Tải bản đầy đủ (.pdf) (33 trang)

tiểu luận toàn cầu hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (749.78 KB, 33 trang )

1

Mục lục
LỜI MỞ ĐẦU 2
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TOÀN CẦU HÓA 3
1. Khái quát về toàn cầu hóa. 3
a. Khái niệm toàn cầu hóa. 3
b. Lịch sử của toàn cầu hoá. 3
2. Bản chất của toàn cầu hóa. 4
3. Ý nghĩa của toàn cầu hóa. 5
II. CÁC TÁC ĐỘNG CỦA TOÀN CẦU HÓA KINH TẾ 6
1. Tác động tích cực của toàn cầu hoá kinh tế: 6
2. Tác động tiêu cực của toàn cầu hóa kinh tế 7
III. ẢNH HƯỞNG CỦA QUÁ TRÌNH TOÀN CẦU HÓA ĐỐI VỚI
DOANH NGHIỆP VIỆT NAM 8
1. Tích cực: 8
2. Tiêu cực: 10
IV. CÁC GIẢI PHÁP VÀ PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN ĐỐI VỚI
CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM. 13
1. Điểm mạnh. 13
2. Điểm yếu. 14
3. Phương hướng phát triển đối với các doanh nghiệp Việt Nam. 21
4. Các giải pháp phát triển đối với các doanh nghiệp Việt Nam 26
a. DN cần làm gì để đạt được điều kiện cần có cho hội nhập toàn cầu? 26
b. Chiến lược kinh doanh cho doanh nghiệp lựa chọn trong quá trình toán cầu
hóa: 28
KẾT LUẬN 32
Tài liệu tham khảo 33


2




LỜI MỞ ĐẦU
Trong bối cảnh chúng ta đang hội nhập kinh tế thế giới,thì quá trình toàn cầu
hóa đã trở thành một xu thế khách quan có ảnh hưởng đến mọi mặt của đời sống xã
hội như văn hóa, kinh tế, nó vừa là điều kiện,vừa là kết quả cần thiết cho mọi quá
trình phát triển xã hội.
Ngày nay, Nhân loại đang có những bước tiến dài trên con đường phát triển của
mình,tuy nhiên có nhiều vấn đề mang tính toàn cầu đang nảy sinh,tác động không
nhỏ đến đời sống quốc tế,cuộc sống của tất cả mọi người trên thế giới,không phân
biệt màu da,chủng tộc hay tôn giáo. Việt Nam chúng ta cũng vậy, con đường hội
nhập chủ động tích cực vào quá trình toàn cầu mà Đảng ta lựa chọn là con đường
đúng đắn,điều này được chứng minh rất rõ rằng bằng những gì chúng ta đã đạt được
trong nhiều năm vừa qua. Nhưng chúng ta cũng nhìn nhận rằng,cũng như các quốc
gia khác trên thế giới, chúng ta cũng phải chịu tác động từ những vấn đề toàn
cầu,những vấn đề này đang gây nhiều nhức nhối trong đời sống xã hội,ảnh hưởng
đến sự phát triển của đất nước. về mặt kinh tế,trong thời buổi ngày nay, toàn cầu
hóa làm cho sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp ngày càng khốc liệt và người lao
động có thể sa thải bất cứ lúc nào nhưng mặt khác có cạnh tranh thì mới có phát
triển,toàn cầu hóa là cơ hội phát triển thị phần cho các sản phẩm Việt Nam và thúc
đẩy thương mại phát triển. vậy toàn cầu hóa là gì? Và nó ảnh hưởng đến các doanh
nghiệp Việt Nam ra sao? Chúng em xin trình bày “ Những ảnh hưởng của toàn cầu
hóa đến hoạt động của các doanh nghiệp Việt Nam” trong bài tiểu luận này.

3

I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TOÀN CẦU HÓA
1. Khái quát về toàn cầu hóa.
a. Khái niệm toàn cầu hóa.
 Toàn cầu hóa là khái niệm dùng để miêu tả các thay đổi trong xã hội và trong

nền kinh tế thế giới, tạo ra bởi mối liên kết và trao đổi ngày càng tăng giữa các quốc
gia, các tổ chức hay các cá nhân ở góc độ văn hóa, kinh tế, v.v trên quy mô toàn
cầu.
 Toàn cầu hóa là quá trình hình thành một chỉnh thể thống nhất toàn thế giới,
đó là sự ảnh hưởng tác động, xâm nhập lẫn nhau xuyên biên giới trong các lĩnh vực
khác nhau của đời sống xã hội, trước hết và chủ yếu là lĩnh vực kinh tế trên phạm vi
toàn cầu. Toàn cầu hóa được định nghĩa một cách khách quan nhất là sự phụ thuộc
qua lại không ngừng giữa các quốc gia và các cá nhân. Sự phụ thuộc qua lại có thể
xảy ra trên lĩnh vực kinh tế, công nghệ, môi trường, văn hoá hay xã hội Rõ ràng
cần phân biệt toàn cầu hoá kinh tế với khái niệm rộng hơn là toàn cầu hoá nói
chung. Đặc biệt trong phạm vi kinh tế, toàn cầu hoá hầu như được dùng để chỉ các
tác động của thương mại nói chung và tự do hóa thương mại hay "tự do thương
mại" nói riêng. Cũng ở góc độ kinh tế, người ta chỉ thấy các dòng chảy tư bản ở quy
mô toàn cầu kéo theo các dòng chảy thương mại, kỹ thuật, công nghệ, thông tin, văn
hoá.
b. Lịch sử của toàn cầu hoá.
Toàn cầu hoá, theo nghĩa cổ điển, đã bắt đầu vào khoảng thế kỷ thứ 15, sau khi
có những cuộc thám hiểm hàng hải quy mô lớn. Cuộc thám hiểm lớn lần đầu tiên
vòng quanh thế giới do Ferdinand Magellan thực hiện vào năm 1522. Cũng như
việc xuất hiện các trục đường trao đổi thương mại giữa châu Âu, châu Á, châu Phi
và châu Mỹ không phải là hiện tượng gần đây. Ngoài những trao đổi về hàng hoá
vật chất, một số giống cây cũng được đem trồng từ vùng khí hậu này sang vùng khí
hậu khác (chẳng hạn như khoai tây, cà chua và thuốc lá). Thuật ngữ "tự do hoá"
xuất hiện để chỉ sự kết hợp của học thuyết kinh tế về thị trường tự do tuyệt đối và sự
hủy bỏ các rào cản đối với việc lưu thông hàng hoá. Thời kỳ bắt đầu dùng vàng làm
4

tiêu chuẩn của hệ thống tiền tệ (bản vị vàng) và tự do hoá trong thế kỷ thứ 19
thường được chính thức gọi là "thời kỳ đầu của toàn cầu hoá". "Thời kỳ đầu của
toàn cầu hoá" rơi vào thoái trào khi bắt đầu bước vào Chiến tranh thế giới lần thứ

nhất, và sau đó sụp đổ hẳn khi xảy ra khủng hoảng bản vị vàng vào cuối những năm
1920 và đầu những năm 1930. Kể từ Chiến tranh thế giới lần thứ hai, các Vòng đàm
phán thương mại do GATT khởi xướng, đã đặt lại vấn đề toàn cầu hoá và từ đó dẫn
đến một loạt các hiệp định nhằm gỡ bỏ các hạn chế đối với "thương mại tự do".
Vòng đàm phán Uruguay đã đề ra hiệp ước thành lập Tổ chức thương mại thế giới
hay WTO, nhằm giải quyết các tranh chấp thương mại. Các hiệp ước thương mại
song phương khác, bao gồm một phần của Hiệp ước Maastricht của châu Âu và
Hiệp ước mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA) cũng đã được ký kết nhằm mục tiêu
giảm bớt các thuế quan và rào cản thương mại. Từ thập kỷ 1970, các tác động của
thương mại quốc tế ngày càng rõ rệt, cả về mặt tích cực lẫn tiêu cực.
2. Bản chất của toàn cầu hóa.
 Với tính cách là một xu thế lịch sử, toàn cầu hoá được quyết định bởi sự phát
triển mạnh mẽ, mang tính bước ngoặt của lực lượng sản xuất trong thời đại cách
mạng khoa học công nghệ.
 Toàn cầu hoá vừa mang bản chất khách quan, vừa chứa đựng tính chất tự do
tư bản; vừa tích cực vừa tiêu cực; vừa đem lại thời cơ, thuận lợi và nguy cơ, thách
thức đối với các quốc gia dân tộc, nhất là các nước kém phát triển và đang phát
triển.
 Toàn cầu hoá là một quá trình vừa hợp tác rộng mở, vừa đấu tranh gay gắt,
phức tạp giữa các quốc gia, tập đoàn, cộng đồng, cá nhân với nhau.
 Để bảo vệ lợi ích quốc gia trong quá trình tham gia toàn cầu hoá, các nước
trên thế giới đã và đang triển khai mạnh mẽ quá trình khu vực hoá.


5


3. Ý nghĩa của toàn cầu hóa.
Thuật ngữ toàn cầu hóa xuất hiện vào những năm 1950, với sự phổ biến các
phương tiện vận tải có động cơ và sự gia tăng các trao đổi thương mai; và được

chính thức sử dụng rộng rãi từ những năm 1990 của thế kỷ XX.
"Toàn cầu hóa" có thể có nghĩa là:
 Sự hình thành nên một ngôi làng toàn cầu — dưới tác động của những tiến
bộ trong lĩnh vực tin học và viễn thông, quan hệ giữa các khu vực trên thế giới ngày
càng gần gũi hơn, cộng với sự gia tăng không ngừng về các trao đổi ở mức độ cá
nhân và sự hiểu biết lẫn nhau cũng như tình hữu nghị giữa các "công dân thế giới",
dẫn tới một nền văn minh toàn cầu.
 Toàn cầu hoá kinh tế — "thương mại tự do" và sự gia tăng về quan hệ giữa
các thành viên của một ngành công nghiệp ở các khu vực khác nhau trên thế giới
(toàn cầu hoá một nền kinh tế) ảnh hưởng đến chủ quyền quốc gia trong phạm vi
kinh tế.
 Tác động tiêu cực của các tập toàn đa quốc gia tìm kiếm lợi nhuận — việc sử
dụng các phương tiện luật lệ và tài chính mạnh mẽ và tinh vi để vượt qua giới hạn
của các tiêu chuẩn và luật pháp địa phương hòng lợi dụng nhân công và dịch vụ của
các vùng phát triển chưa đồng đều lẫn nhau.
 Sự lan rộng của chủ nghĩa tư bản từ các quốc gia phát triển sang các quốc gia
đang phát triển.
 TCH thúc đẩy mạnh, nhanh sự phát triển đặc biệt là sự xã hội hóa các LLSX
đưa lại sự tăng trưởng kinh tế cao.
 TCH thúc đẩy sự tăng trưởng của thương mại thế giới.
 TCH thúc đẩy tăng trưởng đầu tư trực tiếp nước ngoài và sự hợp tác giữa các
doanh nghiệp.
 TCH thúc đẩy sự gia tăng lưu thông quốc tế về vốn.

6

II. CÁC TÁC ĐỘNG CỦA TOÀN CẦU HÓA KINH TẾ
Các đặc trưng của toàn cầu hoá mà chúng ta đã nêu nói nên một điều rằng toàn
cầu hoá đã và đang phát triển mở rộng mạnh mẽ, nó là một xu thế khách quan của
thời đại, các quốc gia dù muốn hay không thì vẫn phải lao vào cuộc chơi có tính hai

mặt đó. Các quốc gia hiện nay vẫn đang luôn tích cực để làm “trong sáng” quá
trình toàn cầu hoá kinh tế và đã gặt hái được không ít những lợi ích mà nó mạng lại
và không ngừng thúc đẩy nó lên một cách mạnh mẽ. Nhưng một vấn đều quan trọng
đặc ra hiện nay là làm thế nào để có thể vận dụng một cách triệt để những lợi ích mà
nó mang lại? Điều đó không phải là dễ và cũng không phải là quá khó. Một trong
những yếu tố và cũng là nguyên nhân quan trọng cho sự thành công của các quốc
gia khi tham gia và quá trình đó là: Cần phải biết xác định những tác động tích cực
mà nó mang lại để phát huy nó trở thành một thế mạnh của mình và xác định những
mặt tiêu cực của nó để hạn chế một cách tối thiểu ảnh hưởng của nó tới nền nền
kinh tế, chính trị của mình.vậy đâu là tác đọngtích cực và đâu là tác động tiêu cực
của nó, điều đó sẽ được làm sáng tỏ trong phần này.
1. Tác động tích cực của toàn cầu hoá kinh tế:
Mặt tích cực của toàn cầu hoá kinh tế thẻ hiện ở chỗ:
 Trước hết thông qua tự do hóa thương mại sự thu hóa đầu tư và chuyển dao
công nghệ, nó tạo cơ hội cho sự phát triển của kinh tế toàn cầu nói chung và từng
quốc gia nói riêng.
 Thứ hai, là thúc đẩy quá trình cạnh tranh của hang hóa, dịch vụ, buộc các
nền kinh tế phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế cho phù hợp, mở rộng nền kinh tế thị
trường, cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động, hiệu quả kinh doanh.
 Thứ ba, là tạo ra một môi trường thuận lợi trong việc nắm bắt thông tin, tri
thức mới, giao lưu văn hóa thế giới trên cơ sở đó các quốc gia buộc phải cải cách hệ
thống tài chính, ngân hang, chuẩn hóa nền tài chính quốc gia nâng cao năng lực
cạnh tranh.
7

 Thứ tư, là làm gia tăng sự phụ thuộc lẫn nhau thúc đẩy sự phát triển, tính xã
hội hóa của lực lượng sản xuất, đưa nền kinh tế toàn cầu hóa phát triển ở mức ngày
càng cao hơn.
2. Tác động tiêu cực của toàn cầu hóa kinh tế
Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực, toàn cầ hóa kinh tế bộc lộ những mặt tiêu cực:

 Thứ nhất, là khiến cho sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước ngày càng tăng,
dễ dẫn tới tình trạng chủ quyền quốc gia từng bước bị suy giảm không chỉ bên lĩnh
vực kinh tế mà còn cả bên lĩnh vực chính trị, văn hóa, đặc biệt là đối với những
nước chậm hoặc đang phát triển; đồng thời, cũng làm gia tăng tính phụ thuộc về vốn
và công nghệ… với bên ngoài, mà sự phụ thuộc này dễ gây ra những tác động dây
chuyền tiêu cực trong nền kinh tế thế giới (tính lan truyền nhanh và mạnh của
khủng hoảng kinh tế).
 Thứ hai, là tạo ra sự phân hóa xã hội ngày càng sâu sắc hơn, khoảng cách
giàu nghèo ngày càng một tăng các tệ nạn xã hội, tội phạm và buôn lậu quốc tế có
cơ hội và môi trường để gia tăng.
 Thứ ba, là kéo tình trạng làm giảm môi trường sinh thái, gây ảnh hưởng
nghiêm trọng tới cuộc sống của nhân loại.
 Thứ tư, sự phân phối không đều lợi ích thu được từ quá trình toàn cầu hóa
kinh tế tất yếu dẫn đến sự mâu thuẫn giữa các quốc gia. Với ưu thế vượt trội hơn
hẳn về tiềm lực tài chính và trình độ khoa học – công nghệ so với các nước đang
phát triển, các nước tư bản khống chế cục diện kinh tế toàn cầu. Mâu thuẫn này thể
hiện rõ qua những cuộc biểu tình rầm rộ, thậm chí dẫn đến bạo loạn đẫm máu trên
đường phố ở một số nước nhằm phản đối sự bất bình đẳng trong quá trình toàn cầu
hóa kinh tế.
 Thứ năm, tác động của toàn cầu hóa kinh tế trong mặt tiêu cực của nó đối với
chính trị: Quá trình toàn cầu hóa kinh tế càng được tăng cường thì quốc gia của mỗi
nước càng bị hạn chế và thu hẹp một cách tương đối thúc đẩy các nguồn vồn đầu
vào hình thành các “bong bóng xà phòng”, nguyên nhân gây ra cuộc khủng hoảng
tài chính tiền tệ trên phạm vi rộng lớn; khoảng cách giàu nghèo trên thế giới và
8

trong mỗi quốc gia ngày càng mở rộng hơn; môi trường toàn cầ hóa là điều thuận
lợi cho các nước phương tây tiến hành chiến tranh kinh tế, chiến tranh tâm lý, “diễn
biến hòa bình” buộc các nước đang hoặc chậm phát triển theo sự áp đặt của họ.
Như vậy, toàn cầu hóa kinh tế là một quá trình phức tạp, đầu những mâu thuẫn;

giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển, giữa trung tâm và ngoại vi,
giữa Bắc và Nam, giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ và công bằng xã hội, … Hiện
nay toàn cầu hóa đã diễn ra trên những chiều hướng trái ngược nhau, xu hướng tự
do hóa kinh tế đồng hành với xu hướng bảo hộ mậu dịch, toàn cầu hóa đi liền với
phản toàn cầu hóa, phát triển đồng hành với nhân tố phát triển.
Đúng như văn kiện Đại hội IX của Đảng ta khẳng định: “toàn cầu hóa là xu thế
khách quan lôi cuốn ngày càng nhiều các nước tham gia xu thế này đang bị một số
nước phát triển và tập đoàn kinh tế tư bản xuyên quốc gia chi phối chứa đựng nhiều
mâu thuẫn vừa có mặt tích cực, vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác vừa có đầu
tranh”.
III. ẢNH HƯỞNG CỦA QUÁ TRÌNH TOÀN CẦU HÓA ĐỐI VỚI
DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
1. Tích cực:
Hội nhập kinh tế quốc tế, cũng như toàn cầu hóa tạo ra những cơ hội mới và
những thách thức mới cho các doanh nghiệp Việt Nam. Những cơ hội đó có thể kể
đến là: Có một thị trường rộng lớn để có thể tiêu thụ sản phẩm được sản xuất ra
trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa; thu hút vốn đầu tư từ các nhà đầu tư
nước ngoài, các nguồn viện trợ phát triển của các nước và các định chế tài chính
quốc tế như Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng phát
triển châu Á (ADB) ; có điều kiện tiếp nhận công nghệ sản xuất và công nghệ quản
lý thông qua các dự án đầu tư.

9

 Thị trường rộng lớn.
Thị trường ở đây bao gồm cả thị trường tiêu thụ và thị trường yếu tố sản xuất.
Trong giao lưu thương mại thị trường rộng lớn là cơ hội để các doanh nghiệp tăng
doanh thu và lợi nhuận từ việc buôn bán, trao đổi các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ,
… của mình cho thị trường các nước khác trên thế giới. Đặc biệt khi Việt Nam là
thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO thì những vướng mắc trong hàng

rào bảo hộ: phi thuế quan, phần nào được giải tỏa. Các nước tham gia vào sân chơi
này phải mở cửa thị trường để hàng hóa, sản phẩm được giao lưu buôn bán tự do, dễ
dàng. Do đó, Các doanh nghiệp Việt Nam cũng được lựa chọn và sử dụng các
nguồn đầu vào có chất lượng, giá cả hợp lý, tiết kiệm chi phí sản xuất…
 Thu hút vốn đầu tư, các nguồn tài trợ từ nước ngoài.
Các doanh nghiệp Việt nam thường xuyên đối mặt với khả năng tài chính hạn
hẹp do tiềm lực vốn đất nước chư đủ mạnh. Quá trình toàn cầu hóa với làn sóng đầu
tư mạnh mẽ của các chủ đầu tư nước ngoài, các nguồn tài trợ vốn từ các tổ chức lớn
như Ngân hàng thế giới (WB),…là cơ hội rõ ràng để các doanh nghiệp Việt giải tỏa
cơn khát vốn bấy lâu.
 Có điều kiện tiếp nhận công nghệ sản xuất và trình độ quản lý tiên tiến, nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực.Thông qua các dự án, các hợp đồng hợp tác kinh
doanh các doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội tiếp cận với công nghệ, máy móc hiện
đại, cách quản lý tiên tiến. Trong thời đại bùng nổ khoa học công nghệ như ngày
nay, thêm vào đó là những thuận lợi do toàn cầu hóa các doanh nghiệp có thể dễ
dàng đổi mới công nghệ sản xuất nâng cao chất lượng sản phẩm, công xuất sản
xuất, nâng cao trình độ quản lý,…
 Cơ hội khẳng định được vị thế của doanh nghiệp.
Sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin, Một thế giới kết nối, sự bảo hộ
thương hiệu được quan tâm, cùng các hình thức quảng cáo quảng bá sản phẩm, dịch
vụ đa dạng phong phú. Đây là cơ hội rõ nét để các doanh nghiệp khẳng định vị thế,
quảng bá, nâng tầm hình ảnh của mình trên trường quốc tế, với bè bạn các nước.
10

Ví dụ: nhãn hiệu cà phê Trung Nguyên, may mặc Việt Tiến, Viettell là nhưng
thương hiệu đã có vị thế của riêng mình.
 Cơ hội giao lưu hợp tác, trao đổi học hỏi với các doanh nghiệp khác trên thế
giới.
 Toàn cầu hóa cũng tạo cơ hội cho các doanh ngiệp giao lưu văn hóa, học hỏi
kinh nghiệm, hợp tác quốc tế với thế giới, với các doanh nghiệp khác không chỉ

trong mà cả ngoài nước.
2. Tiêu cực:
 Doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam không được đối xử một cách công bằng
VN hiện nay vẫn hơn 70% dân cư sinh sống ở khu vực nông thôn mà lĩnh vực
sản xuất chính là nông nghiệp. Trong cơ cấu xuất khẩu, những mặt hàng chủ yếu
của chúng ta chiếm tỷ trọng không nhỏ vẫn là những mặt hàng nông phẩm (Thủy
sản, Gạo, cà phê, tiêu, điều, cao su, rau quả…). Các sản phẩm này khi xuất khẩu
hầu hết dưới dạng thô và sơ chế, giá trị thu được rất thấp. Bên cạnh đó, những mặt
hàng này vấp phải những hàng rào hàng bảo hộ gay gắt từ nước ngoài. Khi chúng ta
gia nhập WTO, một sân chơi được cho là bình đẳng, tự do, các hàng hóa là lợi thế
các quốc gia sẽ được trao đổi, mua bán thuận lợi. Lật lại lịch sử khi ra đời 1995,
WTO đã phớt lờ những vấn đề các nước đang phát triển bức xúc nhất là nông
nghiệp. Mỹ và Liên minh châu Âu vẫn duy trì một chế độ bảo hộ dưới dạng trợ cấp
nông nghiệp ở mức cao (khoảng 300 tỷ USD/năm) khiến cho giá trị nông sản xuất
khẩu của họ thấp hơn mức giá sản xuất ở các quốc gia đang phát triển. Điều này làm
cho các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản của chúng ta không thể cạnh tranh được.
Hội nghị Seattle năm 1999 đánh dấu một bước ngoặt: lần đầu tiên, các nước đang
phát triển đã đương đầu với các nước phát triển và bác bỏ đề xuất của họ mở ra một
v.ng đàm phán mới về tự do hoá thương mại (mang tên vòng Thiên niên kỷ). Trong
khi đó, bên ngoài hội nghị, các tổ chức của xã hội dân sự thế giới xuống đường biểu
tình ồ ạt, phản kháng WTO. Thông qua tại hội nghị Doha năm 2001, tuyên bố khai
mạc của vòng đàm phán “về phát triển” xác định “đặt nhu cầu và lợi ích của các
nước đang phát triển vào trung tâm chương tr.nh làm việc”, và “thương mại quốc tế
có thể giữ vai trò to lớn trong việc đẩy mạnh phát triển kinh tế và giảm bớt đói
nghèo”. Dù đặt chữ ký dưới bản tuyên bố này, nhiều nước phía Nam tỏ ra hoài nghi
lời hứa của phía Bắc, và họ đã có lý. Một lần nữa, các nước phát triển nuốt lời cam
kết của họ, trước tiên trong hồ sơ nông nghiệp. Năm 2002, Mỹ ra đạo luật tăng trợ
11

cấp cho nông nghiệp lên gấp đôi. Đưa ra ra cùng năm đó, cuộc cải cách chính sách

nông nghiệp chung của Liên hiệp châu Âu hoá ra chỉ là thay đổi hình thái, màu mè
của những trợ cấp trước đây (chuyển trợ cấp nông sản thành trợ cấp nông dân).
Gia nhập WTO, VN đã buộc phải cam kết thêm nhiều điều khác: bãi bỏ ngay mọi
trợ cấp trong xuất khẩu nông sản (các nước thành viên khác đến năm 2013 mới cắt
giảm); từ bỏ quyền sử dụng biện pháp tự vệ trong nông nghiệp (các nước thành viên
khác vẫn giữ quyền đó).
Các quốc gia phát triển luôn đưa ra “củ cà rốt” mở cửa thị trường, đẩy mạnh
đầu tư, chuyển giao công nghệ, nhưng thực tế khi quyền lợi bị xâm hại họ sẵn sàng
đập “cây gậy” chống bán phá giá, vi phạm sở hữu trí tuệ, vi phạm tiêu chuẩn kỹ
thuật một cách vô lý lên đầu bất cứ quốc gia nào mà họ cho là vi phạm (Điển hình
như vụ kiện chống bán phá giá cá basa của VN). Điều trớ trêu là những đối tượng
trực tiếp chịu những “cú đánh” này lại là những người nông dân nghèo, những
người vốn dĩ cuộc sống đã phải chịu quá nhiều khó khăn.
 Vấp phải sự cạnh tranh quá lớn từ các Doanh nghiệp nước ngoài
Luồng tiền đầu tư có từ nhiều nguồn trong đó có cả từ những tập đoàn tư bản
lớn mà vốn, công nghệ, trình độ quản lý đã đạt mức cao. Với những điều kiện đó,
khi các tập đoàn này vào, họ có thể sử dụng nhiều biện pháp thậm chí mang tính
“thanh toán”. Gần như các doanh nghiệp trong nước rất khó khăn trong việc cạnh
tranh, hoặc phải chấp nhận làm các công ty con cho những tập đoàn này. Một dẫn
chứng kinh điển là trường hợp một tập đoàn nước ngọt hàng đầu thế giới đã chịu lỗ
nhiều năm liền để có thể thâu tóm vốn sở hữu và chiếm lĩnh thị phần ở VN – đây là
một bài học mà cho tới này vẫn còn nguyên tính thời sự. Chúng ta thử suy nghĩ, nếu
thị trường trong nước chịu sự kiểm soát phần lớn từ các tập đoàn đầu tư nước ngoài,
khi có một trục trặc xảy ra (ví dụ như: khủng hoảng, suy thoái, hay động cơ chính
trị…), các tập đoàn này đồng loạt rút chân, một lượng lớn lao động thất nghiệp, các
ngành sản xuất ngưng trệ, hàng hóa không thể tự túc được, nền kinh tế sẽ càng rơi
xuống đáy tiêu điều.
 Các luồng vốn tài chính từ thị trường nước ngoài xâm nhập vào trong
nước,thôn tính thị trường trong nước,gây nguy cơ khủng hoảng tài chính,khiến
nhiều Doanh nghiệp phá sản


12

Một khía cạnh không thể không nhắc tới về ảnh hưởng của đầu tư quốc tế là
đầu tư tài chính. Với xu thế toàn cầu hóa, một nhà đầu tư không cần phải cất công
lặn lội đường xá xa xôi để đem nguồn tiền đi sinh lời. Họ có thể ngồi tại New York,
Paris, Tokyo hay London để chi phối hoạt động tài chính ở cách đó nửa vòng trái
đất. Các luồng vốn tài chính đổ vào các quốc gia dưới dạng đầu tư chứng khoán, bất
động sản trong một thời điểm nó có thể đẩy các thị trường này phát triển rất nhanh.
Nhưng khi thấy đã “đút túi” được một khoản lớn, các nhà đầu tư nước ngoài lại có
động thái rút vốn khiến thị trường rơi vào tình trạng suy thoái, nhiều doanh nghiệp
phá sản, đời sống nhiều người dân rơi vào tình trạng khó khăn. Đây là bài học lớn
rút ra từ cuộc khủng hoảng tài chính lớn ở Đông Nam Á năm 1997. Dường như điều
này vẫn liên tục lặp lại ở các thị trường mới nổi khi các nhà đầu tư nước ngoài vẫn
luôn ra sức kêu gọi mở thị trường để rộng đường họ chi phối. Cuối năm 2006, đầu
năm 2007, thị trường chứng khoán VN thực sự sôi động khi giá cổ phiếu được đẩy
lên cao hàng ngày, thu hút nhiều nhà đầu tư lên sàn. Từ những người am hiểu kinh
tế, tài chính đến người không biết gì nhiều, trí thức, công nhân, sinh viên và cả
những bác nông dân bán đất để lên sàn, thậm chí họ mua mà còn không biết rõ mã
cổ phiếu mình mua của công ty nào. Tất nhiên, điều này làm cho thị trường phát
triển quá mức và quả bong bóng tài chính có thể nổ bất cứ lúc nào. Khi chính phủ
thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ để đẩy lùi nguy cơ lạm phát, các nhà đầu tư
nước ngoài rút tiền hàng loạt và thị trường chứng khoán đi xuống một cách nhanh
chóng. Nhiều nhà đầu tư từ chỗ tỉ phú, triệu phú lâm vào cảnh trắng tay thậm chí trở
thành con nợ.
Xét trên những tiêu chí trên, có thể thấy xu thế toàn cầu hóa có những tác
động tiêu cực không nhỏ tới sự phát triển bền vững ở quốc gia đang phát triển như
VN trên cả bình diện kinh tế, xã hội và môi trường. Vì vậy, các doanh nghiệp VN
trong quá trình hội nhập với khu vực và thế giới cần chú ý tới những tác động này.
Thực chất đây là “mặt đối lập” của những thuận lợi mà toàn cầu hóa mang lại cho

các quốc gia. Chúng ta không thể tách mình khỏi xu thế này nhưng chúng ta cần
13

một chiến lược hội nhập bền vững, phát triển kinh tế nhưng phải đánh giá và có
những giải pháp phù hợp cho vấn đề môi trường và xã hội.
IV. CÁC GIẢI PHÁP VÀ PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN ĐỐI
VỚI CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM.
1. Điểm mạnh.
Trong quá trình toàn cầu hóa các doanh nghiệp của Việt Nam có một số điểm
mạnh cụ thể là:
 Thứ nhất, có nguồn nhân lực dồi dào: Thị trường gần 90 triệu dân, đa số là
dân số trẻ, đây chính là sức hút của VN với thế giới bên ngoài. Nguồn lao động dồi
dào đồng nghĩa với giá nhân công rẻ. Theo số liệu mới công bố của văn phòng
JETRO tại TP HCM, giá lao động (công nhân, kỹ sư, nhà quản lý) tại thị trường
Việt Nam năm 2001 đã tăng hơn 25% so với năm 2000. Trong khi đó, giá lao động
ở các nước ASEAN không tăng, thậm chí ở một vài quốc gia còn giảm. Theo điều
tra này, lương trung bình của một công nhân tại TP HCM trong năm vừa qua là 120
USD/tháng (so với 95 USD/tháng năm 2000, gồm cả tiền thưởng, trợ cấp, thuế bổ
sung…) và tại Hà Nội là 95 USD/tháng (so với 93 USD/tháng năm 2000). Tuy
nhiên, xét trên bình diện chung, giá lao động của Việt Nam hiện ở mức thấp so với
Singapore (421 USD/tháng), Bangkok (141 USD/tháng). Một trong những lợi thế
quan trọng của các doanh nghiệp Việt Nam là có nguồn lao động dào, dân số trẻ, lao
động lại cần cù chăm chỉ, do đó chi phí cho sản xuất sản phẩm thấp tạo ưu thế về
giá cho các sản phẩm công nghiệp. Đó cũng là nhân tố thu hút sự đầu tư của các nhà
đầu tư nước ngoài vào ngành công nghiệp Việt Nam.
 Thứ hai, các doanh nghiệp Việt Nam nên tận dụng lợi thế về văn hóa. Thực
vậy trên thực tế thì Văn hoá là thứ không dễ học, ngay cả với người nước ngoài
sống lâu năm ở một quốc gia. Chúng ta không thể dựng hàng rào với tất cả các
doanh nghiệp nước ngoài mà không có hàng rào quanh ta, cũng không thể cạnh
tranh với người nước ngoài bằng vốn liếng, công nghệ, kinh nghiệm quản

lý nhưng chúng ta có thể cạnh tranh bằng văn hoá.
14

 Thứ ba, môt trường đầu tư, các chính sách, biện pháp quản lý của nhà nước
đối với các doanh nghiệp trong nước. Luật đầu tư 2005 ra đời có hiệu lực vào tháng
7/2006 là dấu hiệu tốt cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước tiến hành các hoạt
động đầu tư đặc biệt là trong ngành công nghiệp Việt Nam. Các chính sách bảo đảm
đầu tư chung, khuyến khích đầu tư hấp dẫn thể hiện thái độ cởi mở của nhà nước
trong hoạt động đầu tư. Tất cả tạo nên môi trường đầu tư thuận lợi cho hoạt động
đầu tư tại Việt Nam. Khi các nhà đầu tư bỏ vốn công nghệ, trình độ quản lý, tiến
hành đầu tư cho công nghiệp, các khu công nghiệp khu chế xuất, khu kinh tế. Hứa
hẹn đem lại nhiều mới mẻ cho sản phẩm cho công cuộc sản xuất của các doanh
nghiệp Việt Nam, tăng sức cạnh tranh của hàng hoá dịch vụ nói chung và sản phẩm
nói riêng. Đây cũng là lợi thế cho các doanh nghiệp .
 Thứ tư, Doanh nghiệp Việt Nam luôn rất năng động, họ có thể làm việc
nhiều hơn các đồng nghiệp ở những nước khác rất nhiều và trên hết chính là sự tự
giác sáng tạo, đổi mới. . Theo đánh giá thì đã có trên 40 % doanh nghiệp áp dụng
thành tựu khoa học công nghệ vào trong hoạt động quản lý, trên 43% doanh nghiệp
giảm tối đa biên chế quản lý; 73,7% doanh nghiệp thực hiện các biện pháp tiết kiệm
các chi phí gây lãng phí; nhiều doanh nghiệp đã xây dựng và áp dụng hệ thống quản
lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9000 nhằm chủ động trong việc xây dựng quy
trình công tác, hợp lý hoá sản xuất, giảm biên chế hành chính, giảm chi phí quản lý.
2. Điểm yếu.
Trong quá trình toàn cầu hóa các doanh nghiệp của Việt Nam bên cạnh các điểm
mạnh còn có các điểm yếu cần chú ý:
 Thứ nhất, hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam không được đào tạo đầy đủ,
cơ bản kiến thức về kinh tế thị trường cạnh tranh và hội nhập toàn cầu.
Việc gia nhập WTO, một trong những yêu cầu hàng đầu mà các doanh nghiệp cần,
đó là thông tin. Thế nhưng theo điều tra mới đây, có đến 31% doanh nghiệp không
biết về WTO; 45% doanh nghiệp chưa có kế hoạch chuẩn bị cho việc thực hiện các

yêu cầu của Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ.
15

 Thứ hai, do hoàn cảnh đất nước mới mở cửa và hội nhập, doanh nghiệp Việt
Nam còn thiếu kinh nghiệm trên thương trường, đặc biệt là kinh nghiệm xử lý các
cơ hội cũng như nguy cơ mang tính toàn cầu, khả năng chịu đựng các va đập, rủi ro
trong kinh doanh thấp, chưa thực sự am hiểu các thông lệ, luật phát kinh doanh
quốc tế Năm 2009 là năm khó khăn đối với xuất khẩu Việt Nam. Trong bối cảnh
nền kinh tế thế giới chưa thực sự thoát khỏi khủng hoảng, bên cạnh sự sụt giảm về
số lượng các đơn hàng ở hầu khắp các thị trường, hàng hóa Việt Nam còn phải đối
mặt với một loạt rào cản không dễ vượt qua mà đáng kể nhất là các biện pháp
phòng vệ thương mại. Trên thực tế, năm 2009 là năm giữ kỷ lục về số lượng các vụ
kiện chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ đối với hàng hóa xuất khẩu Việt
Nam với 42 vụ kiện. Một trong những ví dụ điển hình nhất, ngày 22/12/2009, liên
minh châu Âu (EU) đã bỏ phiếu chính thức thông qua đề xuất của Ủy ban châu Âu
(EC) kéo dài thời hạn áp thuế chống bán phá giá đối với giày mũi da nhập khẩu từ
Việt Nam và Trung Quốc thêm 15 tháng. Điều này gây ảnh hưởng lớn đến toàn bộ
hoạt động sản xuất, kinh doanh, xuất khẩu của ngành da giày Việt Nam.
 Thứ ba, doanh nghiệp Việt Nam thiếu kinh nghiệm quản lý, nhất là quản lý
các doanh nghiệp, tập đoàn lớn, phạm vi hoạt động trải rộng trên nhiều quốc gia,
trong đó, một số lại tự ti hoặc tự thoả mãn với những kết quả hiện tại. Theo kết quả
điều tra năm 2009, có 40,6% doanh nghiệp đã áp dụng thành tựu khoa học kỹ thuật
trong quản lý, giảm tối đa biên chế quản lý là 48,4%, tiết kiệm các chi phí gây lãng
phí 73,7%, việc xây dựng và áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn
ISO: 9000 sẽ giúp cho doanh nghiệp chủ động trong việc xây dựng qui trình công
tác cho từng lao động và mối quan hệ dây chuyền giữa các lao động và bộ phận
công tác nhằm hợp lý hóa sản xuất và quản lý, giảm biên chế hành chính, góp phần
giảm chi phí quản lý, hạ giá thành sản phẩm. Tuy nhiên, việc thuê chuyên gia và
đào tạo để ứng dụng ISO có thể đòi hỏi một số chi phí tương đối lớn ban đầu, coi
như một khoản đầu tư để cải tiến quản lý. Có 32,0% doanh nghiệp đã quản lý doanh

nghiệp theo tiêu chuẩn ISO.
16

 Thứ tư, tầm nhìn của nhiều doanh nghiệp Việt Nam còn hạn chế, chưa có
chiến lược kinh doanh phù hợp, rõ ràng. Về hoạt động nghiên cứu thị trường của
các doanh nghiệp: Theo một điều tra của tác giả (Nguyễn Vĩnh Thanh - Tạp chí
Nghiên cứu kinh tế)với 175 doanh nghiệp, có 16% số doanh nghiệp tiến hành
nghiên cứu thị trường một cách thường xuyên, 84% số doanh nghiệp còn lại cho
rằng công tác nghiên cứu thị trường không nhất thiết phải làm thường xuyên, họ chỉ
tiến hành nghiên cứu trước khi có ý định xâm nhập thị trường. Một số liệu của
Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam cho thấy, chỉ chưa đầy 10% số doanh
nghiệp là thường xuyên thăm thị trường nước ngoài, chủ yếu là những doanh nghiệp
lớn, doanh nghiệp Nhà nước, 42% số doanh nghiệp thỉnh thoảng mới có cuộc đì
thăm thị trường nước ngoài, và khoảng 20% không một lần đặt chân lên thị trường
ngoài nước. Các doanh nghiệp nhỏ và các doanh nghiệp tư nhân thì khả năng thâm
nhập thị trường nước ngoài hầu như không có. Hiệu quả của công tác nghiên cứu thị
trường còn hạn chế và yếu kém, nhiều thị trường tiềm năng chưa được khai thác,
nhiều doanh nghiệp đã phải chịu thua lỗ lớn và mất thị trường do không đi sâu vào
nghiên cứu thị trường. Nhiều doanh nghiệp đã nhận thức được tầm quan trọng của
công tác nghiên cứu thị trường và đã tiến hành nghiên cứu, song "lực bất tòng tâm",
vốn ít, ngân sách dành cho việc nghiên cứu thị trường rất hạn hẹp, khả năng thăm
quan, khảo sát thị trường nước ngoài rất hạn chế vì mỗi chuyến đi chi phí khá tốn
kém, hiệu quả không cao. Do khả năng tìm kiếm, khai thác và xử lý thông tin của
cán bộ còn yếu, lợi ích đem lại không đủ bù chi phí. Hoạt động nghiên cứu thị
trường của các doanh nghiệp chưa được tổ chức một cách khoa học, mà chủ yếu
dựa vào kinh nghiệm của người nghiên cứu là chính. Các doanh nghiệp còn rất hạn
chế trong việc sử dụng công nghệ thông tin, công cụ toán học, thống kê trong
nghiên cứu thị trường. Đa số các doanh nghiệp trên cơ sở thông tin thu thập được họ
tiến hành phân tích bằng cảm tính rồi đưa ra dự báo. Các thông tin sơ cấp về thị
trường không có đủ chi phí để thu thập, dẫn đến tình trạng đa số các doanh nghiệp

kinh doanh thụ động, không chắc chắn. Nhìn chung, công tác nghiên cứu thị trường
của các doanh nghiệp Việt Nam còn yếu kém. Dịch vụ hỗ trợ hoạt động kinh doanh
17

như nghiên cứu thị trường, thông tin kinh tế, ngân hàng dữ liệu còn hạn chế. Trình
độ khai thác và sử dụng thông tin của cán bộ còn thấp, sự quan tâm chưa đúng mức
của lãnh đạo doanh nghiệp, cơ cấu tổ chức không tương ứng Còn có những mặt
hàng của doanh nghiệp Nhà nước đang được bảo hộ tuyệt đối (ưu đãi độc quyền)
hoặc bảo hộ qua hàng rào thuế quan, trợ cấp (qua ưu đãi tín dụng và bù lỗ, miễn
thuế ), thậm chí nhiều doanh nghiệp cố gắng luận chứng để Nhà nước tăng cường
các biện pháp bảo hộ mạnh hơn để duy trì việc làm và thị phần.
 Chiến lược sản phẩm của các doanh nghiệp.
Trước yêu cầu của thị trường ngày càng cao, các doanh nghiệp Việt Nam đã
quan tâm đến yếu tố chất lượng sản phẩm và xây dựng chiến lược sản phẩm để đáp
ứng nhu cầu của khách hàng và thị trường. Tuy nhiên các sản phẩm của doanh
nghiệp Việt Nam có đặc điểm là: yếu tố tư bản vốn trong cấu thành sản phẩm thấp,
hàm lượng tri thức và công nghệ trong sản phẩm không cao, chủ yếu dựa vào yếu tố
lao động (gạo, thuỷ sản) hoặc điều kiện tự nhiên, chất lượng sản phẩm chưa thực sự
có ưu thế rõ rệt trên thị trường thế giới, năng suất lao động thấp. Tính độc đáo của
sản phẩm không cao, trừ số ít sản phẩm mang đậm bản sắc tự nhiên và văn hóa đặc
thù như hàng thủ công mỹ nghệ các sản phẩm khác còn lại hầu như luôn đi sau
các nước khác về kiểu dáng, tính năng, thậm chí nhiều sản phẩm tiêu dùng và công
nghiệp lạc hậu so với thế giới nhiều thế hệ, giá trị gia tăng sản phẩm trong tổng giá
trị của sản phẩm nói chung còn thấp hơn nhiều so với mức trung bình của thế giới.
Hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu phải nhập khẩu nguyên vật liệu cho
sản xuất. Ngay cả các sản phẩm xuất khẩu và các sản phẩm có sự tăng trưởng cao
trong nhiều năm qua như: hàng dệt may, da giày, chế biến thực phẩm và đồ uống,
sản phẩm thép và kim loại màu, Ô tô, xe máy, hàng điện tử, sản phẩm nhựa cũng
phụ thuộc nhiều vào nguồn nguyên liệu, bán thành phẩm nhập khẩu. Nhiều nhóm
sản phẩm có tỷ trọng chi phí cho nguyên vật liệu chiếm trên 60% giá thành sản

phẩm như: giấy in, giấy viết, phôi thép và thép cán, lốp xe các loại Việc nhập
khẩu với số lượng lớn nguyên vật liệu cũng sẽ gây tác động trực tiếp tới tính chủ
động của các doanh nghiệp Việt Nam trong việc lập kế hoạch kinh doanh và tới giá
18

thành do phụ thuộc vào biến động giá cả nguyên liệu nhập khẩu, biến động tỷ giá
hối đoái Ngoài ra, việc phải nhập khẩu các nguyên liệu phục vụ sản xuất trong
nước cũng sẽ làm. phát sinh thêm nhiều khoản chi phí khác như, chi phí vận
chuyển, chi phí các thủ tục hải quan, chi phí cảng, chi phí bảo hiểm Chi phí dịch
vụ hạ tầng phục vụ sản xuất công nghiệp như: điện, viễn thông, cảng biển, vận tải ở
Việt Nam cũng được đánh giá là cao hơn mức trung bình của các nước trong khu
vực Chẳng hạn, cước viễn thông quốc tế Việt Nam cao hơn so với các nước trong
khu vực từ 80% - 50% (Thái Lan, Malaixia, Inđônêxia, Singapo), cước vận tải
đường biển container cao hơn 40% - 50% so vời Malaixia và Singapo. Theo thống
kê sơ bộ, ngoài các khoản chi phí cho dịch vụ vận tải và chi phí thông thường khác,
một doanh nghiệp trong quá trình xuất nhập khẩu hàng hóa qua đường biển hoặc
đường hàng không phải chịu thêm khoảng 20 loại phí khác, với cách tính phí cũng
khác nhau ở mỗi cảng và mỗi đại lý vận tải (ví dụ như: phí đại lý, phí dỡ hàng, phí
nâng hạ và chuyển bãi container, phí lưu kho bãi ). Tất cả các khoản chi phí này
đều có ảnh hưởng rất lớn tới chi phí sản xuất, giá thành sản phẩm và sức cạnh tranh
của sản phẩm cũng như doanh nghiệp.
 Chiến lược phân phối.
Do các doanh nghiệp Việt Nam có quy mô vừa và nhỏ là chủ yếu đã làm hạn
chế tầm hoạt động và mạng lưới phân phối. Nhiều doanh nghiệp vẫn áp dụng hình
thức các kênh phân phối qua các trung gian thương mại nên chưa thiết lập được hệ
thống phân phối hàng hóa đến đại lý hoặc người tiêu dùng cuối dùng. Với phương
thức này, các doanh nghiệp Việt Nam không thể kiểm soát được quá trình phân phối
và tiêu thụ sản phẩm của họ và không thể nắm bắt trực tiếp những thông tin phản
ánh tình hình thị trường. Hiện nay, có một số doanh nghiệp đã tận dụng được các
đại lý để phân phối bán lẻ, mà chưa chú trọng đến việc nghiên cứu đặc điểm của thị

trường gồm đặc tính của các tập khách hàng (cá nhân, tổ chức, khách hàng mục
tiêu, tiềm năng, đối thủ cạnh tranh…), đặc tính của sản phẩm (tính dễ hư hỏng, tính
mùa vụ, đặc điểm kỹ thuật của sản phẩm ), đặc điểm môi trường (điều kiện kinh tế,
khả năng quản lý, quy định ràng buộc về pháp lý, điều kiện địa lý, giao thông, vận
19

chuyển ). Xác lập hệ thống này còn mang tính chất "phi vụ” chứ chưa hình thành
được chiến lược về kênh phân phối chuẩn. So với nhiều công cụ cạnh tranh khác, hệ
thống kênh phân phối của hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam vẫn chưa được quan
tâm đúng mức và còn tồn tại nhiều hạn chế. Đối với các doanh nghiệp Nhà nước,
kênh phân phối vẫn còn mang nhiều dấu ấn của thời kỳ bao cấp. Đối với những
doanh nghiệp ngoài quốc doanh, một bộ phận vẫn còn tổ chức kênh phân phối theo
kiểu trao đổi đơn (bên mua và bên bán chỉ quan hệ với nhau một lần), một bộ phận
khác tổ chức kênh phân phối theo kiểu tự nhiên, không hề có tác động quản lý điều
khiển theo hướng có mục tiêu.
 Chiến lược truyền tin và xúc tiên hỗn hợp.
Hoạt động xúc tiến hỗn hợp của các doanh nghiệp còn ở trình độ thấp, giản đơn
và không mang lại hiệu quả thiết thực. Nhiều doanh nghiệp mới chỉ dừng lại ở mức
in ấn và phát hành các tờ rơi giới thiệu về doanh nghiệp. Có rất ít doanh nghiệp xây
dựng được chương trình xúc tiến hỗn hợp để giới thiệu sản phẩm cho khách hàng.
Chi phí dành cho quảng cáo còn quá thấp, chỉ dưới 1% doanh thu là quá nhỏ so với
doanh nghiệp nước ngoài như Coca Cola là 20% và Sony là l0%, chất lượng quảng
cáo còn rất yếu do thiếu chuyên gia trong lĩnh vực này. Hình thức quảng cáo của
các doanh nghiệp vẫn chủ yếu là xuất bản các tập catalogue, brochure với nội dung
đơn điệu, không mang dấu ấn của quảng cáo cho thị trường hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp.
 Thứ năm, khả năng liên kết, hợp tác, chia sẻ thông tin giữa các doanh nghiệp
kém, thậm chí là không có. Trên thế giới, việc liên kết để tạo thành các tập đoàn
khổng lồ có sức mạnh chi phối thị trường đã được tiến hành từ rất lâu. Thế nhưng ở
Việt Nam, điều này dường như vẫn không được nhiều doanh nghiệp quan tâm. Vẫn

kiểu mạnh ai nấy làm. Dường như lối làm ăn theo kiểu manh mún, nhỏ lẻ đã ngấm
sâu vào tâm lý của nhiều doanh nghiệp Việt Nam. Câu tục ngữ xưa: “Buôn có bạn,
bán có phường” dường như ngày nay không được nhiều DN coi trọng bởi lối tư duy
ngắn hạn. Hậu quả là rất nhiều cơ hội lớn đã bị bỏ qua do đối tác nước ngoài đặt
20

hàng lớn nhưng DN không có khả năng đáp ứng, trong khi lại không chịu liên kết
với DN khác cùng làm. Mới nhất là việc giá cà phê liên tục giảm khiến DN cà phê
nước ta bị thiệt hại nặng, là do các DN của ta thiếu liên kết với nhau nên để các nhà
nhập khẩu nước ngoài có cơ hội lũng đoạn thị trường, làm giá. Ông Lương Văn Tự,
Chủ tịch Hiệp hội Cà phê, ca cao Việt Nam cho biết: “Hiện Hiệp hội có 146 DN
nhưng việc liên kết với nhau rất kém, DN nào cũng chỉ chọn phương thức bán hàng
có lợi nhất cho DN mình, không có sự phối hợp để điều tiết lượng hàng bán ra, điều
tiết thị trường. Thậm chí, việc “gà nhà đá nhau” không phải là chuyện hiếm.
Chuyện DN này cố tình bán phá giá thị trường, làm ảnh hưởng tới việc kinh doanh
của DN khác là bằng chứng về lối làm ăn tư lợi”.Việc các DN không chịu liên kết
với nhau có nhiều lý do, như sợ lộ thị trường, mất khách hàng, lộ thông tin; ngư dân
không chịu liên kết, không kết nối bộ đàm vì sợ lộ ngư trường… Đó là lối suy
nghĩcách nhìn ngắn hạn, chỉ thấy lợi ích trước mắt mà không thấy được lợi ích dài
hạn của việc liên kết giữa các DN. Bởi lẽ, kinh doanh trong một thế giới sôi động và
chuyển biến không ngừng với đầy rủi ro và không ít cơ hội hiện nay đòi hỏi sự chia
sẻ thông tin rất lớn giữa các DN. Lối làm ăn theo kiểu win – win, có nghĩa là cả hai
cùng thắng là lối làm ăn nên được phát huy để cùng hưởng lợi và cùng chia sẻ khó
khăn.Chuyên gia tài chính Bùi Kiến Thành cho rằng, nếu liên kết lại thành một khối
sẽ tạo thành sức mạnh to lớn, còn nếu DN cứ đơn thương độc mã thì rất khó vươn ra
thị trường thế giới thành công. Trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các DN,
chỉ khi gặp khó khăn thì nhu cầu liên kết giữa các DN mới trở nên cấp thiết hơn bao
giờ hết. Ông Lê Tiến Trường, Phó Tổng giám đốc Tập đoàn Dệt may Việt Nam chia
sẻ: “Trước đây, trong thời điểm thuận lợi, nhu cầu liên kết của các DN trong ngành
dệt may không rõ ràng, trong khó khăn (của nền kinh tế – PV), sự liên kết trở thành

một xu thế tất yếu để giảm bớt rủi ro và chia sẻ kinh nghiệm”. Đại diện Hiệp hội
chè cũng từng cho biết, bình thường, các DN thuộc hiệp hội không có khái niệm
liên kết với nhau, thậm chí còn dè chừng, cảnh giác nhau; nhưng khi bị đối tác nước
ngoài điều tra kiện bán phá giá, các DN bỗng “thân” nhau lạ, liên kết, chia sẻ với
nhau một cách tự nhiên. Rõ ràng, biết liên kết với nhau để cùng vượt khó là điều tốt,
21

nhưng không thể chỉ dừng lại ở đấy. Các DN cần phải nhận thức được lợi ích to lớn
của liên kết để coi đây là nhu cầu tự nhiên, thiết yếu của mình trong quá trình thâm
nhập và chiếm lĩnh thị trường, bởi “một cây làm chẳng nên non”. OPEC (Hiệp hội
các Quốc gia xuất khẩu dầu mỏ) là một ví dụ điển hình về sức mạnh to lớn của liên
kết. Nhờ sự liên kết chặt chẽ mà OPEC đã thao túng thị trường dầu mỏ thế giới, thu
lợi nhuận khổng lồ cho các quốc gia thành viên. Hay bài học về sự liên kết giữa các
tập đoàn, thương hiệu mạnh của nước ngoài khi vào Việt Nam để chiếm lĩnh thị
trường cũng cần được các DN nghiên cứu kỹ. Ông Phan Hữu Đễ, TTK Hiệp hội Cà
phê, ca cao Việt Nam cho rằng: “Giờ là lúc các DN cần phải liên kết với nhau thành
một khối để đối phó với việc làm giá, với lượng cà phê hằng năm như vậy cần phải
tính toán được thời điểm bán ra cho phù hợp. Tới đây, định hướng của Hiệp hội là
yêu cầu các DN phải thông báo và cập nhật thường xuyên về lượng bán ra và có sự
cân đối điều hòa lượng bán ra để tránh tình trạng làm giá như hiện nay”. Các điểm
yếu này không phải là quá trầm trọng, những rõ ràng nếu không được khắc phục có
hiệu quả sẽ có ảnh hưởng xấu và ngày càng lớn đối với kết quả kinh doanh của
doanh nghiệp.
3. Phương hướng phát triển đối với các doanh nghiệp Việt Nam.
 Tiếp tục hoàn thiện khung khổ pháp lý, cải cách thủ tục hành chính và chính
sách tài chính theo hướng tạo môi trường đầu tư kinh doanh bình đẳng, minh bạch,
ổn định, thông thoáng cho DN và dịch vụ phát triển kinh doanh phát triển. Về hoàn
thiện khung khổ pháp lý: Việc tiếp tục hoàn thiện pháp luật nói chung và khung khổ
pháp luật kinh tế nói riêng theo hướng mọi công dân, tổ chức được quyền làm
những gì pháp luật không cấm và Nhà nước đảm bảo khung pháp lý cho các hoạt

động đó là một đòi hỏi tất yếu. Giai đoạn 5 năm tới, nền kinh tế bước vào giai đoạn
hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới và khu vực, triển khai thực hiện các cam kết
song phương và đa phương về kinh tế, tạo nên một môi trường kinh doanh bình
đẳng, minh bạch, ổn định, thông thoáng trên cơ sở hệ thống pháp lý đầy đủ, ổn định
sẽ tạo điều kiện để các doanh nghiệp phát triển cả về số lượng và chất lượng, thu
hút thêm được mọi nguồn vốn cho đầu tư phát triển.
22

 Đẩy mạnh cải cách hành chính:
Mặc dù đã đạt được một số thành tựu bước đầu trong việc cải cách hành chính,
nhưng nhìn chung công tác hành chính ở nước ta vẫn tồn tại nhiều bất cập, năng lực
của bộ máy nhà nước vẫn là khâu yếu, chậm thay đổi nhất, thể hiện trên các mặt
như: nhận thức của bộ máy nhà nước nói chung chuyển biến không đồng đều giữa
Trung ương và địa phương, giữa các cơ quan cùng cấp có liên quan, và chậm hơn
nhiều so với những thay đổi của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và thực tiễn
phong phú, năng động trong mấy năm qua; thái độ và tâm lý làm việc, phương thức
và công cụ quản lý của các cơ quan có liên quan chưa có thay đổi một cách rõ nét
để phù hợp với cơ chế, chính sách mới; tính khoa học, chuyên môn, chuyên nghiệp
theo cơ chế thị trường trong các công việc của cơ quan nhà nước còn thấp; những
bộ phận và công cụ cần thiết đối với thực hiện Luật Doanh nghiệp nói riêng, hỗ trợ
và quản lý phát triển doanh nghiệp nói chung chưa được xây dựng, củng cố và tăng
cường đúng như quy định.
Đẩy mạnh việc nghiên cứu và áp dụng các biện pháp giảm chi phí khởi sự doanh
nghiệp đến mức cạnh tranh nhất so với các nước trong khu vực như tổ chức và
thường xuyên duy trì đối thoại trực tuyến với doanh nghiệp, qua đó doanh nghiệp
có thể nhận được những tham vấn về kinh doanh, nộp hồ sơ, thực hiện thủ tục hoàn
thuế và khai thác thông tin sơ cấp một cách nhanh và rẻ nhất; giảm nhẹ thủ tục đăng
ký kinh doanh thông qua việc thiết lập hệ thống nối mạng đăng ký kinh doanh toàn
quốc.
 Chính sách về tài chính:

Điều chỉnh hệ thống thuế phù hợp nhằm khuyến khích khởi sự doanh nghiệp,
khuyến khích phát triển kinh doanh nhỏ và tạo việc làm. Đồng thời, thực hiện đổi
mới chế độ kế toán, thống kê theo hướng đơn giản hoá, khuyến khích doanh nghiệp
tự kê khai và nộp thuế. Sửa đổi quy định về Thuế Giá trị gia tăng, Thuế Xuất nhập
khẩu theo hướng xác định các tiêu chí minh bạch, rõ ràng, phù hợp với các hiệp
định song phương và đa phương mà Việt Nam đã tham gia ký kết và các quy tắc của
hội nhập.
23

Thực hiện các chính sách phù hợp để cải thiện tình trạng thiếu mặt bằng sản
xuất, đồng thời bảo vệ môi trường. Trong khi nhiều DNNN được giao đất và sử
dụng không có hiệu quả, đất đai bỏ hoang hoặc sử dụng không đúng mục đích, thì
các DN (trong đó chủ yếu là doanh nghiệp thuộc khu vực tư nhân) lại gặp rất nhiều
khó khăn trong việc tìm kiếm mặt bằng kinh doanh với chi phí rất lớn. Ngay cả khi
doanh nghiệp có mặt bằng sản xuất thì việc lo đủ các thủ tục cần thiết để được cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, để có thể thế chấp, cầm cố cũng đòi hỏi phải
tốn nhiêu công sức và tiền bạc. Điều này đã góp phần hạn chế nguồn vốn đầu tư vốn
đã hạn hẹp của doanh nghiệp. Nhằm giải quyết vấn đề về mặt bằng cho sản xuất -
kinh doanh cho các doanh nghiệp, Luật Đất đai 2003 và các Nghị định hướng dẫn
của Chính phủ số 180/2004/NĐ-CP, 181/2004/NĐ-CP, 188/2004/NĐ-CP , đã quy
định một số vấn đề cụ thể. Nhưng đến nay, việc thực hiện các quy định của Luật
Đất đai 2003 và các Nghị định hướng dẫn đều đang được triển khai và cũng còn gặp
nhiều khó khăn. Để tạo điều kiện cho doanh nghiệp trong việc tiếp cận đất và có thể
sử dụng quyền sử dụng đất làm tài sản thế chấp, cầm cố vay vốn từ các tổ chức tín
dụng.
Nghiên cứu, ban hành các chính sách khuyến khích phát triển các quỹ dành cho
DN, tăng cường khả năng tiếp cận các nguồn vốn tín dụng cho các DN.
Trong khi các ngân hàng thương mại đều cho rằng họ không thiếu vốn để cho vay,
nhưng có rất nhiều DN không thể xây dựng kế hoạch khả thi thuyết phục được ngân
hàng cho vay vốn. Còn các doanh nghiệp thì lại cho rằng họ rất khó khăn trong việc

tiếp cận vay vốn tín dụng. Vấn đề ở đây là cung và cầu chưa gặp nhau và vai trò của
Nhà nước là hỗ trợ tạo điều kiện để cung và cầu về tiền cho sản xuất - kinh doanh
gặp được nhau. Cụ thể là: Về phía DN, Nhà nước hỗ trợ đào tạo cho doanh nghiệp
có khả năng lập được những kế hoạch kinh doanh có tính khả thi để thuyết phục các
ngân hàng cho vay vốn; khuyến khích các doanh nghiệp cùng góp vốn hình thành
các quỹ tự giúp nhau… Về phía ngân hàng, Nhà nước cần nghiên cứu áp dụng
chính sách ưu đãi, bảo đảm lợi nhuận mà các ngân hàng thương mại thu được từ
khoản vay của các khách hàng là DN.
24

Xúc tiến phổ biến thông tin, kỹ thuật - công nghệ tới các DN,, cũng như nâng
cao năng lực của các doanh nghiệp này trong việc xác định, lựa chọn và thích ứng
với công nghệ.Thiếu thông tin đang là một trong những rào cản lớn cho việc phát
triển và nâng cao năng lực cạnh tranh của các DN. Vì vậy, trong kỳ kế hoạch tới,
chúng ta cần tập trung mọi nguồn lực cần thiết cho việc thiết lập hệ thống thu thập
và xử lý thông tin hỗ trợ doanh nghiệp. Bên cạnh đó, cần khuyến khích việc hợp tác
và chia sẻ công nghệ giữa các doanh nghiệp có quy mô khác nhau, phát triển có
hiệu quả các chương trình nghiên cứu có khả năng ứng dụng thương mại, khuyến
khích phát triển mô hình liên kết giữa các viện nghiên cứu, trường đại học, trường
kỹ thuật với doanh nghiệp.
 Khuyến khích các DN tham gia vào các liên kết ngành ở mọi cấp và hỗ trợ
phát triển các hiệp hội doanh nghiệp. Nhìn chung, trên thế giới việc liên kết doanh
nghiệp luôn được đề cập dưới các hình thức là hiệp hội doanh nghiệp, liên kết chùm
(cluster) Tuy nhiên, ở Việt Nam cả 2 hình thức này mới chỉ phát triển ở mức hạn
chế và hiệu quả hoạt động chưa cao. Do đó, cần có những chính sách phù hợp hơn
để khuyến khích phát triển các hiệp hội theo hướng trợ giúp đào tạo cán bộ hội; các
Bộ, cơ quan ngang Bộ hướng dẫn, tạo điều kiện thuận lợi để các hội tham gia các
hoạt động thuộc ngành, lĩnh vực quản lý của Bộ theo quy định của pháp luật, tổ
chức lấy ý kiến của hội để hoàn thiện các quy định quản lý nhà nước về ngành, lĩnh
vực; trợ giúp phát triển các chùm công nghiệp trong các ngành công nghiệp phụ trợ;

khuyến khích phát triển liên kết giữa DN với các tổ chức nghiên cứu và giáo dục có
trình độ phát triển cao thông qua chính sách trợ giúp phù hợp.
 Thực hiện trợ giúp có trọng điểm để tăng cường khả năng cạnh tranh của một
số ngành hàng mà Việt Nam có lợi thế. Theo kinh nghiệm của nhiều nước, vì tất cả
các Chính phủ đều có nguồn ngân sách hạn chế, trong khi nhu cầu trợ giúp của các
doanh nghiệp nói chung và DN nói riêng là rất lớn và nhìn chung đều vượt quá khả
năng của Chính phủ. Trong mỗi giai đoạn nhất định, mỗi quốc gia đều lựa chọn một
số lĩnh vực mà quốc gia mình có lợi thế để tập trung phát triển. Đối với Việt Nam,
trong điều kiện rất hạn chế về tài chính cho hoạt động trợ giúp DN, chúng ta càng
25

phải kiên định với nguyên tắc trợ giúp có trọng điểm, có thể việc trợ giúp chỉ thực
hiện được với một số ít doanh nghiệp, nhưng đảm bảo rằng sau khi nhận được sự
trợ giúp, doanh nghiệp đó có thể có được khả năng cạnh tranh. Hoạt động trợ giúp
DN cần tránh xu hướng chia đều và sự trợ giúp mà mỗi doanh nghiệp nhận được
đều không giải quyết được khó khăn của doanh nghiệp như chúng ta đã làm trước
đây
 Khuyến khích phát triển thị trường dịch vụ phát triển kinh doanh theo định
hướng của nền kinh tế thị trường, tách chức năng trực tiếp cung cấp dịch vụ ra khỏi
chức năng quản lý nhà nước của các cơ quan quản lý nhà nước. Để đạt được mục
tiêu phát triển các DN cần thực hiện các bước đi phù hợp để khuyến khích phát triển
thị trường dịch vụ phát triển kinh doanh (cả về phía cung tức là khuyến khích phát
triển các doanh nghiệp, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực tư vấn, đào tạo… và phía
cầu tức là tuyên truyền, tạo cho các doanh nghiệp, cá nhân trong xã hội có thói quen
sử dụng các dịch vụ tư vấn); từng bước tách chức năng trực tiếp cung cấp dịch vụ ra
khỏi chức năng quản lý nhà nước. Các cơ quan nhà nước sẽ hoàn toàn tập trung vào
việc xây dựng chính sách và thực hiện vai trò xúc tiến, hỗ trợ, giám sát và quản lý
chất lượng các dịch vụ cung cấp trên thị trường.
 Phát triển văn hoá doanh nghiệp, văn hoá kinh doanh, khuyến khích khởi sự
doanh nghiệp. Nhằm khơi gợi tinh thần kinh doanh, phát triển nền văn hoá doanh

nghiệp, cần thiết phải triển khai các hoạt động tuyên truyền, giáo dục, phổ biến tinh
thần doanh nghiệp, ý chí kinh doanh và làm giàu tới mọi đối tượng, đặc biệt là thí
điểm thực hiện việc đưa các bài học về kinh doanh vào chương trình học ở trường
phổ thông, đại học, dạy nghề; đẩy mạnh triển khai trợ giúp đào tạo khởi sự doanh
nghiệp.
Khi nền kinh tế thị trường càng phát triển, đòi hỏi các doanh nghiệp, các doanh
nhân phải có đạo đức trong kinh doanh, có những hiểu biết về pháp luật, có ý thức
tuân thủ pháp luật, có trách nhiệm với toàn xã hội,… Những cái đó được coi là văn
hoá kinh doanh. Ở Việt Nam hiện nay, bên cạnh một bộ phận doanh nghiệp tuy hiểu
biết về pháp luật nhưng vẫn cố tình vi phạm, thì vẫn còn diễn ra tình trạng một số

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×