Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

CNH HĐh và vai trò của nguồn nhân lực trong sự nghiệp CNH HĐH của nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (243.96 KB, 25 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Từ đại hội Đảng lần thứ III, Đảng ta luôn coi công nghiệp hoá, hiện đại hoá
(CNH-HĐH) là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ.Đảng ta đã xác định thực
chất của CNH xã hội chủ nghĩa là “Quyết tâm thực hiện cách mạng kỹ thuật, thực
hiện phân công mới về lao động xã hội là quá trình tích luỹ xã hội chủ nghĩa để
không ngừng thực hiện tái sản xuất mở rộng“. Thực tiễn lịch sử đã chỉ rõ để thủ
tiêu tình trạng lạc hậu về kinh tế xã hội, khai thác tối ưu các nguồn lực và lợi thế,
bảo đảm tăng trưởng nhanh ổn định, nước ta phải xác định rõ cơ cấu kinh tế hợp
lý, trang thiết bị ngày càng hiện đại cho các ngành kinh tế. Mặt khác, nước ta là
nước đang phát triển vì vậy quá trình ấy gắn liền với quá trình công nghiệp hoá để
từ đó hiện đại hoá đất nước.
Trong các nhân tố tạo nên sự phát triển kinh tế-xã hội gắn với CNH-HĐH
đất nước thì nhân tố con người có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng hàng đầu. Ở
nước ta hiện nay, cùng với quá trình đổi mới toàn diện đất nước và bước vào giai
đoạn đẩy mạnh CNH - HĐH thì chúng ta càng nhận thức đựơc vị trí, vai trò lớn
lao của nhân tố con người.
Để đạt được sự phát triển, tính hiệu quả của quá trình CNH –HĐH thì cần
phải có những chính sách phát triển con người, nâng cao chất lượng nguồn lao
động và cách phân bổ, sử dụng hợp lí. Ở nước ta con người, nguồn nhân lực có
nhiều ưu điểm, lợi thế song cũng có những mặt hạn chế. Vấn đề sử dụng và đào
tạo nguồn nhân lực lại chưa thực sự hợp lý.Chính vì vậy việc phát huy và sử dụng
nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở nước ta hiện nay
là một điều hết sức cần thiết và cần có những sự quan tâm đúng mức.
I. CNH – HĐH VÀ VAI TRÒ CỦA NGUỒN NHÂN LỰC TRONG SỰ NGHIỆP
CNH – HĐH Ở NƯỚC TA.
1. Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa.
1.1. Khái niệm
CNH- HĐH hiểu theo nghĩa chung và khái quát là chuyển một nước có nền
kinh tế lạc hậu thành một nước công nghiệp hiện đại với trình độ kỹ thuật và công
nghệ tiên tiến, năng suất lao động cao trong các ngành kinh tế quốc dân
Ở thế kỷ XVII, XVIII, khi cách mạng công nghiệp được tiến hành ở Tây


Âu, công nghiệp hoá được hiểu là quá trình thay thế lao động thủ công bằng lao
động sử dụng máy móc.
Khái niệm công nghiệp hoá mang tính lịch sử, tức là luôn có sự thay đổi
cùng với sự phát triển của nền sản xuất xã hội, của khoa học - công nghệ. Do đó,
việc nhận thức đúng đắn khái niệm này trong từng giai đoạn phát triển của nền sản
xuất xã hội có ý nghĩa to lớn cả về lý luận và thực tiễn.
Kế thừa có chọn lọc những tri thức văn minh của nhân loại, rút những kinh
nghiệm trong lịch sử tiến hành công nghiệp hoá, và từ thực tiễn công nghiệp hoá
ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ
bảy khoá VI và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII Đảng Cộng sản Việt Nam
đã xác định: “công nghiệp hoá, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản,
toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội
từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao
động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên
sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ nhằm tạo ra năng
suất lao động xã hội cao.”
Khái niệm công nghiệp hóa,hiện đại hóa trên đây được Đảng ta xác định
rộng hơn những quan niệm trước đó, bao hàm cả về hoạt động sản xuất, kinh
doanh, cả về dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội, được sử dụng bằng các phương
tiện và các phương pháp tiên tiến, hiện đại cùng với kỹ thuật và công nghệ cao.
Như vậy, công nghiệp hoá theo tư tưởng mới là không bó hẹp trong phạm vi trình
độ các lực lượng sản xuất đơn thuần, kỹ thuật đơn thuần để chuyển- Mỗi phương
thức sản xuất xã hội nhất định có một cơ sở vật chất - kỹ thuật tương ứng. Cơ sở
vật chất - kỹ thuật của một xã hội là toàn bộ hệ thống các yếu tố vật chất của lực
lượng sản xuất xã hội, phù hợp với trình độ kỹ thuật (công nghệ) tương ứng mà
lực lượng lao động xã hội sử dụng để sản xuất ra của cải vật chất đáp ứng nhu cầu
xã hội.
- Có 4 mô hình CNH- HĐH:
+Mô hình công nghiệp hóa ở những nước Tâu Âu: xây dựng từ công
nghiệp nhẹ đến công nghiệp nặng.

+ Mô hình công nghiệp hóa ở Liên Xô: phát triển theo hướng nội khép
kín.
+ Mô hình công nghiệp hóa của những nước NICs như Hàn quốc, Đài
Loan, Hồng kông…
+ Mô hình công nghiệp hóa ở những nước ASEAN trong đó có Việt Nam:
có trình độ xuất phát điểm thấp.
1.2. Tính tất yếu khách quan
Chỗ dựa để xem xét sự biến đổi của cơ sở vật chất - kỹ thuật của một xã hội
là sự biến đổi và phát triển của lực lượng sản xuất; sự phát triển khoa học - kỹ
thuật; tính chất và trình độ của các quan hệ xã hội; đặc biệt là quan hệ sản xuất
thống trị
Nói cơ sở vật chất - kỹ thuật của một phương thức sản xuất nào đó là nói cơ sở
vật chất - kỹ thuật đó đã đạt đến một trình độ nhất định làm đặc trưng cho phương
thức sản xuất đó.
Đặc trưng của cơ sở vật chất - kỹ thuật của các phương thức sản xuất trước
chủ nghĩa tư bản là dựa vào công cụ thủ công, nhỏ bé, lạc hậu. Đặc trưng của cơ
sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa tư bản là nền đại công nghiệp cơ khí hoá.
Chủ nghĩa xã hội - giai đoạn thấp của phương thức sản xuất mới cao hơn chủ
nghĩa tư bản - đòi hỏi một cơ sở vật chất - kỹ thuật cao hơn trên cả hai mặt: trình
độ kỹ thuật và cơ cấu sản xuất, gắn với thành tựu của cách mạng khoa học và
công nghệ hiện đại.
Do vậy, có thể hiểu, cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội là nền
công nghiệp lớn hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, có trình độ xã hội hóa cao
dựa trên trình độ khoa học và công nghệ hiện đại được hình thành một cách có kế
hoạch và thống trị trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
- Từ chủ nghĩa tư bản hay từ trước chủ nghĩa tư bản quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội là một tất yếu khách
quan, một quy luật kinh tế mang tính phổ biến và được thực hiện thông qua công
nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Đối với các nước quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, dù đã có

công nghiệp, có cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa tư bản tiến bộ đến đâu
cũng chỉ là những tiền đề vật chất chứ chưa phải là cơ sở vật chất - kỹ thuật của
chủ nghĩa xã hội. Muốn có cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, các
nước này phải thực hiện quy luật nói trên bằng cách tiến hành cách mạng xã hội
chủ nghĩa về quan hệ sản xuất, tiếp thu vận dụng và phát triển cao hơn những
thành tựu khoa học và công nghệ vào sản xuất, hình thành cơ cấu kinh tế mới xã
hội chủ nghĩa có trình độ cao và tổ chức, sắp xếp lại nền đại công nghiệp tư bản
chủ nghĩa một cách hợp lý, hiệu quả hơn.
- Đối với các nước có nền kinh tế kém phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội
như nước ta, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội phải thực
hiện từ đầu, từ không đến có, từ gốc đến ngọn thông qua công nghiệp hoá, hiện
đại hoá. Mỗi bước tiến của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá là một bước
tăng cường cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, phát triển mạnh mẽ lực
lượng sản xuất và góp phần hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.
1.3. Vai trò của công nghiệp hóa- hiện đại hóa
Từ thập niên 60 của thế kỷ XX Đảng cộng sản Việt Nam đã đề ra đường lối
CNH- HĐH là nhiệm vụ trung tâm xuyên suốt thời kỳ quá độ lên CNXH
- Thứ nhất, tạo ra những điều kiện vật chất kỹ thuật cần thiết về con người
và khoa học công nghệ, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhằm huy động và sử
dụng có hiệu quả mọi nguồn lực
- Thứ hai, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển nhảy vọt về chất làm cho
năng suất lao động xã hội tăng lên, cùng một lúc giải quyết nhiều vấn đề sau:
+ Nâng cao khả năng tích lũy cho công nghiệp hóa – hiện đại hóa.
+ Tăng thu nhập quốc dân tính theo đầu người.
+ Tạo cơ sở vật chất kỹ thuật làm tiền đề củng cố lien minh công nông-
tri thức từ đó góp phần củng cố tăng cường Nhà nước XHCN.
- Ba là, tạo tiền đề về vật chất để hình thành nền văn hóa mới.
- Bốn là, góp phần xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ, củng cố và
tăng cường quốc phòng an ninh, nâng cao sức cạnh tranh nông nghiệp và sức cạnh
tranh của cả nền kinh tế,từ đó tạo điều kiện đưa Việt Nam chủ động hội nhập kinh

tế quốc tế.
2. Vai trò của nguồn nhân lực trong sự nghiệp CNH – HĐH ở nước ta.
2.1. Vai trò của con người trong sự nghiệp CNH – HĐH ở nước ta
a) Con người là nhân tố chủ chốt, sử dụng các nguồn lực khác phục vụ
cho quá trình CNH-HĐH.
Các nguồn lực khác như vốn, tài nguyên thiên nhiên,… nó đều tồn tại ở dạng
tiềm năng. Chúng chỉ phát huy tác dụng và có ý nghĩa tích cực khi kết hợp với
nguồn lực con người thông qua sự hoạt động ý thức của con người bởi vì con
người là nguồn lực duy nhất biết tư duy, có chí tuệ và ý chí biết lợi dụng các
nguồn lực khác gắn kết chúng lại với nhau tạo thành sức mạnh tổng hợp cùng tác
động vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Các nguồn lực khác chịu sự cải
tạo tác động , khai thác của con người va chúng đều phục vụ cho lợi ích của con
người nếu như con người biết cách tác động và chi phối. Vì vậy trong các yếu tố
thi nguồn nhân lực là quan trọng nhất. Chẳng hạn như vốn, tài nguyên là những
nguồn lực để tiến hành CNH-HĐH nhưng chúng chỉ trở thành nguồn lực quan
trọng và cấp thiết cho sự phát triển khi nằm trong tay của người biết khai thác và
sử dụng chúng. Nếu thiếu sự hiện diện của con người thi mọi nguồn lực đều trở
nên vô nghĩa.
b) Các nguồn lực khác là có hạn, có thể bị khai thác cạn kiệt còn nguồn
nhân lực là vô tận.
Nguồn lực con người không chỉ tái sinh và tự sản sinh về mặt sinh học mà
còn tự đổi mới không ngừng, phát triển về chất trong con người xã hội nếu biết
chăm lo và bồi dưỡng hợp lý. Đó là cơ sở để làm cho năng lực và hoạt động thực
tiễn của con người phát triển như một quá trình vô tận. Nhờ vậy con người đã
từng bước làm chủ tự nhiên, sáng tạo khám phá ra nhiều nguồn tài nguyên mới,
nhiều công cụ sản xuất mới, đưa xã hội chuyển qua các nền văn minh từ thấp đến
cao.
c) Trí tuệ con người có sức mạnh vô cùng to lớn.
Một khi trí tuệ con người được vật thể hóa trở thành lực lượng sản xuất trực
tiếp, sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật công nghệ

hiện đại đang dẫn các nền kinh tế của các nước công nghiệp phát triển vận động
đến nền kinh tế trí tuệ. Ở những nước này lực lượng sản xuất trí tuệ ngày càng
phát triển và chiếm tỉ trọng cao. Nguồn lợi mà họ thu được từ lao động chất xám
chiếm tới ½ tổng giá trị tài sản quốc gia. Giờ đây sức mạnh của trí tuệ đạt đến
mức nhờ có cuộc cách mạng con người có thể tạo ra những máy móc “bắt chước
hay phỏng theo những đặc tính trí tuệ của chính con người. Rõ rang bằng những
kỹ thuật công nghệ hiện đại do chính bàn tay đàu óc của con người lam nên ngày
nay mà nhân loại đang chứng kiến sự biến đổi thần kỳ trong lịch sử phát triển của
mình.
d) Kinh nghiệm của nhiều nước và thực tiễn.
Từ sự nghiệp đổi mới của chính nước ta trong những năm qua cho thấy sự
thành công của công nghiệp hóa hiện đại hóa phụ thuộc chủ yếu vào đường lối
chính sách cũng như tổ chức thực hiện nghĩa là phụ thuộc vào năng lực nhận thức
và hoạt động thực tiễn của con người. Không có những nhà chính khách, các nhà
hoạch định chính sách, các nhà khoa học công nghệ,… thì khó có thể có được
nhũng chính sách và chiến lược phát triển đúng đắn. Không có những nhà kinh
doanh tài ba thì sẽ không có người sử dụng một cách có hiệu quả nguồn vốn, tài
nguyên, công nghệ.
Qua những phân tích trên chúng ta có thể thấy được rằng nguồn nhân lực là
nguồn lực có vai trò quyết định sự thành công của quá trình công nghiệp hóa hiện
đại hóa đất nước. Vì vậy muốn CNH-HĐH thành công cần phải đổi mới, quan tâm
đến các chính sách đầu tư cho các ngành khoa học, văn hóa giáo dục nhằm phát
triển nguồn lực con người.
2.2. Quan điểm và chủ trương phát trển nguồn nhân lực của Đảng trong sự nghiệp
CNH – HĐH.
a. Giai đoạn 1996 – 2010.
Cuối những năm 80, đầu những năm 90 của thế kỷ XX chủ nghĩa xã hội tạm
thời lâm vào suy thoái sau sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu, “nhưng điều đó
không làm thay đổi tính chất của thời đại; loài người vẫn đang trong thời đại quá
độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội”. Cách mạng khoa học và công nghệ

tiếp tục phát triển với trình độ ngày càng cao, tăng nhanh lực lượng sản xuất, đồng
thời thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế thế giới, quốc tế hoá nền kinh
tế và đời sống xã hội. Giữa bối cảnh thế giới như thế, Đảng ta tổ thức Đại hội lần
thứ VIII, IX, X có những nội dung xây dựng phát triển nguồn nhân lực của nước
ta trong sự nghiệp CNH-HĐH của nước ta hiện nay.
. Tháng 6-1996, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII diễn ra, nhìn lại toàn
cảnh đất nước sau mười năm đổi mới (từ Đại hội VI của Đảng 1986). Mười năm
ròng rã phấn đấu thực hiện cải cách, đổi mới, “Đất nước thoát khỏi khủng hoảng
kinh tế - xã hội, cải thiện một bước đời sống vật chất của đông đảo nhân dân, giữ
vững ổn định chính trị, quốc phòng, an ninh được củng cố. Đồng thời, thành tựu
10 năm đổi mới đã tạo được nhiều tiền đề cần thiết cho công cuộc công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước.”. Bước sang giai đoạn mới- giai đoạn quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, Đảng ta đã đề ra nhiệm vụ quan trọng cho thời kỳ này, đó là chuẩn bị
tiền đề cho CNH-HĐH đã cơ bản hoàn thành, cho phép nước ta chuyển sang thời
kỳ mới đấy mạnh CNH-HĐH đất nước. Đặc biệt nhấn mạnh chủ trương xây dựng,
phát triền hệ thống nguồn nhân lực trong nước.Đảng ta trong quá trình lãnh đạo
cách mạng Việt Namluôn chú trọng yếu tố con người, coi con người vừa là mục
tiêu, vừa là động lực phát triển của xã hội. Bước vào thời kỳ đẩy mạnh CNH-
HĐH vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đại hội đã
nêu rõ quan điểm: “Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho
sự phát triển nhanh chóng và bền vững”. Và “Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát
huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của
công cuộc CNH-HĐH”. Đại hội Đảng VIII đã chỉ rõ nhiệm vụ ”Phát triển khoa
học và công nghệ, giáo dục và đào tạo. Đảng chủ trương phát triển mạnh mẽ sự
nghiệp giáo dục và đào tạo, cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo
là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân
tài. Coi trọng cả quy mô, chất lượng và hiệu quả giáo dục và đào tạo”. những quan
điển trên cho thấy, Đảng đã và đang tập trung vào nguồn lực quan tọng nhất của
nước ta hiện nay, đó không phải là tài nguyên mà là nguồn lực con người, chỉ có
nguồn lực con người mới khiến cho đất nước phát triển bền vững và lâu dài. Ngay

từ những ngày đầu hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh đã có những nhận thức sâu
sắc về nhân tố con người. Muốn xây dựng xã hội chủ nghĩa phải có con người xã
hội chủ nghĩa, phải chăm lo bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ cán bộ công nhân viên, và
hơn thế nữa là mọi tầng lớp trong xã hội có đủ tài, đủ đức để đảm bảo thực hiện
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xa hội, xây dựng sự nghiệp CNH-HĐH của nước
ta. Đảng và quần chúng nhân nhân phải thấm nhuần tư tưởng của Người làm cơ sở
thực hiện các đường lối chủ trương đúng đắn của Đảng.
Đại hội VIII kế thừa và phát triển những nhận thức đúng đắn về chủ trương,
quan điểm của Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa VII, từ đấy
làm cơ sở phát triển cho chủ trương mới của Đại hội IX, X tiếp theo của
Đảng.Đảng ta đã khẳng định rõ: “Phát triển mạnh khoa học và công nghệ, giáo
dục và đào tạo; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và phát triển kinh tế tri thức” ( Đại hội Đảng
X).Đảng ta chủ trươngCNH gắn với HĐH và CNH- HĐH gắn với phát triền kinh
tế tri thức. Đại hội X của Đảng đã nhận định: “Khoa học và công nghệ sẽ có
những bước tiến nhảy vọt và những đọt phá lớn”. Điều này đông nghĩa với việc,
đất nước phải tiến lên đấy mạnh phát triển khoa học công nghệ, tận dụng nguồn
kỹ thuật từ nước ngoài, đồng thời nâng cao trình độ khoa học- công nghệ trong
nước. Để đạt được những nhiệm vụ quan trọng đấy, điều quan trọng nhất, đó là
vấn đề nhân lực. Đảng ta đã nhận thức được rõ tầm quan trọng to lớn của vấn đề
nhân lực trong nền kinh tế tri thức hiện nay. Đại hội Đảng X đã chỉ rõ: đẩy mạnh
CNH-HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế
và của CNH-HĐH. “Giải phóng và phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, phát
huy mọi tiềm năng và nguồn lực, tạo bước đột phá về xây dựng kết cấu hạ tầng và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh, tăng tốc độ
tăng trưởng kinh tế, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng của nước đang phát triển
có thu nhập thấp”. Như vậy, trong giai đoạn 1996-2010, chặng đường 15 năm,
Đảng ta đã luôn đề cao vấn đề xây dựng hệ thống nhân lực chất lượng, đảm bảo
nhân lực cho nên kinh tế trong nước cũng như phát triển đội ngũ nhân công có
trình độ tri thức, có kỹ năng làm việc, phục vụ cho sự nghiệp CNH-HĐH mà nước

ta đang thực hiện và phấn đấu không ngừng để phát triển, để hướng Việt Nam trở
thành một nước công nghiệp đến năm 2020.
b. Từ 2011 đến nay.
Đại hội XI của Đảng họp vào lúc toàn Đảng, toàn dân ta kết thúc thập kỷ đầu
của thế kỷ XXI, thực hiện thắng lợi nhiều chủ trương, nhiệm vụ của Nghị quyết
Đại hội X và đã trải qua 25 năm đổi mới, 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, 10 năm thực hiện Chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010. Cùng với đầy là công cuộc công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước vấn đang trên con đường thực hiện và đấy nhanh mục
tiêu thắng lợi. Trên cơ sở tiếp tục thực hiện các mục tiêu đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức; phát triển kinh tế thị trường
gắn với giải quyết hài hoà các vấn đề xã hội, môi trường như đã chỉ ra ở các đại
hội khóa trước, Đại hội Đảng lần thứ XI (2011) đã cụ thể hóa, bổ sung, phát triển
và làm sáng tỏ thêm một số nội dung mới. Thể hiện ở những điểm sau:
Một là, đặc trưng về con người XHCN nêu trong Cương lĩnh (bổ sung, phát
triển năm 2011) được diễn đạt gọn hơn song vẫn bảo đảm đúng bản chất xã hội
XHCN mà chúng ta xây dựng. Đó là: “Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh
phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”. Chủ trương trên được đề ra nhằm mục
tiêu phát triển con người, phát triển nguồn nhân lực trong nước. Để phấn đấu đến
năm 2020, Việt Nam trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại và thực
hiện được mục tiêu phát triển con người mà Cương lĩnh 2011 đề ra, Đảng ta nhấn
mạnh: “Mở rộng dân chủ, phát huy tối đa nhân tố con người, coi con người là chủ
thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển”. Quan điểm này là sự tiếp
nối tư tưởng nhất quán của Đảng, coi con người là chủ thể và là nguồn lực quan
trọng nhất, quyết định sự phát triển xã hội và sự nghiệp cách mạng Việt Nam; mọi
quá trình phát triển kinh tế - xã hội phải hướng tới mục tiêu nhân văn cao cả là vì
con người. Điểm mới trong tư duy của Đại hội Đảng lần thứ XI là, một mặt, khẳng
định vai trò chủ thể của con người. Mặt khác, chỉ rõ để con người có điều kiện
phát triển toàn diện và thực sự là chủ thể, cần phải có cơ chế thích hợp. Cơ chế đó
là mở rộng dân chủ, tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho nhân dân phát huy

tối đa quyền làm chủ của mình. Bởi lẽ, dân chủ là một trong những điều kiện căn
bản nhất để phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của con người. Đồng thời, một khi
dân chủ được bảo đảm đầy đủ sẽ tạo ra sự đồng thuận xã hội cao, đó là yếu tố
không thể thiếu để tạo động lực phát triển đất nước.
Hai là, phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng
cao, là khâu đột phá của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội từ nay đến năm
2020. Đại hội Đảng lần thứ X (2006) đã chỉ rõ, để thực hiện thắng lợi công cuộc
đẩy mạnh CNH-HĐH gắn với kinh tế tri thức phải phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao. Tức là, chuyển hướng chiến lược phát triển nguồn nhân lực theo chiều
rộng sang chiều sâu, coi trọng và gia tăng chất lượng của nguồn nhân lực. Song,
Đại hội Đảng lần thứ X cũng như các kỳ đại hội trước chưa xác định đó là khâu
đột phá, là những khâu trọng yếu của sự phát triển. Lựa chọn đúng khâu đột phá
sẽ tạo ra những tiền đề, những điều kiện và môi trường thuận lợi để giải phóng
mọi tiềm năng và khai thác có hiệu quả các nguồn lực cho phát triển. Trong ba
khâu đột phá chiến lược mà Đảng ta xác định thì “Phát triển nhanh nguồn nhân
lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao” được xem là khâu đột phá thứ
hai. Đây cũng chính là chìa khóa cho sự phát triển nhanh, mạnh, có hiệu quả công
cuộc CNH-HĐH đất nước.
Ba là, phải “gắn kết chặt chẽ giữa phát triển nguồn nhân lực với phát triển và
ứng dụng khoa học, công nghệ”. Trong điều kiện khoa học - công nghệ và kinh tế
tri thức phát triển nhanh chóng, những nước có trình độ phát triển thấp vẫn có thể
tận dụng thời cơ, ứng dụng những thành tựu của khoa học, công nghệ hiện đại để
vươn lên tránh nguy cơ tụt hậu và tạo ra sự phát triển nhanh, bền vững. Điều đó
chỉ trở thành hiện thực nếu có sự gắn kết chặt chẽ giữa đầu tư gia tăng nhanh
chóng chất lượng nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ
tiên tiến. Đối với Việt Nam, một nước có xuất phát điểm thấp thì sự gắn kết này
là yêu cầu nghiêm ngặt và càng phải được coi trọng, thậm chí là vấn đề sống còn
của sự nghiệp đổi mới ở nước ta. Do vậy, “gắn kết chặt chẽ giữa phát triển nguồn
nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ” là một nội dung mới
thể hiện tính hướng đích của Đảng ta trong chiến lược phát triển nhanh và bền

vững.
Trênđây là những quan điểm cụ thể mà Đại hội Đảng XI đã chỉ rõ và thể hiện
chủ sự đúng đắn trong quản lý và nhận thức vai trò của nguồn nhân lực trong sự
phát triển chung của toàn dân tộc hiện nay.
Con người là nhân tố thực sự quan trọng cho sự phát triển bền vững của một
quốc gia. Và, vấn đề nhân lực thực sự là một bài toán khó và cần một quá trình để
phát triển, cũng như cần sự thống nhất đồng bộ trong quản lý cũng như thực hiện,
cùng phát triển, xây dựng mới có thể đạt được các mục tiêu đã đặt ra.
II. THỰC TRẠNG NGUỒN NHÂN LỰC CỦA NƯỚC TA HIỆN NAY.
1. Thực trạng.
Rõ ràng không thể phủ nhận vai trò to lớn của nguồn nhân lực trong thời kỳ
công nghiệp hóa-hiện đại hóa, đó là nhân tố quyết định đến sự phát triển của nước
ta cũng như của các doanh nghiệp hiện nay. Tuy nhiên Trong thời điểm nền kinh
tế đang có hướng chững lại, thị trường lao động tại nước ta đã bộc lộ những bất
cập về dòng chuyển dịch, chất lượng, sử dụng
 Việt Nam là một trong những nước đông dân với cơ cấu dân số trẻ tạo ra một lực
lượng lao động dồi dào.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, đến năm 2011 dân số Việt Nam gần đạt
ngưỡng 88 triệu người (ước tính khoảng 87,84 triệu người). Với lượng dân số này,
hiện nay Việt Nam đang đứng thứ 13 trên thế giới về dân số và thứ 2 trong khu
vực Đông Nam Á. Về lực lượng lao động , tính đến 1/7/2011, cả nước có 51,4
triệu người từ 15 tuổi trở lên thuộc lực lượng lao động, chiếm 58,5% tổng dân số.
Trong đó lực lượng lao động của khu vực nông thôn chiếm 70,3%.
Về cơ cấu lao động nước ta hiện nay cho thấy những bước chuyển dịch tích
cực, tỷ trọng lao động ngành nông – lâm – thủy sản giảm, ngành công nghiệp và
dịch vụ tăng, tuy nhiên, khoảng cách chênh lệch số lượng lao động giữa các
ngành kinh tế vẫn tương đối lớn.
Bảng 1. Cơ cấu lao động của các khu vực kinh tế, 2006-2011

Năm Nông, lâm,

thủy sản
Công nghiệp

xây dựng
Dịch vụ
2007 52,9 18,9 28,1
2008 52,3 19,3 28,4
2009 51,5 20,0 28,4
2010 49,5 21,0 29,5
2011 48,4 21,3 30,3
(Nguồn: Tổng cục dân số - kế hoạch hóa gia đình)
Số lượng lao động là nông dân ngày càng giảm tuy nhiên vẫn chiếm tỷ trọng
lớn nhất với khoảng hơn 61 triệu 433 nghìn người, bằng khoảng 73% dân số của
của cả nước. Về số lượng giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay có khoảng 10
triệu người. Nguồn nhân lực từ trí thức, công chức, viên chức của Việt Nam trong
những năm gần đây tăng nhanh. Việt Nam những năm gần đây đội ngũ trí thức
tăng nhanh, chỉ tính riêng số sinh viên cũng đã cho thấy sự tăng nhanh vượt bậc.
Năm 2008 tổng số sinh viên ra trường là 233.966 trong đó sinh viên tốt nghiệp đại
học là 152.272; sinh viên tốt nghiệp cao đẳng là 81.694. Số trí thức có trình độ
thạc sĩ, tiến sĩ cũng tăng nhanh.Theo thống kê cả nuớc đến 2008 có hơn 14 nghìn
tiến sĩ và tiến sĩ khoa học và đang đặt mục tiêu trong 10 năm tới sẽ có 20000 tiến
sĩ.
 Lao động nhiều, việc làm ít.
Từ năm 2007 đến nay, thị trường lao động thường xuyên biến động bất
thường, phản ánh tình hình kinh tế đất nước. Tốc độ tăng việc làm có xu hướng
giảm đi, chỉ đạt mức 2,6% so với mức 2,7% của thời kỳ 5 năm trước khi Việt Nam
gia nhập WTO. Năm 2009 và năm 2011 được coi là những năm “đáy”, khi tốc độ
tăng việc làm xuống thấp, chỉ đạt 1,6% và 2,0% (năm 2012 chưa có thống kê cụ
thể nhưng ước tính con số cao hơn cả năm 2011). Một trong những nguyên nhân
là do hàng loạt doanh nghiệp phải đóng cửa. Ước khoảng 200 nghìn việc làm theo

kế hoạch đã không thể được tạo ra trong riêng năm 2011 do tăng trưởng kinh tế
thấp.
 Số lượng không song hành với chất lượng.
Tuy nhiên, số người trong độ tuổi lao động đông không có nghĩa là thị trường
lao động Việt Nam đáp ứng đủ nhu cầu lao động cho các doanh nghiệp. Bởi số lao
động có tay nghề, có chất lượng của nước ta đang còn rất hạn chế. Trong tổng số
51,4 triệu lao động chỉ có gần 7,8 triệu người đã được đào tạo, chiếm 15,4%. Sự
chênh lệch về chất lương nguồn lao động được thể hiện rõ nhất là ở khu vực nông
thôn và thành thị. Ở thành thị lao động đã được đào tạo chiếm 30,9%, trong khi ở
nông thôn chỉ có 9%. Sự chênh lệch này là quá lớn, ảnh hưởng không nhỏ tới sự
phát triển kinh tế chung của nước. Trong khi đó, lượng lao động từ nông thôn đến
thành thị tìm việc là rất lớn.Nhưng mục đích chính của những lao động này lên
thành phố không phải để học nghề, học việc mà tham gia vào các công việc mang
tính chất thời vụ, buôn bán hoặc làm những công việc không đòi hỏi kinh nghiệm,
tay nghề.
Theo số liệu thống kê năm 2010, trong số 20,1 triệu lao động đã qua đào tạo
trên tổng số 48,8 triệu lao động đang làm việc, thì chỉ có 8,4 triệu người có bằng
cấp, chứng chỉ do các cơ sở đào tạo trong và ngoài nước. Số người từ 15 tuổi trở
lên được đào tạo nghề và chuyên môn kỹ thuật rất thấp, chiếm khoảng 40%. Cơ
cấu đào tạo hiện còn bất hợp lý được thể hiện qua các tỷ lệ: Đại học và trên Đại
học là 1, trung học chuyên nghiệp là 1,3 và công nhân kỹ thuật là 0,92; trong khi
trên thế giới, tỷ lệ này là 1-4-10. Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới (WB),
Việt Nam đang rất thiếu lao động có trình độ tay nghề, công nhân kỹ thuật bậc cao
và chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam cũng thấp hơn so với nhiều nước khác.
Nếu lấy thang điểm là 10 thì chất lượng nhân lực của Việt Nam chỉ đạt 3,79 điểm
(xếp thứ 11/12 nước Châu Á tham gia xếp hạng của WB) trong khi Hàn Quốc là
6,91; Ấn Độ là 5,76; Malaysia là 5,59; Thái Lan là 4,94
Cơ cấu phân bổ lao động theo ngành nghề cũng mất cân đối. Các ngành kỹ
thuật - công nghệ, nông - lâm - ngư nghiệp ít và chiếm tỉ trọng thấp, trong khi đó
các ngành xã hội luật, kinh tế, ngoại ngữ lại quá cao. Nhiều ngành nghề, lĩnh

vực có tình trạng vừa thừa vừa thiếu nhân lực. Những lĩnh vực hiện đang thiếu lao
động như: Kinh doanh tài chính, ngân hàng, kiểm toán, công nghệ thông tin, điện
tử, viễn thông, cơ khí chế tạo
Từ những thực trạng trên dẫn đến một hậu quả đáng buồn, đó là tỷ lệ thất
nghiệp của nước ta hiện nay vẫn còn ở mức cao.
(Nguồn: Tổng cục Thống kê)
 Doanh nghiệp vẫn khát nhân lực.
Theo số liệu của Viện nghiên cứu phát triển TP. HCM cho biết: hiện nay,
cung lao động tại Việt Nam rất dồi dào và lớn hơn cầu về lao động. Tuy nhiên,
phần lớn lượng cung lao động này là lao động phổ thông, tỷ lệ lao động chưa qua
đào tạo cao và chất lượng lao động không đồng đều giữa các vùng, miền. Cụ thể
là gần 77% người lao động trong độ tuổi lao động chưa được đào tạo nghề, hoặc
được đào tạo thì còn hạn chế về kỹ năng nghề nghiệp và chất lượng lao động ở
khu vực thành phố cao hơn so với ở khu vực nông thôn. Về mặt cầu, nguồn nhân
lực của Việt Nam hiện nay phần lớn được phân bổ trong khu vực nông nghiệp, nơi
kỹ năng, tay nghề và trình độ của người lao động thường không cần ở mức độ cao.
Lực lượng lao động đang làm việc trong khu vực công nghiệp chỉ chiếm 20% và
đối với khu vực dịch vụ chỉ chiếm khoảng 26%.

Theo Bộ LĐ-TB&XH thì hiện tại, chất lượng việc làm vẫn rất thấp. Cụ thể:
việc làm giản đơn, không cần kỹ năng chiếm gần 40% tổng việc làm của cả nước.
Ở khu vực thành thị tỷ lệ này là 18,1% nhưng khu vực nông thôn chiếm gần 50%
tổng việc làm. Trong khi đó, so với những năm trước đây, cùng với sự phát triển
của nền kinh tế nói chung và các doanh nghiệp nói riêng, nhu cầu về nguồn nhân
lực có chất lượng cao của các ngành dịch vụ và công nghiệp tăng rất nhanh. Đến
các KCX-KCN, khi tuyển công nhân cho các ngành may mặc, điện tử
cũng yêu tiên người có kinh nghiệm, tay nghề, lao động đã qua đào tạo.

Bên cạnh các Doanh nghiệp Việt Nam, hiện nay các doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài ở nước ta cũng đang rất khát nguồn lao động có tay nghề, chất

lượng cao. Trong khi đó, tỷ lệ lao động có chất lượng của chúng ta lại quá ít,
không đủ để đáp ứng cho nhu cầu của các doanh nghiệp.
2. Nguyên nhân
Có thể rút ra đượcmột số đặc điểm trọng tâm về thực trạng nguồn nhân
lực ở Việt Nam hiện nay:
- Nguồn nhân lực ở Việt Nam khá dồi dào, nhưng chưa được sự quan tâm
đúng mức, chưa được quy hoạch, chưa được khai thác, chưa được nâng cấp, còn
đào tạo thì chưa đến nơi đến chốn, nhiều người chưa được đào tạo.
- Chất lượng nguồn nhân lực chưa cao, dẫn đến tình trạng mâu thuẫn giữa
lượng và chất.
- Sự kết hợp, bổ sung, đan xen giữa nguồn nhân lực từ nông dân, công
nhân, trí thức,… chưa tốt, còn chia cắt, thiếu sự cộng lực để cùng nhau thực hiện
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Có thể đánh giá tổng quát về nhân lực Việt Nam hiện nay là số lượng
đông, chất lượng không đông, thể hiện là tay nghề thấp, chưa có tác phong công
nghiệp, chưa có những tổng công trình sư, kỹ sư, nhà khoa học thật sự giỏi; chưa
có những chuyên gia giỏi; chưa có những nhà tư vấn, nhà tham mưu giỏi; chưa có
những nhà thuyết trình giỏi; chưa có những nhà lãnh đạo, nhà quản lý giỏi.
Báo chí nước ngoài bình luận người Việt Nam khá thông minh, rất nhanh
nhạy trong việc nắm bắt và tiếp thu cái mới. Tiếc rằng, lại chưa được khai thác
đầy đủ, đào tạo chưa bài bản, điều đó ảnh hưởng đến chất lượng nhân lực và ảnh
hưởng đến sự phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam. Nguyên nhân là do:
Nguồn nhân lực trong nông thôn chưa được khai thác, đào tạo, cho nên một
bộ phận nhân dân ở nông thôn không có việc làm ở các khu công nghiệp, công
trường và hiên nay các doanh nghiệp đang thiếu nghiêm trọng thợ có tay nghề
cao, trong khi đó, lực lượng lao động ở nông thôn lại dư thừa rất nhiều; chất lượng
lao động rất thấp đó là do khâu tổ chức lao động và quy hoạch lao động trong
nông thôn chưa tốt. Chính sách đối với nông nghiệp, nông dân, nông thôn chưa
đồng bộ, chưa mang tính khuyến khích và tính cạnh tranh.
Tình trạng giai cấp công nhân chưa đáp ứng được yêu cầu về số lượng, chất

lượng, kỹ năng nghề nghiệp; thiếu nhiều các chuyên gia kỹ thuật, công nhân lành
nghề; tác phong công nghiệp và kỷ luật lao động còn nhiều hạn chế; phần lớn
công nhân xuất thân từ nông dân, chưa được đào tạo cơ bản và có hệ thống. "Địa
vị chính trị của giai cấp công nhân chưa thể hiện đầy đủ"1 đó là do quá trình phát
triển kinh tế - xã hội trong quá trình đổi mới đã mở ra một giai đoạn lịch sử mới
trong sự phát triển của giai cấp công nhân Việt Nam. Bên cạnh đó, những hạn chế,
yếu kém trong phát triển kinh tế - xã hội ảnh hưởng không nhỏ đến việc làm, đời
sống, tâm tư, tình cảm của công nhân; những chính sách về giai cấp công nhân tuy
đã ban hành, nhưng chưa sát hợp với tình hình thực tếcủa giai cấp công nhân.
Trong các doanh nghiệp và người sử dụng lao động, không ít trường hợp còn vi
phạm chính sách đối với công nhân và người lao động.
Đối với lực lượng lao động trí thức dồi dào, không ngừng gia tăng nhưng
không đáp ứng được nhu cầu của doanh nghiệp xuất phát từ việc đào tạo ồ ạt xong
chất lượng đào tạo không tốt dẫn đến sinh viên ra trường thiếu kiến thức chuyên
môn cũng như kỹ năng thực hành.
3. Giải pháp.
a) Kinh nghiệm của một số nước về đào tạo nguồn nhân lực.
Tại Mỹ, với một chiến lược dài hạn, kinh phí cho giáo dục đại học của Mỹ
đến từ các nguồn khác nhau, như các công ty, tổ chức nhà nước, các tổ chức phi
chính phủ, tổ chức tôn giáo, nhà từ thiện Nguồn kinh phí dồi dào mang lại cho
các trường khả năng xây dựng cơ sở vật chất hiện đại, thuê giảng viên giỏi cũng
như xây dựng quỹ hỗ trợ sinh viên. Trong giáo dục đại học ở Mỹ, tính cạnh tranh
giữa các trường rất khốc liệt. Nếu sinh viên vào được các trường đại học tốt, nổi
tiếng và học giỏi, cơ hội có việc làm sẽ tăng lên rất nhiều.
Tại Cộng hòa Séc, để đón trước cơ hội và thúc đẩy hội nhập thành công vào
Liên minh châu Âu (EU), nước này đã xây dựng và hoàn thành Chiến lược phát
triển nguồn nhân lực (tháng 12-2000). Chiến lược này là một bộ phận cấu thành
của Chương trình Thị trường lao động và phát triển nguồn nhân lực. Trong các
chiến lược thành phần, đáng chú ý có chiến lược phổ cập tiếng Anh, chiến lược cải
thiện nhân lực hành chính công, chiến lược phát triển giáo dục đại học - cao đẳng

và liên kết với hoạt động nghiên cứu, chiến lược phát triển đội ngũ giáo viên,
chiến lược phát triển học suốt đời
Ở châu Á, Nhật Bản là một trong những nước đi đầu trong phát triển nguồn
nhân lực. Xuất phát từ việc xác định rằng, nước Nhật nghèo tài nguyên thiên
nhiên, để phát triển, chỉ có thể trông chờ vào chính mỗi người dân Nhật Bản,
Chính phủ nước này đã đặc biệt chú trọng tới giáo dục - đào tạo, thực sự coi đây
là quốc sách hàng đầu. Theo đó, chương trình giáo dục đối với cấp tiểu học và
trung học cơ sở là bắt buộc; tất cả học sinh trong độ tuổi từ 6 đến 15 tuổi được học
miễn phí. Kết quả là, tỷ lệ học sinh thi đỗ vào các trường đại học, cao đẳng ở nước
này ngày càng nhiều. Và Nhật Bản đã trở thành một trong những cường quốc giáo
dục của thế giới.
Về sử dụng và quản lý nhân lực, Nhật Bản thực hiện chế độ lên lương và tăng
thưởng theo thâm niên. Nếu như ở nhiều nước phương Tây, chế độ này chủ yếu
dựa vào năng lực và thành tích cá nhân, thì ở Nhật Bản, hầu như không có trường
hợp cán bộ trẻ tuổi, ít tuổi nghề lại có chức vụ và tiền lương cao hơn người làm
lâu năm.
Tại Trung Quốc, Chính phủ đang hết sức quan tâm đến việc đào tạo và sử
dụng hiệu quả nguồn nhân lực hiện có trong nước, nhằm nâng cao chất lượng
nguồn lực này khi chuyển dần sang kinh tế tri thức. Năm 2003, Trung Quốc đã đề
ra Chiến lược tăng cường hơn nữa công tác bồi dưỡng, đào tạo nhân tài nhằm thực
hiện mục tiêu xây dựng toàn diện xã hội khá giả được đề ra trong Đại hội XVI của
Đảng Cộng sản Trung Quốc. Nội dung của chiến lược là: lấy nhân tài chấn hưng
đất nước, xây dựng đội ngũ đông đảo nhân tài có chất lượng cao; kiên quyết quán
triệt phương châm tôn trọng lao động, trí thức, tôn trọng nhân tài và sự sáng tạo,
lấy thúc đẩy phát triển làm xuất phát điểm cơ bản của công tác nhân tài, điều
chỉnh nhân tài một cách hợp lý, lấy xây dựng năng lực làm điều cốt lõi, ra sức đẩy
mạnh công tác bồi dưỡng nhân tài, kiên trì đổi mới sáng tạo, nỗ lực hình thành cơ
chế đánh giá và sử dụng nhân tài một cách khoa học
Singapore áp dụng linh hoạt chính sách giáo dục và luôn hướng đến khả
năng, sở thích cũng như năng khiếu của từng học sinh nhằm giúp các em phát huy

cao nhất tiềm năng của mình. Bên cạnh việc ứng dụng các tiến bộ của khoa học -
công nghệ mới vào giảng dạy, chương trình đào tạo của Singapore luôn chú trọng
vào giáo dục nhân cách, truyền thống văn hóa dân tộc. Để thu hút sinh viên quốc
tế đến học tập, Chính phủ Singapore miễn xét thị thực cho du học sinh quốc tế,
không đòi hỏi phải chứng minh tài chính, chi phí học tập vừa phải, môi trường học
tập hiện đại, các ngành nghề đào tạo đa dạng Nhà nước Singapore chỉ đầu tư vào
rất ít trường công lập để có chất lượng mẫu mực, có chính sách tín dụng thích hợp
để thu hút đào tạo nhân tài. Đối với khối ngoài công lập, Chính phủ tạo điều kiện
để phát triển, khuyến khích việc liên thông, liên kết với nước ngoài, mời gọi các
đại học quốc tế đặt chi nhánh
b) Một số giải pháp phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam
Từ thực tiễn trong nước và kinh nghiệm của thế giới có thể thấy rằng, việc xây
dựng và phát triển nguồn nhân lực phù hợp với điều kiện thực tế của nước ta có ý
nghĩa hết sức quan trọng và cũng là yêu cầu bức thiết hiện nay. Chiến lược phát triển
kinh tế-xã hội 2011-2020 cũng nêu rõ cần tập trung tạo đột phá “phát triển nhanh
nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới
căn bản nền giáo dục quốc dân, gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát
triển và ứng dụng khoa học, công nghệ”. Để xây dựng đội ngũ nhân lực có chất lượng
cao, Việt Nam cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp:
Thứ nhất: xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực gắn với chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập kinh tế
quốc tế. Ngày 19/4/2011, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 579/QĐ-
TTg Phê duyệt Chiến lược phát triển nhân lực Việt Nam thời kỳ 2011 - 2020 trong đó
nêu rõ mỗi bộ, ngành và địa phương phải xây dựng quy hoạch phát triển nhân lực
đồng bộ với chiến lược, kế hoạch phát triển chung của mình. Vấn đề hiện nay là cần
hiện thực hóa Chiến lược bằng các biện pháp, hành động cụ thể, trong đó cần coi
trọng và quyết tâm thực thi chính sách giáo dục - đào tạo phù hợp là nhân tố quyết
định tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao và bền vững.
Thứ hai, song song với việc phát hiện, bồi dưỡng và trọng dụng nhân tài, phát
triển nguồn nhân lực cần đi đôi với xây dựng và hoàn thiện hệ thống giá trị của con

người trong thời đại hiện nay như trách nhiệm công dân, tinh thần học tập, trau dồi tri
thức; có ý thức và năng lực làm chủ bản thân, làm chủ xã hội; sống có nghĩa tình, có
văn hóa, có lý tưởng. Đây cũng là những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt
Nam, rất cần được tiếp tục phát huy trong bối cảnh hội nhập quốc tế, nhất là đối với
thế hệ trẻ.
Thứ ba, phát triển nguồn nhân lực phải gắn với nâng cao chất lượng chăm sóc
sức khỏe người dân, chính sách lương - thưởng, bảo đảm an sinh xã hội. Đại hội XI
đã đề cập tới việc cụ thể hóa những hoạt động của lĩnh vực này nhằm nâng cao chất
lượng và hiệu quả chăm sóc sức khỏe nhân dân, đáp ứng yêu cầu của quá trình đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với kinh tế tri thức trong bối cảnh hội nhập,
cạnh tranh gay gắt và yêu cầu cường độ lao động cao.
Thứ tư, cải thiện và tăng cường thông tin về các nguồn nhân lực theo hướng rộng
rãi và dân chủ, làm cho mọi người thấy được tầm quan trọng của vấn đề phát triển
nguồn nhân lực ở nước ta và trên thế giới.
Thứ năm, cần có sự nghiên cứu, tổng kết thường kỳ về nguồn nhân lực Việt
Nam.
Thứ sáu, cần đổi mới tư duy, có cái nhìn mới về con người, nguồn nhân lực Việt
Nam.

THỰC TRẠNG NGUỒN NHÂ LỰC KẾ TOÁN Ở NƯỚC TA HIỆN NAY.
1. Thực trạng
Hiện nay khi đất nước ta đang trong quá trình công nghiệp hóa-hiện đại hóa đất
nước, nhất là sau khi gia nhập WTO tình hình kinh tế đang phát triển, các doanh
nghiệp, khu công nghiệp, các nhà đầu tư nước ngoài mọc lên ngày càng nhiều và kéo
theo hàng loạt dịch nhu cầu tuyển dụng nhân sự mà kế toán là một trong những vị trí
bắt buộc phải tuyển để có thể hình thành một bộ máy hành chính phục vụ cho hoạt
động của doanh nghiệp. Dù trong bối cảnh kinh tế đi xuống, nghề kế toán vẫn cần
thiết bởi nhu cầu về phân tích tài chính, hoạch định kinh doanh, sổ sách tài chính
công ty càng trở nên cấp thiết vì nhân viên kế toán được ví như tay hòm chìa khóa
của doanh nghiệp,giữ một vai trò rất quan trọng trong doanh nghiệp. Khi hội nhập và

CNH-HĐH quy mô kinh doanh ngày càng phát triển và chiến lược đẩy mạnh hoạt
động kinh doanh vươn ra thị trường quốc tế, công tác quản lý tài chính thì nguồn
nhân lực ngành kế toán lại cần thiết.
 Cung – cầu bất cân đối.
Trên thực tế nhìn tổng quan thì nguồn nhân lực kế toán của nước ta hiện nay
cũng đáp ứng được tương đối cho quá trình CNH-HĐH nhưng nguồn cung với nguồn
cầu lại bất cân bằng .Hiện nay ngành kế toán là ngành có nguồn cung dồi dào nhất,chỉ
dạo qua các trường Đại học tại Hà Nội chúng ta có thể thấy có rất nhiều trường hiện
đang đào tạo ngành kế toán với chuyên ngành đa dạng kế toán tài chính,kế toán quản
trị,kế toán tổng hợp,kế toán xây dựng kể cả các trường khối ngành kĩ thuật cũng
đào tạo kế toán.
Theo báo cáo nhu cầu tuyển dụng ngành kế toán hiện nay cho thấy, sinh viên học
ngành kế toán ra trường thất nghiệp rất nhiều. Nguyên nhân là do nguồn cung quá dồi
dào mà nhu cầu tuyển dụng thì lại rất thấp.
Chỉ riêng thành phố Hồ Chí Minh, tình trạng bất cân bằng cung cầu thể hiện
càng rõ nét.
Chỉ số cơ cấu cung-cầu nhân lực ngành kế toán trên địa bàn thành phố
HCM
Năm 2011 2012 6 tháng đầu năm
2013
Chỉ số cơ cấu
cung (%)
31,99 24,72 21,57
Chỉ số cơ cấu
cầu (%)
3,72 3,06 3,71
(Nguồn :Số liệu thống kê của Trung Tâm Dự báo nhu cầu nhân lực và Thông tin thị
trường lao động TPHCM )
Qua bảng trên chúng ta có thể thấy nguồn cung nhân lực ngành kế toán ngày
càng tăng. Nguồn cung ngày càng chiếm tỷ trọng cao và luôn dẫn đầu trong cơ cấu 40

ngành của thành phố.Trong khi đó cơ cấu cầu của ngành này chỉ đứng thứ 7 hoặc
8,có khi là thứ 9 trong 40 ngành.Cơ cấu nguồn cung gấp gần 10 lần so với nguồn cầu
của ngành.
 Phẩm chất nghề nghiệp.
-Về thể lực: Nguồn nhân lực kế toán đa số đều có sức khỏe tốt,có khả năng làm
việc với cường độ cao,chịu được áp lực công việc,đáp ứng tương đối yêu cầu của
CNH-HĐH đất nước.
-Về trí lực: Nguồn nhân lực kế toán đã phần nào đáp ứng được nhu cầu của thời
đại công nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước.
- Về đạo đức nghề nghiệp: đối với bất kỳ ngành nghề nào, người lao động cũng
cần phải luôn coi trọng vấn đề đạo đức nghề nghiệp. Đối với nghề kế toán, vấn đề
đạo đức nghề nghiệp lại được đề cao. Đối với mỗi doanh nghiệp, vai trò của công tác
kế toán cũng như nhân lực kế toán đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc quản
lý, sử dụng và hoạch định nguồn tài chính của doanh nghiệp, đóng vai trò quyết định
đến sự sống còn của doanh nghiệp. Chính vì thế, chỉ cần nhân viên kế toán có sai sót,
nó sẽ ảnh hưởng đến doanh nghiệp cũng như các chính sách của Nhà nước đối với
doanh nghiệp.
Một vấn đề nổi trội hiện nay, là tình trạng gian lận của lực lượng lao động kế
toán trong các tổ chức, doanh nghiệp ngày càng gia tăng gây nên nhiều tổn thất
nghiêm trọng cho bản thân doanh nghiệp cũng như cho toàn xã hội.
Bên cạnh những nguồn lực kế toán có phẩm chất và đạo đức nghề nghiệp thì
cũng không ít nguồn lực kế toán vì lợi nhuận cho doanh nghiệp,lợi tư cá nhân hay vì
theo yêu cầu của cấp trên mà đánh mất đạo đức nghề nghiệp gây thiệt hại không hề
nhỏ cho chính doanh nghiệp,cho xã hội cho sự công nghiệp hóa hiện đại hóa phát triển
của đất nước.Tiêu biểu chúng ta có thể điểm qua một số vụ việc như sau:
Vụ việc chốn thuế của Coca –Cola Việt Nam. Do yêu cầu, sự chỉ đạo của cấp
trên của Tổng công ty Coca-Cola mẹ đã làm cho kế toán của Coca-Cola Việt Nam mất
đi phẩm chất nghề nghiệp bằng việc lách luật, chế biến báo cáo tài chính để làm công
ty bị lỗ, chốn thuế thu nhập doanh nghiệp. Kế toán chế biên báo cáo tài chính của
công ty Coca-cola Việt Nam trong nhiều năm đều thuộc diện lỗ mặc dù doanh thu tăng

lên và công ty vẫn liên tục mở rộng sản xuất. Như vậy, Coca-Cola Việt nam hơn cả
chục năm hoạt động tại thị trường Việt Nam, Coca-cola Việt Nam không phải đóng
đồng nào cho nhà nước về thuế thu nhập doanh nghiệp, mà chỉ phải đóng một số
khoản thuế giá trị gia tăng, thuế môn bài. Hoạt động theo phương thức này thì Coca-
Cola Việt Nam không chỉ gây thất thoát nguồn thu thuế trong nước mà còn phá thế
cạnh tranh công bằng, thay vào đó là cạnh tranh độc quyền, phá giá, thậm chí thôn
tính đối tác kinh doanh và đằng sau những số liệu báo lỗ của Coca-Cola Việt Nam là
khoản lợi nhuận rất lớn hằng năm đã chảy về cho công ty mẹ dưới dạng tiền trả
nguyên phụ liệu và làm nghèo đất nước ta.
Vụ việc đính chính kết quả kinh doanh của Công ty cố phần Quốc Cường Gia
Lai với mức chênh lệch khủng do kế toán thiếu chuyên môn,bất cẩn thiếu tính cẩn
thận. Theo đó, số liệu sau khi đính chính cho thấy lợi nhuận cả năm 2012 tăng thêm
hơn 3 lần và lợi nhuận quý IV hơn 2 lần so với con số công bố ban đầu. Nguyên nhân
là trong quá trình hợp nhất số liệu, kế toán đã làm nhầm số liệu doanh thu và lợi nhuận
của công ty con dẫn đến kết quả kinh hợp nhất quý IV và cả năm 2012 có sự sai lệch
như trên. Bên cạnh đó, do thời gian báo cáo tài chính quý IV/2012 trùng với thời gian
nghỉ Tết âm lịch nên để kịp công bố kết quả kinh doanh hợp nhất nên kế toán làm gấp
nên xảy ra tình trạng nhầm lẫn trên.Vụ việc này xảy ra khiến giới đầu tư liên tục sốc,
và ngao ngán hơn khi doanh nghiệp công bố báo cáo quản trị 6 tháng đầu năm 2013
bằng nội dung của năm 2012.
Việc khai gian, lậu thuế trong một thời gian dài Công ty CP Tập đoàn Y Dược
Bảo Long. Dù kế toán đã mở sổ kế toán để theo dõi các hoạt động kinh tế nhưng lại
hạch toán các khoản chi phí không đúng quy định đến việc kế toán Bảo Long để ngoài
sổ sách doanh thu bán hàng, khai sai, khai thiếu doanh thu. Thậm chí sổ sách, chứng
từ kế toán còn không đóng dấu pháp nhân và thiếu chữ ký, không nộp hồ sơ khai thuế,
kê khai thiếu thuế giá trị gia tăng. Sổ sách hóa đơn, chứng từ và báo cáo Tài chính cho
thấy kế toán của Bảo Long đã không tuân thủ chế độ kế toán, kê khai nộp thuế.Hành
vi sai phạm này không phải chỉ do một phần kế toán thiếu tính chuyên môn,mất đi
phẩm đạo đức nghề .
Hoạt động của Công ty cổ phần Bông Bạch Tuyết bị trì trệ, kém hiệu quả dẫn

đến thua lỗ liên tục trong nhiều năm và dẫn đến nhưng hoạt động do quá trình hoạt
động đã phát sinh mâu thuẫn trong nội bộ, có nhiều thiếu sót, sai phạm trong quản
lý,công tác kế toán.Dù được công ty kiểm toán chỉ ra nhưng sai xót trọng yếu công ty
không thực hiện điều chỉnh và tiếp tục yêu cầu kế toán để những sai phạm này: hạch
toán chi phí không đúng, ghi nhận doanh thu khống, công nợ khống… diễn ra vào các
năm tiếp theo. Không chỉ vậy, lãnh đạo công ty còn chỉ đạo kế toán chỉnh sửa hồ sơ,
sổ sách để chứng minh rằng hoạt động kinh doanh của công ty có lãi. Kế toán trưởng
công ty qua các thời kỳ thừa nhận đã chỉ đạo và thực hiện điều chỉnh các bút toán với
mục đích báo cáo tài chính có lãi để có thể phát hành thêm cổ phiếu.Hành vi này của
kế toán trưởng dưới sự chỉ đạo của cấp trên cùng với hoạt động mở rộng loại hình
kinh doanh không đúng hướng đã làm công ty ngừng hoạt động vào năm 2008, và cố
phiếu bị hủy niêm yết trên sàn chứng khoán vào tháng 8-2009.
Bên cạnh đó còn có vụ việc kế toán trưởng Quảng Thanh Cần Công ty Phát triển
và kinh doanh nhà Cần Thơ đã nhận hối lộ, vi phạm nghiêm trọng các nguyên tắc về
quản lý, điều hành doanh nghiệp và các quy định của pháp luật về kế toán, tài chính,
như: thành lập quỹ sai quy định, chuyển nhượng đất cho cá nhân và các doanh nghiệp
khác gây thất thoát ngân sách Nhà nước hàng trăm tỷ đồng.
Như vậy chúng ta có thể thấy chỉ vì lợi ích cá nhân, cũng như lợi ích doanh
nghiệp mà có nhiều nhân lực kế toán đánh mất phẩm chất đạo đức nghề nghiệp của
mình.Hành động này không chỉ gây mất uy tín, phẩm chất chung cho nghề kế toán mà
lớn hơn hết là làm cho đất nước ta nghèo nàn đi, kém phát triển,không thực hiện được
lộ trình CNH-HĐH như chủ trương đề ra.
 Kỹ năng thực hành của nguồn nhân lực kế toán trẻ còn yếu.
Về chuyên môn nghiệp vụ: công việc kế toán không chỉ yêu cầu nhân lực nắm
được chuyên môn nghiệp vụ mà còn phải có khả năng quan sát, phân tích, tổng hợp,
đánh giá từ những con số. Nguồn nhân lực kế toán của nước ta cũng chỉ mới đáp ứng
được một phần theo yêu cầu. Bởi một phần lớn nguồn lực là sinh viên mới ra trường
thì trình độ chuyên môn thực tế rất hạn chế. Bên cạnh đó trong quá trình công nghiệp
hóa –hiện đại hóa áp dụng thành tựu khoa học công nghệ,công nghệ thông tin hiện
đại thì trình độ tin học đặc biệt là tin học văn phòng,excel,phần mềm kế toán và tiếng

anh giao tiếp càng trở nên cần thiết và quan trọng. Nguồn lực kế toán cũng đã nắm
được tầm quan trọng của các nhân tố này nên đa số đều trang bị khá tốt trước khi ra
trường.Tuy nhiên vẫn còn một bộ phận thì còn nắm bắt hạn chế hai nhân tố này. Nghề
kế toán liên quan mật thiết đến các luật định, quy định, chuẩn mực không chỉ trong
nước mà còn cả ngoài nước- khi làm việc với các công ty có vốn đầu tư nước ngoài
hay mở rộng quy mô công ty ra thị trường quốc tế. Chính vì thế nguồn lực kế toán
cũng đã quan tâm nắm rõ các quy định về Luật thuế VAT, TNCN, TNDN ,luật doanh
nghiệp và các Luật khác có liên quan,có ý thức tuân thủ các quy định của nghề
nghiệp.
Nhưng một bộ phận nguồn cung lớn đó là các sinh viên mới ra trường thiếu kinh
nghiệm thực tế, thiếu kỹ năng mềm, các kỹ năng về công việc rất hạn chế khiến các
DN cũng lao đao trong việc chọn người. Mặc dù sinh viên tốt nghiệp từ các trường
THCN, CĐ, ĐH được trang bị rất tốt về lý thuyết và nguyên tắc hạch toán kế toán
nhưng lại không được thực hành nhiều nên kỹ năng làm việc còn nhiều hạn chế, kiến
thức học không vận dụng linh hoạt trong thực tế. Hơn nữa, công việc của một nhân
viên kế toán thực sự ở Doanh nghiệp không phải chỉ đơn thuần là hạch toán đúng với
quy định của chế độ kế toán và tuân thủ tốt chuẩn mực kế toán mà còn phải tuân thủ
đúng các luật thuế và các luật chuyên ngành khác. Nhưng chính luật thuế và các luật
chuyên ngành khác liên quan đến công tác kế toán thì những sinh viên mới ra trường
lại nắm chưa thật chắc và đặc biệt là chưa có kinh nghiệm để xử lý sao cho có lợi
nhất cho phía Doanh nghiệp. Nguồn lực là sinh viên mới ra trường thiếu khả năng
quan sát,phân tích, tổng hợp, đánh giá, thiếu nhạy bén,nắm bắt thông tin, tình hình
kinh tế -chính trị xã hội, không chủ động cập nhập những thông tin về tài chính, pháp
luật, học hỏi công nghệ.
2. Nguyên nhân
Thực trạng nguồn lực kế toán như trên xuất phát do khá nhiều nguyên nhân cả
chủ quan và khách quan
a) Về nguyên nhân chủ quan.
Một bộ phần lớn nhân lực là tầng lớp sinh viên mới ra trường, được đào tạo khá kỹ về
lý thuyết, nghiên cứu trong khi lại thiếu khả năng thực tế, thực hành.Về các kỹ năng

mềm: làm việc nhóm, giao tiếp ,đàm phán, thỏa hiệp…thực sự thiếu rất nhiều,và nếu
có thì khá hạn chế. Một bộ phận sinh viên khá thụ động , sức ì lớn không tự hòa mình
vào sự phát triển của thời đại, tiếp cận với khoa học công nghệ, năng động tham gia
các câu lạc bộ, thực hành ngoại khóa hay làm thêm để trau rồi kỹ năng mềm, tăng khả
năng giao tiếp. Hơn thế nữa trong thời đại công nghiệp hóa –hiện đại hóa, với xu thế
hội nhập toàn cầu thì trình độ tin học và tiếng anh lại càng cần thiết, nhưng nguồn
nhân lực của nước ta lại khó đáp ứng được. Nếu có học, trau rồi hai khía cạnh này thì
cũng chỉ là theo trào lưu chưa thực sự xuất phát từ bản thân nên chất lượng chưa tốt.
Hiện nay không chỉ có các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nước mà còn có các tập
đoàn,tổng công ty,công ty liên doanh hay công ty nước ngoài đầu tư vốn vào Việt
Nam.Hầu hết các công ty tuyển kế toán thì đều yêu cầu có kinh nghiệm ít nhất là 1-2
năm.Đối với những vị trí cao như kế toán trưởng thì các doanh nghiệp lại có những
yêu cầu cao như :Thường chỉ tuyển nam,tuổi đời thường từ 28 trở lên,số năm kinh
nghiệm từ 5 năm trở lên và ưu tiên người có gia đình.Các nhà tuyển dụng có yêu cầu
rất cao,đặc biệt là kinh nghiệm,ngoại ngữ,tin học và họ không muốn đầu tư quá nhiều
đào tạo lại một nhân viên. Chính vì vậy, sinh viên mới ra trường thì khó đáp ứng,còn
những người đã làm việc không có nhiều cơ hội lựa chọn nên họ cố gắng bám việc,
thay vì nhảy việc tìm chỗ làm có lương, ưu đãi cạnh tranh hơn.
Do tình hình kinh tế nước ta hiện nay rất khó khăn, một số DN giải thể hoặc vẫn trong
tình trạng tạm ngưng hoạt đông, khiến nhiều lao động mất việc hoặc khó kiếm việc
làm. Chính vì vậy, NLĐ có tâm lý “giữ chỗ”, làm cho nhu cầu nhân lực càng giảm
trong khi nguồn cung năm nào cũng ra trường lại càng tăng.
Một bộ phận nguồn lực đã và đang làm kế toán thì thuộc một thế hệ trước, họ hoàn
toàn có kinh nghiệm,thâm niên làm việc nhưng việc tiếp xúc với công nghệ và những
phương pháp kế toán mới,khả năng ngoại ngữ thì lại còn khá hạn chế.
b) Nguyên nhân khách quan.
Trước hết ở khâu đào tạo chuyên muôn trên các giảng đường bộc lộ nhiều mặt hạn chế
về yếu kém trong giảng dạy cũng như cơ sở vật chất phục vụ sinh viên học tập và
nghiên cứu ảnh hưởng đến chất lượng đầu ra của nguồn nhân lực kế toán
Các trường ồ ạt đào tạo kế toán, người người học kế toán theo trào lưu, làm ngành trở

thành ngành “hot” trong vài năm gần đây.Và đến giờ là thời điểm ra trường thì kinh
tế thế giới cững như kinh tế trong nước khủng hoảng, gặp khó khăn thì nguồn cung
dồi dào khi đó lại trở nên thất nghiệp.
Các luật định, luật doanh nghiệp, luật thuế, các chế độ, chuẩn mực kế toán nước ta
thường xuyên thay đổi làm cho nguồn nhân lực kế toán phải luôn cập nhập, thay đổi.
Làm cho một bộ phận nhân lực chưa đáp ứng kịp thời với sự thay đổi, chưa nắm bắt
kịp thời. Bên cạnh đó, hệ thống các chính sách, luật đinh, chế độ kế tón của Việt Nam
còn nhiều kẽ hở dẫn đến tình trạng gian lận.
3.Giải pháp
Để phát triển nguồn nhân lực kế toán đáp ứng được các yêu cầu của quá trình công
nghiệp hóa- hiện đại hóa, hội nhập thế không chỉ cần sự tu dưỡng, rèn luyện đạo đức,
chuyên môn của mỗi cá nhân làm nghề kế toán, mà còn cần môi trường đào tạo, môi
trường xá hội bồi dưỡng liên tục và đúng đắn.
Các nhà tuyển dụng phối hợp chặt chẽ hơn nữa với nhà trường rà soát, điều chỉnh
chương trình đào tạo phù hợp với chiến lược đào tạo và đặc thù hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp. Cử cán bộ có trình độ chuyên môn cao tham gia giảng dạy trực
tiếp. Bên cạnh đó, doanh nghiệp cũng cần hỗ trợ đầu tư tài chính và cơ sở vật chất
trong công tác đào tạo, nghiên cứu tạo nhiều cơ hội cho sinh viên thực tập, học hỏi
kinh nghiệm,tham quan công ty, kiến tập tại các công ty. Các trường phải tiến hành
xây dựng và ban hành chuẩn đầu ra dành cho sinh viên từng chuyên ngành đáp ứng
các yêu cầu của xã hội, yêu cầu của sự nghiệp CNH_HĐH, hội nhập kinh tế quốc tế.
Đó cũng chính là động lực thúc đẩy các cơ sở đào tạo nỗ lực nghiên cứu, đổi mới để
bảo đảm và nâng cao chất lượng đào tạo của mình.
Nhà nước ta, các ngành và Hội kế toán kiểm toán Việt nam cần phải sớm nghiên cứu
để hoạch định và hợp sức triển khai một chiến lược dài hạn về đào tạo, bồi dưỡng
nguồn nhân lực kế toán, kiểm toán để có thể thực hiện tốt nhất những chức năng vốn
có; góp phần vào quá trình nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn nhân lực cho sự
nghiệp hiện đại hóa đất nước, phục vụ mục tiêu minh bạch hóa, công khai hóa các
quan hệ tài chính.
Đào tạo, bồi dưỡng kế toán viên theo chuẩn mực quốc tế, phù hợp với môi trường

kinh tế, môi trường văn hóa, môi trường kế toán và kiểm toán Việt Nam.Tạo dựng
một không gian kinh tế, một môi trường nghề nghiệp phù hợp với yêu cầu công khai,
minh bạch, dân chủ, trong các mối quan hệ lợi ích, trong môi trường đó, chỉ có chỗ
cho những người thạo việc và giữ vững đạo đức nghề nghiệp, trong không gian đó,
người kế toán giỏi được vinh danh, tôn trọng và có thu nhập xứng với lao động của
họ.
Việc ban hành chuẩn mực kế toán, kiểm toán, việc quản lý và kiểm tra hành nghề kế
toán, việc tổ chức ôn thi, thi và cấp chứng chỉ nghề nghiệp về kế toán cần thực hiện
nghiêm ngặt chặt chẽ hơn để có được 1 nguồn lực thực sự chất lượng.
Bộ Tài chính sớm ban hành các quyết định để chuyển giao công tác quản lý hành nghề
kế toán,các loại Luật liên quan một cách triệt để, thay cho các Quyết định hiện hành
còn nhiều hạn chế, thiếu đồng bộ, rắc rối.
Các doanh nghiệp cần tạo các buổi hội thảo,các buổi tập huấn,tạo điều kiện cho nhân
viên kế toán được đi công tác để cập nhập thông tin,công nghệ,rèn luyện,tu dưỡng
bản thân,nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu của công cuộc
CNH-HĐH đất nước.
Khơi dậy lòng tự hào và ý thức trách nhiệm nghề nghiệp, trách nhiệm xã hội, trách
nhiệm đối với sự nghiệp CNH-HĐH của đất nước trong mỗi kế toán viên và đặc biệt
là tự ý thức rèn luyện, tu nghiệp, học hỏi công nghệ, học hỏi những điều mới mẻ của
thế giới, của xã hội áp dụng phù hợp với nước ta hiện nay.

×