Tải bản đầy đủ (.docx) (87 trang)

ẢNH HƯỞNG của các LOẠI THỨC ăn, điều KIỆN CHIẾU SÁNG KHÁC NHAU lên SINH TRƯỞNG, PHÁT dục của tôm hùm BÔNG(Panulirus ornatusfabricius, 1798) NUÔI TRONG bể

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.26 MB, 87 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
******** ********
NGUYỄN QUANG HẠNH
ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC LOẠI THỨC ĂN, ĐIỀU
KIỆN
CHIẾU SÁNG KHÁC NHAU LÊN SINH TRƯỞNG,
PHÁT DỤC
CỦA TÔM HÙM BÔNG (Panulirus ornatus Fabricius,
1798)
NUÔI TRONG BỂ
LUẬN VĂN THẠC SỸ
Nha Trang - 2010
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
******** ********
NGUYỄN QUANG HẠNH
ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC LOẠI THỨC ĂN, ĐIỀU KIỆN
CHIẾU SÁNG KHÁC NHAU LÊN SINH TRƯỞNG, PHÁT DỤC
CỦA TÔM HÙM BÔNG (Panulirus ornatus Fabricius, 1798)
NUÔI TRONG BỂ
Chuyên ngành: Nuôi trồng Thủy sản
Mã số: 60.62.70
LUẬN VĂN THẠC SỸ
Người hướng dẫn khoa học: PGS-TS. LẠI VĂN HÙNG
TS. NGUYỄN THỊ BÍCH THÚY
Nha Trang - 2010
ir
LỜI CẢM ƠN
Trước hết tôi xin gởi đến Ban Giám Hiệu, khoa Nuôi trồng Thủy sản -
Trường Đại học Nha Trang sự kính trọng, lòng tự hào đã được làm việc, học tập và


nghiên cứu tại trường trong những năm qua.
Xin bày tỏ lòng biết ơn đến thầy hướng dẫn PGS-TS. Lại Văn Hùng và TS.
Nguyễn Thị Bích Thúy đã tận tình hướng dẫn, động viên và tạo mọi điều kiện thuận
lợi nhất cho tôi trong suốt quá trình học tập và thực hiện đề tài.
Tôi xin cảm ơn Đảng Ủy, Ban Giám Đốc đặc biệt là TS.Nguyễn Huy Điền
và toàn thể đồng nghiệp ở Trung Tâm Khuyến Nông Quốc Gia đã giúp đỡ, tạo điều
kiện thuận lợi để tôi có thể hoàn thành đề tài.
Xin gửi lời cảm ơn đến tất cả quí thầy cô đã giảng dạy, truyền đạt nhiều kiến
thức và kinh nghiệm quý báu cho tôi trong suốt thời gian học tập ở lớp cao học
Nuôi trồng thuỷ sản khoá 2009-2010 SUDA.
Nhân đây tôi xin cảm ơn đến toàn thể ban lãnh đạo và cán bộ Viện Nghiên
Cứu Nuôi Trồng Thủy Sản III đã tạo mọi điều kiện giúp đỡ trong khi tôi bố trí thí
nghiệm của luận văn tại Viện.
Tôi xin cảm ơn Ban quản lý dự án và các thành viên làm việc trong Hợp
Phần Hỗ Trợ Phát Triển Nuôi Trồng Thủy Sản Bền Vững (SUDA) đã tạo điều kiện,
hỗ trợ kinh phí cho tôi hoàn thành tốt khóa học.
Xin cảm ơn sâu sắc đến gia đình và tất cả bạn bè đã động viên, giúp đỡ tôi
trong quá trình học tập cũng như hoàn thành đề tài!
Nguyễn Quang Hạnh
iir
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi. Các kết quả, số liệu
nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công
trình nào.
Các số liệu trình bày trong luận văn đã được sự cho phép của đề tài: Nghiên
cứu đặc điểm sinh học ấu trùng tôm hùm bông (Panulirus ornatus) làm cơ sở
cho việc tạo công nghệ sản xuất giống. Mã số:
KC.06.24/06-10,
được thực hiện
tại Viện Nghiên Cứu Nuôi Trồng Thủy Sản III.

Nguyễn Quang Hạnh
iiir
MỤC LỤC
Trang
Lời cảm ơn i
Lời cam đoan ii
Mục lục…. iii
Ký hiệu, chữ viết tắt vi
Danh mục các hình vii
Danh mục các bảng ix
MỞ ĐẦU 1
Chương 1 – TỔNG QUAN 3
1.1. Hệ thống phân loại và hình thái học 3
1.1.1. Vị trí phân loại 3
1.1.2. Hình thái cấu tạo 4
1.1.3. Đặc điểm sinh thái phân bố và chu kỳ sống 5
1.1.4. Đặc điểm sinh trưởng 8
1.1.5. Đặc điểm sinh học sinh sản 9
1.2. Một số nghiên cứu về dinh dưỡng và thức ăn cho Tôm Hùm 13
1.3. Tình hình nuôi Tôm Hùm 21
Chương 2 - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 23
2.1. Đối tượng, thời gian và địa điểm nghiên cứu 23
2.2. Vật liệu và phương pháp nghiên cứu 23
2.2.1. Nguồn Tôm Hùm thí nghiệm 24
2.2.2. Nguồn nước thí nghiệm 24
ivr
2.2.3. Trang thiết bị thí nghiệm 25
2.2.4. Chăm sóc, quản lý 25
2.3. Bố trí thí nghiệm ảnh hưởng của các công thức thức ăn lên sinh trưởng
và phát dục của Tôm Hùm Bông 26

2.3.1. Các công thức thức ăn dùng trong thí nghiệm 26
2.3.2. Bố trí thí nghiệm 27
2.4. Bố trí thí nghiệm ảnh hưởng của ánh sáng lên sinh trưởng và phát dục
của Tôm Hùm Bông 28
2.4.1. Các chế độ ánh sáng trong thí nghiệm 28
2.4.2. Bố trí thí nghiệm 28
2.5. Phương pháp thu thập số liệu 29
2.6. Phương pháp phân tích số liệu 36
Chương 3 - KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 37
3.1. Ảnh hưởng của các nhóm thức ăn khác nhau lên sự sinh trưởng và phát
dục của Tôm Hùm Bông nuôi trong bể 37
3.1.1. Thành phần sinh hóa của các công thức thức ăn thí nghiệm 37
3.1.2. Môi trường trong hệ thống bể thí nghiệm 38
3.1.3. Sinh trưởng của Tôm Hùm Bông ở các công thức thức ăn 39
3.1.3.1. Sinh trưởng chiều dài giáp đầu ngực của Tôm Hùm Bông ở các
công thức thức ăn 39
3.1.3.2. Sinh trưởng khối lượng của Tôm Hùm Bông ở các nhóm thức
ăn 42
3.1.4. Phát dục của Tôm Hùm Bông ở các công thức thức ăn 44
vr
3.2. Ảnh hưởng của điều kiện chiếu sáng khác nhau lên sự sinh trưởng và
phát dục của tôm Hùm bông nuôi trong bể 47
3.2.1 Môi trường trong hệ thống bể thí nghiệm 47
3.2.2. Sinh trưởng của Tôm Hùm Bông ở các điều kiện chiếu sáng 49
3.2.2.1. Sinh trưởng chiều dài giáp đầu ngực của Tôm Hùm Bông ở các
điều kiện chiếu sáng 49
3.2.2.2. Sinh trưởng khối lượng của Tôm Hùm Bông ở các điều kiện
chiếu sáng 51
3.2.3. Phát dục của Tôm Hùm Bông ở các điều kiện chiếu sáng 52
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT Ý KIẾN 56

1. Kết luận 57
2. Đề xuất ý kiến 58
TÀI LIỆU THAM KHẢO 59
vir
KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT
W: Khối lượng.
CL: Chiều dài giáp đầu ngực.
g: Gam.
mm: Milimet.
‰ : Phần ngàn.
GHẸ-80: Nghiệm thức công thức thức ăn có 80% ghẹ, 10% sò, 10% mực.
SÒ-80:
Nghiệm thức công thức thức ăn có 80 % sò, 10% ghẹ, 10% mực.
MỰC-80: Nghiệm thức công thức thức ăn có 80 % mực, 10% ghẹ,10% sò.
CLđ: Chiều dài giáp đầu ngực của tôm lúc bắt đầu thí nghiệm.
CLc: Chiều dài giáp đầu ngực của tôm lúc kết thúc thí nghiệm.
Wđ: Khối lượng của tôm lúc bắt đầu thí nghiệm.
Wc: Khối lượng của tôm lúc kết thúc thí nghiệm.
GRCL, GRW: Sinh trưởng về chiều dài giáp đầu ngực và khối lượng của tôm.
SGRCL, SGRW: Tốc độ sinh trưởng đặc trưng về chiều dài giáp đầu ngực và khối
lượng của tôm.
viir
DANH MỤC HÌNH
Hình 2.1. Sơ đồ khối phương pháp nghiên cứu 23
Hình 2.2. Quy trình xử lý nước để nuôi thí nghiệm 24
Hình 2.3. Hệ thống bể lọc sinh học 25
Hình 2.4. Chuẩn bị thức ăn cho Tôm Hùm nuôi thí nghiệm 26
Hình 2.5. Hệ thống bể composite nuôi tôm ở thí nghiệm thức ăn 27
Hình 2.6. Sơ đồ bố trí các bể nuôi tôm ở thí nghiệm thức ăn 27
Hình 2.7. Hệ thống bể ciment nuôi tôm ở thí nghiệm ánh sáng 29

Hình 3.1. Sinh trưởng chiều dài giáp đầu ngực Tôm Hùm bông ở các nhóm thức
ăn 40
Hình 3.2. Sinh trưởng khối lượng của Tôm Hùm bông ở các công thức thức ăn 42
Hình 3.3. Tuyến sinh dục của Tôm Hùm đực (trước khi thí nghiệm về thức ăn) 44
Hình 3.4. Tuyến sinh dục của Tôm Hùm đực ở công thức thức ăn MỰC-80 45
Hình 3.5. Tuyến sinh dục của Tôm Hùm đực ở công thức thức ăn SÒ-80, GHẸ-80 45
Hình 3.6. Tuyến sinh dục của Tôm Hùm cái (trước khi thí nghiệm về thức ăn) 46
Hình 3.7. Tuyến sinh dục của Tôm Hùm cái ở công thức thức ăn MỰC-80 46
Hình 3.8. Tuyến sinh dục của Tôm Hùm cái ở công thức thức ăn SÒ-80, GHẸ-80 . 47
Hình 3.9. Sinh trưởng chiều dài giáp đầu ngực của Tôm Hùm bông ở các điều kiện
chiếu sáng khác nhau 49
viiir
Hình 3.10. Sinh trưởng khối lượng của Tôm Hùm bông ở các điều kiện chiếu sáng
khác nhau 51
Hình 3.11. Tuyến sinh dục của Tôm Hùm đực (trước khi thí nghiệm về ánh sáng) .53
Hình 3.12. Tuyến sinh dục của Tôm Hùm cái (trước khi thí nghiệm về ánh sáng) 54
Hình 3.13. Tuyến sinh dục của Tôm Hùm đực ở nghiệm thức TỐI 54
Hình 3.14. Tuyến sinh dục của Tôm Hùm đực ở nghiệm thức SÁNG 55
Hình 3.15. Tuyến sinh dục của Tôm Hùm cái ở nghiệm thức TỐI 55
Hình 3.16. Tuyến sinh dục của Tôm Hùm cái ở nghiệm thức SÁNG 56
ixr
DANH MỤC BẢNG
Bảng 3.1. Thành phần sinh hóa của các công thức thức ăn thí nghiệm (%) 37
Bảng 3.2. Thành phần acid béo không no của các công thức thức ăn thí nghiệm (5) 38
Bảng 3.3. Một số yếu tố môi trường trong hệ thống bể thí nghiệm về thức ăn 38
Bảng 3.4. Các chỉ tiêu sinh trưởng về chiều dài giáp đầu ngực Tôm Hùm Bông ở
các công thức thức ăn 41
Bảng 3.5. Các chỉ tiêu sinh trưởng về khối lượng của Tôm Hùm Bông ở các công
thức thức ăn 43
Bảng 3.6. Kích thước tuyến sinh dục của Tôm Hùm Bông ở các công thức thức ăn . 44

Bảng 3.7. Một số yêu tố môi trường trong hệ thống bể thí nghiệm về ánh sáng 47
Bảng 3.8. Cường độ chiếu sáng ở các bể thí nghiệm (Lux) 48
Bảng 3.9. Các chỉ tiêu sinh trưởng về chiều dài giáp đầu ngực của Tôm Hùm Bông
ở các điều kiện chiếu sáng khác nhau 50
Bảng 3.10. Sinh trưởng về khối lượng của Tôm Hùm Bông ở các điều kiện chiếu
sáng khác nhau 52
Bảng 3.11. Kích thước tuyến sinh dục của Tôm Hùm Bông ở các công thức thức ăn 53
1r
MỞ ĐẦU
Tôm Hùm Gai Palinuridae (spiny lobster) phân bố rộng ở vùng biển nhiệt đới
và á nhiệt đới, chúng thích nghi trong cả vùng biển sâu đến vùng triều cạn ven biển.
Họ Palinuridae gồm trên 47 loài trong đó có khoảng 33 loài có giá trị kinh tế.
Nghề nuôi biển trên thế giới nói chung coi Tôm Hùm là một trong những đối
tượng nuôi quan trọng và có hiệu quả kinh tế cao. Trong họ Palinuridae thì loài
Tôm Hùm Bông (Panulirus ornatus) được quan tâm chú trọng nhiều nhất vì chúng
có sự phát triển giai đoạn Larvae ngoài khơi ngắn nhất, sinh trưởng nhanh nhất, có
giá thành hấp dẫn trên nhiều thị trường. Từ trước đến nay nguồn giống Tôm Hùm
nuôi hoàn toàn là khai thác từ tự nhiên, nhưng hiện nay trên thế giới rất quan tâm
nghiên cứu về sản xuất giống nhân tạo nhằm chủ động đáp ứng lượng con giống cần
thiết với chất lượng tốt, giảm áp lực lên khai thác tự nhiên.
Ở Việt Nam nghề nuôi Tôm Hùm bắt đầu phát triển từ năm 1992 và hiện nay
xác định đây là một đối tượng phát triển chủ lực trong nghành thủy sản do giá trị
kinh tế và dinh dưỡng mà nó mang lại. Nghề nuôi Tôm Hùm ở Việt Nam được phát
triển mạnh tại các tỉnh ven biển miền Trung từ Bình Định đến Bình Thuận và đã
đem lại nhiều lợi nhuận cho người nuôi. Trong họ Tôm Hùm Gai ở Việt Nam có 7
loài phân bố và người nuôi cũng tập trung vào loài Tôm Hùm Bông.
Sự phát triển nhanh rộng của nghề nuôi Tôm Hùm lồng đã làm rõ hơn vấn đề
thiếu con giống một cách trầm trọng. Sản lượng khai thác giống ngoài tự nhiên
không thể đủ đáp ứng được nhu cầu của người nuôi thương phẩm. Để phát triển lâu
bền và có hiệu quả hơn đòi hỏi các nhà khoa học Việt Nam cần phải chung sức với

thế giới tìm hiểu vấn đề sinh sản nhân tạo giống Tôm Hùm.
Xuất phát từ thực tế nêu trên, việc nghiên cứu chuyên sâu hơn về điều kiện
môi trường sống, nhu cầu dinh dưỡng và các loại thức ăn của Tôm Hùm Bông ở
2r
từng giai đoạn phát triển là vấn đề hết sức cấp thiết. Nó sẽ là cơ sở để hoàn thiện qui
trình sinh sản nhân tạo giống Tôm Hùm.
Được sự cho phép của trường Đại học Nha Trang và sự đồng ý của Viện
Nghiên Cứu NTTS III, tôi thực hiện đề tài:
“Ảnh hưởng của các loại thức ăn, điều kiện chiếu sáng khác nhau lên
sinh trưởng, phát dục của Tôm Hùm Bông (Panulirus ornatus, Fabricius, 1798)
nuôi trong bể.”
Với các nội dung nghiên cứu sau:
1. Nghiên cứu ảnh hưởng của các loại thức ăn khác nhau lên sinh trưởng,
phát dục của Tôm Hùm Bông nuôi trong bể.
2. Nghiên cứu ảnh hưởng của các điều kiện chiếu sáng khác nhau lên sinh
trưởng, phát dục của Tôm Hùm Bông nuôi trong bể.
Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ bổ sung thêm dữ liệu khoa học về đặc điểm
môi trường sống, đặc điểm dinh dưỡng của Tôm Hùm Bông và là một cơ sở để
hoàn thiện qui trình sinh sản nhân tạo giống Tôm Hùm.
3r
Chương 1 – TỔNG QUAN
1.1. Hệ thống phân loại và hình thái học
1.1.1. Vị trí phân loại
Từ giữa những năm 50 của thế kỷ 18, Linnaeus đã mô tả hình thái và nghiên
cứu phân loại các loài Tôm Hùm có sản lượng khai thác cao ở vùng biển Ấn Độ
Dương. Năm 1758, tác giả công bố các đặc điểm phân loại của 3 loài Panulirus
homarus, Homarus americanus, Nephrops norvegicus; tiếp sau đó là Olivier (1791)
với loài Panulirus penicilatus; Herbst (1796) với loài Panulirus polyphagus;
Fabricius (1798) với loài Panulirus ornatus; và Latraille (1804) với loài Panulirus
versicolor, P.argus, P.guttatus [44].

George và Holthuis (1965) nghiên cứu các đặc điểm hình thái, giải phẫu và
phân loại trên một số loài tiêu biểu của giống Panulirus và Jasus, đã chính thức đưa
ra khóa phân loại của họ Palinuridae và Nephropidae, công trình được hầu hết các
nhà phân loại học cùng nhất trí về những đặc điểm chung của các loài Tôm Hùm
trong cùng một giống. Các kết quả đã được kiểm chứng và làm cơ sở cho nghiên
cứu về Tôm Hùm [31].
Đến những năm 1980 Phillips và Williams đã khẳng định họ Tôm Hùm Gai
(Palinuridae) gồm có 49 loài được phân chia thành 8 giống, nhưng chỉ có 33 loài
thuộc 3 giống (Panulirus, Palinurus và Jasus) có ý nghĩa quan trọng trong công
nghiệp khai thác Tôm Hùm của thế giới. Các giống loài thường gặp trong họ này
được chia thành 3 nhóm theo vùng sinh thái rõ rệt: vùng nhiệt đới, cận nhiệt đới và
ôn đới [44], [51].
4r
Theo nhóm tác giả trên Tôm Hùm được phân loại như sau:
Ngành Chân đốt
Lớp Giáp xác
Arthropoda
Crustacea
Bộ Mười chân
Phân bộ
Nhóm
Liên họ
Decapoda
Pleovcyemata
Palinura
Palinuridae
Họ Tôm Hùm gai
Palinuridae
Giống
Panulirus

Jasus
Palinutrus
Puerulus
Palinurus
Justitia
Linuparus
Projasus
Loà
i
Panulirus ornatus (Fabricius,1789)
Tên thường gọi: Tôm Hùm Bông, Tôm Hùm Sao.
1.1.2. Hình thái cấu tạo
Dựa trên các kết quả nghiên cứu hình thái học Tôm Hùm thì Kensler (1967)
và Holthuis (1991) đã đưa ra kết luận Tôm Hùm Gai là nhóm có kích thước lớn nhất
trong lớp Giáp Xác; chiều dài toàn thân đã đạt tới 60cm (như loài Jasus verreauxi).
Chiều dài phần bụng tương đương với chiều dài phần giáp đầu ngực và dài khoảng
24 cm. Do những đặc điểm riêng của loài, Cobb và Wang (1985) đã có lập luận
khoa học để quy định phương pháp xác định chiều dài cơ thể Tôm Hùm bằng cách
đo từ chân gai hốc mắt đến mép cuối của giáp đầu ngực.
Cơ thể Tôm Hùm Gai được chia thành 2 phần rõ rệt là phần đầu ngực và
phần bụng. Phần đầu ngực là sự hợp lại của đầu và ngực gồm 14 đốt hợp lại với
nhau, mỗi đốt có 1 đôi phần phụ ngực. Trong đó 6 đốt trên tạo thành phần đầu và 8
5r
đốt sau tạo thành phần ngực. Trên phần đầu ngực gồm có: 2 đôi anten , đôi thứ nhất
phân nhánh và đôi thứ 2 rất dài có chứa nhiều gai nhỏ, anten là cơ quan cảm giác cơ
học và hóa học giúp tìm mồi, phát hiện và trốn tránh kẻ thù. 1 đôi mắt có thể cử
động tương đối linh hoạt và ở dạng kép; 5 đôi chân bò; phần miệng của Tôm Hùm
có hàm trên hàm dưới và các mảnh chân hàm.
Vỏ đầu ngực của Tôm Hùm kéo dài từ đốt ngực cuối đến mắt, phần vỏ đầu
ngực bao bọc các nội quan của của phần đầu ngực, 2 phần bên của vỏ đầu ngực là

khoang mang làm nhiệm vụ bảo vệ mang, phía dưới phần đầu ngực là xương ức
ngực. Tại gốc đôi chân bò thứ 3 của con cái và gốc đôi chân bò thứ 5 của con đực
có 1 lỗ sinh dục.
Phần bụng gồm có 6 đốt được bọc bởi lớp vỏ citin cả ở phần lưng bên và
bụng, phần lưng có màu sắc đặc trưng cho loài. Đốt bụng đầu tiên ở Tôm Hùm
không có chân bơi còn từ đốt thứ 2 đến thứ 5 có 4 đôi chân bơi. Chân bơi của con
đực có dạng nhánh đơn và 2 đôi chân bơi đầu tiên tạo thành cơ quan giao cấu, nó
trở lên nhám khi con đực thành thục. Chân bơi của con cái có dạng phân nhánh đôi
hình lá, nhánh trong chân bơi có những lông cứng, cấu tạo này tạo thuận lợi cho con
cái ôm trứng trong giai đoạn thành thục sinh dục và giữ trứng khi đẻ [39]. Đốt 6 ở
phần thân Tôm Hùm tạo thành chân đuôi và telson rất cứng và chắc chắn. Theo
Holthuis (1991) telson của Tôm Hùm là phần phụ trung gian của đốt bụng thứ 6
hoặc có thể là đốt bụng thứ 7. Hệ thống cơ bắp phần bụng rất rắn chắc, kết hợp với
phần chân đuôi như một mái chèo giúp Tôm Hùm vận động dễ dàng trong nước,
Tôm Hùm có đặc tính giật mạnh về phía sau khi gặp kẻ thù [33].
1.1.3. Đặc điểm sinh thái phân bố và chu kỳ sống
* Sinh thái phân bố
Nghiên cứu về sinh thái học, nhiều tác giả như Herrnkind (1980), Cobb
(1981), Lipciuc (1983), William & Dean (1989), MacDiarmind (1991) đã kết luận
6r
Tôm Hùm Gai sống được cả ở vùng biển ôn đới và nhiệt đới, tuy nhiên các giống có
thành phần loài phong phú đều tập trung ở vùng biển nhiệt đới.
Môi trường sống của Tôm Hùm có quan hệ với hoạt động của sóng, dòng
chảy gần hay xa bờ, chế độ thủy triều cũng như vật chất từ lục địa đổ ra biển. Tổng
hợp các mối quan hệ trên tạo ra khu vực sinh thái riêng cho từng loài Tôm Hùm,
chúng thường sống từ vùng triều đến vùng biển sâu tới 300 m trong các hang hốc và
vùng đáy là đá, bùn cát hay thảm thực vật. Ví dụ như loài P. penicillatus thường
gặp ở vùng rạn xa bờ nơi có sóng biển đập vỗ mạnh, hay P. Longipes thì lại thích
sống trên mặt rạn nơi có nhiều ánh sáng và oxy hòa tan cao, còn P. Vercicolor chỉ
được tìm thấy dưới những lớp đá ngầm nơi có dòng chảy mạnh và P. Interruptus

thường ưa những vùng có đáy đá sỏi có thảm tảo bẹ phân bố [14].
Ở Việt Nam có 7 loài tôm hùm thuộc giống Panulirus (P.ornatus;
P.homarus; P.longipes; P.stimpsoni; P.penicillatus; P.versicolor; P.polyphahus)có
giá trị kinh tế, chúng thường phân bố ở khu vực ven bờ từ Vịnh Bắc Bộ đến vịnh
Thái Lan, đó là các loài đặc trưng cho tôm Hùm nhiệt đới [10,12].
Loài P.ornatus có kích thước lớn nhất trong 7 loài hay gặp ở Việt Nam, kích
thước đạt được từ 4 – 6 kg và thường sống ở độ sâu 25 – 30 m nước trong các rạn
đá hay san hô xa bờ. Rạn đá nơi Tôm Hùm thường cư trú là rạn ghềnh và rạn ngầm,
Tôm Hùm con thường bắt gặp nhiều tại các ghềnh rạn, vì đây là các rạn đá nằm ở
các mũi chắn sóng chân các đảo, các cù lao hay chân các mỏm đá từ đất liền nhô ra
biển. Vùng ven biển miền Trung Việt Nam là nơi phân bố chủ yếu của các loài Tôm
Hùm, ví dụ như loài P. Longipes thường bắt gặp nhiều ở vùng biển Bình Cang (Nha
Trang) và Vịnh Phan Rang [1].
Theo Nguyễn Thị Bích Thúy (1994) nghiên cứu về phân bố của Tôm Hùm
Panulirus trong thời kỳ thành thục sinh dục cho thấy hiện tượng di cư sinh sản ra
những vùng rạn xa bờ có độ sâu 10 m nước, loài P.ornatus di cư ra sâu hơn các loài
khác là trên 30 m nước [7]
7r
Có thể nói giai đoạn trưởng thành của Tôm Hùm Gai là bước ngoặt đáng chú
ý trong đặc tính phân bố, đó là sự di chuyển có định hướng của chúng từ vùng rạn
nông ven bờ đến những vùng rạn sâu xa bờ, liên quan đến quá trình lột xác, cặp đôi
và thụ tinh. Theo McKoy & Leachman (1982), MacDiarmid (1985), Lipcius &
Herrnind (1987) các tiến trình sinh sản có quan hệ chặt chẽ với các yếu tố môi
trường như chu kỳ ánh sáng và nhiệt độ làm thay đổi khả năng cặp đôi và sự phát
triển buồng trứng của các cá thể. Đặc biệt nhiệt độ cao làm tăng đáng kể tỷ lệ lột
xác ở con trưởng thành. Hơn nữa, ở giai đoạn này các điều kiện sinh thái còn ảnh
hưởng đến thời gian cặp đôi, có thể vài ngày, hoặc 1 – 2 tháng sau khi lột xác như ở
loài P.homarus, P.cygnuns; hay ảnh hưởng đến cả sự thụ tinh cho trứng ở các con
cái. Đẻ trứng và ấu trùng nở ra rộ nhất vào mùa xuân và mùa hè, đa số các loài nở
vào ban đêm, ở vùng biển có dòng thủy triều khá mạnh để ấu trùng dễ dàng phân

tán nhanh ra vùng khơi [39].
* Chu kỳ sống
Theo Cobb & Wang (1985), Tôm Hùm Gai thụ tinh ngoài, con đực phóng túi
tinh trùng (tar – spot) vào ức ngực của con cái và túi tinh chỉ được con cái cào rách
ra trước khi đẻ trứng vài giờ để tinh trùng giải phóng ra thụ tinh cho các trứng mà
con cái đẩy xuống phía chân bụng. Trứng sẽ được tôm mẹ ấp giữ đến khi nở ra ấu
trùng phyllosoma trôi nổi tự do trên biển nhờ sóng gió và dòng chảy của đại dương.
Max & Hermkind (1985) và Hermkind & Butler (1986) đã thống nhất phân
chia chu kỳ sống của Tôm Hùm theo 5 giai đoạn: giai đoạn tiền trưởng thành
(immature), giai đoạn thành thục (manute), giai đoạn ấu trùng phyllosoma, giai đoạn
ấu trùng puerulus và giai đoạn tôm con (juvenile) [26].
Giống tôm Hùm Panulirus thuộc nhóm có tuổi thọ cao nhất có thể đạt tới 15
tuổi (Phillips,1975), giai đoạn phát triển từ ấu trùng đến con non được chia làm 9
giai đoạn đương tương với 2 thời kỳ: ấu trùng phyllosoma và giai đoạn puerulus.
Thời kỳ ấu trùng phyllosoma bao gồm 5 giai đoạn từ giai đoạn 1 đến giai đoạn 5 với
8r
khoảng thời gian cần thiết từ 3 đến 4 tháng, thời kỳ puerulus từ giai đoạn 6 đến giai
đoạn 9 với khoảng thời gian cần thiết từ 6 – 7 tháng. Như vậy, thời gian cần thiết
cho quá trình phát triển từ khi trứng nở đến khi con non ước tính khoảng 9 – 11
tháng, thời kỳ ấu trùng phyllosoma và con non (juveline) - đều có hình thức sống
phù du trong trong môi trường nước. Khi đã là Tôm Hùm con chúng cũng có 2 giai
đoạn tách biệt là bắt đầu sống đáy ở độ sâu từ 10 m trở vào bờ và sau đó chuyển
sang sống trong môi trường như tôm trưởng thành. Trong quá trình sinh trưởng và
phát triển Tôm Hùm dần ra sâu hơn và có thể ra đến độ sâu 150 m nước, đặc điểm
phân bố của Tôm Hùm là sự di chuyển có định hướng từ vùng rạn đá khu vực nước
nôngven bờ đến vùng rạn đá sâu xa bờ. Chính vì vậy con non thường hay gặp ở
những khu vực rạn nông gần bờ [1].
1.1.4. Đặc điểm sinh trưởng
Sự tăng trưởng của Tôm Hùm là một quá trình liên tục và được xác định
bằng sự tăng lên về chiều dài giáp đầu ngực (CL) hoặc khối lượng cơ thể (W),

giống như đặc điểm chung các loài giáp xác nó được biểu hiện qua quá trình lột xác.
Quá trình sinh trưởng ở các loài giáp xác, sự tăng kích thước cơ thể thường
ngay sau lột xác, biểu hiện bên trong với sự phân chia tế bào và tổng hợp protein.
Przibram & Megusar (1912) đã tính được khối lượng Tôm Hùm tăng lên gấp đôi và
kích thước tăng 1,26 mm sau mỗi lần lột xác trong điều kiện thuận lợi (môi trường,
thức ăn).
Theo Nguyễn Thị Bích Thúy (2004), một số yếu tố môi trường và sinh thái
cũng có liên quan mật thiết đến sự sinh trưởng, phát triển của Tôm Hùm như là nhiệt
độ, ánh sáng, độ muối, oxy hòa tan, thức ăn, tập tính sống bầy đàn và sự tái tạo các
phần phụ. Ví dụ như nhiệt độ nước thay đổi khoảng 3 – 50C có thể gây tử vong cho
tôm con và trong điều kiện không có ánh sáng, chu kỳ lột xác của tôm kéo dài, hoạt
động bắt mồi giảm, màu sắc tự nhiên mất dần, tôm phát triển không bình thường. Còn
9r
khi giảm độ muối đột ngột từ 8 – 10 ppt, tôm con sẽ bị chết hàng loạt, ở độ muối 20 –
25 ppt kéo dài 3 – 5 ngày gây hiện tượng chết tôm từ từ ở tôm con [5, 8].
Tôm Hùm Bông đạt kích thước 8 – 13 mm CL có chu kỳ lột xác là 8 – 10
ngày, nhóm kích thước 63 – 68 mm CL thì chu kỳ lột xác khoảng 40 ngày và đồng
thời qua mỗi lần lột xác kế tiếp thì tỷ lệ phần trăm tăng chiều dài giáp đầu ngực
giảm xuống [8].
1.1.5. Đặc điểm sinh học sinh sản
* Tỷ lệ giới tính
Tỷ lệ giới tính của đa số các loài thủy sản ở giai đoạn nhỏ gần như là 1: 1
nhưng các nghiên cứu về tỷ lệ này cho thấy sự khác nhau đối với từng loài, từng
vùng phân bố và khác 1.
Trong nghiên cứu của Nguyễn Thị Bích Thúy (1994) cho thấy tỷ lệ đực/cái
của Tôm Hùm tại các vùng phân bố của Việt Nam như sau: vùng Cù Lao Chàm
(1:0,062), Cù Lao Ré (1:1,150) và vùng Ninh Thuận – Bình Thuận (1:1,173) [8]
Sutcliffe (1953) nghiên cứu loài P.guttatus ở vùng biển Bermuda cho thấy tỷ
lệ đực/cái ở quần thể nhỏ và trưởng thành là 10:1. Cũng đối với loài P.guttatus thì
Newman (1971) lại thu được kết quả ở vịnh Eland là 3:7 còn ở vịnh Musel chỉ là

2:1 [46].
Những nghiên cứu trên P.ornatus ở vùng biển Daru của MacFarlane (1980)
cho thấy, trong quần thể tôm nhỏ với chiều dài giáp đầu ngực từ 10 – 20 mm, cho
đến quần thể tôm trưởng thành với giáp đầu ngực dài 150 – 160 mm luôn gặp con
đực nhiều hơn con cái và tỷ lệ này giao động trong khoảng 1:0,5; 1:0,39; 1: 0,16; 1:
0,04; 1:0,01 [41].
10r
Chittlebrough (1974), David (1977) và Channells (1986) đã nghiên cứu bổ
sung thêm về tỷ lệ giới tính ở P.ornatus trong vịnh Torres Strait thấy rằng tỷ lệ con
đực luôn lớn hơn con cái phổ biến chiếm khoảng 60 – 80% trong vùng biển này [24].
* Dấu hiệu thành thục
Theo Aiken & Waddy (1980), để xác định thành thục sinh dục ở Tôm Hùm
đực thì có 2 cách: dựa vào yếu tố sinh lý, tức là các cá thể đực có thể sản xuất ra
tinh trùng nhưng chưa có khả năng cặp đôi; hoặc dựa vào yếu tố chức năng, nghĩa là
có khả năng cặp đôi và phóng tinh sang cá thể cái [13].
Nghiên cứu của Berry (1970) cũng xác định hầu hết những con đực luôn có
kích thước lớn hơn con cái khi đạt đến giai đoạn thành thục sinh dục và cá thể đực
có đôi chân bò dài hơn hẳn cá thể cái giúp cho việc giao cấu đạt hiệu quả khi chúng
kết đôi với nhau [16].
Đối với Tôm Hùm cái nhận biết sự thành thục sinh dục có thể dễ dàng hơn.
Nhiều tác giả như Fielder (1964), Chittleborough (1974), Juinio ( 1987)… đều cho
rằng cơ sở để xác định sự thành thục sinh dục của đa số các loài thuộc giống
Panulirus được dựa vào sự xuất hiện các lông cứng ở nhánh trong của chân bụng,
nơi trứng có thể bám dính vào khi đẻ. Ngoài ra cũng có thể biết được con cái thành
thục dựa vào sự xuất hiện của túi tinh trùng ( Tar – spot) trên ức ngực [35].
* Kích thước tham gia sinh sản
Kích thước tham gia sinh sản lần đầu của các loài khác nhau cũng khác nhau
rõ rệt : Chubb (1991) cho biết với P.cygmus kích cỡ thành thục lần đầu của loài khi
có chiều dài giáp đầu ngực là (CL) bằng 75 mm ở con cái, nhưng cá thể nhỏ nhất
tham gia sinh sản chỉ khoảng 48,9 mm; Herrnkind & Olsen (1971) lại xác định ở

loài P.argus là 120 mm với con đực và 103 mm với con cái, nhưng sinh sản lần đầu
ở con cái khoảng 90 – 95 mm; còn George và Morgan (1976) đã xác định với loài
P.vercicolor là 66 mm với con cái và 72 mm với con đực [32].
11r
Riêng với P.ornatus – loài duy nhất trong giống Panulirus có tập tính di cư
sinh sản thì MacFarlane và Moore (1984) đã bắt gặp con cái nhỏ nhất thành thục có
chiều dài CL là 78,6 mm , nhưng phần lớn thường có chiều dài 110 mm [41]. Tiếp
theo Bell và Chanells (1987) nghiên cứu di cư đẻ trứng của P.ornatus ở Torres
Strait và ở vùng đông bắc Queensland. Các tác giả đã chứng minh được P.ornatus
luôn luôn di cư khi buồng trứng đạt đến giai đoạn I và II, khi di chuyển đến địa
điểm cuối cùng là đảo Yale thì 100% tôm cái đều đã được thụ tinh và kích cỡ tôm
cái ôm trứng dao động từ 88,0 mm CL đến 114,3 mm ở độ sâu từ 15 – 23 m [15].
Chiều dài thân (chiều dài thân bé nhất bắt gặp khi mang trứng) của một số
loài tôm Hùm ở Việt Nam khi tham gia sinh sản lần đầu phụ thuộc từng loài. Ví dụ
như chiều dài thân của loài P.versicolor là 19,7 cm, P.longipes là 14,4 cm,
P.stimpsini – 16,0 cm, P.ornatus – 22,9 cm, P.homarus – 17,4 cm, P.penicillatus –
19,7 cm [1].
* Mùa sinh sản
Một số chuyên gia tại phòng thí nghiệm Florida cho rằng nhóm Panulirus chỉ
có một lần giao phối vào mùa xuân trong năm [13].
Chittleborough (1976) nghiên cứu về hiện tượng lột xác và giao phối; đẻ
trứng trong điều kiện tự nhiên và điều kiện nuôi loài P.cynus, nhận thấy chỉ có 12%
con cái trong đàn tự nhiên sinh sản 2 lần một năm, nhưng trong điều kiện nuôi có
tới 77% con cái mang trứng 2 lần trong năm và ông còn ghi nhận được một số cá
thể có tới 6 lần đẻ trứng trong năm [25].
Mac Farlane và Moore (1986) có kết luận về con cái P.ornatus di cư đẻ 3 lần
trong mùa sinh sản; ông cho rằng nhóm di cư đầu tiên là cuối tháng 10, nở ấu trùng
vào cuối tháng 11 hoặc đầu tháng 12 ở vùng đảo Yale, đẻ lần 2 vào đầu tháng 1 ở
vùng biển có hệ đá ngầm, và lần thứ 3 vào khoảng đầu đến giữa tháng 2. Các nhóm
12r

di cư sinh sản tiếp theo đã khiến cho mùa sinh sản kéo dài đến cuối tháng 3 hoặc
đầu tháng 4 [42].
Kancirut và Herrnkind (1976) nghiên cứu mức độ sinh sản của Tôm Hùm ở
các nhóm kích cỡ CL khác nhau đã sử dụng 3 thông số đưa vào tính toán là:
A: Tỷ lệ con cái trong nhóm kích thước/ tổng số con cái.
B: Tỷ lệ con cái mang trứng trong nhóm kích thước.
C: Số lượng trứng trung bình của các con cái trong nhóm kích thước.
D: Hằng số chỉ mức độ sinh sản = A x B x C
Đồng thời các tác giả cũng đã tính được hằng số D đối với loài P.argus vùng
Bimini ở nhóm kích thước 70 – 100 mm CL (chiếm 3,6% quần đàn) là 13,9% tổng
số trứng; nhóm kích thước 70 – 75 mm CL (chiếm 14,9% quần đàn) nhưng chỉ có
2,3% tổng số trứng [37].
Ven biển miền Trung quanh năm đều bắt gặp Tôm Hùm cái mang trứng,
trong 7 loài Tôm Hùm kinh tế của Việt Nam, mùa vụ sinh sản chính bắt đầu từ
tháng 3 đến tháng 10 hàng năm, loài P.ornatus con cái thường ôm trứng từ tháng 3
đến tháng 10, mùa đẻ chính từ tháng 7 đến tháng 9 (bắt gặp 50% tôm mẹ mang
trứng ngoài); P.homarus con cái mang trứng từ tháng 12 đến tháng 9 năm sau, mùa
vụ đẻ chính từ tháng 4 đến tháng 7; loài P.longipes ôm trứng từ tháng 3 đến tháng
10, mùa sinh sản chính là tháng 4 đến tháng 9 và rộ nhất vào tháng 9. Cá thể mẹ ôm
trứng ngoài thu được trong mùa đẻ chính cho thấy một kết luận là Tôm Hùm đẻ ít
nhất 2 lần trong năm. Theo Nguyễn Thị Bích Thúy (1994), Tôm Hùm Bông
(P.ornatus ) mùa vụ sinh sản có 2 vụ/năm, tháng 1 đến tháng 5 là vụ 1 và đỉnh sinh
sản là tháng 4, mùa vụ 2 từ tháng 8 đến tháng 10 và đỉnh sinh sản là tháng 9 [7].
13r
* Các giai đoạn phát triển của buồng trứng
Berry (1971) đã nghiên cứu trên loài P.homarus cho rằng buồng trứng có 5
giai đoạn phát triển là:
Giai đoạn 1 (buồng trứng non): buồng trứng mỏng nhỏ và có màu trắng.
Giai đoạn 2 (buồng trứng đang phát triển): buồng trứng đã căng lên và có
màu hồng sáng.

Giai đoạn 3 (giai đoạn tiền thành thục): thể tích buồng trứng tăng lên rõ rệt
và có màu vàng cam. Các tế bào trứng tương đối căng tròn.
Giai đoạn 4 (giai đoạn chín): buồng trứng căng cực đại, có mầu cam sáng;
các tế bào trứng căng tròn rất dễ rời nhau.
Giai đoạn 5 (sau khi thải trứng): buồng trứng xẹp xuống, có nhiều đốm màu
khác nhau, bao gồm những tế bào trứng non, tế bào trứng chín còn xót lại. Thường
có màu vàng nhạt đục.
Kết quả nghiên cứu này là cơ sở để đi sâu về sinh lý – sinh học sinh sản của
Tôm Hùm. [17]
1.2. Một số nghiên cứu về dinh dưỡng và thức ăn cho Tôm Hùm
* Nghiên cứu về nhu cầu dinh dưỡng
Tôm Hùm là loài ăn tạp, trong tự nhiên chúng có thể ăn các loài như tôm,
ghẹ, cua, cá, thân mềm, cầu gai, nhuyễn thể…Ngoài thức ăn chính là động vật, đôi
khi chúng còn ăn các loại thực vật như rong…Tôm Hùm có tập tính bắt mồi tích
cực vào ban đêm và tờ mờ sáng. Tùy vào từng giai đoạn phát triển mà nhu cầu dinh
dưỡng của Tôm Hùm có sự khác nhau.

×