Tải bản đầy đủ (.pdf) (157 trang)

Nghiên cứu các tự điển, từ điển Hán Nôm thế kỉ XIX

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.55 MB, 157 trang )



1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Một trong những điểm nổi bật của đời sống Hán Nôm thế kỉ XIX là sự
xuất hiện một loạt sách vừa như là những tự điển, từ điển song ngữ Hán Nôm
vừa như là những bộ sách học chữ Hán, cập nhật, phổ biến và mở rộng tri thức
qua chữ Hán, chữ Nôm như:    
Nhật dụng thường đàm;        
 Tự Đức Thánh chế Tự học giải nghĩa ca;       Nam phương danh vật
bị khảo;     Ðại Nam quốc ngữ; Chúng được biên soạn trước hết nhằm
học chữ Hán, tiếp thu và cập nh
ật tri thức qua chữ Hán, chữ Nôm nhưng cách
thức tổ chức bên trong của chúng đã làm cho chúng trở thành các bộ tự điển, từ
điển song ngữ Hán Nôm. Các bộ tự điển và từ điển đó mang trong mình nhiều
giá trị, phản ánh một trong những lĩnh vực nổi trội của truyền thống ngữ văn
học chữ Hán nói chung, ngữ văn học truyền thống Việt Nam nói riêng có nhi
ều
thành tựu. Đó là lĩnh vực biên soạn tự điển và từ điển. Chúng cần được xem
xét trên phương diện tự điển, từ điển học cũng như trên phương diện giáo dục
chữ Hán, giáo dục Hán văn. Qua các bộ sách này, chúng ta có thể biết được rõ
hơn những yêu cầu và đòi hỏi nhằm đổi mới giáo dục Hán văn như: nhật dụng
hóa tri th
ức Hán học, mở mang cái học cách trí, cái học đa thức, cái học phi
khoa cử. Đồng thời qua chúng ta còn thấy vai trò của nhân tố tiếng mẹ đẻ ghi
bằng chữ Nôm trong giáo dục chữ Hán và cập nhật tri thức qua chữ Hán. Giáo
dục Hán văn vì thế đã thúc đẩy sự nhìn nhận về vai trò của tiếng mẹ đẻ. Sự có
mặt của nhân tố chữ Nôm trong các sách học chữ Hán này đã nói lên vai trò và
khả năng của qu
ốc ngữ Nôm cho sự mở mang và cập nhật tri thức ngay khi vẫn


dùng chữ Hán.
Nghiên cứu chúng sẽ giúp ta giải thích và đánh giá một loạt vấn đề của
ngữ văn Việt Nam cũng như xã hội và văn hóa Việt Nam truyền thống trong
môi trường song ngữ Việt Hán.


2
Nghiên cứu chúng sẽ giúp chúng ta hiểu thêm về cách thức biên soạn tự
điển chữ Hán của ngữ văn Việt Nam truyền thống bởi vì ở đây chứa đựng một
loạt vấn đề của ngữ văn Hán Nôm nói chung, của truyền thống tự điển và từ điển
học Việt Nam nói chung như: cách chọn các đơn vị cơ sở để lập mục từ
, bảng từ;
cách thức xây dựng bảng từ, cấu trúc mục từ; mức độ phổ biến, cập nhật và bổ
sung các tri thức văn hóa vào một thế kỉ cuối thời trung đại qua chữ Hán.
Nghiên cứu các bộ tự điển, từ điển Hán Nôm thế kỉ XIX sẽ giúp ta hiểu
thêm về khả năng của tiếng Việt khi thực hiện nhiệm vụ làm vốn
đối ứng cho
việc phổ biến những tri thức văn hóa có tính trí tính cao từ chữ Hán.
Nghiên cứu các bộ tự điển, từ điển song ngữ Hán Nôm nói chung và nhất
là các bộ ra đời vào thế kỉ XIX sẽ góp phần cho sự nhận thức về những đóng
góp của ngữ văn Hán Nôm cho truyền thống ngữ văn Việt Nam nói riêng,
truyền thống ngữ văn Đông Á nói chung, nơi mà các vấn đề v
ề văn tự, tự điển,
học chữ, phổ biến chữ, thích danh, thích nghĩa luôn được đặc biệt chú ý.
Vì những lí do trên, chúng tôi chọn vấn đề nghiên cứu các tự điển, từ điển
Hán Nôm thế kỉ XIX làm đề tài cho luận án tiến sĩ ngữ văn, chuyên ngành Hán
Nôm của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nhận thức chung về bối cảnh xã hội - ngôn ngữ Việ
t Nam thế

kỉ XIX, luận án nhằm các mục tiêu cụ thể sau:
- Lập danh mục các bộ tự điển, từ điển Hán Nôm được biên soạn vào thế
kỉ XIX, xác lập tính chất “  tự học”, “  tự thư”, “  từ thư”, “  loại
thư” của chúng trong mối quan hệ với truyền thống biên soạn sách học chữ
Hán cũ
ng như tự điển và từ điển chữ Hán nói chung.
- Nghiên cứu cơ cấu bảng từ cũng như cơ cấu mục từ nói chung để từ đó
đi vào nghiên cứu phần chữ Hán hay “phần được giải thích” của mục từ của
các bộ tự điển, từ điển này trong mối quan hệ với các phạm trù văn hoá mà các


3
mục chữ Hán này chuyển tải; nghiên cứu chữ Hán từ góc độ văn tự học để thấy
được nhận thức của nhà Nho thế kỉ XIX về việc dạy và học chữ Hán.
- Nghiên cứu “phần giải thích” của mục từ (giải thích nghĩa bằng chữ
Nôm, giải thích nghĩa bằng chữ Hán), trong mối quan hệ đối ứng với bộ phận
được giải thích (chữ Hán); nghiên cứ
u các bộ phận nối giữa “phần được giải
thích” và “phần giải thích”.
- Nghiên cứu các mục đích biên soạn cũng như các định hướng tri thức
văn hóa qua sự cập nhật tri thức qua Hán học mà các bộ “tiểu loại thư” này đã
thực hiện.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là bốn bộ tự điển, từ đi
ển Hán Nôm
được biên soạn, ấn bản, trùng san trong thế kỉ XIX, đó là các bộ: Nhật dụng
thường đàm; Tự Đức Thánh chế Tự học giải nghĩa ca; Nam phương danh vật
bị khảo và Ðại Nam quốc ngữ.
Phạm vi nghiên cứu: Luận án nghiên cứu bốn bộ tự điển, từ điển Hán
Nôm thế kỉ XIX từ góc nhìn của từ đi

ển học, từ thư học cũng như từ góc nhìn
sách dạy chữ Hán, sách học chữ Hán.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận án vận dụng các thao tác mô tả của văn bản học Hán Nôm và ngữ
văn Hán Nôm trong việc giới thiệu và mô tả các bộ tự điển, từ điển song ngữ
Hán Nôm thế kỉ XIX, phiên âm, dịch nghĩa chúng ra quốc ngữ hiện đại.
Luận án sử dụng các thao tác mô t
ả của từ điển học, nhất là của từ thư
học và tự điển học chữ Hán để mô tả cơ cấu bảng từ và cơ cấu mục từ của các
tự điển, từ điển Hán Nôm.
Luận án vận dụng các thao tác của xã hội - ngôn ngữ học trong việc mô
tả hoàn cảnh xã hội - ngôn ngữ Việt Nam thế kỉ XIX nhằ
m giải thích các cơ sở
xã hội - ngôn ngữ mà các bộ sách này ra đời.


4
Luận án vận dụng các thao tác của ngôn ngữ và văn hóa học trong việc
phân tích, giải thích và sơ bộ đánh giá giá trị văn hóa của các bộ sách này trong
bối cảnh song ngữ Việt Hán của thời điểm ra đời chúng.
5. Đóng góp mới của luận án
Luận án giới thiệu danh mục các bộ tự điển, từ điển song ngữ Hán Nôm
thế kỉ XIX.
Luận án góp phần làm sáng tỏ các vấ
n đề về cấu trúc (cấu trúc bảng từ,
bảng chữ Hán trong từng bộ sách; cấu trúc mục từ trong từng mục từ và trong
từng bộ sách) từ góc nhìn của từ điển học nói chung, của tự điển học và từ điển
học chữ Hán và tự điển, từ điển Hán Nôm nói riêng.
Luận án góp phần làm sáng tỏ mục đích, tính chất của các bộ
tự điển, từ

điển Hán Nôm trong khuôn hình loại thư song ngữ Hán Nôm từ góc nhìn sách
dạy chữ Hán, sách học chữ Hán.
Luận án góp phần giải thích một vài cơ sở ngôn ngữ - xã hội cho sự ra đời
của các bộ tự điển, từ điển Hán Nôm và phân tích các mục đích biên soạn
của chúng.
Luận án góp phần giải thích những cố gắng và thành tựu của ngữ văn
truyề
n thống trong việc cập nhật, bổ sung các tri thức văn hóa mà thời đại yêu
cầu qua chữ Hán, chữ Nôm.
Luận án góp phần hình thành một nhận thức đúng đắn về truyền thống tự
điển học và từ điển học Việt Nam, trân trọng di sản văn hiến dân tộc trên cơ sở
thấu hiểu những minh chứng cụ thể về phương diện tự đ
iển và từ điển học.
6. Cấu trúc của luận án
Trên cơ sở nhận thức về đối tượng, mục tiêu, phạm vi và phương pháp
nghiên cứu được trình bày ở phần MỞ ĐẦU, NỘI DUNG của đề tài được triển
khai theo hệ thống vấn đề như sau:


5
Chương 1 với tiêu đề: “TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI VÀ XÁC LẬP NHỮNG HƯỚNG NGHIÊN CỨU
CHỦ YẾU CỦA LUẬN ÁN” nhằm đề cập đến các nghiên cứu đã có về bốn
bộ tự điển, từ điển song ngữ Hán Nôm Việt Nam thế kỉ XIX, từ đó làm sáng tỏ
cách thức và hướng đi mà luận án sẽ thực hiện, nhằ
m đề cập đến các bộ tự
điển, từ điển song ngữ Hán Nôm từ góc nhìn của từ điển học nói chung, từ điển
học và từ thư học chữ Hán nói riêng.
Chương 2 với tiêu đề: “DANH MỤC VÀ BẢNG TỪ CỦA CÁC TỰ
ĐIỂN, TỪ ĐIỂN HÁN NÔM THẾ KỈ XIX” nhằm bao quát danh mục cũng

như các vấn đề về mặt v
ăn bản học của các tự điển và từ điển song ngữ Hán
Nôm thế kỉ XIX làm cơ sở cho việc nghiên cứu bảng từ (tức cấu trúc vĩ mô)
của chúng.
Chương 3 với tiêu đề: “CẤU TRÚC NỘI TẠI CỦA MỤC TỪ TRONG
CÁC TỰ ĐIỂN, TỪ ĐIỂN HÁN NÔM THẾ KỈ XIX” nhằm nghiên cứu cấu
trúc tổng quát của mục từ
cũng như cấu trúc chi tiết của mục từ trong tự điển,
từ điển.
Chương 4 với tiêu đề: “ĐỊNH HƯỚNG BIÊN SOẠN VÀ SỰ CẬP
NHẬT TRI THỨC CỦA CÁC TỰ ĐIỂN, TỪ ĐIỂN HÁN NÔM THẾ KỈ
XIX” nhằm nghiên cứu định hướng biên soạn nhằm mở mang và cập nhật tri
thức theo chủ đề của các bộ sách h
ọc chữ Hán có tính chất song ngữ này; vai
trò và khả năng mở mang tri thức Hán học của chúng trong bối cảnh xã hội -
ngôn ngữ cũng như trong môi trường song ngữ Việt Hán thế kỉ XIX.
Phần KẾT LUẬN sẽ đánh giá, tổng kết những kết quả trong thực tế giải
quyết vấn đề trong các chương mục của NỘI DUNG luận án.
Ngoài ra, luận án còn hai phần phụ là: TÀI LIỆU THAM KHẢO và PH

LỤC với các bộ phận cấu thành:



6
1. Phụ lục 1: Ảnh chụp trang bìa các bộ tự điển, từ điển Hán Nôm
thế kỉ XIX.
2. Phụ lục 2: Bản phiên dịch Nhật dụng thường đàm và các bài tựa
của các bộ tự điển, từ điển Hán Nôm thế kỉ XIX.
- Phụ lục 2.1: Bản phiên dịch Nhật dụng thường đàm.

- Phụ lục 2.2:
Phần phiên dịch Nam phương danh vật bị khảo (tựa)
- Phụ lục 2.3: Phần phiên dịch Đại Nam quốc ngữ (tựa)


7
NỘI DUNG
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI VÀ XÁC LẬP
NHỮNG HƯỚNG NGHIÊN CỨU CHỦ YẾU CỦA LUẬN ÁN

Trong chương này, chúng tôi tập trung khái quát những nghiên cứu có
liên quan đến đề tài luận án, từ đó xác định những hướng nghiên cứu chủ yếu
sẽ được trình bày trong luận án nhằm nghiên cứu các bộ tự điển và từ điển
song ngữ Hán Nôm thế kỉ XIX từ góc nhìn của từ điển học nói chung, tự điển
học và từ điển học chữ Hán nói riêng.
1.1. Lịch sử v
ấn đề nghiên cứu
Những nghiên cứu về các tự điển, từ điển Hán Nôm thế kỉ XIX (từ đây
viết tắt là TĐHN.TkXIX) chủ yếu đã được triển khai trên các lĩnh vực như:
những giới thiệu khái quát và phiên dịch Hán Nôm; những nghiên cứu cụ thể
về từng bộ sách; những nghiên cứu về chữ Nôm lấy các TĐHN.TkXIX như
nguồn tư liệu…
1.1.1. Những giới thiệu khái quát và phiên dịch Hán Nôm về các tự điển, từ
điển Hán Nôm thế kỉ XIX
1.1.1.1. Những giới thiệu khái quát
Những giới thiệu khái quát về bốn bộ TĐHN.TkXIX thể hiện trong các
công trình sau đây:
Trần Văn Giáp (1990) trong Tìm hiểu kho sách Hán Nôm - nguồn tư liệu

văn học, sử học Việt Nam, (tập 2)[15], đã giới thiệu các bộ sách ở phần NGÔN
NGỮ v
ới các số: 217 (Nhật dụng thường đàm); 224 (Tự Đức Thánh chế Tự học
giải nghĩa ca); 223 (Ðại Nam quốc ngữ); 226 (Nam phương danh vật bị khảo):


8
+ Về     Nhật dụng thường đàm: “Sách Nhật dụng thường đàm là
một bộ từ điển Hán Việt nhỏ, xếp theo 32 loại như Thiên văn, Luân tự, Nho
giáo… Du hí, Tật bệnh, Cầm thú, Trung loại, v.v… Các từ ngữ tuy không
nhiều, nhưng có thể nói là tạm đủ để đọc biết các chữ thông thường. Đó cũng
là một tài liệu mà chúng ta có thể
dùng so sánh để thấy những chỗ khác biệt
trong cách chua và giải nghĩa chữ Hán bằng chữ Nôm” [15, tr.18].
+ Về     Ðại Nam quốc ngữ: Đầu sách có bài tựa không ghi tên
người viết, nhưng đọc thì biết là của người soạn sách này. Cuối bài có chú
giải những chữ khó trong bài đó. Tiếp theo là phần nghĩa lệ, đề năm Tự Đức
thứ 33 (1880), gồm có 4 điều nói về m
ục đích và phương pháp làm sách
này…” [15, tr.21].
+ Về          Tự Đức Thánh chế Tự học giải nghĩa ca: “Tự
học giải nghĩa ca cũng thuộc loại tự điển Hán Việt. Chữ Hán ghi trên, chữ
Nôm ghi dưới, có chép vần thượng lục hạ bát, nhiều chỗ có ghép chữ đôi và
thêm chữ đệm cho khỏi túng vần… M
ục đích của người soạn là muốn phổ biến
việc học chữ Hán và chính xác lối viết chữ Nôm. Nhưng vì sách làm dài, nhiều
chữ khó, nghĩa khó hoặc ít dùng, nên tác dụng đạt được có lẽ là ở chỗ góp
phần làm chính xác được lối viết chữ Nôm thôi. Về mặt ấy, sách Tự học giải
nghĩa ca được coi là một tài liệu quí khi người nghiên cứu cần so sánh để tìm
hiểu quá trình phát triển và chuyển hóa củ

a chữ Nôm”[15, tr.23].
+ Về       Nam phương danh vật bị khảo: “Như vậy, sách Nam
phương danh vật bị khảo cũng là một bộ sách thuộc loại từ ngữ Hán Việt, đặc
điểm là có chú ý nhiều đến tên gọi các sản vật của nước ta và có ghi chú tên
địa phương có những sản vật ấy. Đó là một công trình biên soạn có giá trị về

ngôn ngữ học và sinh vật học” [15, tr.24].
Trần Nghĩa, Prof.Francois Gros (1993) và các cộng sự của mình trong
công trình Di sản Hán Nôm Việt Nam - Thư mục đề yếu, Khoa học Xã hội, Hà


9
Nội, 1993, gồm 3 tập, sau khi giới thiệu về văn bản của các bộ sách, tác giả đã
mô tả khái quát về kết cấu và nội dung của từng bộ tự điển, từ điển về phương
diện thư mục học.
Trong tập I ở mục số 865, các tác giả mô tả về Ðại Nam quốc ngữ như
sau: “Giải thích và dịch ra Nôm các từ ngữ ti
ếng Hán bao gồm nhiều lĩnh vực,
chia thành 50 loại mục, gọi là “môn” hay “bộ”, như Thiên văn môn; Địa lí
môn; Nhân luân môn; Tàm tang môn; Công khí môn; Tục ngữ môn v.v.; Thuỷ
bộ; Thổ bộ; Kim bộ v.v. [45, tr.497].
Trong tập II, mô tả về Nhật dụng thường đàm ở mục số 2538: “Từ điển
Hán - Nôm, do Phạm Đình Hổ (1768 - 1839) soạn. Các mục từ được xếp thành
32 nhóm: Thiên văn, Địa lí, Nho giáo, Đạo giáo, Thân thể, Nhà cửa, Trang
phục, Th
ực phẩm, Thảo mộc, Côn trùng, Cầm thú [45, tr.487].
Nam phương danh vật bị khảo được giới thiệu như sau ở mục số 2256 của
tập II: “Từ điển Hán - Nôm do Đặng Xuân Bảng soạn, chia thành các mục như
thiên văn, địa lí, thời tiết…”[45, tr.333].
Cuối cùng, đối với Tự Đức Thánh chế Tự học giải nghĩa ca ở mục số 4116

của tập III, tác giả mô tả nh
ư sau: “Sách dạy chữ Hán (thể 6-8) giải nghĩa bằng
chữ Nôm. Các chữ được xếp thành 7 mục lớn: Kham dư (thiên văn, địa lí),
Nhân sự (quan hệ xã hội, con người), Chính hóa (giáo dục), Khí dụng (vật
dùng), Thảo mộc (cây cỏ), Cầm thú (động vật, chim muông) và Trùng ngư
(côn trùng, tôm cá)” [45, tr.506].
Nguyễn Thị Lan (2002) trong Luận văn Thạc sĩ Hán Nôm: Tìm hiểu loại
hình sách song ngữ Hán - Nôm dạy chữ Hán [35], với tính chất nghiên cứu
điểm về
thể loại, đã đề cập đến tên các bộ sách này với tư cách là những sách
song ngữ dạy chữ Hán; qua thao tác thống kê điểm đã đưa ra những nhận định
chung về cách phân chia môn loại, cách giải nghĩa, vốn chữ trong một số môn
loại… làm tham số cho các so sánh của mình.


10
1.1.1.2. Những công trình phiên dịch Hán Nôm
Phương thủ Nguyễn Hữu Quì (1971) trong Tự Đức Thánh chế Tự học giải
nghĩa ca[48], đã phiên âm bộ sách này và mới chỉ in được một phần, được Uỷ
ban dịch thuật phủ Quốc vụ khanh đặc trách văn hóa của chính quyền Sài Gòn
cũ xuất bản năm 1971.
Phan Đăng (1996) trong công trình Thơ văn Tự Đức (3 tập), đã phiên âm
hoàn chỉnh Tự
Đức Thánh chế Tự học giải nghĩa ca, in ở tập 3 của công trình
này [12].
Lã Minh Hằng (2013) trong công trình Khảo cứu từ điển song ngữ Hán -
Việt Đại Nam quốc ngữ [22], đã phiên dịch bộ sách và khảo cứu, chú giải cho
các mục từ Hán của Đại Nam quốc ngữ.
Như vậy, trong bốn bộ TĐHN.TkXIX thì cho đến nay mới có hai bộ Tự
Đức Thánh chế Tự học giả

i nghĩa ca và Đại Nam quốc ngữ được phiên dịch và
công bố. Với bốn bộ sách là đối tượng nghiên cứu của luận án, chúng tôi chủ
yếu làm việc trực tiếp với văn bản gốc Hán Nôm. Chúng tôi cũng được thừa
hưởng ở mức độ nhất định từ bản dịch của hai bộ sách trên. Chúng tôi cũng
phiên dịch toàn bộ trong quá trình làm luận án. Chúng được trích in trong phần
Phụ lục lu
ận án. Việc tiếp cận với hai bản sách đã công bố diễn ra sau khi luận
án đã cơ bản hoàn thiện và chỉ mang tính chất tham khảo.
1.1.2. Những nghiên cứu cụ thể về từng bộ tự điển, từ điển Hán Nôm thế kỉ XIX
1.1.2.1. Các bộ tự điển, từ điển là đối tượng cho những giới thiệu tổng quát
Thuộc về những nghiên cứ
u cụ thể về từng bộ TĐHN.TkXIX là những
bài viết độc lập cũng như lời giới thiệu cho các lần xuất bản, những nghiên cứu
về chữ Nôm trong các tự điển, từ điển sau đây:
Phan Đăng (1998) trong Tự Đức Thánh chế Tự học giải nghĩa ca” - một
cuốn sách quí trong các tác phẩm của vua Tự Đức[13], đã dành 3 trang để giới


11
thiệu một cách khái quát về cấu trúc của cuốn sách và đưa ra một số nhận xét
sơ lược về chữ Nôm: “Chúng tôi chưa dám xem đấy là một loại tự điển nhưng
chắc chắn trong một phạm vi nhất định của giáo dục thời ấy, Tự Đức Thánh
chế Tự học giải nghĩa ca đã là một loại sách công cụ tra cứu thật bổ ích”.
GS.Nguyễn Thi
ện Giáp (2005) trong công trình Lược sử Việt ngữ học, tập
một, Nxb Giáo dục, Hà Nội, đã nêu ra danh mục 10 cuốn từ điển đối chiếu Hán
Việt đầu tiên trong đó có 4 cuốn mà đề tài luận án này nghiên cứu. Đó là một
cố gắng trong việc giới thiệu truyền thống từ điển học Việt Nam cho độc giả
hiện đại. Tất nhiên, trong phạm vi và khuôn khổ của m
ột mục viết cho một bộ

sách lớn về lịch sử Việt ngữ học, tác giả chỉ có thể nêu ra những nhận xét
chung và đặt chúng trong phạm vi của Việt ngữ học. Sau đó, tác giả đã đi vào
phân tích sâu hơn cho các cuốn sách cụ thể như : An Nam dịch ngữ (trang 97-
100); Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa (trang 100-103; Tam thiên tự giải âm (trang
104-110).
Lê Văn Cường (2012) trong bài viết Nhật dụ
ng thường đàm, cuốn từ điển
bách khoa song ngữ Hán Nôm thế kỉ XIX” in trên Tạp chí Hán Nôm, (số 3.
2012)[8], đã giới thiệu chủ yếu về tình hình của các văn bản đang được lưu trữ
trong các thư viện, điểm qua về phương pháp giải nghĩa chú âm của từ điển và
bước đầu có những nhận định chung về cuốn tự điển này.
1.1.2.2. Nh
ững nghiên cứu về chữ Nôm trong các tự điển, từ điển
Thuộc vào những nghiên cứu chuyên biệt về chữ Nôm, trong bốn bộ
TĐHN.TkXIX mới chỉ có Tự Đức Thánh chế Tự học giải nghĩa ca được
nghiên cứu đến trong các công trình sau đây:
Đoàn Khoách trong Chữ Nôm trong một tác phẩm của vua Tự Đức[28],
sau khi đề cập đến vấn đề lí thuyết chữ Nôm vớ
i các đề mục: chữ Nôm là gì?
chữ Nôm có từ bao giờ, do ai sáng chế, chữ Nôm là chữ thế nào - cách cấu tạo
chữ Nôm ra sao? Tự Đức là ai? Có sự nghiệp văn hoá gì? “Tự học giải nghĩa


12
ca” là sách gì? mới đi vào phiên âm và phân tích cấu tạo chữ Nôm của một
vài trang phần Nhân sự loại (thượng). Cuối cùng tác giả dẫn lời của Trần Văn
Giáp trong Lược khảo vấn đề chữ Nôm để kết luận “…Nó không phải là sách
bắt chước đúng thể tài một cuốn sách nào của Trung Quốc ra tiếng Việt. Giá trị
của nó rất lớn, ở chỗ nó có tính dân tộc, đố
i với ngôn ngữ học và văn tự học

Việt Nam tức là chữ Nôm”.
Hà Đăng Việt (2008) trong bài viết “Tự Đức Thánh chế Tự học giải nghĩa
ca” và vấn đề chuẩn hoá chữ Nôm thời Nguyễn[68] đã phân loại cấu trúc và
định lượng chữ Nôm của bộ sách đồng thời so sánh, đối chiếu các loại cấu tạo
chữ Nôm trong đó với các sách cùng loại (đồng đại và lịch
đại) để rút ra những
nhận xét về đặc điểm của chữ Nôm trong đó.
Qua phần trình bày lịch sử vấn đề nghiên cứu trên đây có thể thấy, các
nghiên cứu đã có về các TĐHN.TkXIX chủ yếu mới chỉ giới thiệu và điểm
danh về bốn bộ sách, phiên âm Hán - Nôm và nghiên cứu cấu trúc chữ Nôm
trong Tự Đức Thánh chế Tự học giải nghĩa ca; những vấ
n đề về chữ Hán, là
đối tượng chính của sách dạy chữ Hán vẫn chưa được nghiên cứu.
1.1.3. Các bộ tự điển, từ điển Hán Nôm thế kỉ XIX - nguồn tư liệu cho các
nghiên cứu chữ Nôm Việt nói chung, cho chữ Nôm hậu kì nói riêng
Với tiêu chí này chúng ta có thể kê ra một danh sách khá dài các công
trình nghiên cứu về chữ Nôm. Đào Duy Anh, Chữ Nôm - nguồn gốc, cấu tạo
diễn biến, Nxb Khoa học Xã hội, H.1975[1]; Phan Vă
n Các (chủ biên), Giáo
trình Hán Nôm, Nxb Giáo dục, 1985[2]; Nguyễn Tài Cẩn, Một số vấn đề về
chữ Nôm, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, H.1985[3]; Nguyễn
Quang Hồng, Khái luận văn tự học chữ Nôm, Nxb KHXH, 2008 [26]; (….).
Trên đây là sự kiểm kê về lịch sử vấn đề nghiên cứu. Các nghiên cứu đó
do yêu cầu và hoàn cảnh của mình, phần nhiều mới chỉ dừng lại ở các phương
diện nh
ư: Giới thiệu về các bộ TĐHN.TkXIX trong tổng thể kho sách Hán


13
Nôm theo chủ đề (Trần Văn Giáp, Nguyễn Thị Lan); Giới thiệu các bộ sách

dưới góc độ thư mục học (Trần Văn Giáp, Trần Nghĩa và Prof.Francois Gros);
Giới thiệu sách và các tác giả của sách (Hà Đăng Việt, Lê Văn Cường); Phiên,
dịch và công bố các bản phiên, dịch (Nguyễn Hữu Quì, Phan Đăng, Lã Minh
Hằng); Nhận xét chung về những cuốn từ điển đối chiếu Hán Việt đầu tiên
(Nguyễn Thiện Giáp); Các nghiên c
ứu cụ thể về chữ Nôm trong các bộ sách
(Đoàn Khoách, Hà Đăng Việt); Sử dụng các bộ tự điển, từ điển song ngữ Hán
Nôm này như là nguồn cứ liệu để xây dựng các bộ tự điển chữ Nôm. Ngay cả
khi nghiên cứu có sử dụng những cơ sở của văn tự học nhưng cũng mới chỉ đề
cập đến phầ
n chữ Nôm như là nguồn tư liệu mà thôi. Còn hướng nhìn chúng
theo góc độ tự điển học theo nghĩa hẹp hay nghĩa rộng của thuật ngữ này thì
vẫn còn bỏ trống. Điều đó cho phép chúng tôi triển khai đề tài theo các yêu cầu
mà đề tài phải có.
1.2. Những hướng và lĩnh vực cần được đề tài luận án triển khai
Luận án nghiên cứu bốn bộ tự điển, từ
điển Hán Nôm thế kỉ XIX sẽ được
triển khai theo hướng nghiên cứu của từ điển học nói chung, truyền thống từ
điển học chữ Hán nói riêng. Do vậy phải có một sự nhận thức cần thiết về các
cơ sở của từ điển học hiện đại và truyền thống tự điển và từ điển học chữ Hán.
T
ừ điển học hiện đại sẽ cung cấp những cơ sở có tính phương pháp luận cho
nghiên cứu đề tài luận án [phân loại tự điển, từ điển; cấu trúc của tự điển, từ
điển (cấu trúc vĩ mô, cấu trúc vi mô - bảng từ và mục từ, cấu tạo mục từ…)].
Còn những nhận thức về truyền thống tự đ
iển, từ điển chữ Hán sẽ đóng vai trò
cơ sở cho mọi trình bày của luận án vì chúng cắt nghĩa cho ta hiểu bốn bộ tự
điển, từ điển song ngữ Hán Nôm Việt Nam thế kỉ XIX, đối tượng mà luận án
nghiên cứu đã được nảy sinh từ một truyền thống như thế nào, chúng được xây
dựng theo mẫu hình nào, chúng được chảy từ nguồn nào, chúng đã đượ

c tạo
lập trong mối quan hệ với các nguồn mạch ra sao, cấu trúc nội tại của chúng
thế nào, chúng mang trong mình những đặc điểm vốn có nào của cả truyền


14
thống tự điển, từ điển chữ Hán trong quá khứ nói chung. Do vậy, những tri
thức về tự điển học nói chung, tự điển và từ điển học chữ Hán nói riêng sẽ là
cơ sở cho mọi trình bày trong luận án.
Các bộ tự điển, từ điển chữ Hán trong truyền thống tự điển chữ Hán
không chỉ đóng vai trò như là nhữ
ng bảng sưu tập chữ Hán phán ánh chuẩn
hóa cách viết, âm đọc mà còn là công cụ cho sự lưu truyền, sử dụng, mở mang
văn hóa, cập nhật kiến thức. Các bộ tự điển, từ điển Hán Nôm thế kỉ XIX trước
hết cũng là những bộ sách học chữ Hán mà nội dung học chữ Hán đó phản ánh
Hán học của thời đại mà chúng ra đời. Sự xuất hiện c
ủa các bộ sách này cũng
là sự điều chỉnh, bổ sung cho Hán học đương thời nhằm đáp ứng các đòi hỏi
của xã hội đương thời đối với Hán học. Luận án sẽ đi vào triển khai theo
hướng coi bốn bộ sách đó như là những sách học chữ Hán, phổ biến những tri
thức đương thời cần có qua chữ Hán trong điều kiện Việt Nam thế kỉ
XIX.
Với hai định hướng như trên, những vấn đề sau đây sẽ được triển khai
trong luận án:
Giới thiệu và phân tích các bộ tự điển, từ điển Hán Nôm thế kỉ XIX về
phương diện văn bản học, phiên âm dịch nghĩa và mô tả chúng về phương diện
từ điển học.
Nghiên cứu cấu trúc vĩ mô cũng như cấu trúc vi mô của các bộ t
ự điển, từ
điển song ngữ Hán Nôm thế kỉ XIX.

Mô tả môi trường song ngữ Hán Việt mà các bộ tự điển, từ điển Hán Nôm
thế kỉ XIX ra đời.
Phân tích và đánh giá mục đích biên soạn cũng như những tri thức văn
hóa của chữ Hán được mang ra dạy và học trong các bộ sách này.
Những hướng và vấn đề trên đây sẽ được trình bày trong luận án. Ở phần
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN VÀ XÁC LẬP
NHỮNG HƯỚNG NGHIÊN CỨU CHỦ YẾU CỦA LUẬN ÁN, về cơ bản


15
chúng tôi chỉ nêu vấn đề mà thôi. Riêng phần các cơ sở của từ điển học hiện
đại và tự điển, từ điển chữ Hán trong truyền thống bởi lẽ chúng đóng vai trò
nền tảng cho mọi nghiên cứu của đề tài luận án nên chúng sẽ được lược trình
dưới đây. Chúng đóng vai trò làm cơ sở cho mọi trình bày trong chương 2,
chương 3, chương 4; chúng cũng đóng vai trò như là những s
ố đo cho mọi
đánh giá về giá trị của các bộ tự điển, từ điển Hán Nôm thế kỉ XIX. Dưới đây
là sự trình bày đó.
1.2.1. Cơ sở của từ điển học và từ điển học chữ Hán phục vụ cho đề tài
nghiên cứu
1.2.1.1. Một số khái niệm của từ điển học hiện đại
Có một quan niệm r
ằng, “từ điển học là một bộ phận của ngôn ngữ học,
nghiên cứu lí luận và biên soạn các công trình tra cứu về ngôn ngữ”.
Lại có một quan niệm khác cho rằng, “Từ điển học là chuyên ngành khoa
học nhằm nghiên cứu lí luận và biên soạn các công trình tra cứu nói chung”
[Nguyễn Văn Lợi, “Từ điển học và bách khoa thư học: Đôi điều suy nghĩ về
Ngành, Nghề và Nghiệp”//
Từ điển học & Bách khoa thư (số 6), 2013 [40,
tr.10-17]. Tuy có các quan niệm hẹp hay rộng như thế, song tựu trung lại, ta

thấy rằng, những gì liên quan đến nghiên cứu lí luận và biên soạn từ điển cũng
như các công trình tra cứu dù ít dù nhiều cũng đều thuộc phạm trù từ điển học.
Từ lí thuyết và thực tiễn biên soạn cũng như những phân tích ngôn ngữ
phục vụ cho mục
đích biên soạn từ điển, ngôn ngữ học hiện đại đã khái quát
nên một số khái niệm có tính cơ sở về từ điển. Chúng thường được trình bày
trong các giáo trình ngôn ngữ học. Dưới đây là một số khái niệm cơ bản về từ
điển học được chúng tôi tóm lược từ Giáo trình ngôn ngữ học [17] của
GS.Nguyễn Thiện Giáp.
a. Từ điển
là những tập sách tập hợp vốn từ vựng của một ngôn ngữ hay
nhiều ngôn ngữ xếp theo những trật tự nhất định nhằm giải thích hay phiên


16
dịch các mục từ. Sự mô tả vốn từ một cách hệ thống là đặc trưng chủ yếu của
từ điển. Từ điển nói chung được chia thành từ điển bách khoa (encyclopedia)
và từ điển ngữ văn (philological dictionary).
Từ điển bách khoa được chia thành bách khoa toàn thư và bách khoa
chuyên thư. Cả ở bách khoa toàn thư và bách khoa chuyên thư đều hướng vào
giải thích các khái niệm ở các ngành, các lĩnh vực.
a1. Từ điển ngữ văn giải thích ý nghĩa và cách sử dụng các từ đã được thu
thập vào từ điển. Từ điển ngữ văn lại bao gồm từ điển tường giải (cho một thứ
tiếng); từ điển đối chiếu (từ điển song ngữ) cho hai thứ tiếng trở lên. Từ đ
iển
tường giải, là từ điển một thứ tiếng, nhằm giải thích ý nghĩa và cách sử dụng của
từ, ngữ, chỉ ra những đặc điểm ngữ pháp, ngữ âm và ngữ nghĩa của từ… Từ điển
tường giải thường được quan niệm là từ điển giải thích chung cho một ngôn
ngữ. Song tùy theo yêu cầu của đối tượng,
đích hướng vào có thể bao gồm trong

mình những loại nhỏ hơn như: từ điển học sinh, từ điển phương ngữ, từ điển
thành ngữ, từ điển từ nguyên, từ điển từ đồng nghĩa, từ điển từ trái nghĩa…
a2. Từ điển học hiện đại còn tách từ điển ngữ văn theo cách s
ắp xếp các
mục từ trong đó thành các loại: từ điển biểu âm, từ điển biểu ý. Các từ điển
tường giải và đối chiếu sắp xếp mục từ theo trật tự chữ cái, tức là theo trật tự
ngữ âm, biểu âm, thường gọi là từ điển biểu âm. Các từ điển xếp các mục từ
theo ý nghĩa đượ
c gọi là từ điển biểu ý. Trong từ điển biểu ý lại chia thành các
loại nhỏ như: Từ điển kho tàng, là từ điển mà vốn từ được thu thập ở trong đó
được sắp xếp theo các lớp khái niệm hay các nhóm đề mục, như không gian,
thời gian, vật chất, trí tuệ…; Từ điển loại suy, là loại từ điển mà các mục t

được xếp dựa theo mức độ thường dùng nhất của chúng làm trọng tâm; Từ điển
học sinh biên soạn theo đề mục (chủ đề, chủ điểm).
(Nguyễn Thiện Giáp, tr.239-251)[17].


17
b. Cấu trúc của từ điển. Một cuốn tự điển, từ điển nói chung thường được
cấu trúc thành hai bộ phận: Một là cấu trúc vĩ mô và hai là cấu trúc vi mô.
Cấu trúc vĩ mô là cấu trúc bảng từ, trong đó bao gồm toàn thể các mục từ
được sắp xếp theo một trật tự nhất định. Đối với các tự điển, t
ừ điển Hán Nôm
chúng ta đang nghiên cứu nói riêng thì cấu trúc vĩ mô của nó chính là tất cả các
môn loại được tập hợp trong đó.
Cấu trúc vi mô là cấu trúc của từng mục từ cụ thể trong hệ thống bảng từ.
Như tác giả Lí Toàn Thắng đã định nghĩa trong “Một số vấn đề về cấu trúc vi
mô của từ điển" đăng trên Từ điể
n học & Bách khoa thư (số 3)[55]: “Nói chung

ở Việt Nam, cấu trúc vi mô của từ điển giải thích (đơn ngữ) được hiểu là cấu
trúc mục từ, bao gồm toàn bộ những thông tin/ tri thức được trình bày trong
mục từ đó. Mỗi yếu tố của cấu trúc vi mô mang một thông tin nhất định và thông
tin này được diễn đạt bằng một phương tiện nào đó" (Lí Toàn Thắng, tr.18).
Như vậy, m
ục từ là đơn vị từ vựng được lựa chọn để giải thích trong từ
điển. Mục từ là một phức thể bao gồm phần cần được giải thích (phần đem ra
giải thích) và phần giải thích. Phần cần được giải thích lại tương ứng với các
đơn vị của ngôn ngữ. Ở các từ điển hiện đại, phần được giải thích th
ường là
“từ” (từ đơn, từ phức) hay những đơn vị lớn hơn từ như ngữ, cú. Trong các tự
điển chữ Hán, phần được giải thích thường là một chữ Hán (đơn tự) nhưng
cũng có khi là một tổ hợp lớn hơn (phức tự).
Trên đây là một số cơ sở của từ điển học hiện đại. Chúng được xem như
là một trong những cơ sở có tính lí thuyết và phương pháp để chúng ta suy xét,
đánh giá về bốn bộ TĐHN.TkXIX của đề tài luận án này nghiên cứu. Tuy vậy,
đó là cách nhìn của từ điển học hiện đại vì từ điển học hiện đại lấy “từ” làm
đơn vị cở sở cho xây dựng mục từ. Đối với các tự điển, từ điển Hán Nôm,
ngoài việc đượ
c xem xét theo cách nhìn của từ điển học hiện đại, chúng ta cần
phải dựa trực tiếp vào một số cơ sở của truyền thống từ điển học chữ Hán vì


18
các bộ tự điển, từ điển Hán Nôm thế kỉ XIX đều được xây dựng trên sự kế thừa
nhất định truyền thống đó.
1.2.1.2. Truyền thống từ điển học chữ Hán
Việc biên soạn từ điển học chữ Hán đã có truyền thống trên 2000 năm, gắn
liền với sự tăng tiến và mở mang của chữ Hán, tiế
ng Hán, văn hóa Hán cũng

như văn hóa các nước trong khu vực Đông Á nên đã đặt cơ sở cho sự ra đời của
truyền thống từ điển chữ Hán. Từ điển học chữ Hán truyền thống bắt đầu với
những ý tưởng và thao tác nhằm sưu tập, thống nhất, mở rộng phạm vi người
biết chữ Hán. Thống nhất chữ Hán diễn ra trước tiên
ở phương diện tự thể   -
thể của chữ. Chữ Hán đã trải qua những biến đổi sau đây về tự thể: Giáp cốt văn
   (chữ trên mai rùa, xương thú, chủ yếu sử dụng cho mục đích bói toán, mà
các chứng tích của chúng ra đời vào thời Ân Thương, khoảng thế kỉ XV Tr.
CN); Chung đỉnh văn    (chữ
khắc trên chuông trên đỉnh, còn gọi là kim văn
 ) thế kỉ XI Tr.CN; Đại triện   thế kỉ VIII Tr.CN; Tiểu triện   thế kỉ III
Tr.CN; Lệ thư   thế kỉ II Tr.CN; Thảo thư   thời Hán (là biến thể nhằm viết
nhanh từ Lệ thư); Khải thư  ), phổ biến ở thời Tam Quố
c và thời nhà Tấn, thế
kỉ III; Hành thư   (nằm giữa Khải thư và Thảo thư; Giản thể   (lưu hành
trong cải cách văn tự năm 1958 ở Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa nhưng một
phần của nó lưu hành tự phát trong dân gian suốt trong chiều dài lịch sử và được
chính thức công nhận từ 1958).
Về phương diện văn tự học, ngữ v
ăn Trung Hoa truyền thống đã xây
dựng thuyết Lục thư   (tượng hình  , chỉ sự  , hội ý  , hình thanh  
, chuyển chú  , giả tá  ).
Lục thư vừa phục vụ cho việc học chữ Hán của mọi người nói chung nhất
là với trẻ em, vừa là sự khái quát hóa cũng như giải thích kết c
ấu của chữ Hán
về phương diện văn tự học.


19
Đến thời cận đại, Lục thư đã được rút thành thuyết Tam thư   (tượng

hình  , tượng ý  , tượng thanh  ).
Biên soạn tự thư , tự điển  , từ thư   trở thành một trong những
lĩnh vực phát triển nhất của ngữ văn học Trung Hoa truyền thống.
Sưu tập vốn chữ Hán còn gắn liền với việc thống nhất cách viết. Thời Tần
(thế kỉ III Tr.CN) nhu cầu thống nhất và giản hóa văn tự trở nên cấp bách cùng
với sự thống nhất lãnh thổ. "Thư đồng văn" đã trở thành cách nói không chỉ ở
phương diện thống nhất văn tự mà còn là cách nói có tính biểu tượng cho sự
thống nhất quốc gia, thống nh
ất nhà nước.
Chữ Hán được thống nhất về cách viết theo lối chữ Tiểu triện   của thời
nhà Tần. Bộ Tam Thương   nhằm sưu tập chữ Hán cho sự thống nhất văn tự
(thư đồng văn    ), đã được đặt tên theo Thương Hiệt, nhân vật đã sáng tạo
nên chữ Hán theo huyền thoại.

Tam Thương bao gồm: Thương Hiệt thiên    của Lí Tư  ; Bác học
thiên    của Hồ Vô Kính   ; Viên lịch thiên    của Triệu Cao  .
Chúng là bảng sưu tập chữ Hán được sử dụng làm sách giáo khoa đem
dạy cho học trò. Đến thời Hán, ba bộ này được hợp thành một bản, mang tên
chung là Th
ương Hiệt thiên   , đặt tên theo nhân vật huyền thoại, là sử
quan của Hoàng đế  , người đã sáng tạo ra văn tự là Thương Hiệt như trên
đây đã nói. Dù nguyên thư nay đã thất truyền, song các tên gọi còn truyền lại
đã cho ta thấy sự nhận thức về tầm quan trọng của tự điển học chữ Hán và bộ
sách đó cũng là sự mở
đầu cho truyền thống tự điển học chữ Hán.
Truyền thống tự điển học, từ điển học chữ Hán đã có lịch sử khoảng 2000
năm, gắn liền với việc thu thập và chú giải từ ngữ trong các văn bản cổ.
Các kinh điển của trường phái Nho học được viết bằng các ngôn ngữ cổ,
do vậy, theo thời gian đã d
ần không được người đương thời hiểu. Điều này đã

thúc đẩy sự ra đời của Nhĩ nhã  , một bộ từ thư ra đời vào thời Tây Hán -


20
nhằm sưu tập từ ngữ cũng như chữ nghĩa có từ thời Chu - Tần cũng như đầu
thời Hán từ các văn bản cổ.
Bản Nhĩ nhã   hiện còn gồm 19 thiên (). Ba thiên đầu “  Thích hỗ”,
“  Thích ngôn”, “  Thích huấn” thu thập các từ theo đồng nghĩa có nguồn
gốc từ văn bản cổ. Các thiên như “
  Thích cung”, “  Thích thân”, “ 
Thích khí”… nhằm giải nghĩa các danh vật, tức là tên các sự vật.
Đồng hành với việc biên soạn tự thư, tự điển, từ thư là sự chú ý đến chữ
Hán về mặt văn tự học cũng như về mặt ngôn ngữ học. Một chữ Hán ở đây
được chú ý đến ở cả ba phương diện: Hình thể - Âm đọ
c - Ý nghĩa. Phương
diện hình thể vừa liên quan đến thư pháp vừa liên quan đến cấu tạo của chữ.
Phương diện hình thể làm nảy sinh sự ra đời của các bộ tự thư nhằm sưu
tập chữ theo tự (Triện, Lệ, Khải).
Phương diện âm đọc cho chữ Hán làm nảy sinh nhu cầu chú âm cũng như
các phương thức chú âm như: trực âm  , độ
c nhược  , phiên thiết  .
Với phiên thiết  , cấu trúc âm tiết tiếng Hán đã được phân đôi thành thanh
mẫu (phụ âm đầu) và vận mẫu (phần vần).
Phương diện ý nghĩa của chữ Hán gắn liền với việc thích nghĩa và ví dụ
minh họa từ các sách kinh điển, sách vở cổ cũng như các ý nghĩa từ
cuộc sống
mới nảy sinh cũng như các vấn đề về xã hội văn hóa khác nữa.
Truyền thống tự điển, từ điển học chữ Hán Trung Quốc nói riêng, Đông Á
nói chung mang trong mình nhiều bộ phận thành viên như:
1. Tự thư  , là những bộ sách công cụ lấy tự  (chữ) làm đơn vị sưu

tập và giải thích ý nghĩa, chú trọng vào tự
thể của chữ, phục vụ cho việc thống
nhất cách viết về phương diện tự thể, trong đó chủ yếu hướng vào tự thể của
chữ triện, chữ lệ, chữ khải. Các bộ tự thư chữ Hán nổi tiếng trong truyền thống
tự điển học Trung Hoa như:


21
    Thuyết văn giải tự của Hứa Thận  , người thời Đông Hán soạn,
trong đó thu thập 9.353 tự và 1.163 văn theo thể chữ Tiểu triện   (gồm cả cổ
văn và Trựu thư) xếp theo 540 bộ (). Sách biên soạn xong vào năm thứ 12
niên hiệu Vĩnh Nguyên đời Hán Hoà đế (thế kỉ I). Đây là bộ sách đầu tiên phân
tích tự hình và tự nguyên của chữ Hán.
  Tự lâm của Lữ Thẩm  , ra đời vào thời Tấn (thế kỉ IV), thu thập
12.824 tự  theo thể Lệ thư   và Thảo thư  , nhằm bổ khuyết cho sự thiếu
sót của   Thuyết văn. Từ thời Đường trở về trước,  Tự
lâm được coi như
là loại tự điển thuộc phạm trù của   Thuyết văn.
  Ngọc thiên của Cố Dã Vương   , người Ngô Quận thời nhà
Lương (Lục Triều), thế kỉ VI, thu thập 16.917 tự, mỗi chữ đều được chua rõ
nghĩa kèm theo các dẫn chứng từ các kinh truyện, xếp theo 542 bộ.
  Tự d
ạng, Nhan Sư Cổ    thời Đường soạn. Về mặt tự thể, là sự
chiết trung giữa triện  và lệ , chính  và tục .
    Can Lộc tự thư do Nhan Nguyên Tôn   , cháu của Nhan Sư
Cổ soạn, được dùng trong khoa cử, thu thập chữ cả ở thể t
ục tự  , thông tự 
 và chính tự  .
  Tự vựng, gồm14 quyển của    Mai Ứng Tộ thời Minh, soạn năm
Vạn Lịch thứ 3 (1605), thu thập 33.179 tự , xếp theo bộ nhưng số lượng bộ

rút gọn thành 214 bộ.
   Chính tự thông, 12 quyển, do   
Trương Tự Liệt soạn vào cuối
thời Minh, thu thập khoảng 33.000 chữ theo thể chữ lệ , có tham khảo   Tự
vựng.
    Khang Hi tự điển do Thánh Tổ Huyền Việp nhà Thanh ra sắc
lệnh soạn, hoàn thành vào năm 1716, thu thập 47.035 chữ trên cơ sở phát triển
từ    Chính tự thông.


22
Như vậy, Tự thư   là tên gọi chủ yếu của loại tự điển thu thập theo chữ,
theo mặt tự thể cũng như âm và nghĩa. Từ khi có     Khang Hi tự điển,
giới ngữ văn Trung Hoa truyền thống thường gọi là tự điển   hơn so với tự
th
ư  . Tự điển   do vậy là một loại sách công cụ thu thập đơn tự, sắp xếp
theo một trật tự nhất định, chú giải cả âm, nghĩa và cách dùng của các đơn tự
này.
2. Vận thư  , là các bộ tự điển ngữ âm xếp chữ theo vận (vần), thịnh
hành vào thời Tùy, Đường, Tống. Dưới đây là mộ
t số bộ:
  Thiết vận do nhóm Lục Pháp Ngôn    soạn xong năm 601, dựa
chủ yếu theo ngữ âm Lạc Dương có châm chước cổ âm và âm các địa phương
khác, phân thành 193 vận (bình thanh: 54; thượng thanh: 51; khứ thanh: 56;
nhập thanh: 32) là thủy tổ của vận thư Đường Tống, là một trong những bộ vận
thư trọng yếu nhất trong lịch sử vận thư chữ Hán.

 Đường vận do Tôn Diện   soạn, được hình thành trên cơ sở tăng bổ
  Thiết vận của Lục Pháp Ngôn   . Sách gốc nay không còn truyền lại
được.

  Quảng vận do nhóm Trần Bành Niên    soạn, gồm 5 quyển, được
soạn trên cơ sở   Thiết vận, thu thập trên 26.000 chữ. Chữ
bình thanh rất
nhiều nên phân thành quyển  thượng và  hạ (thượng bình: 28 vận; hạ bình:
29 vận). Thanh thượng, thanh khứ, thanh nhập (   ) thì mỗi loại 1 quyển,
trong đó thượng thanh: 55 vận; khứ thanh: 60 vận; nhập thanh: 34 vận. Tổng
cộng là 206 vận.
3. Từ thư , là tên gọi chung cho các loại sách nhằm thu thập tự cũng
như từ hoặc ngữ, như t
ự điển  , từ điển  , từ điển bách khoa toàn thư  
   , từ điển bách khoa chuyên thư       , trong đó   Nhĩ nhã ra
đời vào đầu thời Tây Hán được coi là bộ đầu tiên.


23
4. Loại thư, là một loại sách công cụ sưu tập các tư liệu, tài liệu ghi chép
theo môn loại hay một vài môn loại nhằm dễ kiểm, dễ tra cứu. Khởi đầu của
loại thư chữ Hán là bộ Hoàng lãm   được biên soạn ở thời Ngụy Văn Đế.
Thời Đường có các bộ loại thư như: Bắc Đường thư sao  
 ; Nghệ văn
loại tụ    ; Sơ học kí   . Thời Tống có các bộ loại: Thái bình ngự lãm
   ; Sách phủ nguyên qui    . Thời Minh có Vĩnh Lạc đại điển   
; Cổ kim đồ thư tập thành  
   …
Loại thư có thể đó là loại thư chuyên thư một môn loại nào đó và cũng có
thể là loại thư tổng hợp nhiều môn loại. Trên thực tế chủ yếu có những loại thư
tổng hợp nhiều môn loại. Phương pháp trình bày có thể theo từng môn loại
cũng có thể phân chia theo bộ của vần hay theo bộ của chữ. Cách trình bày
theo môn loại cũng có nguồn g
ốc từ việc giải nghĩa, thích nghĩa theo chủ đề

như Nhĩ nhã. Nhiều bộ sách học chữ Hán cũng được trình bày theo môn loại.
Tính cập nhật và tổng hợp tri thức thể hiện trong loại thư rõ hơn so với các loại
tự thư, từ thư
Tự điển, từ điển song ngữ chữ Hán trong truyền thống không có nhiều.
Chúng thường chỉ được biên t
ập khi có nhu cầu đối chiếu, phiên dịch. Thời
Minh đã có tập sách Hoa Di dịch ngữ    . Hoa Di dịch ngữ vừa là bảng
tự, bảng từ cũng như là tự điển đối chiếu, tự điển đa ngữ.
Như vậy, truyền thống tự điển, từ điển chữ Hán bao gồm tự thư 
, từ
thư  , vận thư  , loại thư  … Đơn vị cho sự sắp xếp của chúng có thể
là: tự , từ , ngữ … Chúng đều có kết cấu tầng bậc của mình, trong đó kết
cấu vĩ mô là kết cấu của bảng từ, bảng chữ; kết cấu vi mô là kết cấu củ
a mục
tự, mục từ. Từng mục tự, mục từ lại có kết cấu của nó, chí ít chúng gồm phần
được giải thích và phần giải thích. Hai phần này thường được nối tiếp nhau bởi
hệ từ dã  đứng cuối phần giải thích.


24
Những trình bày sơ lược trên đây về từ điển học nói chung, tự điển, từ
điển học chữ Hán nói riêng sẽ là cơ sở để chúng tôi vận dụng cho sự trình bày
các tự điển, từ điển Hán Nôm thế kỉ XIX. Nghiên cứu về TĐHN.TkXIX sẽ
được triển khai trên hai phương diện lớn: Một là, nghiên cứu và xem xét chúng
từ phương diện từ điể
n học nói chung, tự điển và từ điển học chữ Hán nói
riêng. Hai là, nghiên cứu và xem xét chúng từ phương diện như là những sách
dạy, sách học chữ Hán.
1.2.1.3. Truyền thống từ điển học Hán Nôm
Truyền thống từ điển học Hán Nôm đóng vai trò hướng đạo bản quốc, có

ảnh hưởng trực tiếp cho sự ra đời của bốn bộ tự điển, từ
điển Hán Nôm Việt
Nam thế kỉ XIX và bốn bộ sách này cũng góp phần tích cực của mình cho sự
xác lập một truyền thống tự điển Hán Nôm Việt Nam. Truyền thống từ điển
Hán Nôm đã được hai học giả là Trần Văn Giáp và Nguyễn Thiện Giáp giới
thiệu một cách có hệ thống trong công trình của mình.
Học giả Trần Văn Giáp trong tập II của bộ sách Tìm hiểu kho sách Hán
Nôm, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1990, trang 8 - 24 đã dành mục IV
NGÔN NGỮ với các đơn vị sách từ số 213 đến 226, với 13 đầu sách cho việc
kiểm kê các bộ sách Hán Nôm có liên quan đến ngôn ngữ học của kho sách
Hán Nôm. Các bộ sách đó là:
1. Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa
2. Thi vận tập yếu
3. Tam thiên tự giải âm
4. Khâm định Tập vận trích yếu
5. Nhật dụng thường đàm
6.
Tự điển tiết lục
7. Tự học tứ ngôn thi
8. Tự học huấn mông


25
9. Tự học cầu tinh ca
10. Đại Nam quốc ngữ
11. Tự học giải nghĩa ca
12. Nan tự giải âm
13. Nam phương danh vật bị khảo
GS.Nguyễn Thiện Giáp trong công trình Lược sử Việt ngữ học, tập một,
Nxb Giáo Dục, Hà Nội, 2005 đã lập danh mục gồm 10 cuốn từ điển đối chiếu

Hán Việt (1. Chỉ nam ngọ
c âm giải nghĩa; 2. Đại Nam quốc ngữ; 3. Nam
phương danh vật bị khảo; 4. Nan tự giải âm; 5. Ngũ thiên tự; 6. Nhật dụng
thường đàm; 7. Tam thiên tự giải âm; 8. Thiên tự văn giải âm; 9. Tự học giải
nghĩa ca; 10. Tự loại diễn nghĩa).
Các bộ sách trên về cơ bản có thể xếp chúng vào phạm trù tự điển tùy
theo yêu cầu học chữ hay gieo vần làm thơ. Có một số bộ là đơn ngữ như :Thi
vận tập yếu; Khâm định tập vận trích yếu; Tự điển tiết lục; Tự học tứ ngôn thi;
Tự học huấn mông; Tự học cầu tinh ca). Có một số bộ là song ngữ Hán Nôm
như: Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa; Tam thiên tự
giải âm; Nhật dụng thường
đàm; Đại Nam quốc ngữ; Tự học giải nghĩa ca; Nan tự giải âm; Nam phương
danh vật bị khảo. Chúng được biên soạn cho mục đích học chữ Hán và nhiều
bộ được cấu trúc theo môn loại. Với tư cách như là một minh họa, dưới đây
chúng tôi xin dẫn danh mục các môn loại của Chỉ nam ngọc âm giải nghĩ
a theo
bản in, kí hiệu AB.372. Đây là một bộ tự điển Hán Nôm. Sách in ván gỗ, 2
quyển, (thượng và hạ), gồm 82 tờ, tờ 2 trang, trang 10 dòng, dòng 20 chữ. Trật
tự các mục từ được xếp thành 40 môn loại:
1. Thiên văn chương đệ nhất     
- Phong vũ loại   
- Vân vụ loại   
- Tinh thần loại  

Tờ 1 - 2
2. Địa lý bộ đệ nhị     
tờ 3 - 6

×