Tải bản đầy đủ (.doc) (206 trang)

38 luan van bao cao sự vận động của quan hệ nga mỹ sau chiến tranh lạnh và ảnh hưởng của quan hệ đó đến việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (872.06 KB, 206 trang )

Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong lịch sử loài người, Ýt nhất từ thời cận đại, các nước lớn, các
cường quốc từng đóng vai trò quyết định trật tự thế giới và chi phối hệ thống
các quan hệ quốc tế (QHQT). Đường hướng vận động, phát triển của lịch sử
thế giới phụ thuộc chủ yếu vào tham vọng và lợi Ých chiến lược của các nước
lớn, vào sự hoà hoãn hoặc chiến tranh giữa các nước lớn. Thời kỳ chiến tranh
lạnh, Liên Xô và Mỹ đã tồn tại với tư cách hai siêu cường đứng đầu hai hệ
thống chính trị - xã hội đối lập, kiềm chế, chi phối lẫn nhau, đồng thời chi
phối đời sống chính trị thế giới và hệ thống các QHQT. Cuộc chiến tranh lạnh
kéo dài hơn bốn thập niên đó đã đặt cả thế giới vào tình trạng đối đầu căng
thẳng và thù địch.
Đến đầu thập niên 90 của thế kỷ 20, do tác động của hàng loạt các
nhân tố chủ quan và khách quan, bên trong và bên ngoài, cuộc chiến tranh
lạnh kết thúc, Liên Xô và trật tự thế giới hai cực tan rã. Từ thời điểm này,
cộng đồng các quốc gia - dân téc vận động và phát triển trong một hoàn cảnh
lịch sử rất mới và rất khác thời kỳ chiến tranh lạnh, vừa tạo ra những cơ hội,
vừa đặt ra những thách thức mới đối với họ. Tình hình thế giới sau chiến
tranh lạnh diễn biến phức tạp, diện mạo một trật tự thế giới mới thay cho trật
tự hai cực đã tan rã vẫn chưa định hình. Sau mấy thập niên chiến tranh lạnh,
một mặt các nước lớn nhỏ đều muốn có môi trường quốc tế hòa bình, ổn định
để phát triển, nên nhìn chung đều điều chỉnh chiến lược, chính sách đối ngoại
theo hướng tránh đối đầu, tăng cường hợp tác, liên kết, hội nhập trên các tầng
nấc khác nhau. Mặt khác, các nước - trước hết là các nước lớn - còng cạnh
tranh gay gắt với nhau nhằm giành giật vai trò, vị trí có lợi nhất cho mình
trong trật tự thế giới mới đang hình thành. Động thái quan hệ giữa các nước
lớn diễn ra hết sức phức tạp, chứa đầy những yếu tố khó lường. Trong khi đó,
1
các nước lớn và quan hệ giữa các nước lớn thời kỳ sau chiến tranh lạnh vẫn
đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong đời sống chính trị - xã hội loài người.
Quan hệ giữa Nga và Mỹ - với tư cách là quan hệ giữa hai nước lớn -


không nằm ngoài tình hình chung đó. Song quan hệ Nga - Mỹ là cặp quan hệ có
những nét đặc thù. Không chỉ trong thời kỳ chiến tranh lạnh, hiện nay quan hệ
Nga - Mỹ, bất luận những biến thiên của lịch sử, vẫn là cặp quan hệ chủ chốt,
đóng vai trò rất quan trọng trong hệ thống các QHQT. Sự vận động của quan
hệ Nga - Mỹ sau chiến tranh lạnh, dù theo hướng nào, cũng tác động lớn đến
cục diện thế giới, đến đời sống chính trị và an ninh thế giới. Tuy nhiên, quan
hệ giữa Nga và Mỹ thời kỳ sau chiến tranh lạnh diễn biến khá phức tạp, phản
ánh rõ nét nhất, điển hình nhất thực trạng quan hệ giữa các nước lớn hiện nay.
Do vậy, việc nghiên cứu làm rõ thực trạng quan hệ giữa hai nước lớn Nga - Mỹ
thực sự hữu Ých, thực sự cần thiết đối với tất cả các nước lớn nhỏ. Hơn nữa,
việc nghiên cứu đó không chỉ nhằm xác định diện mạo của một mối quan hệ
cụ thể giữa hai nước lớn, mà còn góp phần làm sáng tỏ hơn một số vấn đề lý
luận đặt ra trong quan hệ giữa các nước lớn và giữa các nước lớn với các
nước nhỏ nói chung trong thời kỳ quá độ từ trật tự thế giới hai cực sang trật tự
thế giới mới.
Do điều kiện lịch sử đặc biệt của mình, hơn nửa thế kỷ qua Việt Nam
luôn nằm trong toan tính chiến lược của các nước lớn như Pháp, Mỹ, Liên Xô,
Trung Quốc, Nhật Bản. Những nước lớn đó, nhất là Liên Xô và Mỹ, đã có
những tác động rất lớn, cả hai chiều tích cực và tiêu cực, đến sự nghiệp đấu
tranh vì hòa bình, độc lập dân téc của nhân dân Việt Nam. Liên Xô tan rã, chế
độ xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở Liên Xô bị thủ tiêu làm thay đổi tương quan
lực lượng trên trường quốc tế từ trạng thái cân bằng sang có lợi cho Mỹ và các
nước tư bản chủ nghĩa (TBCN) phát triển. Quan hệ giữa Nga - đã từng là đồng
minh chiến lược của Việt Nam, và Mỹ - đã từng là đối thủ chiến lược của Việt
Nam, dù vận động, phát triển theo hướng nào (hòa hoãn, hợp tác hay căng thẳng,
xung đột) thì cũng đều ảnh hưởng đến nước ta với tư cách là một nước nhỏ, có
2
lợi Ých chiến lược là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội (CNXH). Thực
tiễn quan hệ giữa Nga và Mỹ từ sau khi chiến tranh lạnh kết thúc cho thấy
Việt Nam đã và sẽ còn phải chịu sức Ðp và ảnh hưởng qua lại của quan hệ

Nga - Mỹ. Thực tế này đặt ra nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn cấp thiết của
chính sách đối ngoại Việt Nam trong quan hệ với Nga và Mỹ. Việc nghiên cứu
sự vận động của quan hệ Nga - Mỹ sau chiến tranh lạnh và ảnh hưởng của
quan hệ đó đến Việt Nam không chỉ nhằm rót ra những bài học kinh nghiệm
cần thiết nhằm thúc đẩy quan hệ Việt - Nga và Việt - Mỹ, mà còn cung cấp
những luận cứ khoa học góp phần đưa phương châm đối ngoại cân bằng trong
quan hệ với các nước lớn vào thực tiễn hoạt động đối ngoại cho sát đúng với
từng nước lớn cụ thể.
Vì tất cả những lẽ đó, Nghiên cứu sinh đã chọn đề tài "Sự vận động
của quan hệ Nga - Mỹ sau chiến tranh lạnh và ảnh hưởng của quan hệ đó
đến Việt Nam" làm đề tài luận án.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Quan hệ giữa Nga và Mỹ không phải là một đề tài mới mẻ đối với giới
nghiên cứu ở nước ngoài, nhất là ở Nga và Mỹ. Các vấn đề như vai trò, vị thế
quốc tế của các nước lớn hiện nay và trong tương lai, chính sách đối ngoại
của Nga và của Mỹ, quan hệ Nga - Mỹ trong các lĩnh vực chính trị - đối
ngoại, kinh tế - thương mại, ... đã được Ýt nhiều đề cập trong nhiều công trình
nghiên cứu khác nhau của các tác giả nước ngoài. Trong các công trình này,
đáng chú ý là các cuốn sách: "Sự đảo lộn của thế giới địa - chính trị thế kỷ
XXI" của Maridôn Tuareno (Pháp); "Mỹ thay đổi lớn chiến lược toàn cầu" của
Lý Thực Cốc (Trung Quốc); "Hưng thịnh và suy vong của các cường quốc";
"Chuẩn bị cho thế kỷ XXI" của Pôn Kennơđy (Mỹ); "Dự báo thế kỷ 21" của tập
thể các tác giả Trung Quốc; "Bàn cờ lớn" của Z. Brzezinski (Mỹ); "Sự biến
đổi" của A.Côdưrép (Nga); "Nước Nga hướng về châu Á" của M. L. Titarencô,
v.v.. Ngoài ra, nhiều bài viết đề cập đến các khía cạnh cụ thể của đề tài đã được
3
đăng tải trên các Ên phẩm chuyên ngành của Nga như các tạp chí: Kinh tế thế
giới và QHQT; Mỹ: Kinh tế, Chính trị, Tư tưởng; Sinh hoạt quốc tế; Tư tưởng tự
do; Báo Độc lập, v.v.. Trong các Ên phẩm này, đáng chú ý nhất là tờ tạp chí
rất có uy tín, chuyên nghiên cứu về Mỹ ở Nga, tờ "Mỹ: Kinh tế, Chính trị, Tư

tưởng" (ra đời từ tháng 1 năm 1970, đến tháng 1 năm 1999 đổi tên là "Mỹ -
Canada: Kinh tế, Chính trị, Văn hóa"). Đây là tờ tạp chí đã nhiều năm liền
đăng tải các bài viết, các công trình nghiên cứu của nhiều học giả có tiếng
tăm, có bề dày nghiên cứu về Mỹ, về chính sách đối ngoại của Mỹ, về quan
hệ Nga - Mỹ, như S. Rôgốp, G. Trôfimencô, B. Krêmenhúc, A. Ótkin, T.
Saklêina, v.v.. Đặc biệt, các bài viết của S. Rôgốp đăng trên các số 3/1995,
10/1996, 11/1997, 2/1998, 7 và 8/1998, 2/2000 của Tạp chí trên và một số Ên
phẩm khác như Tạp chí Tư tưởng tự do, Báo Độc lập, đã phác họa những
đường nét cơ bản, những thăng trầm của quan hệ Nga - Mỹ qua các giai đoạn
khác nhau thời kỳ sau chiến tranh lạnh. Tác giả chỉ ra những kết quả hợp tác
đã đạt được, cũng như những mâu thuẫn, xung đột lợi Ých trong quan hệ Nga
- Mỹ, nhấn mạnh ý đồ của Mỹ kiềm chế Nga khôi phục ảnh hưởng chính trị -
an ninh trên trường quốc tế.
Ngoài các công trình của các tác giả Nga, các bài nghiên cứu liên quan
đến đề tài của các tác giả Mỹ như M. Manđenbaum, Aron Leon, G. Duglac, ...
còng được đăng tải trên các Ên phẩm chuyên ngành kể trên của Nga. Tuy
nhiên, cách nhìn nhận, sự đánh giá các vấn đề như chiến lược đối ngoại của
Nga, của Mỹ, quan hệ Nga - Mỹ, v.v. không phải luôn luôn có sự thống nhất
giữa các tác giả Nga, giữa các tác giả Mỹ với nhau, cũng như giữa các tác giả
Nga và các tác giả Mỹ. Thực tế này đòi hỏi nghiên cứu sinh phải biết kế thừa
có chọn lọc công trình nghiên cứu của các học giả nước ngoài, và chỉ trên cơ
sở xem xét các sự vật, hiện tượng lịch sử một cách khách quan, chân thực và
bằng phương pháp luận mácxít thì mới có thể đưa ra sự đánh giá xác đáng về
những vấn đề thuộc đề tài nghiên cứu.
4
Ở Việt Nam, cũng đã có một số công trình nghiên cứu tập thể và cá
nhân Ýt nhiều đề cập đến chiến lược, chính sách đối ngoại của Mỹ, của Nga,
quan hệ Mỹ - Việt, quan hệ Nga - Việt. Trong số các công trình này, đáng chú
ý là các bài viết, sách tham khảo, đề tài khoa học của một số cơ quan nghiên
cứu các vấn đề quốc tế như: Trung tâm nghiên cứu châu Âu, Trung tâm nghiên

cứu Bắc Mỹ, Học viện QHQT (Bộ ngoại giao), Viện QHQT (Học viện CTQG
Hồ Chí Minh), các tạp chí chuyên ngành về QHQT, v.v.. Cố học giả Lê Bá
Thuyên với đề tài luận án PTS Lịch sử "Chiến lược toàn cầu của Mỹ và tác động
của nó trong quan hệ quốc tế hiện nay" (bảo vệ năm 1995); cuốn sách "Hoa
Kỳ: cam kết và mở rộng", Nxb KHXH, Hà Nội, 1997; cũng như một số bài
viết của tác giả về chiến lược, chính sách đối ngoại của Mỹ đăng trên các tạp
chí chuyên ngành là những công trình có tính chất chuyên sâu nhất về đề tài này.
Còn việc nghiên cứu quan hệ Nga - Mỹ ở Việt Nam thì thực sự chỉ mới ở giai
đoạn ban đầu, số lượng các bài viết về chủ đề này rất hạn chế. Hơn nữa, các
công trình được công bố về quan hệ Nga - Mỹ mới chỉ dừng lại ở việc mô tả
thực trạng quan hệ Nga - Mỹ ở một vài lĩnh vực, chưa có tính hệ thống và
khái quát.
Chủ đề quan hệ Việt - Nga và Việt - Mỹ giành được sự quan tâm
nhiều hơn từ các nhà nghiên cứu Việt Nam. Trong số các công trình nghiên
cứu về các chủ đề này, đáng chú ý là các cuốn sách "Quan hệ kinh tế Việt
Nam - Liên bang Nga: Thực trạng và triển vọng" (Nxb KHXH, Hà Nội, 1995);
"Về mối quan hệ giữa Việt Nam - Liên bang Nga trong giai đoạn hiện nay"
(Nxb CTQG, Hà Nội, 1997); "Quan hệ kinh tế Việt Nam - Hoa Kỳ" (Nxb Thế
giới, Hà Nội, 2000). Đây là những công trình công phu của các tập thể tác giả
và cá nhân về sự vận động khá phức tạp của các cặp quan hệ Nga - Việt và
Mỹ - Việt từ sau khi Liên Xô tan rã. Song do phạm vi nghiên cứu đặt ra, nên
quan hệ Nga - Việt và Mỹ - Việt chưa được xem xét từ góc độ quan hệ giữa các
nước lớn và một nước nhỏ trong bối cảnh thế giới mới sau chiến tranh lạnh.
Đặc biệt ảnh hưởng của quan hệ Nga - Mỹ với tư cách là quan hệ giữa hai
5
nước lớn, đến Việt Nam, với tư cách là một nước nhỏ, trong thời kỳ sau chiến
tranh lạnh, hầu như chưa được nghiên cứu cả ở các nước ngoài cũng như ở Việt
Nam.
Tình hình nghiên cứu các vấn đề liên quan đến đề tài luận án ở nước
ngoài và Việt Nam cho thấy sự cần thiết phải có một công trình nghiên cứu

toàn diện, có hệ thống và sâu sắc hơn về đề tài này.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận án
Mục đích nghiên cứu của luận án là góp phần làm rõ thực chất sự vận
động của quan hệ giữa Liên bang Nga (LB Nga) và Hợp chủng quốc Hoa Kỳ,
trên cơ sở đó nêu lên ảnh hưởng của mối quan hệ này đến Việt Nam trong bối
cảnh thế giới đã và đang thay đổi thời kỳ sau chiến tranh lạnh.
Để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ nghiên cứu chủ yếu của luận
án là:
- Khái quát lịch sử quan hệ Xô - Mỹ thời kỳ chiến tranh lạnh, đặc biệt
là sự điều chỉnh chiến lược, chính sách đối ngoại của Nga và của Mỹ trong
thập niên 90.
- Phân tích thực trạng vận động của quan hệ giữa Nga và Mỹ trong các
lĩnh vực chủ yếu là chính trị - an ninh, kinh tế - thương mại, khoa học - kỹ
thuật, đồng thời nêu ra một số dự báo về triển vọng của mối quan hệ này.
- Phân tích ảnh hưởng của quan hệ Nga - Mỹ đến Việt Nam trong sự
tương tác giữa các cặp quan hệ của tam giác Nga - Mỹ - Việt, từ đó nêu một
số kiến nghị nhằm thực hiện thành công chính sách đối ngoại với các nước
lớn nói chung, với Nga và Mỹ nói riêng.
Phạm vi nghiên cứu của luận án:
- Về mặt thời gian: Sù vận động của quan hệ Nga - Mỹ và ảnh hưởng
của quan hệ Nga - Mỹ đến Việt Nam được nghiên cứu chủ yếu từ sau khi
Liên Xô tan rã đến cuối thập niên 90 của thế kỷ XX.
6
- Về mặt nội dung: Luận án đặt trọng tâm ở việc phân tích thực trạng
quan hệ Nga - Mỹ trong thập niên 90 và triển vọng của mối quan hệ đó trước
hết trên lĩnh vực chính trị - an ninh.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận án được thực hiện trên cơ sở lý luận và phương pháp luận
mácxít. Trong quá trình nghiên cứu và xử lý tài liệu tham khảo, luận án quán
triệt phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về thời đại và quan hệ giữa

các quốc gia - dân téc; về hòa bình và cùng tồn tại hòa bình giữa các nước có
chế độ chính trị - xã hội khác nhau; tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết, hợp
tác quốc tế, v.v.. Luận án bám sát các quan điểm đánh giá tình hình quốc tế và
khu vực của Đảng cộng sản Việt Nam được thể hiện trong các văn kiện từ Đại
hội VI đến nay, coi đây là nguồn cung cấp những căn cứ lý luận, định hướng
tư tưởng trong nghiên cứu một đề tài vào loại khó và nhạy cảm.
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu của luận án là phương pháp lịch sử
và phương pháp logic. Các phương pháp khác như phân tích và tổng hợp, so
sánh và đối chiếu, thống kê, v.v. được sử dụng như là những phương pháp hỗ
trợ cần thiết cho hai phương pháp chủ yếu nêu trên.
5. Những điểm mới về khoa học của luận án
- Nghiên cứu tương đối toàn diện và có hệ thống sự vận động của
quan hệ Nga - Mỹ từ sau khi Liên Xô tan rã đến cuối thập niên 90, trên cơ sở
đó bước đầu làm rõ tính chất quan hệ giữa các nước lớn và vai trò của các
nước lớn nói chung trong thời kỳ quá độ từ trật tự thế giới hai cực sang trật tự
thế giới mới.
- Luận án đưa ra một số đánh giá bước đầu về ảnh hưởng của quan hệ
Nga - Mỹ đến Việt Nam, từ đó nêu một số kiến nghị nhằm xử lý đúng đắn các
mối quan hệ giữa Việt Nam với từng nước lớn cụ thể.
- Góp phần luận giải và làm sáng tỏ thêm chính sách đối ngoại độc lập
tự chủ, phương châm cân bằng trong quan hệ với các nước lớn của Việt Nam.
7
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Luận án có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu,
giảng dạy và học tập, cũng như cho những ai quan tâm đến vấn đề này.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài danh mục các công trình khoa học của tác giả, tài liệu tham khảo,
luận án có 184 trang, gồm phần mở đầu, 3 chương với 8 tiết và phần kết luận.
8
Chương 1

SỰ ĐIỀU CHỈNH CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA NGA VÀ MỸSAU
CHIẾN TRANH LẠNH
sau ChiÕn tranh l¹nh
Chiến tranh lạnh, theo định nghĩa của các nhà ngôn ngữ học, là "tình
trạng căng thẳng và không khí thù địch của một nước này gây ra đối với một
nước khác". Song cuộc chiến tranh lạnh mà giới cầm quyền Mỹ phát động sau
chiến tranh thế giới thứ hai và kết thúc vào đầu thập niên 90 là cuộc chiến
tranh chưa từng có tiền lệ trong lịch sử. Tình trạng đối đầu căng thẳng và thù
địch giữa hai cường quốc đứng đầu thế giới - Liên Xô và Mỹ - đã chi phối
toàn bộ hệ thống QHQT và là nguyên nhân gây nên hàng loạt cuộc "chiến
tranh nóng" cục bộ. Hiện nay chiến tranh lạnh xét trên bình diện toàn cầu đã
kết thúc, song ở nơi này nơi kia vẫn có biểu hiện tiếp diễn, và hệ thống
QHQT hiện nay không khỏi không chịu những hệ quả của nó. Quan hệ Nga -
Mỹ sau chiến tranh lạnh là mối quan hệ tiếp nối quan hệ Xô - Mỹ trước đây,
tất nhiên tính chất quan hệ khác hơn nhiều. Do vậy, trước khi khảo sát quan
hệ Nga - Mỹ sau chiến tranh lạnh, chúng tôi trình bày khái lược lịch sử quan
hệ Xô - Mỹ thời kỳ chiến tranh lạnh.
1.1. KHÁI LƯỢC LỊCH SỬ QUAN HỆ XÔ - MỸ THỜI KỲ CHIẾN
TRANH LẠNH
Tháng Mười năm 1917, cuộc Cách mạng "Mười ngày rung chuyển thế
giới" thành công ở nước Nga, cho ra đời một Nhà nước kiểu mới - Cộng hòa
XHCN Xô viết LB Nga. Ngay từ sau Cách mạng tháng Mười, Cộng hòa
XHCN Xô viết LB Nga và sau đó là Liên bang CHXHCN Xô viết đã kiên trì
cuộc đấu tranh nhằm thiết lập quan hệ chính trị và kinh tế - thương mại với
Mỹ nói riêng, các nước khác nói chung, theo nguyên tắc được V.I.Lênin khởi
9
xướng về cùng tồn tại hòa bình giữa các nước có chế độ chính trị - xã hội
khác nhau. Song nếu như từ những năm 1924 - 1925, nhiều nước, trong đó có
các nước TBCN lớn như Anh, Pháp, Italia đã chính thức công nhận và thiết lập
quan hệ ngoại giao với Liên Xô, thì Mỹ là cường quốc duy nhất trong thập

niên 20 không thiết lập quan hệ với Liên Xô. Phải trải qua một quá trình đấu
tranh lâu dài của chính quyền Xô viết, và do tác động của rất nhiều nhân tố
khác nữa, mà tới tháng 11 năm 1933, Liên bang Xô viết và Hợp chủng quốc
Hoa Kỳ mới chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao. Cũng từ đây bắt đầu một
giai đoạn mới trong quan hệ ngoại giao giữa hai cường quốc, về sau là hai
siêu cường đứng đầu hai hệ thống chính trị - xã hội đối lập trong QHQT thế
kỷ XX.
Từ khi chính thức công nhận lẫn nhau và thiết lập quan hệ ngoại giao,
quan hệ Xô - Mỹ vận động hoàn toàn không đơn giản trong tất cả các lĩnh vực
chính trị - quân sự, kinh tế - thương mại, văn hóa - khoa học - công nghệ.
1.1.1. Quan hệ Xô - Mỹ trong lĩnh vực chính trị - quân sự
Vào cuối những năm 30, trong bầu không khí nóng bỏng của QHQT
do việc hình thành ba lò lửa chiến tranh thế giới và do bản chất của chủ nghĩa
đế quốc, nhìn chung Mỹ thực hiện "chính sách trung lập", "không can thiệp",
thực chất là âm mưu mượn tay người khác đánh nhau để đứng giữa trục lợi.
Chính H.Truman (lúc đó là Thượng nghị sĩ, đến 4/1945 là Tổng thống Mỹ),
ngay sau khi Đức tấn công Liên Xô, đã tuyên bố trắng trợn: "Nếu chúng ta
thấy Đức sẽ thắng thì chúng ta phải giúp Nga, còn nếu Nga sẽ thắng thì chúng
ta phải giúp Đức, và như vậy, mặc cho họ giết hại lẫn nhau càng nhiều càng
tốt" [113, tr. 435]. Chỉ khi phát xít Đức, Italia đã thôn tính nhiều nước ở châu
Âu, châu Phi, còn Nhật đánh chiếm Trân Châu, gây cho Mỹ những tổn thất
nặng nề, lợi Ých và an ninh Mỹ bị đe dọa, thì Mỹ mới tham chiến, cùng Liên
Xô và một số nước khác thành lập Mặt trận đồng minh chống phát xít
(1/1/1942). Sau đó Mỹ và Liên Xô ký Hiệp ước Xô - Mỹ về những nguyên tắc
10
tương trợ trong quá trình chiến tranh chống xâm lược (11/7/1942). Những
hành động đối ngoại này của hai nước đã góp phần tạo những biến chuyển
tích cực, có ý nghĩa to lớn trong việc đoàn kết và hợp tác chiến đấu giữa Liên
Xô và Mỹ nói riêng, các lực lượng chống phát xít nói chung trên toàn thế giới
để đánh bại chủ nghĩa phát xít.

Chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc với chiến thắng của Liên Xô
và các nước trong khối Đồng minh đã mở ra một thời kỳ mới trong QHQT
hiện đại, dẫn đến những biến chuyển sâu sắc trong đời sống chính trị thế giới.
Trong khối Đồng minh chống phát xít, Mỹ là nước duy nhất không những
không bị chiến tranh tàn phá, mà còn lợi dụng được chiến tranh để làm giàu
nhanh chóng. Với sức mạnh kinh tế đi đôi với sức mạnh quân sự, nhất là sự
độc quyền vũ khí hạt nhân, Mỹ trở thành một cường quốc hùng mạnh. Đây là
một trong những nhân tố cơ bản thúc đẩy tham vọng bá chủ toàn cầu của Mỹ.
Tổng thống Mỹ H.Truman trong diễn văn đọc ngày 6 tháng 4 năm 1946 đã
khẳng định: "Ngày nay Hoa Kỳ là một quốc gia mạnh, không có một quốc gia
nào mạnh hơn... Điều đó có nghĩa là với sức mạnh như thế chúng ta có nghĩa
vụ nắm quyền lãnh đạo thế giới..." [89, tr.119].
Tuy nhiên, tham vọng bá chủ thế giới của Mỹ đã gặp phải những cản
trở rất lớn. Vốn là nước đi tiên phong trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa
đế quốc, Liên Xô bước ra khỏi Đại chiến thế giới lần thứ hai với uy tín quốc
tế đã tăng cao. Nhà nước XHCN đầu tiên trên thế giới đã tỏ rõ sức mạnh của
mình trên thực tế, trở thành trụ cột của phong trào cách mạng thế giới. Ngoài
Liên Xô, một loạt Nhà nước dân chủ nhân dân ở Đông Âu và châu Á đã được
thành lập, lùa chọn con đường đi lên CNXH. Hệ thống XHCN thế giới dần
dần được hình thành và củng cố. Cùng với sự lớn mạnh của hệ thống XHCN
thế giới, phong trào giải phóng dân téc, phong trào công nhân ở các nước
thuộc địa và TBCN cũng phát triển mạnh, tạo thành những dòng thác lớn tấn
công vào dinh lũy của hệ thống ĐQCN thế giới. Như vậy, sau chiến tranh thế
11
giới thứ hai, tương quan lực lượng trên trường quốc tế thay đổi không có lợi
cho Mỹ.
Để thủ tiêu những lực cản đó (mà lực cản lớn nhất là Liên bang Xô viết),
Mỹ đã dùng mọi phương sách, biện pháp, thủ đoạn ngoại giao để, thứ nhất, lôi
kéo, tập hợp lực lượng chống lại Liên Xô và ngăn chặn ảnh hưởng của CNCS.
Thứ hai, Mỹ bắt đầu công khai thực hiện một chính sách đối ngoại thù địch

với Liên Xô trong tất cả các lĩnh vực, trước hết là lĩnh vực chính trị - đối ngoại.
Trên cơ sở một học thuyết do G.Kennan, Chủ tịch ủy ban vạch chính
sách đối ngoại của Chính phủ, cựu đại sứ Mỹ tại Liên Xô đề ra, Tổng thống
Mỹ H.Truman tháng 3 năm 1947 đã cho ra đời một học thuyết đối ngoại
mang tên "Học thuyết Truman". Nội dung cơ bản của Học thuyết Truman là
Mỹ phải đảm trách sứ mệnh lãnh đạo thế giới tự do, phải bằng mọi biện pháp
kinh tế, quân sự để giúp đỡ, trước mắt là Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ, sau nữa là
các dân téc trên thế giới chống lại sự đe dọa của chủ nghĩa cộng sản (CNCS).
Nếu G.Kennan được coi là "kiến trúc sư" cho chiến lược "Chiến tranh lạnh",
thì diễn văn của thủ tướng Anh W.Sớcsin tại Phuntơn ngày 5/3/1946 và Học
thuyết Truman được coi là châm ngòi nổ cho cuộc "chiến tranh lạnh" chống
Liên Xô và CNCS. (Theo một số tài liệu, "chiến tranh lạnh" - cold war - là từ
do Barút, tác giả của kế hoạch nguyên tử lực của Mỹ ở LHQ đặt ra, xuất hiện
lần đầu trên báo Mỹ ngày 26/7/1947. Nhưng rất nhiều nhà nghiên cứu cho rằng
"chiến tranh lạnh" trên thực tế đã bắt đầu trước khi chiến tranh thế giới thứ hai
kết thúc, cụ thể là tại Hội nghị tam cường Mỹ - Anh - Xô tại Ianta tháng 2
năm 1945). Như vậy thế giới Phương Tây đứng đầu là đế quốc Mỹ đã chính
thức đề ra một chiến lược đối ngoại thù địch với Liên Xô và các nước XHCN.
"Đặc trưng tiêu biểu của chiến tranh lạnh là gây tình hình căng thẳng, đe dọa
dùng bạo lực, bao vây kinh tế, phá hoại chính trị, đẩy mạnh chạy đua vũ trang
và chuẩn bị chiến tranh, thành lập các khối liên minh xâm lược, tiến hành chiến
tranh tâm lý chống cộng" (Từ điển bách khoa Việt Nam, Tập 1, 1995, tr. 463).
12
Như vậy, với sự ra đời của Học thuyết Truman, mối quan hệ đồng
minh giữa Liên Xô với Mỹ và các nước Phương Tây trong Mặt trận Đồng
minh chống phát xít đã chấm dứt; bắt đầu một tình trạng đối đầu ngày càng
căng thẳng, quyết liệt giữa hai cường quốc Xô - Mỹ. Cuộc đối đầu Xô - Mỹ
gay gắt và toàn diện trở thành trục trung tâm của chính sách đối ngoại hai siêu
cường và là yếu tố cơ bản chi phối các mối QHQT trong suốt nhiều thập niên
kể từ sau chiến tranh thế giới thứ II. Các mối QHQT này được diễn đạt bằng

thuật ngữ "Trật tự hai cực Ianta" hay "Trật tự thế giới hai cực Xô - Mỹ" - mét
cực do Liên Xô đứng đầu, cực kia là Mỹ.
Để dễ bề tập hợp các lực lượng trên thế giới vào một mặt trận do Mỹ
đứng đầu chống Liên Xô, Mỹ đã ra sức thổi phồng mối đe dọa từ Liên Xô và
CNCS đối với "thế giới tự do", bắt đầu triển khai thực hiện chiến lược toàn
cầu "Ngăn chặn Liên Xô và chủ nghĩa cộng sản" (gọi tắt là "Chiến lược ngăn
chặn"). Tháng 6 năm 1947, Bộ trưởng ngoại giao Mỹ lúc đó là G.Macsan đưa
ra cái gọi là "Chương trình tái thiết châu Âu" hay "Kế hoạch Mácsan". Nội
dung chủ yếu của kế hoạch này là Mỹ sẵn sàng viện trợ quy mô lớn để phục
hồi nền kinh tế các nước châu Âu, để "tạo ra những điều kiện chính trị và xã
hội giúp cho các thể chế tự do có thể tồn tại". Song viện trợ theo "kế hoạch
Mácsan" chỉ được thực hiện với rất nhiều điều kiện nghiêm ngặt, được quy
định trong "Đạo luật viện trợ nước ngoài" mà Quốc hội Mỹ thông qua tháng 4
năm 1948. Có 16 nước, về sau thêm CHLB Đức, đã chấp nhận "Kế hoạch
Mácsan" của Mỹ.
Về quân sự, Mỹ đã sử dụng tối đa các ưu thế quân sự và sự độc quyền
vũ khí hạt nhân để lôi kéo các nước đồng minh lớn nhỏ vào các liên minh
quân sự song phương và đa phương. Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương
(North Atlantic Treaty Organisation - NATO) đã chính thức ra đời ngày
4/4/1949 tại Oasinhton. Việc thành lập NATO trước hết nhằm mục đích tăng
cường sức mạnh quân sự của Mỹ, biến NATO trở thành công cụ quan trọng
13
nhất để Mỹ thực hiện kế hoạch thống trị thế giới. Sự ra đời của NATO đã đẩy
lục địa châu Âu vào cuộc chạy đua vũ trang quy mô lớn và có thể dẫn tới
nguy cơ bùng nổ chiến tranh thế giới thứ ba. Đặc biệt, năm 1955, sau khi
được Mỹ và các nước Phương Tây tái vũ trang, được kế hoạch Mácsan phục
hồi kinh tế, CHLB Đức gia nhập khối NATO, trở thành bàn đạp chính của
cuộc chiến tranh lạnh chống Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu cũng như
phong trào giải phóng dân téc đang lan rộng trong tất cả các thuộc địa của Mỹ và
của các nước TBCN phát triển.

Ở châu Á, Mỹ đã từng bước biến Nhật Bản thành nước lệ thuộc Mỹ,
thành căn cứ quân sự khu vực Đông Bắc Á. Tháng 9/1951, với việc ký với
Nhật Hiệp ước hòa bình San Franxisco, Mỹ đã mở đường cho chủ nghĩa quân
phiệt Nhật ngóc đầu dậy. Đặc biệt, với việc ký Hiệp ước an ninh Mỹ - Nhật
(8/9/1951), Mỹ được phép bố trí các lực lượng vũ trang trên đất Nhật. Mặc dù
Mỹ - Nhật tuyên bố Hiệp ước này nhằm "duy trì hòa bình thế giới và an ninh
Viễn Đông", song thực chất đã chính thức hóa việc thiết lập các căn cứ quân
sự của Mỹ ở Nhật để trước hết phong tỏa, bao vây Liên Xô ở hướng châu Á -
Thái Bình Dương. Kể từ khi Hiệp ước an ninh Mỹ - Nhật được ký kết, Mỹ
thực tế đã sử dụng Nhật Bản phục vụ mục đích khống chế Liên Xô.
Ngoài Liên minh quân sù - chính trị Mỹ - Nhật, Mỹ còn thành lập các
liên minh quân sự song phương và đa phương khác ở khu vực: Mỹ - Philipin
(30/8/1951); Mỹ - Óc - NiuDilân (Hiệp ước an ninh Thái Bình Dương,
1/9/1951); Mỹ - Hàn Quốc (1/10/1953); Mỹ - Pakistan (19/5/1954); Mỹ - Đài
Loan (2/12/1954); nhất là khối SEATO (8/9/1954) gồm Mỹ, Anh, Pháp, Óc,
NiuDilân, Philippin và Thái Lan.
Như vậy, sau chiến tranh thế giới thứ II, Mỹ đã từng bước hình thành thế
trận liên hoàn với các cấp độ khác nhau từ châu Âu - Đại Tây Dương (CA-ĐTD)
sang châu Á - Thái Bình Dương (CA-TBD) với mục đích bao vây, phong tỏa,
14
kiềm chế, tiến tới tiêu diệt Liên Xô, ngăn chặn CNCS. Mỹ đã chi những
khoản tài chính khổng lồ cho ngân sách quân sự hàng năm và viện trợ quân sự
cho các nước thành viên khối NATO, SEATO và các đồng minh song phương
khác. Thực chất chiến lược toàn cầu "Ngăn chặn" của Mỹ không chỉ nhằm
chống Liên Xô, chống CNCS, mà còn thực hiện các mục tiêu phát triển nước
Mỹ hùng mạnh cả về kinh tế, quân sự và chính trị làm chỗ dùa để thực hiện
tham vọng bá chủ thế giới của Mỹ. Chiến lược "Ngăn chặn" đã được nhiều
lần điều chỉnh qua các đời Tổng thống Mỹ từ 1947 đến 1991, song mục tiêu
đối ngoại xuyên suốt là thống trị thế giới và tiêu diệt CNCS thì không hề thay
đổi.

Để đối phó lại âm mưu của các thế lực đế quốc hiếu chiến Phương
Tây đứng đầu là Mỹ, Liên Xô buộc phải tìm mọi cách tăng cường sức mạnh
chính trị - quân sự của mình. Một mặt, Liên Xô tập trung các nguồn lực xây
dựng quân đội hùng mạnh, nền quốc phòng hiện đại, nghiên cứu chế tạo được
vũ khí hạt nhân (năm 1949) để phá thế độc quyền vũ khí hạt nhân của Mỹ.
Mặt khác, Liên Xô tích cực triển khai kế hoạch xây dựng hệ thống an ninh tập
thể. Do châu Âu có vị trí địa - chính trị, địa - chiến lược quan trọng đối với
hòa bình, ổn định thế giới, cũng là nơi tập trung các lợi Ých sống còn của
Liên Xô và Mỹ, nên chính sách đối ngoại của Liên Xô nhìn chung rất chú
trọng châu Âu. Theo sáng kiến của ĐCS Liên Xô, tháng 9 năm 1947, tại
Vacsava (Ba Lan), đã diễn ra Hội nghị đại biểu các ĐCS Liên Xô, Bungari,
Hungari, Ba Lan, Rumani, Tiệp Khắc, Nam Tư, Pháp và Italia. Hội nghị
thông qua bản tuyên bố rằng thế giới lúc này đã chia thành hai phe: phe
ĐQCN do Mỹ đứng đầu và phe XHCN do Liên Xô đứng đầu. Hội nghị quyết
định thành lập cơ quan thông tin của một số ĐCS và công nhân với tên gọi
"Cục thông tin quốc tế" (KOMINFORM). Còn sau đó, để đối phó với khối
NATO, tháng 5/1955, tại Vacsava đã ra đời một Liên minh chính trị - quân sự
15
của Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu với việc ký kết Hiệp ước hữu nghị,
hợp tác và tương trợ Vacsava (gọi tắt là Hiệp ước Vacsava).
Cùng với sự tồn tại của khối NATO do Mỹ chi phối và chỉ huy, sù ra
đời của khối Vacsava do Liên Xô đứng đầu đã đẩy lục địa châu Âu đến một
cuộc đối đầu trực tiếp giữa hai khối chính trị - quân sự hùng mạnh nhất. Sự
đối đầu căng thẳng, cuộc chạy đua vũ trang quy mô lớn (từ vũ khí hạt nhân
chiến lược và chiến thuật đến vũ khí thông thường) giữa hai khối là biểu hiện
đặc trưng nhất của quan hệ Xô - Mỹ trong thời kỳ chiến tranh lạnh. Cuộc chạy
đua vũ trang đó đạt tới đỉnh cao vào những năm 70, khi hai bên cân bằng vũ
khí hạt nhân. Mỹ đã thiết lập hơn 2000 căn cứ quân sự với khoảng 1,5 triệu
quân đóng ở nước ngoài (trong tổng số 3.477.000 quân thường trực Mỹ). Liên
Xô cũng đưa hàng chục vạn quân đóng ở các nước khối Vacsava (tập trung ở

CHDC Đức), ở Mông Cổ và biên giới Xô - Trung [89, tr. 243].
Bảng 1.1: Tương quan vũ khí hạt nhân chiến lược
Đơn vị tính: chiếc
Khối
NATO
Khối
Vacsava
Tên lửa chiến lược ICBM
(loại đặt trên đất)
1.018 1.398
Tên lửa SLBM (loại đặt trên
tàu ngầm)
672 922
Máy bay chiến lược 518 160
Tàu ngầm chiến lược 36 62
Bảng 1.2: Tương quan vũ khí thông thường
Xe tăng Tàu chiến Đại bác
Trực
thăng tiêm
kích
Máy bay chiến
đấu
16
NATO (1990) 25.091 34.453 20.620 1.736 5.939
Vacsava (1989) 59.470 70.330 71.560 2.785 7.876
Trong đó Liên Xô 41.580 45.000 50.275 2.200 5.955
Các nước Đông Âu 17.890 25.330 21.285 585 1.921
Nguồn: Bảng 1.1 và 1.2: Dẫn theo C. M. Rôgốp, "Nga và Mỹ trước
ngưỡng cửa thế kỷ 21", Tạp chí Tư tưởng tự do, sè 5/97 (Tiếng Nga), tr. 95.
Ngoài ra, sự đối đầu giữa hai cực Xô - Mỹ còn biểu hiện qua các cuộc

chiến tranh nóng cục bộ giữa các đồng minh của Mỹ, một bên, với các đồng
minh của Liên Xô, một bên khác. Hàng loạt cuộc chiến tranh khu vực ở nhiều
nơi trên thế giới (Trung Đông, Đông Dương, bán đảo Triều Tiên, v.v.) có sự
dính líu, can thiệp trực tiếp hoặc gián tiếp của Mỹ và Liên Xô.
Tuy nhiên, dù buộc phải lao vào cuộc chạy đua vũ trang với Mỹ, Liên
Xô vẫn kiên trì cuộc đấu tranh trên mặt trận đối ngoại vì hòa bình, an ninh và
phát triển. Trên các diễn đàn quốc tế, trong các cuộc tiếp xúc, đàm phán ở các
tổ chức khu vực cũng như trong quan hệ song phương Xô - Mỹ, các đại diện
của Liên Xô bằng nhiều phương pháp, phương tiện ngoại giao kiên trì đấu
tranh nhằm giải trừ quân bị, cấm thử, cấm phổ biến vũ khí hạt nhân, thiết lập
hệ thống an ninh tập thể giữa các nước có chế độ chính trị - xã hội khác
nhau, v.v. Về phía Mỹ, do tác động của nhiều nhân tố khác nhau, cũng buộc
phải bắt đầu các cuộc tiếp xúc, đàm phán với Liên Xô về các vấn đề trên. Từ
thập niên 70 bắt đầu có những bước tiến đáng kể trong việc cải thiện quan hệ
Xô - Mỹ. Tháng 5/1972, Tổng thống Mỹ R.Nichxơn đến thăm Liên Xô, hai
bên có những cuộc hội đàm quan trọng, kết quả đã ký được các văn kiện có ý
nghĩa rất tích cực là:
1- Hiệp ước về hạn chế hệ thống phòng thủ chống tên lửa (ABM);
17
2- Hip nh tm thi v hn ch v khớ tin cụng chin lc (SALT-
1).
Thỏng 7 nm 1974, Hip c ABM c b sung thờm mt Ngh nh
th quy nh mi bờn ch trin khai mt h thng ABM vi s lng tờn la
gim mt na so vi ABM-1972 (ABM-1972 quy nh mi bờn Xụ - M cú
hai h thng phũng th chng tờn la, mt th ụ v mt khu vc cú tờn
la chin lc, vi khụng quỏ 200 tờn la chng tờn la) [113, tr. 410]. Cú
th núi, Hip c ABM l Hip c to c s cho hai nc Liờn Xụ v M ký
Hip nh SALT-1 v sau ú l SALT-2. Cỏc Hip c ABM, SALT-1 v
SALT-2 ó to nờn s cõn bng chin lc v lc lng ht nhõn, va gi
cho hai siờu cng thoỏt khi nguy c mt cuc chin tranh ht nhõn, va hn

ch ỏng k cuc chy ua v trang quy mụ ton cu.
Nhng t nm 1981, khi R.Rigõn lờn lm Tng thng M, quan h
Xụ - M bt u cng thng tr li. V Tng thng thuc ng Cng hũa ny
ó thc hin hng lot cỏc ng thỏi i ngoi nguy him, nh b trớ tờn la
tm trung hin i "Pershing" v "Cruise" mt s nc chõu u, vch ra k
hoch "Chin tranh gia cỏc vỡ sao" hay "Sỏng kin phũng th chin lc"
(SDI) nhm phỏ th cõn bng quõn s vi Liờn Xụ. Nm 1985, chi phớ quc
phũng M lờn ti gn 400 t USD, chim 28% ngõn sỏch Liờn bang v 7%
GDP [5, tr. 3]. Cũn Liờn Xụ, theo ti liu ca M, cng chi phớ quc phũng
lờn ti gn 280 t USD, chim khong 50% ngõn sỏch Liờn bang v 10%
GDP hng nm [178]. Theo s liu ca c quan kim soỏt lc lng v trang
v gii tr quõn b M, chi phớ quc phũng tớnh theo u ngi ca M ln
hn 6 ln ch s chung ca th gii, ln hn 3 ln so vi cỏc nc Tõy u v
ln hn 6 ln so vi Nht Bn [178]. Hc thuyt quõn s ca Rigõn "Phn
ng linh hot mi" c mnh danh l "Hc thuyt chy ua v trang, khụi
phc v trớ ng u th gii"
6 lần so với Nhật Bản [178]. Học thuyết quân sự của Rigân "Phản ứng linh
18
hoạt mới" đợc mệnh danh là "Học thuyết chạy đua vũ trang, khôi phục vị
trí đứng đầu thế giới" ó dn n tỡnh trng ht sc phc tp v cng thng
trong quan h Xụ - M cng nh quan h gia nhiu nc khỏc trong sut
nhim k u ca Tng thng Rigõn.
Nm 1985 ỏnh du bc khi u quỏ trỡnh thay i cú tớnh cht bc
ngot trong chớnh sỏch i ngoi cng nh i ni ca Liờn Xụ.
M.Goúcbachp lờn nm quyn lónh o Liờn Xụ, vi "T duy chớnh tr
mi" ó cú nhng iu chnh chin lc i ngoi nhm chuyn bin quan h
t i u sang i thoi vi M. Rt nhiu cuc gp cp cao chớnh thc v
khụng chớnh thc gia M.Goúcbachp vi R.Rigõn ri vi G.Bus ó c
tin hnh. Cuc gp chớnh thc cp cao Xụ - M cú ý ngha quan trng u
tiờn l cuc gp gia M. Goúcbachp v R.Rigõn ti Rõygiavớch (Aixlen).

Ti õy, nhng ngi ng u hai Nh nc Liờn Xụ v M ó bt u
nhng cuc m phỏn khỏ phc tp v ct gim v khớ ht nhõn, k c v khớ
ht nhõn chin lc. Nhng cuc m phỏn tip ni sau ú ó dn n ch
nhiu vn kin song phng Xụ - M ó c ký kt, trong ú quan trng
nht l Hip c v v khớ ht nhõn tm trung (Intermediate-range Nuclear
Forces - INF) thỏng 12/1987. Theo Hip c ny, hai bờn tha thun phỏ hy
khong 3% kho v khớ ht nhõn ca mi nc gm hng trm tờn la tm
trung v tm ngn, cú kh nng tip cn mc tiờu xa di 3.400 dm v cho
phộp tin hnh kim tra bt ng cỏc c s ht nhõn ca nhau. Thỏng 12 nm
1989 din ra cuc gp khụng chớnh thc, song thc s l "cuc gp lch s"
gia M.Goúcbachp v G.Bus ti o Manta trờn a Trung Hi. Ti õy,
Tng bớ th BCH trung ng CS Liờn Xụ M.Goúcbachp v Tng thng
M G.Bus tuyờn b t nay Liờn Xụ v M khụng coi nhau l k thự, tha
thun ct gim v khớ ht nhõn chin lc v tng cng hp tỏc vi nhau
gii quyt cỏc vn quc t,... õy l cuc gp thu hút s chỳ ý ca d lun
th gii v c coi l thi im bt u kt thỳc thi k "chin tranh lnh"
gia hai siờu cng. Gn mt nm sau, thỏng 11 nm 1990, Hi ngh Paris
19
lịch sử diễn ra với sự có mặt của G.Busơ, M.Goócbachốp, các nhà lãnh đạo
của 20 quốc gia thành viên khối NATO và khối Vacsava. Tại đây các nhà
lãnh đạo kể trên đã ký điều ước không xâm phạm lẫn nhau và chính thức ra
tuyên bố chung chấm dứt Chiến tranh lạnh (Hiến chương Paris 11/1990).
Kể từ đó, quan hệ Xô - Mỹ thực sự chuyển từ đối đầu sang đối thoại,
hợp tác giải quyết những vấn đề quốc tế, những tranh chấp, xung đột vũ trang
giữa hai khối và giữa một số nước ở các khu vực trên thế giới (Ápganistan,
Cămpuchia, Namibia, Trung Đông, ...). Trong số những thỏa hiệp, nhượng bộ
bất lợi cho Liên Xô của M.Goócbachốp phải kể đến việc Tổ chức Hiệp ước
Vacsava tuyên bố tự giải thể tháng 3/1991.
Một hiệp ước có ý nghĩa tích cực hơn, đánh dấu lần hòa dịu cuối cùng
trong quan hệ Xô - Mỹ là "Hiệp ước hạn chế và giảm bớt vũ khí tiến công

chiến lược" (START-1) được G.Busơ và M.Goócbachốp ký ngày 31 tháng 7
năm 1991. Theo các thỏa thuận đạt được giữa hai Tổng thống, Mỹ và Liên Xô
sẽ thủ tiêu khoảng 1/3 kho vũ khí hạt nhân chiến lược của mỗi bên trong vòng
7 năm tính từ ngày ký.
Tuy nhiên, do tác động của hàng loạt nhân tố, cả chủ quan lẫn khách
quan, cả bên trong lẫn bên ngoài, siêu cường Liên bang Cộng hòa XHCN Xô
viết - mét trong những nhà nước hùng mạnh bậc nhất trong nền chính trị thế
kỷ XX - đã phải chấm dứt sự tồn tại của mình vào cuối năm 1991. Tính từ
thời điểm lịch sử này, 15 nước Cộng hòa Xô viết chính thức trở thành các
quốc gia độc lập, có chủ quyền, những chủ thể pháp lý quốc tế mới, được
Liên hợp quốc và cộng đồng quốc tế thừa nhận.
Sù tan rã của Liên bang Xô viết và sự ra đời của 15 quốc gia độc lập
trong không gian hậu Xô viết cũng đồng nghĩa với sự tan rã của trật tự thế giới
hai cực để bắt đầu cho quá trình tìm kiếm, kiến tạo một trật tự thế giới mới.
20
Như vậy, cuộc "chiến tranh lạnh" do giới cầm quyền Mỹ phát động
sau chiến tranh thế giới thứ hai, kéo dài hơn 4 thập niên giữa hai siêu cường
Xô - Mỹ đứng đầu hai khối đối địch, có đặc trưng cơ bản là tình trạng đối đầu
và không khí thù địch, từ đây chấm dứt. Kể từ thời điểm này, trong lĩnh vực
quan hệ quốc tế bắt đầu một thời kỳ mới - thời kỳ "sau chiến tranh lạnh".
1.1.2. Quan hệ kinh tế - thương mại và khoa học - kỹ thuật Xô - Mỹ
Quan hệ kinh tế - thương mại chính thức giữa Liên Xô và Mỹ được đánh
dấu bằng "Hiệp định về quan hệ thương mại Xô - Mỹ" ký ngày 13 tháng 7
năm 1935. Sau một thời gian thực hiện, Hiệp định thương mại Xô - Mỹ năm 1935
được điều chỉnh, rồi được thay bằng Hiệp định thương mại ký ngày 4 tháng 8
năm 1937. Hiệp định thương mại Xô - Mỹ năm 1937 ghi rõ rằng Mỹ và Liên Xô
sẽ giành cho nhau quy chế tối huệ quốc (MFN) vô điều kiện và không hạn chế
trong tất cả các lĩnh vực liên quan đến thuế quan mậu dịch, thuế doanh thu, thể
lệ và thủ tục xuất khẩu, đến việc bán và sử dụng hàng Nga ở Mỹ và Liên Xô.
Phía Mỹ bảo đảm rằng mọi ưu tiên, ưu đãi nêu trên, đã hoặc sẽ được Mỹ

giành cho nước thứ ba, cũng sẽ ngay lập tức giành cho Liên Xô. Còn phía Liên
Xô thì có nghĩa vụ thực hiện các biện pháp nhằm tăng khối lượng hàng nhập khẩu
từ Mỹ.
Có thể nói, Hiệp định thương mại năm 1937 tạo nền tảng pháp lý đầu
tiên thúc đẩy quan hệ kinh tế - thương mại Xô - Mỹ phát triển khá mạnh cho
đến vài năm sau chiến tranh thế giới thứ II.
Tuy nhiên, cùng với việc phát động cuộc "chiến tranh lạnh", Mỹ bắt
đầu thực hiện những biện pháp hạn chế thương mại với Liên Xô. Chẳng hạn,
từ đầu năm 1947, chính phủ Mỹ ngừng cung cấp máy móc, thiết bị cho Liên
Xô; năm 1949 áp dụng chế độ cấp quota sang châu Âu nhằm chống lại Liên
Xô,... Đặc biệt, Mỹ bắt đầu thi hành Luật kiểm soát xuất khẩu, mà theo luật
này, người ta đã áp dụng các hạn ngạch có tính chất phân biệt đối xử đối với
hàng Mỹ xuất sang Liên Xô. Năm 1951, Mỹ thông qua cái gọi là Luật Bettla
21
nhằm bắt các nước khác thống nhất với Mỹ trong chính sách hạn chế thương
mại với Liên Xô. Cuối cùng, ngày 21 tháng 6 năm 1951, Mỹ đơn phương hủy
bỏ Hiệp định thương mại Xô - Mỹ năm 1937. Tính từ thời điểm này, quan hệ
kinh tế - thương mại giữa hai nước bắt đầu suy giảm mạnh.
Nhìn chung, cho đến tận đầu thập niên 90, quan hệ kinh tế - thương
mại Xô - Mỹ ở mức rất thấp và luôn bị sự đối đầu về ý thức hệ giữa hai hệ
thống chính trị - xã hội chế ước ở mức đáng kể. Những quan hệ làm ăn buôn bán
giữa hai nước không hiếm khi trở thành vật hy sinh của cuộc đối đầu tư tưởng
Êy, nên thường mang tính chất không vững chắc, bị gián đoạn hoặc đổ vỡ. Cơ
cấu trao đổi kinh tế thời kỳ "chiến tranh lạnh" giữa hai nước có đặc trưng nổi
bật là biến dạng và rất mất cân đối. Trên thực tế, thương mại Xô - Mỹ giới
hạn ở việc Liên Xô mua từ Mỹ ngò cốc cho gia súc và một số lô hàng nhỏ các
thiết bị đồng bộ, còn bán sang Mỹ một khối lượng hạn chế sản phẩm từ dầu
mỏ, hàng hóa học, một số sản phẩm truyền thống như rượu vốt ca, trứng cá,
cua.... Cán cân thương mại nói chung nghiêng về phía có lợi cho Mỹ nhiều
hơn.

Vật cản nghiêm trọng trong việc phát triển quan hệ kinh tế - thương
mại bình thường giữa Liên Xô và Mỹ còn do có những barie đủ loại, trước hết
là trong các bộ luật của Mỹ. Các bộ luật này đưa ra nhiều điều kiện chính trị
khác nhau làm hạn chế đáng kể quan hệ kinh tế, đặc biệt là trong các lĩnh vực
công nghệ cao. Chẳng hạn, điều luật Giắcxơn - Vanich khét tiếng ra đời năm
1974, bổ sung cho phần II của Luật thương mại Mỹ, nhằm ngăn cấm giành cho
các nước XHCN quy chế tối huệ quốc (MFN) trong thương mại và ngăn cản các
nước này tham gia vào các chương trình kinh tế đối ngoại của chính phủ Mỹ,....
Về quan hệ khoa học - công nghệ Xô - Mỹ, thì trong bối cảnh đối đầu
gay gắt giữa hai khối, quan hệ đó không thể không mang tính chất hạn hẹp,
tạm thời. Các trí tuệ siêu việt ở cả hai nước thường chỉ chú ý tập trung nghiên
cứu làm sao đạt được ưu thế quân sự so với phía bên kia. Tuy nhiên, hai nước
22
cng ó ký c mt s Hip nh v hp tỏc trong lnh vc khoa hc, k
thut, cụng ngh, nht l t nhng nm 70. Chng hn, nm 1972 ký Hip
nh v hp tỏc khoa hc - k thut; nm 1973 ký Hip nh v hp tỏc trong
lnh vc s dng nng lng nguyờn t vo mc ớch hũa bỡnh; nm 1974 ký
Hip nh v hp tỏc nghiờn cu v s dng khong khụng v tr vo mc
ớch hũa bỡnh, v.v. Chuyn bay v tr m hai nc thc hin nm 1975 theo
chng trỡnh nghiờn cu v tr "Soiuz - Apollon" ó i vo lch s nh l
nh cao ca quan h hp tỏc Xụ - M him hoi.
V tng th, t nm 1933 n 1991, Liờn Xụ v M ó ký cỏc hip
nh, hip c trong cỏc lnh vc kinh t - thng mi, khoa hc - k thut -
cụng ngh nh sau:
Bng 1.3: Quan h kinh t - thng mi Xụ - M 1933-1991 qua cỏc hip
nh ó ký
qua các hiệp định đã ký
Thng mi Ti chớnh
ỏnh
cỏ

Xớ nghip liờn
doanh
Thu
quan
u t
Cụng
nghip
13 20 18 6 4 0 23
Bng 1.4: Cỏc Hip nh hp tỏc khoa hc - k thut - cụng ngh m Liờn
Xụ v M ó ký
mà Liên Xô và Mỹ đã ký
Trong lnh vc nng lng
ht nhõn
năng lợng hạt nhân
Trong lnh vc
nghiờn cu
khong khụng
v tr
Trong lnh
vc y hc
y học
11 11 7
Ngun: Bng 1.3 v 1.4 dn theo Kredin, Tp chớ i sng quc t, số
4/1998, tr.12. (Ting Nga).
thc hin cỏc hip nh, hip c, tha c ó ký, Liờn Xụ v M
ó thnh lp mt s c quan liờn chớnh ph nhm thc thi, giỏm sỏt v iu
23
tiết quan hệ tương ứng với các văn bản đó. Tuy nhiên, trên thực tế không phải
mọi điều khoản đã được hai bên thỏa thuận trong các văn bản Êy được thực
hiện nghiêm chỉnh và đầy đủ, chưa nói đến việc nhiều hiệp định, hiệp ước

được ký mà không được thực hiện.
Trong lĩnh vực quan hệ kinh tế đối ngoại, có một điểm rất đáng chú ý
là tình trạng biệt lập, đóng cửa, đóng khung quan hệ kinh tế trong khối SEV
(Hội đồng tương trợ kinh tế) của Liên Xô. Tất nhiên, có tình trạng này là do
Mỹ và các nước Phương Tây thực hiện chính sách bao vây, cấm vận, phong
tỏa kinh tế Liên Xô và các nước XHCN, vốn sinh sau đẻ muộn lại bị chiến
tranh tàn phá nặng nề. Hoàn cảnh lịch sử đó đã đẩy lùi khả năng mở rộng
quan hệ hợp tác kinh tế - thương mại, khoa học - công nghệ của Liên Xô với
Mỹ nói riêng, với thế giới bên ngoài khối SEV nói chung. Song điều đáng nói
là, khi đóng khung quan hệ kinh tế - thương mại trong khối SEV, Liên Xô đã
thực hiện quan hệ đó chủ yếu theo kiểu bao cấp nên vừa kém hiệu quả, vừa
lãng phí các nguồn lực. Hậu quả là Liên Xô đánh mất các lợi thế so sánh
trong phân công lao động quốc tế; nền kinh tế Liên Xô tụt hậu ngày càng xa
so với Mỹ và các nước tư bản phát triển.
Đó là di sản quan hệ chính trị - quân sự, kinh tế - thương mại và khoa
học - kỹ thuật song phương mà Nga và Mỹ kế thừa khi bước sang thời kỳ "sau
chiến tranh lạnh". Rõ ràng chỉ để vứt bỏ những chướng ngại vật mà "chiến
tranh lạnh" để lại không thôi cũng đã cần không Ýt nỗ lực và thời gian của cả
hai nước. Thế mà bức tranh thế giới thời kỳ "sau chiến tranh lạnh" lại có một
đặc điểm nổi bật là rất không rõ ràng. Đúng như một học giả Phương Tây đã
nhận xét, "Với việc chấm dứt chiến tranh lạnh, thế giới trở nên Ýt nguy hiểm
hơn, nhưng đồng thời cũng Ýt ổn định hơn và khó tiên đoán hơn" [137]. Sù
tan rã nhanh chóng của Liên Xô trong tư cách một cơ cấu địa - chính trị ổn
định trong khi chưa có một cơ cấu chuyển tiếp thích hợp khiến cho các mối
QHQT bị xáo trộn, gây khó khăn rất lớn cho nhiều nước, trước hết là LB Nga
và các nước Cộng hòa Xô viết cũ. Các mối quan hệ giữa LB Nga và Mỹ còn
24
liên quan chặt chẽ đến thực trạng chính trị, kinh tế, xã hội của từng nước, đến ý
đồ và tham vọng của ban lãnh đạo từng nước trên trường quốc tế, đến các lĩnh
vực quan hệ đa phương khác, đến những thay đổi to lớn đã và đang diễn ra

trong đời sống xã hội loài người trên phạm vi toàn cầu và ở các khu vực khác
nhau, v.v.. Chúng tôi sẽ tập trung xem xét các quan hệ chính trị - đối ngoại,
quân sù - an ninh, kinh tế - thương mại và khoa học - công nghệ giữa hai đối
thủ cũ này trong tổng thể các mối quan hệ chằng chịt, ràng buộc và chi phối
lẫn nhau đó.
1.2. SỰ ĐIỀU CHỈNH CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA LIÊN BANG NGA
TỪ SAU KHI LIÊN XÔ TAN RÃ ĐẾN CUỐI THẬP NIÊN 90
Nói về Nga - nước Cộng hòa lớn nhất, có tiềm lực mạnh nhất của Liên
bang Xô viết - thì ngay từ ngày 12/6/1990, Xô viết tối cao Cộng hòa XHCN
Xô viết LB Nga đứng đầu là B.Enxin đã ra Tuyên bố về chủ quyền quốc gia
của Nga. Sự kiện này đánh dấu bước khởi đầu của việc hình thành một "nước
Nga mới" từ lúc còn nằm trong thành phần của Liên Xô. Đúng một năm sau,
Cộng hòa XHCN Xô viết LB Nga tiến hành cuộc bầu cử Tổng thống Nga đầu
tiên. B.Enxin tróng cử Tổng thống, càng xúc tiến mạnh mẽ hơn cuộc đấu
tranh giành quyền lực với chính quyền trung ương Liên bang. Nhưng cũng
phải sau khi Liên Xô chính thức bị xóa tên trên bản đồ chính trị thế giới, thì
Nga cũng như các nước Cộng hòa Xô viết cũ khác mới thật sự trở thành các
quốc gia độc lập, có chủ quyền, những chủ thể pháp lý quốc tế mới, được
LHQ và cộng đồng quốc tế thừa nhận.
LB Nga bước ra vũ đài quốc tế không chỉ như một trong những nước
kế thừa chính thống Liên Xô, mà còn được tiếp nhận quy chế đặc biệt "Quốc
gia kế tục Liên Xô". Quy chế này thể hiện ở ba khía cạnh sau:
1. Nga được LHQ đồng ý chuyển giao chiếc ghế ủy viên thường trực
Hội đồng bảo an vốn do Liên Xô nắm giữ trước đây;
25

×