận ñộng và biến ñổi của bản
chất con người. Từ những quan ñiểm trên ñây có thể thấy rõ: con người, một mặt là sản
phẩm của lịch sử; mặt khác là chủ thể sáng tạo ra chính quá trình lịch sử ñó.
Tiếp thu quan ñiểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh cho rằng, con người
trước hết là người lao ñộng, là nhân dân lao ñộng, ñó chính là chủ thể sáng tạo xã hội
mới. Chính vì vậy, Người cho rằng mục tiêu phấn ñấu của chúng ta là tiến lên xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội, "Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những
con người xã hội chủ nghĩa" [6, trang 310]. Hồ Chí Minh quan niệm chủ nghĩa xã hội là
một xã hội tốt ñẹp nhất trong lịch sử loài người, một xã hội tự do và nhân ñạo, một công
trình tập thể của nhân dân, do nhân dân tự xây dựng lấy. Nếu không có con người thiết
tha với lý tưởng xã hội chủ nghĩa thì không có chủ nghĩa xã hội ñược. Theo Người,
nguồn ñộng lực của chủ nghĩa xã hội ñược biểu hiện ở các nội dung: vật chất và tinh
thần; nội sinh và ngoại lực, nhưng ñộng lực quan trọng và quyết ñịnh nhất là con người,



134
là nhân dân lao ñộng mà nòng cốt là công-nông-trí thức. Hồ Chí Minh thường xuyên
quan tâm ñến lợi ích chính ñáng, hợp pháp của họ; ñồng thời, chăm lo bồi dưỡng sức
dân. ðó là lợi ích của nhân dân và từng cá nhân.
Xem con người là ñộng lực quan trọng nhất của chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh
cho rằng ñó là con người có tinh thần và năng lực làm chủ; có phẩm chất ñạo ñức cách
mạng; có trình ñộ, trí tuệ, tri thức phong phú; có tinh thần sáng tạo, dám nghĩ, dám làm,
dám chịu trách nhiệm. Do ñó, ñộng lực con người ñược xem xét trên cả hai bình diện
cộng ñồng và cá nhân. Người cho rằng, không có chế ñộ xã hội nào coi trọng lợi ích
chính ñáng của cá nhân con người bằng chế ñộ chủ nghĩa xã hội.
- Con người trên bình diện cộng ñồng bao gồm tất cả các tầng lớp nhân dân:
công nhân; nông dân; tri thức, các tổ chức ñoàn thể, các dân tộc và tôn giáo, ñồng bào
trong nước và kiều bào ở nước ngoài Hồ Chí Minh luôn xác ñịnh, muốn xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội thì phải phát huy ñược khối ñại ñoàn kết dân tộc bởi vì ñây
không phải là sự nghiệp của riêng công nông mà là sự nghiệp chung của toàn dân tộc.
Chỉ có xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội mới tăng cường ñược sức mạnh của dân
tộc, mới giữ vững ñược ñộc lập dân tộc. Nước ta là một quốc gia ña dân tộc với 54 dân
tộc anh em cùng nhiều tôn giáo khác nhau nhưng luôn ñoàn kết một lòng không phân
biệt dân tộc, tôn giáo, tất cả ñều sống chung trong mái ấm ñại gia ñình các dân tộc Việt
Nam như Người ñã từng nói: "ðồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia Rai hay Ê
ðê, Xê ðăng hay Ba Na và các dân tộc thiểu số khác, ñều là con cháu Việt Nam, ñều là
anh em ruột thịt. Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, no ñói giúp nhau"
[4, trang 217]. ðộc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội có ñược giữ vững hay không là do
sức mạnh cố kết cộng ñồng dân tộc dưới sự lãnh ñạo của ðảng Cộng sản Việt Nam.
Trong các tầng lớp giai cấp, Hồ Chí Minh luôn coi giai cấp công nhân là lực
lượng chủ chốt với ý nghĩa: "Giai cấp công nhân là giai cấp lãnh ñạo. Khác hẳn với
trước kia, công nhân bây giờ là người chủ ñất nước, chủ xã hội, chủ cuộc sống. Bởi vậy
mọi người ñều phải thấm nhuần sâu sắc ý thức làm chủ tập thể và ñạo ñức cách mạng"

[7, trang 564]. Từ ñó, Người yêu cầu các tổ chức chính trị phải thấy ñược trách nhiệm
của mình trong việc xây dựng một ñội ngũ công nhân có giác ngộ cao, có lòng yêu nước
và yêu chủ nghĩa xã hội. ðây là giai cấp lãnh ñạo do ñó cần phải gương mẫu trong sản
xuất và trong ñời sống. Nhưng Người cũng không thể không nói ñến lực lượng cơ bản,
hùng hậu nhất ñó là giai cấp nông dân. Nông dân là lực lượng rất to lớn của dân tộc,
một ñồng minh rất trung thành với giai cấp công nhân, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: giai
cấp nông dân là "lực lượng cơ bản cùng với giai cấp công nhân xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Kinh nghiệm của ðảng ta trong quá trình cách mạng ñã chỉ rõ: nơi nào, lúc nào
cán bộ ta giải quyết tốt lợi ích thiết thân của nông dân, nắm vững nguyên tắc liên minh
công nông, thì nơi ñó, lúc ñó cách mạng ñều tiến mạnh" [6, trang 18]. Hồ Chí Minh
cũng luôn coi trọng vai trò của ñội ngũ trí thức (dĩ nhiên là trí thức giác ngộ) vì họ là
những chiến sĩ trên mặt trận tư tưởng, văn hóa và khoa học kỹ thuật, chính họ ñã ñóng


135
góp sức và lực ñể cải biến bộ mặt xã hội của nước ta, làm cho nhân dân ta yên tâm hơn
trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, Người nói: "Trí thức Việt Nam ñã gánh một
phần rất quan trọng trong cuộc kháng chiến cứu quốc và gánh một phần quan trọng
trong công việc kiến quốc. Hiện nay, hầu hết nhân viên trong Chính phủ Trung ương là
người trí thức" [4, trang 171]. Hồ Chí Minh cũng không quên nhắc ñến giai cấp tư sản
dân tộc. Theo Người, giai cấp tư sản dân tộc ở nước ta có xu hướng chống ñế quốc, có
xu hướng yêu nước Vì tư sản nước ta bị Tây, Nhật áp bức khinh miệt, họ căm tức tư
sản Pháp, Nhật, cho nên nếu mình thuyết phục khéo, lãnh ñạo khéo họ có thể theo xu
hướng chủ nghĩa xã hội. Khi miền Bắc bắt tay vào xây dựng chủ nghĩa xã hội, Người
không ñồng ý coi giai cấp tư sản dân tộc là ñối tượng của cách mạng bởi họ ñã ñi cùng
giai cấp công nhân trong cách mạng dân tộc dân chủ và cho rằng nên coi họ là ñồng
minh, cải tạo họ thành người lao ñộng.
ðồng thời, Hồ Chí Minh cũng luôn ñề cao vai trò lãnh ñạo của ðảng, khẳng
ñịnh ðảng ta thật là vĩ ñại khi ðảng hoàn thành sứ mệnh cách mạng giải phóng dân tộc,
khi những ñảng viên của ðảng tỏ ra gương mẫu, sẵn sàng xả thân vì nước, dám quyết tử

cho Tổ quốc quyết sinh. ðó chính là quá trình phát triển ý thức của mỗi con người trên
bình diện cộng ñồng, luôn ñặt lợi ích của dân tộc, của nhân dân lên trên hết và trước hết,
biết ñoàn kết, thương yêu lẫn nhau ñể hình thành một sức mạnh to lớn mang yếu tố thời
ñại mà không gì có thể ñánh ñổ ñược.
- Con người với tư cách cá nhân người lao ñộng. Sức mạnh của cộng ñồng
ñược hình thành từ sức mạnh của từng cá nhân. Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã
hội, người lao ñộng ñã trở thành những người chủ ñất nước, làm chủ quá trình tổ chức
và quản lý sản xuất, ñiều ñó ñã tạo ñiều kiện thuận lợi ñể phát huy những tiềm năng của
nguồn ñộng lực con người trong sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế-xã hội, làm
cho ñất nước ngày càng giàu mạnh.
Con người với tư cách người lao ñộng ñó là sức mạnh cộng ñồng ñược hình
thành từ sức mạnh của từng cá nhân và thông qua sức mạnh của từng cá nhân, vì thế cần
phải có những biện pháp khơi dậy, phát huy ñộng lực của mỗi cá nhân. Hồ Chí Minh ñã
chỉ ra một hệ thống nội dung, biện pháp vật chất và tinh thần, nhằm tác ñộng vào ñó, tạo
ra sức mạnh thúc ñẩy hoạt ñộng của con người cho chủ nghĩa xã hội ñó là:
+ Tác ñộng vào nhu cầu, lợi ích của con người. Bởi vì, bước vào xây dựng chủ
nghĩa xã hội là ñi vào một trận tuyến mới, Hồ Chí Minh cho rằng, cần phải biết kích
thích những ñộng lực mới, ñó là những lợi ích cá nhân chính ñáng của người lao ñộng,
cần phải kích thích ñồng bộ các ñộng lực tinh thần và vật chất của con người và luôn
tôn trọng, khuyến khích lợi ích cá nhân chính ñáng của người lao ñộng. Hồ Chí Minh
phê phán mạnh mẽ chủ nghĩa cá nhân hơn ai hết, nhưng Người rất quan tâm ñến việc
khuyến khích lợi ích cá nhân chính ñáng, coi trọng ñộng lực cá nhân tạo ra sự kết hợp
hài hoà giữa lợi ích cá nhân và xã hội.


136
+ Tác ñộng vào ñộng lực chính trị-tinh thần trên cơ sở coi trọng các ñòn bẩy
kinh tế nhưng Hồ Chí Minh cũng cho thấy rằng ñó không phải là phương thuốc chữa
bách bệnh mà có thể giải quyết ñược tất cả. Có những lĩnh vực hoạt ñộng xã hội - tinh
thần ñòi hỏi những hi sinh, thiệt thòi mà không có lợi ích vật chất nào có thể bù ñắp

ñược. Trong những hoàn cảnh khó khăn của cách mạng và kháng chiến, khi ñiều kiện về
cơ sở vật chất còn nhiều thiếu thốn, Hồ Chí Minh ñã ñề lên hàng ñầu việc phát huy các
ñộng lực chính trị-tinh thần của nhân dân ta như phát huy quyền làm chủ và ý thức làm
chủ của người lao ñộng, thực hiện công bằng xã hội, sử dụng vai trò ñiều chỉnh của các
nhân tố tinh thần khác như chính trị, văn hoá, ñạo ñức, pháp luật.
Hồ Chí Minh luôn ý thức rằng, con người với tư cách cá nhân không phải tự
nhiên mà có, không phải tự nhiên nó ñến. ðó là kết quả của cả một quá trình phấn ñấu
học tập, tu dưỡng, rèn luyện suốt ñời của mỗi con người, ñồng thời cũng là sản phẩm
của xã hội, của tập thể, nơi con người gắn bó cuộc sống của mình với ñất nước.
3. Kết luận
Quan ñiểm của Hồ Chí Minh về ñộng lực của chủ nghĩa xã hội, ñặc biệt về ñộng
lực con người là cơ sở khoa học cho ñường lối quan ñiểm của ðảng Cộng sản Việt Nam
trong sự nghiệp ñổi mới ở nước ta hiện nay. ðiều ñó ñòi hỏi ðảng và Nhà nước ta cần
phải ñề ra những chủ trương, chính sách ñúng ñắn nhằm phát huy nguồn ñộng lực con
người trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, cùng với ñó cần phải thực hiện dân
chủ hóa mọi mặt ñời sống xã hội ñể xây dựng những tiền ñề, ñiều kiện cho mọi hoạt
ñộng của con người ñược thực hiện trên cơ sở dân chủ, phát huy tính tích cực, tự giác,
sáng tạo của con người, bảo ñảm cho những giá trị dân chủ xã hội chủ nghĩa vào ñời
sống xã hội. ðó chính là sự vận dụng ñúng ñắn, sáng tạo quan ñiểm của Hồ Chí Minh
về phát huy nguồn ñộng lực con người trong giai ñoạn phát triển của nước ta hiện nay.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Bộ Giáo dục và ðào tạo, Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2009.
[2]. Thành Duy, Tư tưởng Hồ Chí Minh với sự nghiệp xây dựng con người Việt Nam phát
triển toàn diện, Nxb. Khoa học xã hội, 2010.
[3]. Nguyễn Văn Dương, Giá trị Di sản tư tưởng Hồ Chí Minh góp phần xây dựng con
người Việt Nam mới, Nxb. Văn hóa- thông tin, 2010.
[4]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 4, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
[5]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 5, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
[6]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 10, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.

[7]. Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 12, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.


137
[8]. ðinh Xuân Lý, Phạm Ngọc Anh, Một số chuyên ñề về tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. Lý
luận chính trị, 2008.
[9]. Song Thành, Hồ Chí Minh nhà tư tưởng lỗi lạc, Nxb. Lý luận chính trị, 2005.
[10]. Nguyễn Văn Tài, Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và phát huy nhân tố con người,
Tạp chí Triết học, số 2 (153), (2004), 11- 14.

HO CHI MINH’S THOUGHT ON PROMOTING HUMAN MOTIVATION
DURING THE CONSTRUCTION OF SOCIALISM
Le Ho Son
College of Pedagogy, Hue University
SUMMARY
Promoting human dynamics plays a major role in the sustainable development of each
country, and is the most important factor of the internal resources. To build socialism
successfully, in accordance with defining the characteristics, the nature and the objectives, we
must be interested in promoting the dynamics of socialism. It has been proved by the reality that
the victory of the revolution for the national liberation and the socialist construction in Vietnam
were associated with the career and thoughts of Ho Chi Minh. So, the learning Ho Chi Minh’s
thoughts on promoting human motivation is the theoretical basis and scientific methodology for
the Communist Party of Vietnam to determine the strategy of development of the new man in the
period of stepping up the industrialization and modernization, leading to success in the building
of socialism.

×