Tải bản đầy đủ (.pdf) (116 trang)

Giải pháp cho vấn đề cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn tỉnh nam định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (656.07 KB, 116 trang )


1
MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU 4
1. SỰ CẦN THIẾT CỦA ĐỀ TÀI 4
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU 5
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU 5
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 5
5. NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI 5
6. NỘI DUNG VÀ KẾT CẤU ĐỀ TÀI
5
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CỔ PHẦN HOÁ DOANH NGHIỆP NHÀ
NƯỚC 7
1.1. KHÁI NIỆM VÀ VAI TRÒ CỦA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC 7
1.1.1. Khái niệm doanh nghiệp nhà nước 7
1.1.2. Vai trò của Doanh nghiệp nhà nước 7
1.2. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CỔ PHẦN HOÁ DOANH NGHIỆP NHÀ
NƯỚC 9
1.2.1. Khái niệm cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước 10
1.2.2. Mục tiêu cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần 11
1.2.3. Đối tượng cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước 12
1.2.4. Hình thức cổ phần hoá 12
1.2.5. Đối tượng và điều kiện mua cổ phiếu 13
1.2.6. Tác động của cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước 13
1.3. TẠI SAO PHẢI CỔ PHẦN HOÁ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC 16
1.4. PHÂN BIỆT CỔ PHẦN HOÁ VÀ TƯ NHÂN HOÁ DOANH NGHIỆP NHÀ
NƯỚC 17
1.5. CỔ PHẦN HOÁ - MỘT CHỦ TRƯƠNG LỚN CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC
TA TRONG QUÁ TRÌNH SẮP XẾP, ĐỔI MỚI DOANH NGHIỆP 20
1.6. CÁC GIAI ĐOẠN CỦA QUÁ TRÌNH CỔ PH


ẦN HOÁ DOANH NGHIỆP Ở
VIỆT NAM 26

2
1.6.1. Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước trong thời điểm thí điểm 26
1.6.2. Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước trong giai đoạn chính thức 28
CHƯƠNG II: CỔ PHẦN HOÁ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC TRÊN ĐỊA
BÀN TỈNH NAM ĐỊNH 41
2.1. TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH QUA NHIỀU NĂM
CỦA KHỐI DOANH NGHIỆP TẠI ĐỊA BÀN TỈNH ĐẾN THỜI ĐIỂM HIỆN
NAY 41
2.1.1. Thực trạng doanh nghiệp nhà nước t
ại thời điểm sắp xếp, đổi mới. 41
2.1.1.1. Tài sản và vốn kinh doanh. 43
2.1.1.2. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhà
nước 44
2.1.1.3. Tình hình lao động và thu nhập: 45
2.1.1.4. Tình hình công nợ và khả năng thanh toán 45
2.1.2. Đánh giá chung về hoạt động sản xuất kinh doanh, công tác quản lí tài
chính của các doanh nghiệp 46
2.2. NHỮNG KHÓ KHĂN VÀ THUẬN LỢI TÁC ĐỘNG ĐẾN CỔ PHẦN HOÁ
DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC 50
2.2.1. Khó khăn 50
2.2.2. Thuận lợi 51
2.3. TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CÔNG TÁC CỔ PHẦN HOÁ DOANH NGHIỆP
NHÀ NƯỚC TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NAM ĐỊNH 52
2.3.1. Tình hình thực hiện công tác đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp
nhà nước tỉnh Nam Định trong giai đoạn 1998- 30/6/2007 52
2.3.2. Kết quả thực hiện 54
2.3.2.1 Công tác chỉ đạo điều hành 54

2.3.2.2. Số lượng doanh nghiệp đã được sắp xếp lại 55
2.4. ĐÁNH GIÁ VỀ CÔNG TÁC CỔ PHẦN HÓA TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NAM
ĐỊNH 57
2.4.1. Những k
ết quả đạt được trong công tác cổ phần hoá 57

3
2.4.2. Những hạn chế của công tác cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước 94
2.4.3. Nguyên nhân của kết quả đạt được: 95
2.4.4. Nguyên nhân của những tồn tại: 96
2.5. TỔNG KẾT VÀ RÚT RA NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM TỪ DOANH
NGHIỆP NHÀ NƯỚC ĐÃ THỰC HIỆN CỔ PHẦN HÓA THÀNH CÔNG VÀ
CHƯA THÀNH CÔNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NAM ĐỊNH 99
CHƯƠNG III: CÁC BIỆN PHÁP NHẰM ĐẨY NHANH CÔNG TÁC CỔ
PHẦN HOÁ CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC TỈNH NAM ĐỊNH 101
3.1. VỀ PHÍA UBND T
ỈNH, CÁC BAN NGÀNH 101
3.2. VỀ PHÍA DOANH NGHIỆP 104
3.3 VỀ PHÍA NGƯỜI LAO ĐỘNG 111
3.4. VỀ PHÍA NHÀ ĐẦU TƯ 112
3.5. KIẾN NGHỊ 113
KẾT LUẬN 114











4
LỜI MỞ ĐẦU
1. SỰ CẦN THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước là
một trong những yêu cầu bức thiết của Đảng và nhà nước ta hiện nay. Thực tiễn
hoạt động của doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam cho thấy mặc dù doanh nghiệp
nhà nước được giao phó vai trò chủ đạo song hoạt động của các doanh nghiệp có
nhiều bất cập. Đa số
các doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ. Gây thất thoát tài
sản của nhà nước một cách nghiêm trọng. Chính vì vậy cho tới nay, vấn đề đổi mới,
sắp xếp doanh nghiệp nhà nước để loại hình doanh nghiệp này trở thành động lực
chủ yếu của nền kinh tế luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm. Một trong những
giải pháp quan trọng đổi mới doanh nghiệp nhà nước đã được thực hiện có hiệu quả
và mang lại nhiều thay đổi rõ rệt triệt để trong hoạt động của doanh nghiệp nhà
nước là cổ phần hoá.
Cổ phần hoá – là một biện pháp quan trọng trong việc sắp xếp đổi mới phát
triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước tương đối triệt để và phù hợp với
chủ trương xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng
và Nhà nước ta. Trong văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng chỉ
rõ. Đẩy mạnh và mở rộng diện cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, kể cả các tổng
công ty, nhằm tạo động lực mạnh mẽ và cơ chế quản lý năng động, để vốn nhà nước
sử dụng có hiệu quả và ngày càng tăng lên đồng thời thu hút mạnh mẽ các nguồ
n
đầu tư trong và ngoài nước cho sự phát triển. Thực hiện nguyên tắc thị trường trong
việc cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước.
Nam Định đã có những chính sách phát triển kinh tế xã hội tạo động lực cho
các thành phần kinh tế trên địa bàn phát triển góp phần tạo nên những thành tựu to
lớn cho nền kinh tế đất nước. Thông qua công cuộc sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp

nhà nước nói chung và công tác cổ phần hoá nói riêng, tỉnh Nam Đị
nh đã đang và
dần đi vào hoàn thiện công tác cổ phần hoá và đã có những kết quả đáng khích lệ.
Để hiểu rõ công tác cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước tại tỉnh Nam Định trong
thời gian qua, em quyết định chọn tên đề tài cho khóa luận tốt nghiệp của em là:

5
“ Giải pháp cho vấn đề cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn
tỉnh Nam Định”.
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Tìm hiểu thực trạng công tác cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước tỉnh Nam
Định trên cơ sở những mặt đạt được và những mặt còn tồn tại để đề xuất 1 số biện
pháp nhằm hoàn thiện công tác cổ phần hoá trên địa bàn tỉnh Nam Định.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Đối tượng là quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn
tỉnh Nam Định.
- Phạm vi là các doanh nghiệp tỉnh Nam Định
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để thực hiện nội dung của đề tài em đã sử dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp quan sát
- Phương pháp phân tích
5. NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI
- Hệ thống hoá toàn bộ những vấn đề lý luận liên quan đến công tác cổ phần
hoá doanh nghiệp nhà nước.
- Mô tả thực trạ
ng công tác cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước tỉnh Nam
Định và chỉ ra được những mặt đạt được và những mặt còn tồn tại trong công tác cổ
phần hoá.
- Đề ra một số biện pháp góp phần thúc đẩy nhanh và hiệu quả công tác cổ
phần hoá doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn tỉnh Nam Định.

6. NỘI DUNG VÀ KẾT CẤU ĐỀ TÀI
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, tài liệu tham khảo đề tài gồ
m những
nội dung sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước
Chương 2: Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn tỉnh Nam Định
Chương 3: Một số biện pháp nhằm hoàn thiện công tác cổ phần hoá doanh
nghiệp nhà nước trên địa bàn tỉnh Nam Định.

6
Trong quá trình viết đề tài này, mặc dù đã có nhiều cố gắng để hoàn thiện
nhưng do trình độ còn hạn chế cũng như thiếu kinh nghiệm thực tế và thời gian
nghiên cứu không nhiều nên không thể tránh những thiếu sót. Rất mong được sự
đóng góp ý kiến cũng như nhận xét của các thầy cô giáo trong khoa, các bác, các
anh chị trong Sở Tài Chính để bài viết được tốt hơn.
Với lòng biết ơn chân thành, em xin cảm ơn các thầ
y cô trong khoa kinh tế
trường Đại Học Nha Trang và các bác, các anh chị phòng doanh nghiệp tại Sở Tài
Chính Nam Định. Đặc biệt là cô Nguyễn Thu Thủy và bác Nguyễn Thành Nguyên
đã tận tình giúp đỡ và chỉ bảo cho em trong thời gian qua để em hoàn thành đề tài
tốt nghiệp của mình.
Em xin chân thành cảm ơn!
Nha Trang, tháng 11 năm 2007
Sinh viên thực hiện


Trịnh Thu Trang













7
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CỔ PHẦN HÓA
DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
1.1. KHÁI NIỆM VÀ VAI TRÒ CỦA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
1.1.1. Khái niệm doanh nghiệp nhà nước
Điều 1, Luật doanh nghiệp nhà nước quy định về doanh nghiệp nhà nước như
sau: “Doanh nghiệp nhà nước là một tổ chức kinh tế do nhà nước sở hữu toàn bộ
vốn điều lệ hoặc có cổ phần, vốn góp chi phối, được tổ chức dưới hình thức công ty
nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn”.
Hoặ
c doanh nghiệp nhà nước là những cơ sở kinh doanh do nhà nước sở hữu
hoàn toàn hay một phần. Quyền sở hữu thuộc về nhà nước là điểm phân biệt doanh
nghiệp nhà nước với doanh nghiệp trong khu vực tư nhân, còn hoạt động kinh
doanh là điểm phân biệt chúng với các tổ chức và cơ quan khác của chính phủ.
1.1.2. Vai trò của Doanh nghiệp nhà nước
- Doanh nghiệp nhà nước có vị trí rất quan trọng, góp phần để khu vực kinh tế

nhà nước thực hiện được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, là động lực
thúc đẩy sự phân bố lại dân cư theo hướng công nghiệp hoá, hình thành các trung
tâm kinh tế, văn hoá, đô thị mới, trang bị lại kỹ thuật, đổi mới công nghệ cho toàn
bộ nền kinh tế quốc dân, đào tạo bồi dưỡng cán bộ kỹ thuật, công nhân lành nghề và

tạo thêm điều kiện hạ tầ
ng cho quá trình phát triển.
Việc liên tục đổi mới hệ thống chính sách đối với doanh nghiệp nhà nước nói
riêng và kinh tế nhà nước nói chung bước đầu đã hình thành đòn bẩy thu hút và
khuyến khích các thành phần kinh tế khác liên doanh với doanh nghiệp nhà nước,
phát huy sức mạnh tổng hợp của nền kinh tế.
- Doanh nghiệp nhà nước là công cụ vật chất để nhà nước điều tiết và hướng
dẫn nền kinh tế thị trường theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Doanh nghiệp nhà
nước đã và đang chiếm vị trí quan trọng trong nhiều ngành kinh tế then chốt, đảm
bảo các điều kiện cơ sở hạ tầng, dịch vụ xã hội ngày càng tốt hơn; cung ứng hàng
hoá vật tư, năng lượng sản xuất cho đời sống và sản xuất. Doanh nghiệp nhà nước

8
giữ vai trò quyết định trong việc cung cấp những sản phẩm trọng yếu cho nền kinh
tế quốc dân như: điện, sắt thép, xi măng, phân bón, xăng dầu, giấy viết, đồng thời
doanh nghiệp nhà nước là một trong các lực lượng chủ lực thực hiện các chính sách
xã hội thông qua các doanh nghiệp công ích. (Nhờ có doanh nghiệp nhà nước và
các lực lượng vũ trang, chúng ta có khả năng ứng phó đặc biệt có kết quả
trong việc
khắc phục hậu quả thiên tai).
Sự phát triển của doanh nghiệp nhà nước trong các ngành hạ tầng như giao
thông, năng lượng, bưu chính viễn thông, dịch vụ đã tạo điều kiện cho các thành
phần kinh tế khác phát triển.
Mặc dù đã giảm mạnh về số lượng doanh nghiệp và phần tài trợ của nhà nước,
doanh nghiệp nhà nước vẫn đạt được nhiều tiến bộ trong vi
ệc đảm bảo hầu hết yêu
cầu sản phẩm dịch vụ công ích, các điều kiện giao thông, điện, nước, thông tin, vật
tư hành hoá cho xuất khẩu và thị trường trong nước, đóng góp cho ngân sách nhà
nước.

- Doanh nghiệp nhà nước đang đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện
các chính sách xã hội và ổn định chính trị - xã hội, định hướng công bằng văn minh,
góp phần cùng với các khu vực kinh tế khác giải quyế
t các vấn đề việc làm, thu
nhập cho người lao động, xoá đói giảm nghèo, phát triển văn hoá, giáo dục, y tế,
là cho cơ sở và nền tảng cho công cuộc công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.
- Doanh nghiệp nhà nước chiếm tỷ trọng khá cao về xuất nhập khẩu. Tốc độ
tăng kim ngạch xuất nhập khẩu bình quân hàng năm đạt 20%. Doanh nghiệp nhà
nước là đầu mối xuất nhập khẩu hầ
u hết các mặt hàng quan trọng như dầu thô, than,
gạo, hàng may mặc. Đồng thời, doanh nghiệp nhà nước cũng chiếm trên 98% tổng
số dự án liên doanh với nước ngoài, đã góp phần tạo nguồn thu đáng kể từ khu vực
này.
- Khu vực doanh nghiệp nhà nước chiếm vị trí quan trọng trong các nguồn thu
của ngân sách nhà nước. Mặt khác các khoản tài trợ trực tiếp và gián tiếp từ ngân
sách cho các doanh nghiệp nhà nước đã giảm làm cho phần
đóng góp thực của
doanh nghiệp nhà nước vào ngân sách nhà nước tăng lên.

9
- Tổng công ty nhà nước đã thể hiện vai trò nòng cốt, chủ lực trong nền kinh
tế, hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả, duy trì tỷ lệ tăng trưởng tương đối
cao, hoàn thành nghĩa vụ nộp ngân sách, ổn định việc làm cho người lao động, nâng
cao đời sống cán bộ công nhân viên chức và tích cực tham gia vào các chính sách
xã hội. Đồng thời huy động nguồn lực nội bộ trong toàn bộ tổng công ty kết hợp các
ngu
ồn vốn khác nhau để điều hoà thực hiện các chương trình đầu tư chiều sâu, đổi
mới công nghệ, mở rộng sản xuất, tăng khả năng cạnh tranh, khai thác thị trường
trong nước và mở rộng thị trường ra nước ngoài.


1.2. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ
NƯỚC
Những biện pháp cải cách doanh nghiệp nhà nước như tăng cường quyền tự

chủ kinh doanh, đổi mới cơ cấu tổ chức, sắp xếp lại và tổ chức tổng công ty nhà
nước, … của Đảng và Nhà nước Việt Nam đều nhằm nâng cao hiệu quả và sức cạnh
tranh của khu vực doanh nghiệp nhà nước. Trên thực tế, hiệu quả của những biện
pháp này, hiệu suất sản xuất kinh doanh khu vực doanh nghiệp nhà nước đã được
cải thiện và số lượ
ng doanh nghiệp cũng được thu hẹp đáng kể.
Tuy nhiên, chủ trương này chưa khắc phục được tình trạng “Doanh nghiệp vô
chủ”. Có một di hại nghiêm trọng thời kì bao cấp còn để lại trong cả ý thức lẫn thực
tế là quan niệm cho rằng tài sản của doanh nghiệp nhà nước được coi là “ tài sản
chung”. “Của cải chung” đồng nghĩa với “không phải của ai”, mọi người đều tùy
tiện sử dụ
ng mà không phải bận tâm. Tình trạng này gây nên thói vô trách nhiệm,
chây lười, lãng phí đã và đang trở thành trở ngại to lớn trong khi nhà nước và doanh
nghiệp nhà nước cùng nỗ lực để nâng cao hiệu suất sản xuất kinh doanh.
Về mặt tài chính, nền kinh tế Việt Nam đang trong thời kì chuyển đổi mạnh
mẽ, việc đảm bảo nền tài chính quốc gia vững mạnh là yêu cầu cực kì cấp thiết.
Ngân sách nhà nước không chỉ cần được phân bổ
hợp lí, có lợi cho việc tái cơ cấu
nền kinh tế quốc dân mà tài sản nhà nước cũng cần được sử dụng nhằm mang lại

10
hiệu quả đầu tư tối đa. Những yêu cầu này đòi hỏi phải có giải pháp mới mẻ và có
hiệu quả hơn nữa.
Trong tiến trình chuyển đổi kinh tế từ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp sang
cơ chế thị trường, sự đa dạng hóa các hình thức sở hữu đã trở thành đòi hỏi tất yếu
và ngày càng phổ biến trong toàn xã hội. Những thành tự

u của công cuộc đổi mới
cho phép đông đảo quần chúng nhận thức ngày càng rõ hơn rằng, bên cạnh hình
thức sở hữu nhà nước, các hình thức sở hữu khác nếu được tạo những điều kiện
thuận lợi, cũng phát huy vai trò tích cực trong đời sống kinh tế. Đồng thời, việc đa
dạng hóa các hình thức sở hữu cho phép thực hiện triệt để những nguyên tắc kinh
tế
, nâng cao quyền tự chủ tài chính khả năng tự quản lí kinh doanh sản xuất, nâng
cao tinh thần trách nhiệm cũng như óc sáng tạo của người lao động và người lãnh
đạo doanh nghiệp.
Nhận thức sâu sắc vấn đề này thực sự đóng vai trò nền tảng cho một giải pháp
cần thiết, quan trọng, thậm chí về phương diện nhất định, được coi là giải pháp
trọng tâm của cuộc cải cách doanh nghiệp nhà n
ước. Đó là giải pháp - Cổ phần hóa
doanh nghiệp nhà nước.
Cổ phần hóa giúp giảm bớt số doanh nghiệp kém hiệu quả, hình thành được
loại hình doanh nghiệp có nhiều hình thức sở hữu, huy động thêm được vốn của xã
hội vào phát triển sản xuất kinh doanh, tạo thêm động lực và cơ chế quản lí năng
động, có hiệu quả lợi ích của nhà nước, doanh nghiệp, người lao động được đảm
b
ảo tốt hơn.
1.2.1. Khái niệm cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước
Cổ phần hóa là quá trình chuyển đổi doanh nghiệp từ chỗ chỉ có một sở hữu
thành công ty cổ phần, tức là có nhiều chủ sở hữu. Cổ phần hóa có thể diễn ra tại
các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty liên doanh và tại
doanh nghiệp nhà nước. Cổ phần hóa là quá trình đa dạng hóa sở hữu tại doanh
nghiệp.
C
ổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là quá trình chuyển đổi doanh nghiệp nhà
nước thành công ty cổ phần, trong đó nhà nước có thể giữ tư cách là một cổ đông,


11
tức là nhà nước vẫn có thể là chủ sở hữu một bộ phận tài sản của doanh nghiệp. Cổ
phần hóa doanh nghiệp nhà nước không chỉ là quá trình chuyển sở hữu nhà nước
sang sở hữu của các cổ đông, mà còn có cả hình thức doanh nghiệp nhà nước thu
hút thêm vốn thông qua hình thức phát hành thêm cổ phiếu để trở thành công ty cổ
phần.
1.2.2. Mục tiêu cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần
Cổ
phần hóa nhằm đạt được mục tiêu sau: “Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà
nước là nhằm đa dạng hóa sở hữu doanh nghiệp nhà nước, huy động nguồn vốn của
người lao động, các nhà đầu tư trong và ngoài nước, đáp ứng nhu cầu tăng vốn dài
hạn cho nền kinh tế, năng lực kinh doanh, hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước, tạo
thêm việc làm và tăng thêm thu nhập cho người lao động”.
Theo nghị đị
nh 187/2004/NĐ-CP “Về việc chuyển công ty nhà nước thành
công ty cổ phần” thay thế Nghị Định 64/2002/NĐ-CP thì mục tiêu và yêu cầu của
việc chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần hiện nay là:
- Chuyển đổi những công ty nhà nước mà nhà nước không cần giữ 100% vốn
sang loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu; huy động vốn của cá nhân, các tổ
chức kinh tế, các tổ chức xã hội trong và ngoài nước để tăng nă
ng lực tài chính, đổi
mới công nghệ, đổi mới phương thức quản lý nhằm nâng cao hiệu quả và sức cạnh
tranh của nền kinh tế.
- Đảm bảo hài hoà lợi ích của nhà nước, doanh nghiệp, nhà đầu tư và người lao
động trong doanh nghiệp.
- Thực hiện công khai, minh bạch theo nguyên tắc thị trường; khắc phục tình
trạng cổ phần hóa khép kín trong nội bộ doanh nghiệp, gắn với phát triển thị trường
v
ốn, thị trường chứng khoán.
Với 3 mục tiêu trên, có thể thấy rằng hiệu quả sản xuất kinh doanh trong các

doanh nghiệp nhà nước cần được giải quyết một cách cơ bản. Cổ phần hóa là một
biện pháp hữu hiệu để giải quyết vấn đề cơ bản này, đồng thời tạo ra một mô hình
doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và đáp ứng nhu cầu kinh doanh hiện đại.

12
1.2.3. Đối tượng cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước
Căn cứ vào điều 2 Nghị Định 187/2004/NĐ-CP của chính phủ thì đối tượng cổ
phần hóa hiện nay là:
- Công ty nhà nước không thuộc diện nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ
thực hiện cổ phần hóa, bao gồm: các công ty nhà nước ( kể cả ngân hàng thương
mại nhà nước và các tổ chức tài chính nhà nước); công ty nhà nước độc lập, công ty
thành viên hạch toán độc lập của tổng công ty do nhà nước quyết định đầu tư và
thành lập; đơn vị hạch toán phụ thuộc của tổng công ty nhà nước (dưới đây gọi tắt
là doanh nghiệp cổ phần).
Danh mục công ty nhà nước thuộc diện nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ
do thủ tướng chính phủ quyết định trong thời kỳ.
- Các công ty nhà nước quy định tại khoả
n 1 điều này được tiến hành cổ phần
hoá khi còn vốn nhà nước (chưa bao gồm giá trị quyền sử dụng đất) sau khi giảm
trừ giá trị tài sản không cần dùng, tài sản chờ thanh lý, các khoản tổn thất do lỗ,
giảm giá tài sản, công nợ không có khả năng thu hồi và chi phí cổ phần hóa.
- Việc cổ phần hóa đơn vị hạch toán phụ thuộc của các công ty nhà nước thuộc
đối tượng quy định t
ại khoản 1 điều này chỉ được tiến hành khi:
+ Đơn vị hạch toán phụ thuộc của doanh nghiệp có đủ điều kiện hạch toán
độc lập.
+ Không gây khó khăn hoặc ảnh hưởng xấu đến hiệu quả sản xuất, kinh
doanh của doanh nghiệp hoặc bộ phận còn lại của doanh nghiệp.
1.2.4. Hình thức cổ phần hóa

Căn cứ vào điều 3 nghị định 187/2004/N
Đ-CP thì cổ phần hóa doanh nghiệp
nhà nước hiện nay bao gồm 3 hình thức sau đây:
- Giữ nguyên vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp, phát hành cổ phiếu thu
hút thêm vốn áp dụng đối với những doanh nghiệp cổ phần hóa có nhu cầu tăng
thêm vốn điều lệ. Mức vốn huy động thêm tuỳ thuộc vào quy mô và nhu cầu vốn
của công ty cổ phần. Cơ cấu vốn điều lệ của công ty c
ổ phần được phản ánh trong
phương án cổ phần hóa.

13
- Bán một phần vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp hoặc kết hợp vừa bán
bớt 1 phần vốn nhà nước vừa phát hành thêm cổ phiếu để thu hút vốn.
- Bán toàn bộ vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp hoặc kết hợp vừa bán
toàn bộ vốn nhà nước vừa phát hành cổ phiếu để thu hút vốn.
1.2.5. Đối tượng và điều kiện mua cổ phiếu
Theo điều 4 ngh
ị định 187/2004/NĐ-CP của chính phủ quy định rõ đối tượng
và điều kiện mua cổ phiếu hiện nay như sau:
- Các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội hoạt động theo luật pháp Việt Nam và cá
nhân người Việt Nam định cư ở trong nước (sau đây gọi tắt là nhà đầu tư trong
nước) được quyền mua cổ phần của các doanh nghiệp cổ phần hóa với số lượng
không h
ạn chế.
- Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, người nước ngoài hoạt động
hợp pháp tại Việt Nam, người Việt Nam định cư ở nước ngoài (sau đây gọi tắt là
nhà đầu tư nước ngoài) được mua cổ phần của các doanh nghiệp cổ phần hóa theo
quy định của pháp luật Việt Nam.
- Nhà đầu tư nước có nhu cầu mua cổ phần ở các doanh nghiệp cổ phần hóa
phả

i mở tài khoản tại các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán đang hoạt động trên
lãnh thổ Viêt Nam và tuân thủ pháp luật Việt Nam. mọi hoạt động mua, bán cổ
phần; nhận, sử dụng cổ tức và các khoản thu khác từ đầu tư mua cổ phần đều phải
thông qua tài khoản này.
1.2.6. Tác động của cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước
Cổ phần hóa có vai trò to lớn trong việc đổi mới doanh nghiệp nhà nướ
c, nhất
là ở những nền kinh tế chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cổ phần hóa đáp ứng được những yêu cầu
bức thiết của công cuộc cải cách doanh nghiệp nhà nước đang đòi hỏi, giải toả
những khó khăn trong ngân sách nhà nước, khuyến khích người lao động đóng góp
tích cực và có trách nhiệm sức lực, trí tuệ của họ cho hoạt động kinh doanh sản xuất
của doanh nghiệp. Cổ phần hóa khắc phục được những vấn đề gay cấn trong khu
vực doanh nghiệp nhà nước nhằm :

14
- Bảo đảm quyền làm chủ thực sự và tạo động lực mới trong quản lí doanh
nghiệp.
Trong doanh nghiệp nhà nước, người lao động thường được coi là chủ. Nhưng
điều đó mang nặng tính hình thức. Chuyển sang công ty cổ phần, vốn và tài sản
thuộc sở hữu tập thể của các cổ đông. Một bộ phận trong các cổ đông trước đây là
những người lao độ
ng trong doanh nghiệp nhà nước trở thành người chủ sở hữu
đích thực của công ty, họ cùng với những cổ đông khác tham gia vào quá trình quản
lí, điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty nhằm đạt được những mục
tiêu nhất định. Hoạt động sản xuất của họ gắn liền với sự thành bại của doanh
nghiệp.Vì thế, tất cả các thành viên đều rất quan tâm đến công việc của mình, lao
động tích cực với tinh thần trách nhiệm cao và óc sáng tạo phong phú. Những biểu
hiện mới này hầu như không tồn tại trong doanh nghiệp nhà nước trước khi Cổ phần
hóa.

Các công ty cổ phần hoạt động theo Luật công ty trong đó đại hội đồng cổ
đông có quyền quyết định phương hướng hoạt động của công ty cũng như giám sát
hoạt động của HĐQT và giám đốc đi
ều hành. Người lao động đồng thời là cổ đông
có quyền yêu cầu lãnh đạo doanh nghiệp trước đại hội những vấn đề nguyên tắc thu
chi ngân sách của doanh nghiệp, có quyền thắc mắc về hiệu quả quản lí,… Hơn
nữa, do sự thay đổi về cơ chế tổ chức, vai trò trách nhiệm của các bộ phận, các tổ
chức quần chúng được phân định rõ ràng, công đoàn có chức năng độ
c lập với
người quản lí điều hành doanh nghiệp. Vì vậy, các ý kiến đóng góp, dù từ bất kì
phía nào đều được nghiêm túc lắng nghe. Bên cạnh việc quản lí tập trung, không
khí sinh hoạt dân chủ thực sự được cải thiện trong cổ phần hóa.
- Lành mạnh hóa, hợp lí hoá ngân sách nhà nước, đồng thời huy động được
nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội:
Thông qua giải pháp cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, nhà nước thu hồi
mộ
t phần không nhỏ tài sản nhà nước từ doanh nghiệp nhà nước và từ doanh nghiệp
nhà nước và tài sản đó sẽ phân bố lại cho những dự án quốc gia giàu tính khả tính

15
khả thi hoặc đầu tư vào những ngành mang lại nhiều lợi ích kinh tế - xã hội quan
trọng nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững.
Hơn nữa, các công ty cổ phần dưới quyền điều hành của chủ nhân mới, với
động lực mới trong quản lí doanh nghiệp, phương hướng hoạt động thay đổi theo
hướng không ngừng củng cố sức mạnh cạnh tranh của công ty s
ẽ có thể huy động
thêm nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội.
Thị trường vốn của Việt Nam vẫn còn non yếu, nên hiện nay nguồn vốn duy
nhất mà các doanh nghiệp có thể huy động là vốn tín dụng. Song nguồn tín dụng
hiện nay lại chủ yếu là tín dụng ngắn hạn đáp ứng các nhu cầu chi tiêu thường

xuyên của doanh nghiệp, còn nguồn tín dụng trung hạn và dài hạn rất hạn hẹp. Mặt
khác, các doanh nghiệp cũ
ng không dễ dàng đáp ứng được yêu cầu cho vay vốn của
các ngân hàng thương mại.
Trong tình hình như vậy, việc chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ
phần chính là để thu hút vốn sẵn có vào phát triển kinh tế và vận dụng ưu điểm vốn
có của công ty cổ phần về huy động vốn. Công ty cổ phần có thể thu hút nguồn vốn
của các tổ chức, từ ngân hàng thương mại và công ty tài chính đến các nguồn vố
n
nhỏ bé và phân tán của các thể nhân.
- Cổ phần hoá có tác dụng làm cho sở hữu trong doanh nghiệp trở nên đa dạng
hơn. Chính vì vậy, nó giải quyết được khá triệt để vấn đề sở hữu một chủ trong
doanh nghiệp nhà nước vốn gây ra nhiều vướng mắc về hiệu quả và sự kém năng
động trong sản xuất kinh doanh.
- Cổ phần hóa có tác dụng trong việc xã hội hoá tư liệu sản xuấ
t trong các
doanh nghiệp thuộc sở hữu của một chủ. Như vậy, các thực thể kinh tế vi mô cũng
trở nên đa sở hữu như bản thân nền kinh tế vĩ mô. Điều này tạo ra sự tương thích
nhất định của các giải pháp quản lý vĩ mô và vi mô.
- Cổ phần hóa tạo ra cho người lao động cơ hội thực sự làm chủ doanh nghiệp
nếu như họ mong muố
n. Bằng việc sở hữu cổ phần (hay phần vốn góp) trong doanh
nghiệp, người lao động có thể tham gia vào việc giải quyết các vấn đè quan trọng
của các doanh nghiệp thông qua cái gọi là “nền dân chủ cổ phần”. Họ góp phần

16
hình thành nên các cơ quan quản lý doanh nghiệp, quyết định các vấn đề trọng đại
của nó. Điều này có ý nghĩa rất lớn trong việc nâng cao tính chủ động, tích cực của
người lao động không chỉ đối với các vấn đề của doanh nghiệp mà cả đối với các
vấn đề kinh tế - chính trị xã hội của nhà nước.

Những tác động to lớn mang tính phổ biến trên của cổ phần hoá đươ
ng nhiên
đúng với giải pháp cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước mà Đảng và Nhà nước ta
đang tiến hành.

1.3. TẠI SAO PHẢI CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
Doanh nghiệp nhà nước bên cạnh tác động tích cực không thể phủ nhận, thì
đây là khu vực hoạt động kém hiệu quả nhất gây ra những tổn thất to lớn về nguồn
lực phát triển đất nước, đòi hỏi phải được đổi mới một cách cấp thiết, nguyên nhân
là do:
Một là, Các doanh nghiệp nhà nước được sinh ra và trưởng thành trong cơ chế
tập trung quan liêu, bao cấp, kéo dài hàng chục năm với chính sách cấp phát, giao
nộp. Các doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong điều kiện vốn nhà nước bao cấp,
vật tư nhận theo chỉ tiêu kế hoạch, sản phẩm làm ra giao nộp theo địa chỉ quy định.
Các điều kiện vật chất được nhà nước cân đối theo ch
ỉ tiêu, định mức, trong thực tế
doanh nghiệp đơn thuần chỉ là một đơn vị gia công hàng hoá cho nhà nước, chính vì
vậy doanh nghiệp nhà nước không là đơn vị kinh tế độc lập, tự chủ và khi chuyển
sang nền kinh tế thị trường nó bộc lộ rõ yếu kém của mình về hiệu quả sản xuất
kinh doanh, cơ chế chắp vá, không đồng bộ và xơ cứng không thích hợp với cơ chế
v
ận động của nền kinh tế thị trường. Các mục tiêu mà nhà nước áp đặt cho doanh
nghiệp, nhiều khi làm cho doanh nghiệp hoạt động không đạt hiệu quả cao về mặt
kinh tế- kỹ thuật, chẳng hạn vì lí do bảo đảm phát triển đồng đều giữa các vùng và
các doanh nghiệp nhà nước buộc phải đặt ra các vị trí không thuận lợi cho sản xuất
kinh doanh.
Hai là, các doanh nghiệp nhà nước đã từ lâu không đặt trong môi trường cạ
nh
tranh, không gắn với thị trường, không chú trọng đổi mới thiết bị, công nghệ và


17
điều tất yếu là vốn liếng không được bảo toàn phát triển, thiết bị cũ kỹ, công nghệ
lạc hậu hàng chục năm so với mức trung bình của thế giới. Nói chung sức mạnh của
nhiều doanh nghiệp nhà nước còn yếu kém, một bộ phận không nhỏ sản phẩm làm
ra không tiêu thụ được vì giá thành cao, chất lượng thấp, không phù hợp với thị
hiếu của người tiêu dùng. Nhiều doanh nghi
ệp nhà nước hoạt động theo nguyên tắc
“cào bằng” không phụ thuộc vào lợi nhuận mà nó mang lại, dẫn đến làm mất tác
dụng của cơ chế cạnh tranh, kích thích tính hiệu quả của doanh nghiệp.
Ba là, quan niệm không rõ ràng về chế độ sở hữu trong doanh nghiệp nhà
nước đã làm cho bộ máy quản lý của chúng trở nên cồng kềnh, chồng chéo, xơ
cứng, không thích nghi được với biến động của nền kinh tế
thị trường. Tình trạng
làm chủ chung chung mà thực chất là “vô chủ” tồn tại phổ biến hầu hết ở các doanh
nghiệp nhà nước. Mặc dù với số lượng nhân viên gián tiếp nhiều hơn hẳn các doanh
nghiệp tư nhân nhưng việc quản lý điều hành ở các doanh nghiệp nhà nước vừa yếu
vừa kém hiệu quả. Chính kết hợp quản lý yếu kém với công nghệ lạc hậu của các
doanh nghiệp nhà nước, đã làm cho năng suất lao động và hiệu quả cho sản xuất chỉ
đạt ở mức thấp.
Bốn là, phân phối không chỉ dựa trên nguyên tắc phân phối theo lao động mà
chủ yếu nhằm vào chính sách cán bộ quản lý, người lao động trong các doanh
nghiệp nhà nước nâng cao hiệu quả hoạt động. Thêm vào đó, một bộ phận cán bộ
quản lý trong các doanh nghiệp nhà nước không thạo kinh doanh, không có đủ kiến
thức và kinh nghi
ệm cần thiết về quản lý nền kinh tế thị trường, thiếu năng động và
không dám mạo hiểm trong kinh tế để giành thắng lợi nhanh chóng cũng làm cho
các doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu quả.
1.4. PHÂN BIỆT CỔ PHẦN HÓA VÀ TƯ NHÂN HÓA DOANH NGHIỆP
NHÀ NƯỚC
Trong quá trình cải cách doanh nghiệp nhà nước, cổ phần hóa là một chủ

trương đúng đắn của Đảng và nhà nước ta nhằm nâng cao hiệu quả hoạ
t động của
các doanh nghiệp nhà nước, thu hút vốn đầu tư của các thành phần kinh tế khác, từ
đó đẩy mạnh tái sản xuất xã hội.

18
Tuy nhiên, có hai loại quan điểm về cổ phần hóa như sau:
Quan điểm thứ nhất: Cổ phần hóa là một hình thức của tư nhân hóa.
Quan điểm này dựa trên hình thức sự chuyển đổi quyền sở hữu nhà nước sang
sở hữu tư nhân. Theo nghĩa rộng, tư nhân là quá trình biến đổi tương quan giữa nhà
nước và thị trường theo hướng ưu tiên thị trường. Quá trình này cũng đồng th
ời
giảm bớt quyền sở hữu của nhà nước, sự kiểm soát của chính phủ đối với doanh
nghiệp. Tư nhân hoá doanh nghiệp nhà nước chỉ là một trong những nội dung của tư
nhân hóa nói chung. Trong quá trình tư nhân hoá doanh nghiệp nhà nước xảy ra sự
chuyển đổi về mặt pháp lý quyền sở hữu, quyền sử dụng, quyền quản lý tài sản của
doanh nghiệp từ nhà nước sang tư nhân. Bên cạnh n
ội dung tư nhân hóa doanh
nghiệp nhà nước, tư nhân hóa còn bao hàm cả quá trình các doanh nghiệp nhà nước
phải thích nghi với điều kiện hoạt động theo cơ chế thị trường.
Trong quá trình tư nhân hóa, các quốc gia thường sử dụng các hình thức đa
dạng chia thành nhiều công đoạn khác nhau như bán cho tư nhân hoặc người lao
động trong doanh nghiệp,chia cho người dân hoặc cho thuê Các hình thức này có
thể được chia thành hai loại chủ yếu sau:
- Một là, chuyển quyền sở hữu nhà nước cho tư nhân thông qua bán hoặc cho
không. Hình thức này được gọi là tư nhân hoá sở hữu. Tuy nhiên, Nhà nước có thể
tư nhân hoá sở hữu một phần hoặc toàn bộ tài sản của doanh nghiệp nhà nước,
doanh nghiệp nhà nước sau khi được tư nhân hoá sở hữu sẽ hoạt động theo cơ chế
như doanh nghiệp khác không thuộc sở hữu nhà nước. Trong trường hợp tư nhân
hoá sở hữu sẽ thuộ

c loại hình đa sở hữu.
- Hai là, Nhà nước vẫn giữ nguyên sở hữu nhưng chuyển quyền điều hành
hoạt động của doanh nghiệp cho tư nhân. Hình thức này gọi là tư nhân hoá hoạt
động.Theo hình thức này tư nhân hoá hoạt động, Nhà nước chỉ thu lợi từ hoạt động
của doanh nghiệp nhà nước (đã được tư nhân hoá hoạt động) theo những điều khoản
đã đượ
c ghi trong hợp đồng quản lý, thầu khoán.
Như vậy, theo quan điểm nay cổ phần hóa thực chất là phương thức để tư nhân
hóa một phần tài sản của doanh nghiệp nhà nước. Nhà nước không hoàn toàn mất

19
quyền sở hữu doanh nghiệp nhà nước sau cổ phần hóa, vẫn là một trong các cổ
đông của công ty cổ phần mới được hoàn thành. Tuỳ theo tầm quan trọng của doanh
nghiệp trong những lĩnh vực hoạt động cụ thể, nhà nước quyết định có nắm giữ cổ
phần chi phối hay không nắm giữ cổ phần chi phối. Do đó, khái niệm cổ phần hóa
hẹp hơn khái niệm t
ư nhân hóa nói chung và tư nhân hóa sở hữu nó riêng. Cổ phần
hoá chỉ là một trong những hình thức để thực hiện tư nhân hóa sở hữu. Nói cách
khác, cổ phần hóa là hình thức tư nhân hóa sở hữu chưa triệt để.
Quan điểm thứ 2: Cổ phần hoá và tư nhân hoá là khác nhau.
Quan điểm này dựa trên sự khác nhau về bản chất và mục đích giữa cổ phần
hóa và tư nhân hóa:
- Tư nhân hóa chỉ nhằm thay
đổi cơ cấu sở hữu doanh nghiệp nhà nước, trong
đó quyền sở hữu quyền quản lý, điều hành được chuyển từ nhà nước sang những cá
nhân hoặc nhóm người có tiềm lực tài chính mạnh. Tư nhân hóa làm tăng quá trình
tích tụ vốn và tài sản vào một số ít những cá nhân hoặc nhóm người. Những người
lao động làm việc trong các doanh nghiệp nhà nước trước khi cổ phần hóa thực sự
trở thành những ngườ
i làm thuê (nếu tiếp tục làm việc cho doanh nghiệp) hoặc bị sa

thải; những quyền lợi, phúc lợi trước đây họ được hưởng khi làm việc trong doanh
nghiệp nhà nước sẽ không còn nữa. Do đó tư nhân hóa, đặc biệt với những doanh
nghiệp nhà nước quy mô lớn, có vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Nó
sẽ dẫn đến nguy cơ tăng khoảng cách giàu nghèo trong xã hội, tăng tỷ lệ thất
nghiệp, giả
m phúc lợi xã hội, thậm chí gây bất ổn cho toàn nền kinh tế.
Như vậy, hai cách hiểu trên về cổ phần là khác nhau. Quan điểm thứ nhất phù
hợp với xã hội tư bản chủ nghĩa với cơ chế thị trường chi phối hầu hết hoạt động
của chủ nghĩa. Quan điểm thứ hai mang tính xã hội chủ nghĩa và phù hợp với thực
tế của quá trình phát triển nền kinh tế của Việt Nam hiện nay.


20
1.5. CỔ PHẦN HÓA - MỘT CHỦ TRƯƠNG LỚN CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ
NƯỚC TA TRONG QUÁ TRÌNH SẮP XẾP, ĐỔI MỚI DOANH NGHIỆP
Cổ phần hóa là một chủ trương lớn, một giải pháp quan trọng tạo chuyển biến
cơ bản trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp nhà nước ở Việt Nam. Nhưng để chủ trương này được thực hiện thành công,
Vi
ệt Nam còn phải đề ra được một mục tiêu, một mô hình phù hợp với điều kiện và
hoàn cảnh của các doanh nghiệp nói riêng và kinh tế Việt Nam nói chung làm “kim
chỉ nam” cho quá trình cổ phần hóa. Đây là một thách thức không nhỏ, đòi hỏi phải
trải qua một quá trình nhận thức lâu dài được rút ra từ lý luận và thực tiễn sinh động
của Việt Nam và nhiều nước khác trên thế giới.
Trong qua trình xây dựng và phát triển kinh tế, đã có lúc Việt Nam
đi theo con
đường kinh tế kế hoạch hoá tập trung, coi việc lấy quan hệ sản xuất tiên tiến để thúc
đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất. Vì thế đã có nhiều doanh nghiệp nhà nước
được thành lập ở tất cả các ngành, các lĩnh vực với nhiều loại quy mô khác nhau.
Những khái niệm như cạnh tranh, thị trường, sức lao động, hoạt động kinh doanh vì

mục đích lợi nhuậ
n… hoàn toàn xa lạ trong đời sống lúc bấy giờ. Trong quản lí
kinh tế, nhà nước giao chi tiêu sản xuất và cung ứng vật tư thiết bị cho doanh
nghiệp. Sản phẩm sản xuất ra dù tốt hay xấu đều có chỉ tiêu tiêu thụ theo mức giá
mà nhà nước đã quy định. Với cách quản lí, điều hành như trên, và do nhiều nguyên
nhân khác hậu quả là đến những năm 80, nền kinh tế Việt Nam rơi vào tình trạng
khủng hoảng, sả
n xuất đình trệ, đời sống nhân dân hết sức khó khăn.
Trong quá trình hoạt động, doanh nghiệp đã bộc lộ những yếu kém, bất cập
đưa đất nước đến cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội. Chính vì vậy, đổi mới, sắp xếp
lại hệ thống doanh nghiệp nhà nước là một đòi hỏi tất yếu để đưa kinh tế nhà nước
giữ vai trò chủ đạo, đủ khả năng dẫn dắt, điều tiết và định hướng các thành phần
kinh tế khác.
Trước thực tế hiện đó, đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã mở ra con đường
phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lí
của nhà nước. Để tạo điều kiện cho nền kinh tế th
ị trường phát triển, việc sắp xếp và

21
cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước là xu hướng tất yếu khách quan. Nhưng
thực tế cho thấy việc cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước đều diễn gặp rất nhiều
khó khăn và phức tạp được bắt nguồn từ nhiều lí do:
Một là, quan niệm như thế nào là doanh nghiệp nhà nước và vai trò của nó
trong nền kinh tế quốc dân của mỗi cấp, mỗi ngành, mỗi địa phương và ngay cả
đến
mỗi người dân thường không giống nhau, thậm chí có lúc rất khác nhau. Từ đó dẫn
đến nhận thức về hàng loạt vấn đề khác cũng không thống nhất như: những doanh
nghiệp nào để lại hình thức quốc doanh, doanh nghiệp nào cần cổ phần hóa, tốc độ
thực hiện cổ phần hóa như thế nào là hợp lí?
Hai là, xử lí những vấn đề có tính chất nghiệp vụ trong quá trình cổ ph

ần hóa
là không đơn giản.Việc xác định giá trị doanh nghiệp như thế nào là chính xác?
Quyền sử dụng đất có tính vào giá trị doanh nghiệp không và tính như thế nào? Khi
doanh nghiệp nhà nước chuyển sang công ty cổ phần thì vấn đề lao động dôi dư sẽ
giải quyết theo hướng nào? Những ưu đãi về tài chính đối với các doanh nghiệp nhà
nước và người lao động khi chuyển sang công ty cổ phần? Và còn rất nhiều vấn đề
khác nữ
a.
Từ nhận thức trên Đảng và Nhà nước đề ra chủ trương tiến hành cổ phần hóa
là để: “Huy động thêm vốn, tạo thêm động lực thúc đẩy doanh nghiệp nhà nước
kinh doanh có hiệu quả, làm cho tài sản nhà nước ngày càng tăng lên, không phải để
tư nhân hóa. Bên cạnh những doanh nghiệp 100% vốn nhà nước sẽ có nhiều doanh
nghiệp nắm đa số hay nắm tỷ lệ phần trăm cổ phần chi phối. Gọ
i thêm cổ phần hoặc
bán cổ phần cho người lao động tại doanh nghiệp, cho các tổ chức và cá nhân ngoài
doanh nghiệp tuỳ từng trường hợp cụ thể; vốn huy động được phải dùng để mở rộng
sản xuất kinh doanh”.
- Nghị quyết hội nghị lần thứ 3 BCH Trung ương Đảng khoá IX (ngày
24/09/2001) đã chỉ ra những nguyên nhân yếu kém của doanh nghiệp nhà nước:
chưa có sự thống nhất trong nhận th
ức và vai trò, vị trí của kinh tế nhà nước và
doanh nghiệp nhà nước, về yêu cầu và giải pháp sắp xếp, đổi mới và phát triển
doanh nghiệp nhà nước, quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước còn yếu

22
kém, vướng mắc, cơ chế chính sách còn nhiều bất cập chưa đồng bộ, còn nhiều
điểm chưa phù hợp với kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chưa
tạo được động lực mạnh mẽ thúc đẩy sức sáng tạo của người lao động. Nghị quyết
xác định: đẩy mạnh hơn nữa việc sắp xếp, đổi mớ
i, phát triển và nâng cao hiệu quả

hoạt động, tăng khả năng cạnh tranh, bảo đảm các nhu cầu sản phẩm và dịch vụ
thiết yếu, nhu cầu cần thiết của an ninh, quốc phòng, phát huy vai trò nòng cốt thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế của doanh nghiệp nhà nước.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9 BCH Trung ương Đảng khoá IX vừa qua thì
quan điểm về cổ phần hóa đặc biệt thông thoáng: Kiên quyết
đẩy mạnh nhanh tiến
bộ cổ phần hóa và mở rộng các doanh nghiệp nhà nước cần cổ phần hóa, kể cả
những doanh nghiệp lớn và một số tổng công ty có hiệu quả.
Qua thực tiễn cho thấy, cổ phần hóa là một biện pháp có tính khả thi, đem lại
lợi ích cho nhà nước, người lao động, người góp vốn. Nó góp phần khắc phục việc
buông lỏng quản lý tài sản của nhà nước, xoá b
ỏ tình trạng “vô chủ ” của Doanh
nghiệp nhà nước.
Cổ phần hóa nhằm đạt được các mục tiêu : Huy động vốn của toàn xã hội bao
gồm cá nhân, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội trong nước và ngoài nước để đầu
tư đổi mới công nghệ, tạo thêm việc làm phát triển doanh nghiệp, nâng cao sức cạnh
tranh, thay đổi cơ cấu của Doanh nghiệp nhà nước. Tạo điều kiện để ng
ười lao động
có cổ phần và những người đã góp vốn được làm chủ thật sự, thay đổi phương thức
quản lý tạo động lực thúc đẩy doanh nghiệp kinh doanh hiệu quả, tăng tài sản nhà
nước, nâng cao thu nhập của người lao động, góp phần tăng trưởng kinh tế đất
nước.
Như vậy việc cổ phần hóa đáp ứng được yêu cầu cấp bách, cần thiết c
ủa công
tác cải cách doanh nghiệp nhà nước. Bằng việc huy động vốn từ nguồn lực trong xã
hội sẽ giúp nhà nước rút bớt vốn từ các doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá
để đầu tư vào các công trình trọng điểm của nền kinh tế quốc dân hoặc hỗ trợ thêm
vốn cho những doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả để “bồi dưỡng” nguồn thu. Bên
cạnh đó, cổ phầ
n hóa giúp cho người lao động trong doanh nghiệp phát huy quyền


23
làm chủ thực sự của mình và hình thành cơ chế kiểm soát có hiệu quả hơn của cổ
đông đối với doanh nghiệp, từ đó tiết kiệm chi phí, nâng cao năng suất lao động, hạ
giá thành sản phẩm, hiệu quả sản xuất kinh doanh tăng, thu nhập người lao động
tăng dưới hình thức công ty cổ phần, doanh nghiệp hoạt động với cam kết của các
cổ đông đầu t
ư vốn “lời ăn lỗ chịu”, do đó không thể trông chờ, ỷ lại vào nhà nước
và buộc doanh nghiệp phải tự thân vận động theo hướng năng động hơn để tồn tại
và ngày càng phát triển.
Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước không phải là tư nhân hóa vì: cổ phần
hóa doanh nghiệp nhà nước là chuyển một phần hoặc toàn bộ doanh nghiệp (có chủ
sở hữu là nhà nước) sang công ty cổ phần (có nhi
ều chủ sở hữu) trong đó người lao
động làm trong doanh nghiệp được mua cổ phần tham gia quản lý, kiểm soát đồng
vốn mình bỏ ra. Do đó, doanh nghiệp sau cổ phần hoá vẫn thuộc về đa số người lao
động và có thể còn một phần vốn nhà nước. Trong doanh nghiệp cổ phần hóa, có cổ
phần của nhà nước (cổ phần chi phối, cổ phần đặc biệt hoặc cổ phần ở mức thấp)
đồng thời có cổ phần của tư nhân và cổ phần của kinh tế tập thể. Theo Luật Doanh
nghiệp trong các trường hợp chuyển nhượng cổ phiếu thì công ty cổ phần vẫn phải
còn tối thiểu là 3 cổ đông, không thể tập trung vào tay của một cá nhân nào. Các tổ
chức Đảng, đoàn thể trong công ty cổ phần đều được tôn trọng, tạo điều kiện cho
các t
ổ chức này hoạt động theo đúng hiến pháp, pháp luật và điều lệ của tổ chức đó.
Nhìn chung việc cổ phần hóa không làm cho vốn nhà nước giảm mà ngược lại
tăng thêm bởi: vốn nhà nước được tăng thêm ở những doanh nghiệp nhà nước phát
hành thêm cổ phiếu, vốn nhà nước ở những doanh nghiệp nhà nước bán cổ phần tuy
giảm đi nhưng nhà nước thu hồi vốn để
sử dụng cho việc phát triển chính doanh
nghiệp đã cổ phần hóa hoặc đầu tư vào một doanh nghiệp mới, vốn nhà nước ở

những doanh nghiệp bán, khoán, cho thuê hay chuyển quyền sở hữu vẫn là vốn nhà
nước dùng để phát triển sản xuất kinh doanh nói chung.
Trong quá trình hoạt động, doanh nghiệp đã bộc lộ những yếu kém, bất cập
đưa đất nước đến cuộc khủng hoảng kinh tế xã h
ội. Chính vì vậy, đổi mới, sắp xếp
lại hệ thống doanh nghiệp nhà nước là một đòi hỏi tất yếu để đưa kinh tế nhà nước

24
giữ vai trò chủ đạo, đủ khả năng dẫn dắt, điều tiết và định hướng các thành phần
kinh tế khác.
Xung quanh vấn đề này, Đảng và nhà nước đã có rất nhiều nỗ lực và đã đạt
được những thành tựu đáng tự hào. Ngay từ đầu thập niên 90, Đảng đã có chủ
trương chuyển một bộ phận doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần cụ thể là:
- Nghị quyết hội nghị lần thứ 2 BCH Trung ương khoá VII (tháng 11/1991)
nêu “Chuyển một số doanh nghiệp quốc doanh có điều kiện thành công ty cổ phần”.
- Nghị quyết số 10 ngày 17/03/1995 của bộ chính trị đã bổ sung thêm về
phương châm tiến hành cổ phần hóa, tỷ lệ bán cổ phần cho người trong và ngoài
doanh nghiệp.
- Nghị quyết hội nghị lần thứ 4 BCH Trung ương Đảng khoá VIII (tháng
12/1997) xác định:” Đối vớ
i doanh nghiệp mà nhà nước không nắm 100% vốn cần
lập kế hoạch cổ phần hóa để tạo động lực phát triển, thúc đẩy làm ăn có hiệu quả”.
- Nghị quyết hội nghị lần thứ 3 BCH Trung ương Đảng khoá IX (ngày
24/09/2001) đã chỉ ra những nguyên nhân yếu kém của doanh nghiệp nhà nước:
chưa có sự thống nhất trong nhận thức và vai trò, vị trí của kinh tế nhà nước và
doanh nghiệp nhà nước, về yêu cầ
u và giải pháp sắp xếp, đổi mới và phát triển
doanh nghiệp nhà nước, quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước còn yếu
kém, vướng mắc, cơ chế chính sách còn nhiều bất cập chưa đồng bộ, còn nhiều
điểm chưa phù hợp với kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chưa

tạo được động lực mạnh mẽ thúc đẩy sức sáng tạo của người lao động. Nghị quyết
xác định: đẩy mạnh hơn nữa việc sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả
hoạt động, tăng khả năng cạnh tranh, bảo đảm các nhu cầu sản phẩm và dịch vụ
thiết yếu, nhu cầu cần thiết của an ninh, quốc phòng, phát huy vai trò nòng cốt thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế của doanh nghiệp nhà nước.
Nghị quyết H
ội nghị lần thứ 9 BCH Trung ương Đảng khoá IX vừa qua thì
quan điểm về CPH đặc biệt thông thoáng: Kiên quyết đẩy mạnh nhanh tiến bộ cổ
phần hóa và mở rộng các doanh nghiệp nhà nước cần cổ phần hóa, kể cả những
doanh nghiệp lớn và một số tổng công ty có hiệu quả.

25
Qua thực tiễn cho thấy, cổ phần hóa là một biện pháp có tính khả thi, đem lại
lợi ích cho nhà nước, người lao động, người góp vốn. Nó góp phần khắc phục việc
buông lỏng quản lý tài sản của nhà nước, xoá bỏ tình trạng “vô chủ ” của Doanh
nghiệp nhà nước.
Cổ phần hóa nhằm đạt được các mục tiêu : Huy động vốn của toàn xã hội bao
gồm cá nhân, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã h
ội trong nước và ngoài nước để đầu
tư đổi mới công nghệ, tạo thêm việc làm phát triển doanh nghiệp, nâng cao sức cạnh
tranh, thay đổi cơ cấu của Doanh nghiệp nhà nước. Tạo điều kiện để người lao động
có cổ phần và những người đã góp vốn được làm chủ thật sự, thay đổi phương thức
quản lý tạo động lực thúc đẩy doanh nghiệp kinh doanh hiệu quả, tăng tài sản nhà
nước, nâng cao thu nhập của người lao động, góp phần tăng trưởng kinh tế đất
nước.
Như vậy việc cổ phần hóa đáp ứng được yêu cầu cấp bách, cần thiết của công
tác cải cách doanh nghiệp nhà nước. Bằng việc huy động vốn từ nguồn lực trong xã
hội sẽ giúp nhà nước rút bớt vốn từ các doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hóa
để
đầu tư vào các công trình trọng điểm của nền kinh tế quốc dân hoặc hỗ trợ thêm

vốn cho những doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả để “bồi dưỡng” nguồn thu. Bên
cạnh đó, cổ phần hóa giúp cho người lao động trong doanh nghiệp phát huy quyền
làm chủ thực sự của mình và hình thành cơ chế kiểm soát có hiệu quả hơn của cổ
đông đối với doanh nghiệp, từ đó tiế
t kiệm chi phí, nâng cao năng suất lao động, hạ
giá thành sản phẩm, hiệu quả sản xuất kinh doanh tăng, thu nhập người lao động
tăng dưới hình thức công ty cổ phần, doanh nghiệp hoạt động với cam kết của các
cổ đông đầu tư vốn “lời ăn lỗ chịu”, do đó không thể trông chờ, ỷ lại vào nhà nước
và buộc doanh nghiệp phải tự thân vận động theo hướng n
ăng động hơn để tồn tại
và ngày càng phát triển.
Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước không phải là tư nhân hóa vì: cổ phần
hóa doanh nghiệp nhà nước là chuyển một phần hoặc toàn bộ doanh nghiệp (có chủ
sở hữu là nhà nước) sang công ty cổ phần (có nhiều chủ sở hữu) trong đó người lao
động làm trong doanh nghiệp được mua cổ phần tham gia quản lý, kiểm soát đồng

×