BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
TRẦN HỒNG MINH
Chuyên ngành: Khai thác thủy sản
Mã số: 60.62.80
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS NGUYỄN VĂN ĐỘNG
NHA TRANG - 2010
1
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng:
- Các số liệu thu thập đảm bảo độ chính xác và trung thực với thực tế.
- Các nguồn số liệu khác được sử dụng hoặc trích dẫn đều là các tài liệu, số liệu
đã được công bố hoặc có sự cho phép của tác giả.
- Luận văn này hoàn toàn do tôi tự viết và trình bày, không sao chép từ bất cứ tài
liệu nào.
- Trong suốt quá trình thực hiện luận văn không xảy ra tranh chấp gì với các cá
nhân, tổ chức khác.
Tôi xin chịu trách nhiệm hoàn toàn trước pháp luật về những lời cam đoan trên.
Người cam đoan
Trần Hồng Minh
2
LỜI CẢM ƠN
Phát triển bền vững khai thác hải sản là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong
định hướng những năm tới của tỉnh Khánh Hòa. Đây là lĩnh vực nghiên cứu mới đối với
các ngành kinh tế nói chung và ngành Thủy sản Việt Nam nói riêng, trong đó có khai
thác hải sản. Một số nghiên cứu và định hướng thể hiện trong Đề tài Luận văn Cao học
“Giải pháp phát triển bền vững nghề khai thác hải sản tỉnh Khánh Hòa”, lần đầu
được tiến hành trong địa bàn tỉnh Khánh Hòa chắc chắn có nhiều khó khăn, hạn chế.
Với dưới sự hướng dẫn, giúp đỡ tận tình của các Thầy giáo và đồng nghiệp, tôi đã hoàn
thành luận văn này.
Luận văn được sự hỗ trợ của Sở Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn tỉnh
Khánh Hòa, Chi cục Khai thác và Bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản tỉnh về nguồn số liệu lưu
trữ. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn và cũng xin bày tỏ lòng biết ơn đến Thầy hướng dẫn
PGS.TS Nguyễn Văn Động các chủ tàu, thuyền trưởng, cộng đồng ngư dân các địa
phương tỉnh Khánh Hòa đã hợp tác, giúp đỡ những thông tin cần phục vụ đề tài.
Nha Trang, tháng 5 năm 2010
Học viên
Trần Hồng Minh
3
MỤC LỤC
Trang
Trang bìa phụ
Lời cam đoan 1
Lời cảm ơn 2
Mục lục 3
Danh mục các chữ viết tắt 6
MỞ ĐẦU
7
Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Đề tài 9
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 9
Chương 1: TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
10
1.1. Tổng quan nghề KTHS tỉnh Khánh Hòa.
10
1.1.1. Điều kiện tự nhi
ên
10
1.1.2. Nguồn lợi hải sản 12
1.2. Tình hình nghiên cứu về PTBV nghề KTHS trên thế giới. 13
1.2.1. Giảm số lượng tàu thuyền khai thác và chuyển đổi nghề nghiệp 14
1.2.2. Áp dụng các mô hình toán trong quản lý khai thác thủy sản 16
1.2.3. Áp dụng hệ thống quản lý nghề cá có trách nhiệm 16
1.2.4. Áp dụng hệ thống quản lý khai thác theo hạn ngạch 17
1.2.5. Hệ thống quản lý thủy sản ở các nước trong khu vực Đông Nam Á 19
1.3. Tình hình nghiên cứu trong nước liên quan đến PTBV nghề KTHS.
20
1.4. Lý thuyết về phát triển bền vững nghề KTHS
23
1.4.1. Quan niệm về phát triển bền vững nói chung 26
1.4.2. Khái niệm về phát triển bền vững nghề KTHS 24
1.4.3. Lý thuyết xây dựng các giải pháp PTBV nghề KTHS Khánh Hòa 25
Chương 2: NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
27
2.1. Nội dung nghiên cứu. 27
2.2. Tài liệu và phương pháp nghiên cứu.
27
2.2.1. Tài liệu 27
2.2.2. Phương pháp nghiên cứu 28
4
Chương 3: THỰC TRẠNG NGHỀ KTHS TỈNH KHÁNH HÒA
32
3.1. Ngư trường và nguồn lợi hải sản của tỉnh Khánh Hòa
32
3.2. Hiện trạng phát triển nghề KTHS tỉnh Khánh Hòa
32
3.2.1. Khái quát chung 32
3.2.2. Cơ sở hạ tầng và dịch vụ hậu cần nghề cá 38
3.2.3. Các đặc điểm kinh tế - xã hội của cộng đồng ngư dân KTHS 40
3.2.4. Một số kết quả điều tra xã hội học cộng đồng nghề cá Khánh Hòa 41
3.2.5. Hiệu quả kinh tế của các nhóm nghề khai thác chính Khánh Hòa 43
3.2.6. Các chính sách phát triển nghề KTHS Khánh Hòa trong thời gian qua
44
3.2.7. Các cơ hội và thách thức đối với nghề KTHS tỉnh Khánh Hòa 45
3.2.7.1. Các cơ hội 45
3.2.7.2. Các thách thức 45
Chương 4: CÁC GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
NGHỀ KHAI THÁC HẢI SẢN TỈNH KHÁNH HÒA
47
4.1. Giải pháp về điều chỉnh năng lực KTHS
47
4.1.1. Căn cứ đề xuất 47
4.1.2. Nội dung giải pháp 49
4.1.3. Dự kiến tính khả thi của giải pháp 51
4.2. Giải pháp về phân vùng khai thác và quản lý nguồn lợi
51
4.1.1. Căn cứ đề xuất 51
4.1.2. Nội dung giải pháp 52
4.1.3. Dự kiến tính khả thi của giải pháp 53
4.3. Giải pháp về tổ chức sản xuất
53
4.1.1. Căn cứ đề xuất 53
4.1.2. Nội dung giải pháp 53
4.1.3. Dự kiến tính khả thi của giải pháp 55
4.4. Giải pháp về đào tạo nguồn nhân lực cho KTHS
56
4.1.1. Căn cứ đề xuất 56
4.1.2. Nội dung giải pháp 57
4.1.3. Dự kiến tính khả thi của giải pháp 57
5
4.5. Giải pháp về thể chế chính sách
58
4.1.1. Căn cứ đề xuất 58
4.1.2. Nội dung giải pháp 58
4.1.3. Dự kiến tính khả thi của giải pháp 59
4.6. Giải pháp về thị trường tiêu thụ sản phẩm KTHS
60
4.1.1. Căn cứ đề xuất 60
4.1.2. Nội dung giải pháp 60
4.1.3. Dự kiến tính khả thi của giải pháp 60
Chương V: KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
61
5.1. Kết luận
61
5.2. Khuyến nghị
61
TÀI LIỆU THAM KHẢO
63
PHỤ LỤC
64
6
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT
PTBV
Phát triển bền vững
KTHS
Khai thác hải sản
TAC
Tổng sản lượng khai thác
MSY
Sản lượng khai thác bền vững tối đa
CPUE
Sản lượng trên một đơn vị cường lực
SEAFDEC
Trung tâm phát triển nghề cá Đông Nam Á
FAO
Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên hợp quốc
IUCN
Tổ chức Bảo tồn thiên nhiên Thế giới
UNFPA
Quỹ Dân số Liên hợp quốc
CCRF
Mã số cho nghề cá có trách nhiệm
UBND
Ủy ban nhân dân
7
MỞ ĐẦU
Khánh Hòa là một tỉnh Duyên hải Nam Trung Bộ, có phần lãnh thổ trên đất liền
nhô ra xa nhất về phía biển Đông. Có bờ biển dài trên 385 km, có trên 200 hòn đảo
lớn nhỏ, bờ biển khúc khuỷu tạo ra nhiều vũng, vịnh sâu, ngoài việc thuận lợi cho xây
dựng cảng biển nước sâu, còn là nơi lý tưởng cho việc sinh sản, sinh trưởng của nhiều
loài thủy sinh, là điều kiện thuận lợi cho việc đánh bắt hải sản, trong đó có quần đảo
Trường Sa với vị trí quan trọng về quốc phòng và kinh tế của cả nước.
Khu vực biển Khánh Hòa có 600 loài cá, trong đó có khoảng 50 loài cá có giá
trị kinh tế cao. Cá nổi chiếm tỷ trong cao gồm các loài cá lớn như: Nhám, Thu, Ngừ,
Bạc má….Cá nhỏ như: cá Cơm, Trích, Nục, Chuồn, Chỉ vàng….; Cá đáy chiếm tỷ
trọng không lớn nhưng có giá trị kinh tế cao như: Cá Mú, Đổng, Mối, Đỏ Da….Trữ
lượng cá biển của vùng ven biển Khánh Hòa có nghiên cứu cho rằng khoảng 115.800
tấn/năm và lượng cá khai thác trung bình khoảng 38.000 tấn/năm [1].
Ngành Thủy sản tỉnh Khánh Hòa là một trong những ngành kinh tế trọng điểm
của tỉnh với giá trị sản xuất (Năm 2008) đạt 1.354 tỷ đồng, trong đó khai thác thủy sản
trên 663 tỷ đồng [2]. Theo thống kê mới nhất đến tháng 4 năm 2010 tòan tỉnh có
10.542 chiếc với tổng công suất 353.747 cv. Tuy nhiên nghề cá tỉnh Khánh Hòa vẫn
đang đứng trước những thách thức lớn do số lượng tàu thuyền có công suất nhỏ 20cv
vẫn chiếm tỷ lệ lớn với 5.535 chiếc, chiếm 52,5% [3]. Trong giai đoạn từ 2005 đến nay
chất lượng đội tàu gắn máy lớn của tỉnh chưa được cải thiện, thậm chí công suất trung
bình cv/tàu giảm từ 40 cv/chiếc (năm 2005) xuống còn 33,6 cv/chiếc (năm 2010).
Tổng số lao động trên 67.400 người, trong đó lao động nghề khai thác hải sản
là: 31.000 người. Tổng sản lượng khai thác hải sản của tỉnh năm 2009 là 72.301 tấn và
dự kiến năm 2010 là 74.000 tấn [4].
Tuy nhiên trên thực tế nghề khai thác hải sản tỉnh Khánh Hòa vẫn chủ yếu ở
vùng nước gần bờ và nghề khai thác hải sản xa bờ cũng mới chỉ phát triển trong một vài
năm trở lại đây. Việc phát triển nhanh chóng về số tàu thuyền đánh cá một cách tự phát
đã làm các hoạt động khai thác vùng ven bờ trở nên quá tải và có xu hướng cạn kiệt
nguồn lợi thủy sản vùng bờ.
Nếu hiểu theo định nghĩa của FAO, phát triển bền vững “Là sự phát triển đáp
ứng được những nhu cầu/yêu cầu hiện tại, nhưng không gây trở ngại/làm tổn hại
8
cho/đến việc đáp ứng nhu cầu của các thế hệ mai sau”. Để phát triển một cách bền
vững nghề khai thác hải sản (KTHS) của tỉnh Khánh Hòa là nhiệm vụ không dễ dàng,
bởi phải điều chỉnh một cách tối ưu mối quan hệ giữa Kinh tế - xã hội và môi trường.
Trong khi đó nghề KTHS là một nghề sử dụng tài nguyên thiên nhiên có thể tái tạo và
luôn giới hạn về mặt số lượng.
Mục tiêu phát triển bền vững nghề khai thác hải sản có thể hiểu theo nghĩa: Tối
đa về mặt sản lượng về khối lượng hoặc về thu nhập và duy trì một mức nhất định trữ
lượng đàn cá nhằm tạo ra một mức dự trữ nhất định hay không làm suy giảm nguồn
lợi.”. Với mục tiêu sinh học này có thể thay đổi để bao hàm các mục tiêu liên ngành
có liên quan đến các mục đích kinh tế - xã hội - môi trường.
Mục tiêu của việc quản lý bền vững nghề khai thác hải sản dựa trên khái niệm
tổng lượng cá đánh bắt cho phép (TAC) được đặt trên cơ sở tham khảo về khía cạnh
sinh học, ví dụ như MSY, khía cạnh kinh tế như MEY từ đó các nhà quản lý có thể ra
các quyết định như: xác định hạn mức khai thác, quy định số lượng tàu thuyền cần
thiết, lựa chọn loại nghề trên cơ sở chọn lọc và hiệu quả kinh tế, đảm bảo sinh kế cho
ngư dân những vẫn duy trì trữ lượng đàn cá qua các năm nhằm thực hiện các mục tiêu
của những năm tiếp theo.
Trong khuôn khổ của một Luận văn tốt nghiệp Cao học, đề tài “Giải pháp phát
triển bền vững nghề khai thác hải sản tỉnh Khánh Hòa”, được giải quyết trên cơ sở
khoa học việc xác định sản lượng khai thác tối ưu và cường lực tối ưu cùng với việc xác
định một số chỉ số về hiệu quả kinh tế, các vấn đề xã hội trong cộng đồng ngư dân
nhằm đạt được mục tiêu phát triển bền vững trong giai đoạn tới. Từ đó góp phần vào
việc điều chỉnh cơ cấu các nghề khai thác thủy sản tự nhiên phù hợp với khả năng cho
phép khai thác của nguồn lợi thủy sản; Kiểm soát chặt chẽ các phương thức khai thác
mang tính huỷ diệt, đồng thời không phát triển và giảm dần các nghề khai thác thiếu lựa
chọn, khai thác cả thuỷ sản còn non, phục hồi và phát triển các ngành nghề thay thế
nghề khai thác nguồn lợi thủy sản tự nhiên vùng biển ven bờ, tạo điều kiện ổn định đời
sống cho ngư dân, giảm sức ép khai thác đối với nguồn lợi thủy sản.
Kết quả nghiên cứu của Đề tài có thể làm tài liệu tham khảo cho tỉnh Khánh
Hòa trong việc thực hiện các Chương trình phát triển Kinh tế biển của tỉnh
9
* Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài:
Nghề khai thác hải sản (KTHS) tỉnh Khánh Hòa trong những năm vừa qua đã
có những phát triển vượt bậc cả về số lượng tàu thuyền cũng như sản lượng khai thác,
tuy nhiên năng suất khai thác cũng giảm mạnh.
Nếu như năm 2002, sản lượng trung bình trên một đơn vị cường lực đạt 0,42
tấn/cv/năm thì đến năm 2008 giảm xuống chỉ còn 0,30 tấn/cv/năm, giảm 0,12
tấn/cv/năm, tức là 28,6 % so với năm 2002. Việc quản lý nhằm ngăn chặn xu thế giảm
sút của nguồn lợi hải sản và chất lượng hệ sinh thái biển như: kích thước ngư cụ,
phương pháp khai thác, thông qua đăng ký, đăng kiểm… đã có những chuyển biến tích
cực. Tuy nhiên, hiệu quả của phương pháp này còn nhiều hạn chế và đòi hỏi chi phí cho
việc kiểm tra, giám sát tương đối lớn. Gần đây một số quốc gia trên thế giới và trong
khu vực đã sử dụng mô hình kinh tế - sinh học (mô hình Sachaefer) để xác định và
phân bố hạn ngạch khai thác đối với từng đội tàu, từng vùng biển và từng đối tượng
đánh bắt nhằm sử dụng một cách bền vững nguồn lợi sẵn có.
Mặc dầu còn hạn chế trong việc áp dụng mô hình Sachaefer trong nghề cá Việt
Nam, song thử nghiệm ban đầu này có thể có cách nhìn mới về định hướng phát triển
bền vững nghề cá nước ta, có thể giúp các nhà quản lý có các giải pháp phù hợp trong
công tác hoạch định chính sách và quản lý nghề khai thác phát triển bền vững. Đặc biệt,
cơ sở dữ liệu để tỉnh bổ sung vào Chương trình phát triển kinh tế biển đến năm 2020;
bổ sung vào Quy hoạch phát triển ngành thủy sản Khánh Hòa đến năm 2020, góp phần
thực hiện thắng lợi các Chương trình Quốc gia về biển.
* Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài là nghề khai thác hải sản tỉnh Khánh
Hòa, bao gồm các hồ sơ lưu trữ về nghề cá, các đối tượng ngư dân trong cộng đồng
nghề cá của Tỉnh trong việc thu thập thông tin qua các phiếu điều tra và những thông
tin thứ cấp về nghề cá ở quy mô quốc gia
10
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan nghề khai thác hải sản tỉnh Khánh Hòa.
1.1.1. Điều kiện tự nhiên.
- Vị trí địa lý:
Khánh Hòa là một tỉnh Duyên hải Nam Trung Bộ của nước ta, có phần lãnh thổ
trên đất liền nhô ra xa nhất về phía biển Đông. Phía Bắc giáp tỉnh Phú Yên, điểm cực
bắc: 12
0
52'15'' vĩ độ Bắc. Phía Nam giáp tỉnh Ninh Thuận, điểm cực Nam: 11
0
42' 50''
vĩ độ Bắc. Phía Tây giáp tỉnh Đắk Lắk, Lâm Đồng, điểm cực Tây: 108
0
40’33'' kinh độ
Đông. Phía Đông giáp Biển Đông, điểm cực Đông: 109
0
27’55'' kinh độ Đông; tại mũi
Hòn Đôi trên bán đảo Hòn Gốm huyện-Vạn Ninh, cũng chính là điểm cực Đông trên
đất liền của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Ngoài phần lãnh thổ trên đất liền, tỉnh Khánh Hòa còn có vùng biển, vùng thềm
lục địa, các đảo ven bờ và huyện đảo Trường Sa. Bên trên phần đất liền và vùng lãnh
hải là không phận của tỉnh Khánh Hòa.
Khu vực bờ biển có nhiều đảo lớn nhỏ tạo thành những eo vịnh và là nơi cư trú
của tàu thuyền khi thời tiết xấu. Có nhiều nhánh của dãy núi Trường Sơn đâm ra biển
tạo thành nhiều đầm vũng là nơi cư trú, sinh sản của các loài hải sản.
Thềm lục địa hẹp, đáy biển dốc, độ sâu vùng ven bờ khoảng 15-30 m, ra xa bờ
độ sâu tăng nhanh, có nơi độ sâu đạt 1.000 mm chỉ cách bờ trên 60 hải lý. Do tác động
của dãy Trường Sơn nằm gần biển nên chất đáy của biển cũng mang những nét riêng
biệt. Đó là đáy biển gồ gề, chất đáy thường cát bùn, vỏ sò.
- Đặc điểm địa hình:
Tỉnh Khánh Hòa có ba mặt là núi, phía Đông giáp biển. Chiều dài của tỉnh theo
hướng Bắc Nam khoảng 160km, còn theo hướng Đông Tây, nơi rộng nhất khoảng
60km, nơi hẹp nhất từ 1 đến 2km ở phía Bắc, còn ở phía Nam từ 10 đến 15km.
Diện tích của tỉnh Khánh Hòa là 5.197km
2
(kể cả các đảo, quần đảo), đứng vào
loại trung bình so với cả nước. Vùng biển rộng gấp nhiều lần đất liền. Bờ biển dài
385km, có khoảng 200 hòn đảo lớn nhỏ ven bờ và quần đảo Trường Sa.
Tỉnh Khánh Hòa có nhiều cảng biển, đặc biệt là cảng thiên nhiên Cam Ranh và
cảng biển nước sâu Vân Phong vào loại tốt nhất thế giới, đang được khai thác sẽ trở
thành cảng trung chuyển quốc tế lớn.
11
- Khí hậu:
Cùng với khí hậu chung của cả nước, Khánh Hòa mang khí hậu có tính chất
nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ cao quanh năm và ít có sự biến động lớn.
Về mùa Hạ: Tháng nóng nhất là tháng 6, nhiệt độ từ 25-30
0
C.
Về mùa Đông: Tháng lạnh nhất 12, nhiệt độ từ 17-23
0
C.
Nhiệt độ trung bình của cả năm ở vùng biển ven bờ: 25
0
C.
Sự chênh lệch nhiệt độ không lớn lắm giữa hai mùa nên rất thích nghi cho sự
sinh trưởng và phát triển của các loài hải sản.
- Gió:
Mang tính chất nhiệt đới gió mùa và một năm có hai mùa gió theo hai hướng
khác nhau:
Gió mùa mùa Hạ: Thổi theo hướng Tây Nam, từ tháng 5 đến tháng 10, tính chất
của gió: Khô, hanh.
Gió mùa mùa Đông: Thổi theo hướng Đông Bắc, từ tháng 11 đến tháng 4 năm
sau, tính chất của gió: gây mưa to, gió lớn.
Từ tháng 9-10 là khoảng thời gian chuyển tiếp của hai loại gió mùa. Nhìn chung
cường độ gió biển không lớn lắm và khác với các tỉnh phía Bắc. Đặc biệt bão ít khi vào
vùng biển Khánh Hòa.
- Mưa:
Chế độ mưa chia làm hai mùa rõ rệt. Mùa mưa chính chiếm khoảng 80% lượng
mưa cả năm, kéo dài từ tháng 9 đến tháng 12. Mùa mưa phụ là các tháng còn lại, chiếm
20%. Mùa mưa cũng là thời kỳ hoạt động của gió mùa Đông Bắc.
- Thuỷ triều:
Thuỷ triều mang tính nhật triều không đều. Hàng tháng số ngày nhật triều là: 18-
22 ngày. Thời gian từ tháng 3 đến tháng 4 nước xuống về đêm; tháng 4 đến tháng 10
nước xuống vào các buổi chiều; từ tháng 12 đến tháng 3 năm sau, nước xuống vào các
buổi sáng. Biên độ triều cao nhất là 2,2 m, thấp nhất là 0,5 m, trung bình trong năm là
1,5 m.
- Hải lưu:
Có chế độ dòng chảy chịu sự tác động rất lớn của chế độ gió mùa. Mỗi khi gió
mùa về thường gây nên sự đổi dòng và gây ra những dòng nước trồi.
12
Mùa Đông do tác động của gió mùa Đông Bắc làm xuất hiện hai hoàn lưu nóng
lạnh xáo trộn hình thành khu vực nước nổi ngoài khơi (từ tháng 10 đến tháng 4 năm
sau). Hai dòng nước này giữ cho nhiệt độ nước biển được ổn định.
Mùa hè do tác động của gió Tây Nam, một hoàn lưu chính có nhiệt độ từ 28-
30
0
C đi từ phía Nam lên sau khi chạm vào bờ chia làm hai nhánh. Một nhánh đi về phía
Đông tạo thành hoàn lưu khép kín theo chiều kim đồng hồ tại khơi Đông Nam Bộ
(Tháng 5 đến tháng 9). Một nhánh ven bờ biển Trung bộ đi lên phía Bắc đồng thời có
dòng nước ngầm có nhiệt độ từ 20-21
0
C ở độ sâu 50-100m từ phía Bắc Biển Đông
chảy đến và đập vào vách đảo ở thềm lục địa Trung Trung bộ gặp hoàn lưu nóng từ
phía Nam lên (Thời gian tháng 5-9) tạo thành vùng nước ấm xáo trộn rộng lớn.
- Độ mặn:
Vùng biển Khánh Hòa có nồng độ muối tương đối ổn định và có độ mặn khá
cao, trung bình khoảng 0,33 - 0,35%o. Độ mặn chênh lệch giữa hai mùa mưa nắng là
0,02%o.
1.1.2. Nguồn lợi hải sản.
Vùng biển Đông Nam bộ với trữ lượng ước tính 1.075.650 tấn và khả năng
khai thác 460.725 tấn, trong đó trữ lượng cá đáy chiếm khoảng 304.850 tấn với khả
năng khai thác 152.425 tấn; cá nổi 770.800 tấn và khả năng khai thác 308.300 tấn. [5].
Riêng vùng biển Khánh Hòa theo ước tính của các nhà chuyên môn có khả năng khai
thác 38.000 tấn/năm [1]
Theo số liệu của Viện Nghiên cứu hải sản Hải Phòng [5], ở vùng biển Đông
Nam bộ có:
* Nguồn lợi cá đáy:
- Thành phần loài: xác định được 639 loài thuộc 148 họ hải sản, cá kinh tế giảm,
cá tạp có chiều hướng gia tăng
- Năng suất khai thác (kg/h): Nhìn chung năng suất khai thác khá thấp, biến động
rõ rệt theo mùa vụ, năng suất khai thác tăng mạnh theo dải độ sâu từ bờ ra khơi. Khả
năng khai thác dao động trong khoảng: 230.000 - 400.000 tấn
* Nguồn lợi cá nổi nhỏ:
- Thành phần loài: 10 họ, 35 giống và 50 loài cá nổi nhỏ, tỷ lệ cá cá nổi nhỏ
chiếm khoảng từ 5,4 - 29,6 % tổng sản lượng. Các loài cá chiếm ưu thế: cá Bò da
13
(Aluterus monoceros), cá Ngân (Atule mate), cá Nục đỏ đuôi (Decapterus kurroides),
cá Nục sồ (Decapterus maruadsi), cá Nục thuôn (Decapterus macrosoma), cá Bạc má
(Rastrelliger kanagurta), cá Chỉ vàng Selaroides leptolepis), cá Tráo mắt to (Selar
crumenophthalmus)
- Khả năng khai thác tương ứng là 308.000 tấn.
1.2. Tình hình nghiên cứu và quản lý theo hướng PTBV nghề KTHS trên
thế giới.
Sản lượng khai thác hải sản trên toàn thế giới giảm 2% trong giai đoạn 2000 -
2002. Một số quốc gia có sản lượng khai thác giảm nhưng bù lại là sản lượng nuôi
trồng thủy sản tăng. Sản lượng khai thác trên thế giới năm 2002 đạt 93,2 triệu tấn. Tuy
nhiên nếu tính trên đầu người thì lượng thực phẩm khai thác giảm nhẹ từ 10,8kg (1997)
xuống còn 9,8kg (2002) [5].
Theo thống kê của FAO, trong giai đoạn 1970 - 2000 trữ lượng cá giảm từ 10 –
25%. Việc khai thác quá mức vẫn còn diễn ra ở nhiều nước, do đó các chương trình
khôi phục trữ lượng và ngăn chặn việc khai thác quá mức cần phải thực hiện nhanh
chóng ở mỗi quốc gia [6].
FAO thống kê từ 12 trong 16 vùng nghiên cứu cho thấy ít nhất 70% trữ lượng
cá đã bị khai thác hoàn toàn hay khai thác quá mức. Điều này cho thấy chúng ta đã khai
thác vượt ngưỡng tối đa và cần có những biện pháp quản lý để hạn chế việc khai thác
nhằm phục hồi nguồn lợi.
Để hướng đến phát triển bền vững có sự tham gia của cộng đồng, thông qua
FAO và Hội nghị thượng đỉnh phát triển bền vững Thế giới tổ chức tại Nam Phi năm
2002, các quốc gia đang xúc tiến mở rộng chính sách và quản lý tập trung vào việc bảo
vệ nguồn lợi và hệ sinh thái. Các vấn đề quản lý quan trọng nhất cần đề cập đến là ảnh
hưởng của nghề cá đến sinh cảnh, quần thể và mối tương tác sinh thái học cũng như các
hoạt động trong đất liền và sự thay đổi khí hậu. Đa số các loại ngư cụ khai thác không
có tính chọn lọc đã làm gia tăng việc loại bỏ các loài khai thác chưa đạt kích cỡ thương
phẩm trên biển. Do việc loại bỏ cá này đã làm gia tăng áp lực khai thác lên nguồn lợi có
thể dẫn đến việc khai thác quá mức, ảnh hưởng tới một số loài đang có nguy cơ bị đe
dọa [5].
14
Theo báo cáo của Quỹ dân số Liên hợp quốc (UNFPA), hơn 2/3 nguồn lợi hải
sản trên thế giới bị khai thác quá mức. Đến năm 2025, dân số thế giới đạt 9,3 tỷ người
thì nhu cầu thực phẩm thủy sản ngày càng gia tăng. Điều này có thể làm cho hoạt động
nghề cá chuyển sang quy mô lớn hơn và việc sử dụng các ngư cụ hủy diệt cũng gia tăng
nhằm khai thác cá triệt để. Theo chương trình bảo vệ môi trường của Liên hợp quốc,
các phương pháp khai thác hủy diệt là mối đe dọa lớn nhất vì nó không những làm cho
nguồn lợi suy giảm một cách nhanh chóng nhất mà còn tàn phá hệ sinh thái cần thiết
cho sinh trưởng, tồn tại và sinh sản của các loài sinh vật. Các phương pháp khai thác
hủy diệt nguy hiểm nhất phải kể đến là thuốc nổ, chất độc, xung điện mạnh và một số
nghề như lưới kéo đáy, tác hại của nghề lưới kéo đáy là làm hư hại nền đáy và đe dọa
đến đa dạng sinh học.
Khai thác bằng chất độc Cyanua rất phổ biến ở các nước Đông Nam Châu Á.
Các phương pháp khai thác này tập trung vào các loài cá rạn san hô có giá trị kinh tế
cao như: cá Mó (Cheilinus undulatus) và cá Mú chuột (Cromoleptis altevi, Epinephelus
lanceolatus) để bán cho Hồng Kông. Năm 1997 Hồng Kông đã nhập khẩu khoảng
32.000 tấn cá rạn tươi sống. Trong đó 2 loài cá này đang nằm trong danh mục những
loài quý hiếm đang có nguy cơ đe dọa nằm trong sách đỏ của IUCN. Mặc dù việc
nghiêm cấm khai thác hai loài cá này ở một số quốc gia như Philippines, Indonesia và
Maldives, nhưng các loài cá này vẫn được tìm thấy trên thị trường Hồng Kông.
Khai thác thủy sản cũng là sinh kế chính cho các nước Châu Á. FAO (2002)
ước tính có khoảng 27 triệu người hoạt động trong khai thác thủy sản trên thế giới,
trong đó Châu Á có 22 triệu người.
Trước nguy cơ nguồn lợi suy giảm, hệ sinh thái bị tàn phá. Một số phương
pháp khai thác và bảo vệ nguồn lợi hợp lý đang được áp dụng trên thế giới như sau:
1.2.1. Giảm số lượng tàu thuyền khai thác và chuyển đổi nghề nghiệp
Năm 2004, tổng số tàu thuyền trên thế giới khoảng 4,1 triệu chiếc. Số lượng
thuyền khai thác tập trung nhiều nhất ở Châu Á (85%). Tiếp theo là Châu Âu (8,9%),
Bắc và Trung Mỹ (4,5%) [6]
Trước sự gia tăng số lượng và công suất tàu thuyền, một số nước đã thực hiện
nghiêm túc việc cắt giảm số lượng tàu thuyền dư thừa. Việc giảm số lượng tàu thuyền
công suất lớn là rất cần thiết, tuy nhiên việc khai thác xa bờ luôn luôn đòi hỏi phải dùng
15
tàu công suất lớn mới đảm bảo an toàn trong điều kiện thời tiết xấu. Ngoài ra các tàu
công suất lớn thì khai thác cá nổi ngoài biển khơi hiệu quả hơn. Do đó theo dự báo thì
số lượng tàu cỡ lớn sẽ gia tăng trong thời gian tới [6].
Tuy nhiên, ở một số nước đang thực hiện chương trình cắt giảm số lượng tàu cỡ
lớn. Trung Quốc đang nỗ lực giảm kích thước thuyền, số lượng người tham gia khai
thác nhằm hạn chế việc khai thác quá mức. Năm 2000, số lượng lao động khai thác
giảm 2% và có khoảng 4% được chuyển qua làm các nghề khác. Trung Quốc cố gắng
loại bỏ một số thuyền cũ, kém hiệu quả và tăng cường tập huấn cho họ về nuôi trồng
thủy sản. Kết quả là số người nuôi trồng thủy sản tăng 6% năm 2002 so với năm 2000
và nguồn lợi dần được khôi phục.
Xu hướng chuyển đổi lực lượng lao động khai thác sang NTTS cũng được tiến
hành ở nhiều quốc gia khác nhau. Các nước công nghiệp, đặc biệt là Nhật Bản và một
số nước Châu Âu, lực lượng lao động KTHS giảm qua các năm vừa qua. Đây là kết quả
của các chương trình cắt giảm cường lực khai thác và áp dụng khoa học công nghệ tiên
tiến [5].
Năm 2003, một số quốc gia đã giảm một lượng lớn tàu 100 tấn. Nhật Bản là
nước đầu tiên với số lượng giảm là 140 chiếc. Hơn 90% tàu Nhật Bản có công suất
dưới 5 tấn. Số lượng loại này giảm từ giữa năm 1997 – 2000. Đặc biệt số tàu trên 50 tấn
giảm 20%.
Khối liên minh châu Âu cắt giảm 2% tàu khai thác hàng năm. Số lượng tàu
thuyền của liên minh châu Âu giảm từ 96.000 chiếc (năm 2000) xuống còn 88.701
chiếc (năm 2003). Trong đó 13% là lưới kéo, 6% lưới rùng, 3% lưới rê, 16% câu còn lại
là các nghề khai thác khác.
Theo thống kê của FAO thì tàu khai thác cá ngừ vượt quá công suất cho phép.
Do đó việc đóng tàu công suất lớn cần phải tạm ngưng, đồng thời di chuyển một số tàu
khai thác xa bờ vào vùng ven bờ [5].
Iceland giảm 8% lượng tàu khai thác năm 2002 và 10% trong 5 năm trước đó .
Ở Nauy có 9.569 chiếc tàu khai thác đăng ký đến thời điểm tháng 12/2002. So
với năm 2000 thì số lượng tàu đã giảm 48% [5].
Như vậy việc cắt giảm số lượng tàu thuyền đã góp phần đáng kể đến việc khôi
phục nguồn lợi ở một số quốc gia.
16
1.2.2. Áp dụng các mô hình toán trong quản lý khai thác thủy sản.
Cùng với sự gia tăng số lượng tàu thuyền một cách nhanh chóng, một số mô
hình toán về quản lý nguồn lợi đã được sử dụng nhằm quản lý nguồn lợi thủy sản. Các
mô hình này là sự kết hợp giữa sinh học và kinh tế (Hannesson, 1978). Sự phát triển mô
hình động học quần thể của Beverton và Holt (1957) đã góp phần quan trọng trong khai
thác và bảo vệ nguồn lợi thủy sản.
Trong các mô hình này có sự kết hợp kinh tế – xã hội và nguồn lợi tự nhiên đã
đưa đến khái niệm mới trong nghiên cứu nguồn lợi: mô hình kinh tế sinh học. Mô hình
động học quần thể của Beverton và Holt, Gordon Schaefer và Fox là những mô hình
đang được sử dụng rộng rãi trong phân tích kinh tế thủy sản, đặc biệt là đối với các
nước nhiệt đới, nơi có nghề cá đa loài khó dự báo trữ lượng chính xác (Gordon, 1954).
Các mô hình cho phép tính toán hiệu quả kinh tế và sinh học trong thủy sản, khả năng
dự báo, lập kế hoạch và điều chỉnh số lượng tàu thuyền cũng như cường lực một cách
tốt hơn.
1.2.3. Áp dụng hệ thống quản lý nghề cá có trách nhiệm.
Mặc dù việc khai thác quá mức ở Châu Âu được xem xét trong hơn 20 năm
qua, nhưng Liên minh Châu Âu chưa thực hiện thành công quản lý thủy sản bền vững.
Nhà nước hỗ trợ hàng triệu Euro vào ngành công nghiệp khai thác làm cho số lượng tàu
công suất lớn gia tăng rất nhanh. Việc xây dựng hệ thống quản lý mới là giảm số lượng
tàu thuyền và nâng cao trách nhiệm giữa những người quản lý và người dân trong việc
khôi phục nguồn lợi và hệ thống này cần phải khẩn trương thực hiện nhanh chóng [7].
Hệ thống quản lý mới là chuyển quyền khai thác có trách nhiệm cho người dân,
trong đó mọi người dân xem nguồn lợi thủy sản là tài sản chung của mọi người và cần
phải được bảo vệ. Với hệ thống quản lý này cho thấy có những thành công lớn trong
việc bảo vệ và phục hồi nguồn lợi. Các thành viên EU đã thực hiện hiệu quả việc khôi
phục trữ lượng, giảm áp lực khai thác và đem lại lợi ích kinh tế cao cho ngành công
nghiệp khai thác của mình
Từ 1990, số lượng tàu thuyền thuộc khối EU gia tăng một cách nhanh chóng.
Dựa trên số liệu thống kê, EU dự báo số tàu thuyền khai thác ở EU cao hơn 40% so với
đăng ký thực tế. Kết quả là khai thác quá mức và nguồn lợi bị suy giảm. Đầu những
năm 1990, EU đã thỏa thuận hiệp định cơ bản về khai thác hạn ngạch, giới hạn cường
17
lực khai thác và xây dựng các khu bảo tồn biển. Theo Hiệp định này, nghề khai thác
phải được quản lý sao cho trữ lượng nguồn lợi hiện có phải cân bằng với tốc độ tử vong
của từng loài. Thế nhưng theo Hội đồng bảo vệ môi trường biển Đông Bắc Đại Tây
Dương thì 2/3 trữ lượng cá ở vùng này vẫn không được quản lý một cách bền vững [7].
1.2.4. Áp dụng hệ thống quản lý khai thác theo hạn ngạch.
Đầu những năm 1980, do nguồn lợi thủy sản ngày càng ít trong khi đó số lượng
thuyền khai thác quá nhiều. Ngành công nghiệp khai thác Newzealand và Chính phủ
nước này nhận thấy rằng cần phải có một hệ thống quản lý mới trong khai thác hải sản.
Vào tháng 10/1986, sau 2 năm lập kế hoạch và thẩm định, hệ thống quản lý theo hạn
ngạch được áp dụng. Nguyên tắc của khai thác hạn ngạch là các cá nhân hay công ty
đăng ký sẽ được quyền khai thác với một số lượng nhất định của một loài nào đó. Hạn
ngạch đã trở thành một dạng tài sản có thể cho thuê, mua, bán hoặc chuyển nhượng.
Hàng năm các nhà khoa học và ngành khai thác sẽ cùng nhau đánh giá trữ
lượng của từng loài. Sau đó quy định hạn ngạch cho phép khai thác cho ngư dân và các
công ty. Khi đã đủ hạn ngạch các các nhân hay công ty phải dừng và mua hạn ngạch
của người khác. Theo lý thuyết không ai cho phép khai thác vượt hạn ngạch của mình
và tổng lượng khai thác không vượt quá tổng hạn ngạch cho phép. Tuy nhiên trong thực
tế, sản lượng khai thác thường lớn hơn hạn ngạch cho phép. Những trường hợp này
phải nộp phạt hoặc phải trả tiền thuế rất cao cho phần sản lượng vượt quá hạn ngạch
cho phép.
Theo sau hệ thống quản lý bằng hạn ngạch, trong những thập niên vừa qua, có
nhiều Quốc gia áp dụng hệ thống quản lý định mức khai thác cá nhân. Thông qua quy
định này người dân có thể chuyển nhượng, bán hoặc cho thuê như tài sản cá nhân của
mình. Nhiều Quốc gia đã áp dụng thành công hệ thống quản lý này như: Canada,
Australia, Chilê, Mỹ…và kết quả có nhiều dẫn chứng cho thấy trữ lượng đã được hồi
phục [7].
Các nghiên cứu về hệ thống quản lý theo hạn ngạch của Newzealand cho thấy
giá trị quyền chuyển nhượng quyền khai thác đã được nâng cao. Trữ lượng đã được hồi
phục ở nhiều vùng khác nhau, trữ lượng quần thể đã ổn định và một số loài có biểu hiện
gia tăng.
18
Trữ lượng ổn định cũng được thấy ở Hà Lan khi áp dụng hệ thống quản lý theo
hạn ngạch. Nhờ áp dụng hệ thống này, giá trị sản lượng khai thác trên một đơn vị
thuyền ở biển Bắc năm 1998 tăng 33 lần so với 15 năm trước. Ở Iceland, tổng giá trị
hạn ngạch khai thác năm 2000 tăng gấp 20 lần so với năm 1984 [9]. Sản lượng khai
thác hàng năm của Iceland tăng hơn 4% so với trước đây (chỉ 2,8%) (1974-1995). Lợi
nhuận công nghiệp khai thác của Iceland tăng 10 lần từ 1984 – 1996 [7].
Trải qua 30 năm sau nghề khai thác tự do, nghề khai thác của Nauy đã được
quản lý bằng việc đăng ký định mức khai thác nhằm ngăn chặn việc khai thác quá mức
và suy giảm nguồn lợi. Sự di chuyển của một số loài cá đến vùng địa phận quốc tế làm
cho áp lực khai thác của nhiều quốc gia ở vùng này gia tăng. Do đó việc thực hiện hiệp
định khai thác quốc tế bảo vệ nguồn lợi hải sản là rất cần thiết. Nauy có truyền thống
lâu đời về hợp tác quốc tế khai thác hải sản. Nauy đã ký hiệp định thủy sản với nhiều
quốc gia. Năm 1995, Hiệp định Liên hợp quốc về bảo vệ nguồn lợi và trữ lượng cá di
cư là bước đi đúng hướng và họ đã chú trọng đến việc thực hiện hiệp định này.
Mục tiêu của Nauy là bảo vệ và hồi phục nguồn lợi cá để khai thác bền vững
hàng năm theo định mức dựa vào nghề cá có trách nhiệm. Để thực hiện thành công,
Chính phủ Nauy đã đầu tư rất nhiều nghiên cứu về đánh gái trữ lượng cá. Nauy đang cố
gắng trở thành quốc gia hàng đầu về công nghệ khai thác thủy sản. Chính vì thế, nghề
cá Nauy đứng thứ 2 sau ngành dầu khí của nước này [7].
Năm 1981, ở châu Á, chính sách đăng ký thuyền khai thác bắt đầu ở Malaysia.
Theo chính sách này thì kích thước thuyền, loại ngư cụ và vùng khai thác phải được
đăng ký. Việc hạn chế người khai thác dựa vào hệ thống hạn ngạch một khi nguồn lợi
có nguy cơ suy giảm. Đối với các tàu khai thác truyền thống thì hoạt động trong vùng 5
hải lý (loại A), các tàu lưới kéo và lưới rùng có công suất <40cv thì khai thác trong
vùng 5 – 12 hải lý (loại B), các tàu lưới kéo có công suất <70cv thì được khai thác trong
vùng từ 12 – 30 hải lý (loại C). Ngoài 30 hải lý thì cho phép tất cả các tàu thuyền được
khai thác [6].
Trong thực tế, hệ thống quản lý khai thác theo hạn ngạch còn tồn tại một số
nhược điểm sau: khai thác hạn ngạch chỉ tốt khi chúng ta có đầy đủ cơ sở dữ liệu về trữ
lượng đàn cá, tốc độ hồi phục quần thể, tỷ lệ tử vong và mức đe dọa sinh thái. Tuy
nhiên hầu hết chúng ta không có dữ liệu chính xác như vậy và hạn ngạch chỉ mang tính
19
dự báo khoa học. Khoảng 15% trữ lượng cá chúng ta không có đầy đủ dữ liệu. Hầu hết
các nghiên cứu về trữ lượng chỉ tập trung đánh giá đơn loài mà bỏ qua tác động đa loài.
Ngoài ra trong quản lý khai thác theo hạn ngạch không đề cập đến bảo vệ sinh
cảnh, đa dạng sinh học và ngư cụ mang tính hủy diệt, do đó một số lượng lớn cá đã bị
vứt ra biển trước khi tàu vào bờ do vấn đề hạn ngạch.
Như vậy khai thác theo hạn ngạch không thể đảm bảo tính bền vững, mặc dù nó
đã có những cải thiện tốt về nguồn lợi. Vì vậy chúng ta cần có những giải pháp quản lý
khác phù hợp hơn với nghề cá Việt Nam.
1.2.5. Hệ thống quản lý thủy sản ở các nước trong khu vực Đông Nam Á.
Các vùng ven biển và nông thôn Châu Á thường nghèo, KTHS là sinh kế quan
trọng của họ. Có khoảng 22 triệu người Châu Á có mức sống thấp hơn 1USD/ngày phụ
thuộc vào nghề cá. Do đó nếu có biện pháp quản lý tốt nguồn lợi thủy sản sẽ nâng cao
thu nhập cho những người sống ven biển. Sản lượng KTHS ở châu Á chiếm 90% so với
tổng sản lượng khai thác trên thế giới [7].
Các đánh giá cho thấy nguồn lợi thủy sản trong khu vực châu Á đang có nguy
cơ suy giảm trầm trọng, khai thác quá mức đang xảy ra trong khu vực. Điều này cho
thấy chưa có biện pháp quản lý khai thác hiệu quả trong vùng. Do đó các nước trong
vùng cần phải thiết lập các chương trình bảo vệ để khôi phục nguồn lợi bằng cách giảm
số lượng tàu thuyền và cường lực khai thác. Các chiến lược cần phải thực hiện ở cấp
quốc gia và tập trung vào phát triển hệ thống quyền khai thác theo định mức [7].
Năm 1998, Trung tâm phát triển nghề cá Đông Nam Á (SEAFDEC) đã phát
triển kế hoạch chiến lược để đánh giá hoạt động trong vùng trong vòng 30 năm. Kế
hoạch chiến lược của SEAFDEC là giúp đỡ các nước thành viên để thực hiện quản lý
nghề cá bền vững. Mục tiêu của kế hoạch là: (1) thực hiện các biện pháp kỹ thuật để
xác định chính sách và quyền ưu tiên trong vùng, (2) xúc tiến hợp tác thực hiện chính
sách gần gũi hơn nữa giữa các nước thành viên ASEAN. Theo kế hoạch chiến lược này,
các mục tiêu này đã đem lại hiệu quả cao giữa các nước thành viên.
Một trong những thành tựu đạt được là xây dựng mã số cho nghề cá có trách
nhiệm (CCRF) với sự hợp tác của FAO. CCRF đã xây dựng các nguyên tắc và tiêu
chuẩn quốc tế cho nghề cá có trách nhiệm để đảm bảo việc khai thác nguồn lợi thủy sản
một cách bền vững.
20
SEAFDEC đã xuất bản nhiều bản hướng dẫn về quản lý nghề cá (2003), khai
thác thủy sản (2000) và các phương pháp bảo quản và chế biến sau thu hoạch. Ngoài ra,
SEAFDEC cũng ban hành một số quy định như: quy định buôn bán thủy sản, các chỉ số
bền vững nghề cá, nuôi trồng thủy sản thân thiện với môi trường, thống kê nghề cá, các
tiêu chuẩn an toàn vệ sinh thực phẩm (HACCP) và danh mục loài nguy cơ, đe dọa và
tuyệt chủng (CITES).
Theo sau kế hoạch chiến lược của SEAFDEC thì nhóm tư vấn thủy sản giữa
các nước ASEAN và SEAFDEC được hình thành năm 1998 nhằm xúc tiến trao đổi
hàng năm về các quy định, chính sách giữa các nước ASEAN và SEAFDEC. Các
chương trình hành động của SEAFDEC bao gồm các chương trình về quản lý thủy sản,
chương trình nuôi trồng thủy sản, chương trình quản lý chất lượng vệ sinh an toàn và
thú y thủy sản.
Với các chính sách quản lý cấp toàn cầu, khu vực và cấp quốc gia; một số nước
trên thế giới đã và đang phát triển nghề cá trên cơ sở bền vững; và Việt Nam cũng đang
có rất nhiều nỗ lực nhằm quản lý nghề khai thác một cách bền vững. Để nỗ lực này
được thực thi một cách có hiệu quả, cần có những giải pháp phù hợp và một hệ thống
quản lý năng động cũng như có trách nhiệm. Và hơn nữa sự thực thi các giải pháp này
cần phải được tiến hành đồng bộ từ trên xuống dưới, từ Trung ương xuống địa phương
và đặc biệt là cộng đồng ngư dân ven biển.
1.3. Tình hình nghiên cứu trong nước liên quan đến PTBV nghề KTHS.
Vấn đề phát triển bền vững cho nghề khai thác hải sản nói riêng và ngành Thuỷ
sản nói chung chỉ mới được đề cập trong một vài năm trở lại đây. Phát triển bền vững
nói chung đã trở thành quan điểm và mục tiêu của Đảng và chính sách của Nhà nước.
Thể chế hóa phát triển bền vững bằng văn bản luật trong các chỉ thị, Nghị quyết; Quyết
định của các cấp chính quyền nhà nước như: Chỉ thị số 36/CT-TW của Ban Bí thư
Trung ương Đảng về tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước (1998), Nghị quyết số 41/NQ-TW của Bộ Chính trị về bảo
vệ môi trường (2004). Đặc biệt, ngày 17 tháng 8 năm 2004, Thủ tướng Chính phủ đã ra
Quyết định số 153/2004/QĐ -TTg ban hành Định hướng chiến lược PTBV ở Việt Nam
(Chương trình Nghị sự 21 của Việt Nam). Trong đó, thuỷ sản là một trong những ngành
kinh tế được xác định cần phải ưu tiên nhằm PTBV.
21
Đã có một số nghiên cứu bước đầu về PTBV nghề khai thác và bảo vệ nguồn
lợi hải sản ở Việt Nam nói chung. Một số mô hình quản lý nguồn lợi có sự tham gia của
cộng đồng cũng đã được tiến hành thí điểm tại một số địa phương như: Dự án Bảo tồn
biển Rạn Trào tại huyện Vạn Ninh do IMA tài trợ; Dự án Bảo tồn sinh vật biển ở Hòn
Mun tại Vịnh Nha Trang; Dự án quản lý nguồn lợi có sự tham gia của cộng đồng tại
Phù Long - Cát Bà - Hải Phòng. Qua nhiều Hội thảo khoa học đều cho rằng mô hình
đồng quản lý nghề cá tỏ rõ có khả năng thực hiện mô hình quản lý nghề cá bền vững ở
Việt Nam. Thành phố Nha Trang có mô hình quản lý Hòn Mun đang là điểm sáng trong
cả nước.
Giải pháp nhằm giảm số lượng tàu thuyền công suất nhỏ khai thác ở vùng biển
gần bờ, đầu tư các tàu thuyền có công suất lớn khai thác ở những vùng biển xa bờ đã
được chú trọng thông qua Chương trình vay vốn ưu đãi đóng tàu khai thác hải sản xa bờ
của Chính phủ thực hiện từ năm 1997. Nhưng hiệu quả chưa đạt được theo mong
muốn, đặc biệt số lượng tàu thuyền nhỏ vẫn có xu hướng gia tăng và hiệu quả kinh tế
của nhiều đội tàu xa bờ còn thấp.
Các giải pháp nhằm quản lý số lượng tàu thuyền cũng đã được thực hiện thông
qua việc đăng ký, đăng kiểm tàu thuyền. Tuy nhiên, khi có Quyết định 289/QĐ-TTg
ngày 18/3/2008 về ban hành một số chính sách hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số, hộ
thuộc diện chính sách, hộ nghèo, hộ cận nghèo và ngư dân thì số tàu thuyền của tỉnh
Khánh Hòa tăng lên đột biến từ hơn 6.300 chiếc (cuối năm 2007) tăng lên hơn 13.000
chiếc (cuối năm 2009) [4].
Luật Thuỷ sản (năm 2003) và các văn bản dưới Luật ra đời nhằm quản lý các
hoạt động thuỷ sản, trong đó có việc quản lý khai thác thuỷ sản. Tuy nhiên Luật cũng
như các biện pháp cấm và hạn chế các nghề khai thác gây xâm hại nguồn lợi chưa thực
sự đi vào cuộc sống vì chưa có các giải pháp quản lý và các chính sách đồng bộ nhằm
tạo sinh kế cho người dân.
Tại tỉnh Khánh Hòa và một số tỉnh trong nước cũng đã có các giải pháp nhằm
giảm áp lực khai thác và tạo sinh kế cho cộng đồng như:
- Năm 1999, UBND tỉnh Khánh Hòa đã có biện pháp chỉ đạo trong việc chuyển
đổi nghề nghiệp cho ngư dân làm các nghề: Lưới kéo, xiệp điện trong đầm Nha Phu
sang nuôi vẹm xanh và ương tôm hùm giống đã thu được kết quả bước đầu khả quan.
22
- Dự án thí điểm khu bảo tồn biển Hòn Mun, Khánh Hòa; Dự án thí điểm khu
bảo tồn biển Rạn Trào, Vạn Ninh, Khánh Hòa; Dự án quy hoạch tổng thể quản lý khai
thác thủy sản đầm phá Thừa Thiên Huế; Dự án quản lý nguồn lợi thủy sản ven bờ dựa
vào cộng đồng, khu bảo tồn nguồn lợi Phù Long; Dự án xây dựng mô hình phát triển
bền vững ngành thủy sản tại Cát Bà, Hải Phòng; Dự án quản lý tổng hợp vùng bờ vịnh
Hạ Long Tuy nhiên hiệu quả của các hoạt động này đưa lại còn quá ít ỏi so với yêu
cầu bức thiết của thực tế đặt ra.
- Theo kết quả điều tra của Viện Nghiên cứu Hải sản (Dự án ALMRV), tỷ lệ cá
tạp trong thành phần sản lượng khai thác của các nghề khai thác hải sản ven bờ như te
xiệp, lưới rùng, lưới kéo ven bờ chiếm tới 70÷90%. Rõ ràng sự hoạt động của các nghề
khai thác ven bờ mang lại tác hại không nhỏ đối với nguồn lợi hải sản.
- Viện Nghiên cứu hải sản Hải Phòng liên tục trong nhiều năm nghiên cứu đã có
được những con số dự báo tiềm năng nguồn lợi hải sản và khả năng đánh bắt tại các
khu vực biển trong cả nước. Dựa vào dự báo đó hàng loạt quy hoạch khai thác các tỉnh
duyên hải trong cả nước theo những chỉ tiêu khả năng khai thác cho phép. Cách quản lý
cường lực khai thác như trên chứng tỏ Cơ quan quản lý nghề cá của Quốc gia đã xây
dựng kế hoạch phát triển nghề cá với cơ sở khoa học vững chắc đương thời. Tuy nhiên,
khả năng dự báo nguồn lợi trên cơ sở những nghiên cứu trên tỏ ra thiếu chính xác và
không thể cập nhật trước tình hình phát triển cường lực khai thác không quản lý được.
Những lý do trên cho thấy cần thiết tìm kiếm phương pháp xác định mới nhằm quản lý
bền vững cường lực khai thác phù hợp với tiềm năng nguồn lợi
- Ngay từ những năm 60 của thế kỷ trước, ở miền Bắc Việt Nam, nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa đã tiến hành đánh giá tiềm năng nguồn lợi hải sản ở vịnh Bắc Bộ, từ
đó xác định được giá trị tiềm năng hải sản và giá trị cho phép khai thác. Tuy nhiên vào
thời gian đó, cường lực khai thác hải sản còn ít, vì thế những khái niệm bảo vệ nguồn
lợi thủy sản hoặc khái niệm khai thác nguồn lợi biển bền vững chưa có.
1.4. Lý thuyết về phát triển bền vững nghề khai thác hải sản.
1.4.1. Quan niệm về phát triển bền vững nói chung.
Nhận thức về phát triển bền vững xuất hiện từ khá sớm, gắn với các hoạt động
bảo vệ môi trường và sử dụng tài nguyên thiên nhiên. Tuy nhiên, khái niệm PTBV theo
đúng nghĩa của nó mới chính thức được đề xuất năm 1987 trong báo cáo “Tương lai
23
chung của chúng ta” và từng bước được khẳng định trong các Hội nghị Thượng đỉnh
về Môi trường và Phát triển ở Rio de Janeiro (1992) và ở Johannesburg (2002). Theo
đó, PTBV được hiểu “là sự phát triển đáp ứng được những nhu cầu/yêu cầu hiện tại,
nhưng không gây trở ngại/làm tổn hại đến việc đáp ứng nhu cầu của các thế hệ mai
sau”.
Như vậy, về bản chất, PTBV trước hết là một quá trình phát triển, mà trong đó
quan hệ không gian giữa ba mảng phúc lợi: kinh tế, xã hội và môi trường luôn được
điều chỉnh tối ưu, cũng như mối quan hệ theo trục thời gian về nhu cầu và lợi ích giữa
các thế hệ được giải quyết hài hoà. Có thể nói, PTBV không dễ dàng đạt được trong
thực tế, vì yếu tố phát triển luôn thay đổi, thậm chí thay đổi rất nhanh so với khả năng
điều chỉnh. Bởi thế, PTBV chỉ là mục tiêu mong đợi về mặt xã hội, nhưng lại là nhu cầu
và xu thế tất yếu trong tiến trình phát triển của xã hội loài người, của các ngành kinh tế,
vùng lãnh thổ và các địa phương.
Ở nước ta, ngày nay PTBV đã trở thành đường lối, quan điểm và mục tiêu của
Đảng và chính sách của Nhà nước. Một phần đã được thể hiện trong Chỉ thị số 36/CT-
TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong
thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước (1998), Nghị quyết số 41/NQ-TW Ban
Chấp hành Trung ương Đảng về bảo vệ môi trường (2004). Đặc biệt, ngày 17 tháng 8
năm 2004, Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 153/2004/QĐ-TTg về ban hành
Định hướng chiến lược PTBV ở Việt Nam (Chương trình Nghị sự 21 của Việt Nam).
Trong đó, thuỷ sản là một trong những ngành kinh tế được xác định cần phải ưu tiên
nhằm PTBV.
Ngành Thuỷ sản nước ta đã được xác định là một ngành kinh tế mũi nhọn, giải
quyết việc làm cho hàng triệu người lao động, đóng góp quan trọng cho nền kinh tế
quốc dân cũng như kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Chính vì vị thế quan trọng của
ngành, ngày 11/01/2006, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 10/2006/QĐ-TTg
phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển ngành thủy sản đến năm 2010 và định hướng
đến năm 2020. Theo đó, ngành thủy sản phải phấn đấu trở thành một ngành sản xuất
hàng hoá lớn, sản phẩm thuỷ sản phải có sức cạnh tranh cao trên các thị trường để tiếp
tục phát triển nhanh và bền vững. Trong khi xuất phát điểm vốn là một nghề cá quy mô
nhỏ với phương thức canh tác truyền thống, tiếp cận ngư trường tự do với thực trạng
24
sản xuất của ngành còn manh mún, bị cắt khúc giữa các khâu, quản lí dựa vào kinh tế
hộ gia đình. Mâu thuẫn giữa các yếu tố phát triển như vậy đã tạo ra thách thức rất lớn
đối với mục tiêu PTBV và sẽ làm nảy sinh không ít khó khăn trong quá trình phát triển
ngành.
1.4.2. Khái niệm về phát triển bền vững nghề khai thác hải sản.
Nghề khai thác hải sản là một nghề sử dụng nguồn lợi tự nhiên có thể tái tạo.
Mục tiêu phát triển bền vững nghề khai thác hải sản có thể hiểu theo nghĩa: Tối đa về
mặt sản lượng về khối lượng hoặc về thu nhập và duy trì một mức nhất định trữ lượng
đàn cá nhằm tạo ra một mức dự trữ nhất định hay không làm suy giảm nguồn lợi. [7].
Với mục tiêu sinh học này có thể thay đổi để bao hàm các mục tiêu liên ngành
có liên quan đến các mục đích kinh tế – xã hội – môi trường.
Về mặt kinh tế: mục tiêu của việc phát triển nghề khai thác hải sản là tối đa
hoá lợi nhuận thu được từ việc khai thác nguồn lợi tự nhiên
Về mặt xã hội: phát triển bền vững nghề khai thác hải sản phải đảm bảo được
sự công bằng xã hội. Giải quyết công ăn việc làm cho một bộ phận lao động trong xã
hội, lợi ích phải được chia sẻ cho những người hưởng lợi từ nguồn lợi hải sản và tránh
sự phân hoá giàu nghèo.
Về mặt môi trường sinh thái: phát triển bền vững phải bao gồm các mục tiêu
bảo tồn nguồn tài nguyên thuỷ sản và môi trường sống của chúng cũng như sự hài hoà
về lợi ích từ việc khai thác tài nguyên.
Mục tiêu của việc quản lý bền vững nghề khai thác hải sản dựa trên khái niệm
tổng lượng cá đánh bắt cho phép (TAC) được đặt trên cơ sở tham khảo về khía cạnh
sinh học, ví dụ như MSY, khía cạnh kinh tế như MEY từ đó các nhà quản lý có thể ra
các quyết định như: xác định hạn mức khai thác, quy định số lượng tàu thuyền cần
thiết, lựa chọn loại nghề trên cơ sở chọn lọc và hiệu quả kinh tế, đảm bảo sinh kế cho
ngư dân những vẫn duy trì trữ lượng đàn cá qua các năm nhằm thực hiện các mục tiêu
của những năm tiếp theo.
Trong giai đoạn hiện nay, để nghề khai thác hải sản phát triển một cách bền
vững, cần giải quyết hài hoà giữa ba mảng phúc lợi cơ bản: Kinh tế – xã hội và môi
trường sinh thái. Ba mục tiêu này có thể được điều chỉnh trong quá trình phát triển